You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

Khoa: Giáo dục Chính Trị


--------

BÀI TIỂU LUẬN

SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG


VĂN HOÁ NGƯỜI DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

Hà Nội - 2021
Mục Lục
DANH MỤC VIẾT TẮT ...................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
NỘI DUNG ........................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1:...................................................................................................... 5
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM ............................................................................. 5
1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo ........................................................... 5
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo ở Việt nam ...................... 5
CHƯƠNG 2:...................................................................................................... 7
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI DÂN VIỆT NAM................................................................................ 7
2.1. Phật giáo với đời sống văn hóa của người dân Vệt Nam xưa kia: ........ 7
2.2. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày nay. .............. 12
2.3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa dân tộc: ............................. 12
2.4. Phật giáo với lễ hội: ............................................................................ 15
2.4.1. Lễ hội Quan Thế Âm: .................................................................. 15
2.4.2. Lễ cầu an: ...................................................................................... 16
2.4.3. Lễ cầu siêu:.................................................................................... 17
2.5. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán ................................. 18
2.5.1. Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng
sanh và bố thí........................................................................................... 18
2.5.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ
chùa. 19
2.6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của người
Khmer khu vực ĐBSCL nói riêng và Trà Vinh nói chung ......................... 20
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 26

1
DANH MỤC VIẾT TẮT

STT Chữ cái viết tắt/ ký hiệu viết tắt Cụm từ đầy đủ
1 ĐBSCL Đồng bằng sông cửu long
2 TCN Trước công nguyên

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến
đời sống văn hoá của Việt Nam. Từ thời xa xưa hình ảnh những ngôi chùa, giếng
nước, mái đình rêu phong đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi con người Việt Nam và trở
thành một giá trị văn hóa tinh thần trong mỗi chúng ta.
Chủ nghĩa Mác- Lênin chính là yếu tố ảnh hưởng và là cơ sở lý luận trong quá
trình xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong một số bộ phận dân cư ở
Việt Nam đã thấm nhuần và in sâu những giáo lý của Phật giáo. Với ảnh hưởng của
Phật giáo, việc xoá bỏ Phật giáo hoàn toàn ra khỏi mỗi người dân là bất khả thi. Vậy
nên chúng ta cần vận dụng Phật giáo một cách hợp lý phù hợp với thời kỳ quá độ, việc
nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống văn hoá người dân Việt
Nam hiện nay” là hết sức cần thiết. Chúng ta cần đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá
những mặt hạn chế và tiến bộ của Phật giáo, từ đó tìm ra cách thức để hướng mỗi
chúng ta đến với sự đúng đắn. Đạo Phật khuyên chúng ta làm những điều thiện, tránh
điều ác. Họ hướng chúng ta đến những điều đúng đắn tránh xa mê tín di đoan gây ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe.
Đạo Phật có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống văn hoá tinh thần của mỗi con
người Việt Nam, đạo Phật được ví như một bộ phận cấu thành của đời sống văn hoá
dân tộc. Từ những hình ảnh về tầm quan trọng của đạo Phật từ thời xa xưa đã cho thấy
tầm ảnh hưởng của nó đối với văn hoá Việt Nam hơn hết, văn hoá là linh hồn của dân
tộc. Vì vậy chúng ta phải giữ gìn văn hoá truyền thống dân tộc như giữ gìn đất nước.
Văn hoá dân tộc là điểm khác biệt rõ nét làm nổi bật đất nước, mỗi đất nước lại có một
văn hoá dân tộc riêng biệt. Mà đời sống văn hoá Việt Nam lại ảnh hưởng trực tiếp bởi
đạo đức Phật giáo. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu về
những giá trị đạo đức của Phật giáo và những tác động của Phật giáo từ xưa đến nay
ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn hoá tinh thần của mỗi con người Việt Nam.
Trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá để xây dựng một nền kinh tế hiện đại mà
vẫn giữ được những nét đậm đà bản sắc dân tộc thì chúng ta cần phải cố gắng nhiều
hơn nữa để làm nổi bật nền văn hoá Việt Nam. Đây là lý do mà em chọn đề tài: “sự
ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống Văn hoá người dân việt nam hiện nay”
Trong lịch sử xây dựng và giữ gìn đất nước của dân tộc Việt Nam đã có sự xuất
hiện của rất nhiều tôn giáo, tôn giáo trong những thời kỳ đó đóng vai trò vô cùng quan
trọng, thậm trí có những thời kỳ tôn giáo còn được đặt lên cao hơn những thể chế
chính trị xã hội lúc bấy giờ. Hiện nay ảnh hưởng của tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng vẫn ăn sâu và gắn liền trong tư tưởng của một bộ phận đông đảo trong đời
sống nhân dân, nhất là niềm tin của họ vào Phật giáo. Trong tình hình hiện nay khi có

3
sự xuất hiện của rất nhiều tôn giáo khác ở trong nước và trên khắp thế giới thì Phật
giáo vẫn phần nào chiếm được vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của
người dân Việt Nam.
Nhìn chung thì việc nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đối với
đời sống văn hoá Việt Nam là một nội dung rất cấp thiết. Nó gắn liền với truyền thống
dựng nước và giữ nước của ông cha ta cũng như đời sống văn hoá tinh thần của người
dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ
Mục đích của đề tài là từ góc độ triết học đi sâu vào tìm hiểu các hệ thống đạo
đức và đời sống xã hội của Phật giáo để tìm ra sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời
sống văn hoá Việt Nam hiện nay. Qua đó, tìm ra sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo
đến đời sống của dân tộc Việt Nam.
Mục đích trên đã nêu rõ nhiệm vụ của đề tài là tiếp cận cơ sở, đặc điểm, giá
trị phổ quát, những mô hình và phạm trù cơ bản của Phật giáo đối với đời sống Văn
hoá của dân tộc Việt Nam. Từ đó đưa ra được những giải pháp góp phần định
hướng cho việc ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống Văn hoá người dân việt
nam hiện nay.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Người Khmer khu vực ĐBSCL nói riêng, đời sống
Văn hoá tinh thần người Việt Nam nói chung.
- Phạm vi nghiên cứu : Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận chủ yếu của đề đề là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tôn giáo học, chủ nghĩa duy vật lịch sử...
Về phương pháp nghiên cứu chúng ta cần có thái độ khác quan để đánh giá đối
tượng nghiên cứu được chính xác và rõ nét hơn. Một số phương pháp phổ biến được
áp dụng cho đề tài là: Phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh...
5. Ý nghĩa của đề đề
Làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống Văn hoá xã hội
nước ta nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo
Phật giáo là một đạo giáo lớn có bề dầy lịch sử lâu đời, người đầu tiên sáng lập
ra Phật giáo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Người từ một thái tử có tên Tất Đạt Đa đã
từ bỏ ngai vàng để tìm đến con đường tu hành và trở thành giai thoại được lưu truyền
muôn đời.
Phật giáo được ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN. Theo một số quan điểm lý
luận đưa ra, họ cho rằng Phật giáo là một hệ thống triết học bao gồm các tư tưởng,
giáo lý về thế giới quan, nhân sinh quan. Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra các phương
pháp thức tỉnh, rèn dũa, tu tập con người.
Phật giáo là một trong những tín ngưỡng tôn giáo được nhiều quốc gia công nhận
trong đó có Việt Nam. Phật giáo được truyền bá và phát triển như một nét văn hóa tâm
linh riêng biệt bởi Phật giáo đi đến đâu sẽ kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, văn hoá bản
địa để hình thành và phát triển nên nó có tác động vô cùng to lớn đến đời sống văn hoá
của nhiều quốc gia nhất là Việt Nam. Chính nhờ tính nhân văn và sự hướng thiện cùng
những bài học giáo dục con người sâu sắc mà Phật giáo truyền bá đã làm cho Phật giáo
đang phát triển lớn mạnh và có chỗ đứng vững chắc trong tâm thức mỗi người.

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo ở Việt nam
Với nền văn hóa lúa nước cùng chính sách mở cửa giao lưu của các vị vua thời
kỳ trước đã đem Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Phật giáo đem đến những tư tưởng
đạo đức, rèn dũa con người phù hợp với lối sống và truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Trung tâm quan trọng của Phật giáo bấy giờ ở Luy Lâu ( nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh) là lỵ sở của quận Giao Chỉ cũng là thủ phủ của Giao Châu là trung tâm kinh tế,
văn hoá, thương mại.
Có thể nói Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu về trước, có giả thiết cho
rằng hình ảnh ông Bụt trong truyện cổ tích, chuyện dân gian mà cha ông để lại được
phiên âm từ chữ "Buddha". Từ "Buddha" của Ấn Độ được phiên âm trực tiếp sang
tiếng Việt là "Bụt"; dân gian coi Bụt như một vị tiên thường xuất hiện vào lúc con
người gặp khó khăn để giúp đỡ người nghèo khổ, hiền lành.
Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, ông Bụt trong các câu
chuyện dân gian được coi như một vị tiên chuyên giúp đỡ người tốt để giải quyết
những khó khăn hay trừng phạt những kẻ xấu, kẻ ác, những người tham lam.

5
Vào khoảng thế kỷ thứ IV – thứ V do ảnh hưởng của trường phái Đại thừa đến từ
Trung Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật.
Chính nhờ những câu chuyện giân gian mà Phật giáo đã từ từ đi vào trong đời
sống sinh hoạt con người Việt Nam rồi ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống Văn hoá của
dân tộc ta từ rất sớm. Phật giáo phát triển cực thịnh nhất vào thời kỳ nhà Lý, nhà Trần
và được coi là quốc giáo. Bấy giờ nhà vua cho xây rất nhiều chùa chiền, Phật giáo phát
triển mạnh mẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên đến đời
nhà Hậu Lê thì Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái, Nho giáo được coi là quốc giáo.

6
CHƯƠNG 2:
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI DÂN VIỆT NAM

2.1. Phật giáo với đời sống văn hóa của người dân Vệt Nam xưa kia:
Đạo phật du nhập vào nước ta từ rất sớm hình thành hệ tư tưởng đến đời sống
Văn hoá có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay và ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống xã hội và tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Khi đất nước đang chống lại các thế lực của thực dân phương Bắc. Trong hoàn
cảnh như vậy Đạo Phật vẫn được người dân Việt Nam tiếp nhận điều đó chứng tỏ
những nội dung trong tín ngưỡng của Phật giáo có những nét tương đồng với tín
ngưỡng, lối sống, đời sống tinh thần của người dân. Có thể nói nét giống nhau của
Phật giáo tương đồng với tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam thời bấy giờ. Sự hợp nhất,
hài hoà giữa nền văn hoá của con người Việt Nam với đạo đức Phật giáo thể hiện qua
những lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Người dân Việt Nam tiếp nhận Phật giáo đến với
dân tộc bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị. Hình ảnh Phật đã trở thành hình ảnh ông
Bụt trong các câu chuyện gian, ông Bụt luôn xuất hiện khi con người gặp khó khăn
được thay thế bằng Phật giáo. Phật giáo hướng con người đến những điều thiện lương,
là giải pháp, chỗ dựa tốt nhất về tinh thần cho người dân Việt Nam. Phật giáo được
con người Việt Nam chấp nhận bởi chính nội dung của hai bên tín ngưỡng có nét
tương đồng đã tạo nên các ngôi chùa như: Chùa Pháp Vân, Chùa Pháp Vũ, Chùa Pháp
Nôi, Chùa Pháp Điện.
Phật giáo có đặc điểm là dễ phổ quát, hoà hợp, gần gũi với tín ngưỡng của các
quốc gia bởi lẽ phật giáo đi đến đâu sẽ tiếp thu những xu hướng, giá trị tinh thần ở đó
để phù hợp với từng quốc gia. Điều đó đã làm tín ngưỡng Phật giáo được truyền bá
đến người dân một cách dễ dàng và phù hợp hơn, nhất là ở Việt Nam. Khi con người
cần một chỗ dựa tinh thần thì Phật giáo đã xuất hiện và đem đến cho con người Việt
Nam những giáo lý, đạo đức tôn giao phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Việt Nam.
Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những linh hồn
người thân đã khuất để đem lại may mắn trong cuộc sống thì Phật giáo cũng vậy, họ
cũng tôn thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni người đầu tiên sáng lập ra Phật giáo và
truyền bá Phật giáo đến các quốc gia người đã đem ánh sáng, những giáo lý, giáo điều.
Người Việt Nam tôn thờ thần những thế lực siêu nhiên mà con người không thể giải
thích được, họ tin rằng việc thờ thần sẽ đem lại may mắn cho bản thân thì phật pháp
cũng vậy. Phật giáo ở Ấn Độ như một vị thần “phù hộ độ trì” những con người hướng
thiện, hơn hết đạo đức trong tôn giáo này có nét giống với chuẩn mực đạo đức của dân
tộc Việt Nam.

7
Hình ảnh ông “Bụt” trong các câu chuyện dân gian người Việt Nam không phải
thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ “Buddha”. Hình ảnh bụt của người Việt Nam như
một chỗ dựa tinh thần cho những người nông dân nghèo khổ khao khát được hạnh
phúc đã tự sáng tạo từ hai tín ngưỡng đó là tín ngưỡng thần linh (những vị thần có sức
mạnh siêu nhiên) và tín ngưỡng Phật. Tuy nhiên, hình ảnh ông “Bụt” cũng có những
nét giống và khác Phật. Ông “Bụt” giống phật ở lòng vị tha, bác ái, từ bi đối với những
người bị áp bức bóc lột, những người nghèo khổ khao khát được bình đẳng,... nhưng
Phật giáo khác Bụt ở ông Bụt sẽ xuất hiện ngay khi người nghèo, những người lương
thiện gặp nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới Bụt, ông Bụt sẽ ngay lập tức xuất hiện
để cứu vớt, giúp đỡ. Nhưng đối với phật họ có cái nhìn khác, phật giáo cho rằng tất cả
các chúng sinh đều ngang bằng nhau, với phật thì không ai tiểu nhân, không ai quân tử
cũng không có quân, không có dân không có các tầng lớp giai cấp. Đối với Phật giáo
chúng sinh đều bình đẳng không phân biệt giai cấp, giàu nghèo. Phật giáo có niềm từ
bi bác ái, không oán ghét, phục thù hay hằn học. Đó cũng là đặc điểm phù hợp với bản
chất đời sống văn hoá dân tộc Việt Nam. Tiếp đó phật kêu gọi sự tự giác, giác ngộ
không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế . Chắc chắn
trong tư duy của những người dân bình thường sẽ không có ai băn khoăn thế nào là
bản ngã, thế nào là chân theo nghĩa sâu xa của Phật giáo. Chung ta chỉ thấy ở đây một
chủ nghĩa nhân đạo lớn lao, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của đạo Phật. Đây chính
là lý do làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng nhân dân Việt Nam.
Con người Việt Nam chúng ta thường thiên về sự cân bằng, bù đắp. Họ quan
niệm rằng những nỗi khổ ngày hôm nay sẽ được bù đắp bằng sự sung sướng vào một
tương lai không xa. Những câu chuyện trong dân gian đã chứng minh điều đó như Cô
Tấm trong chuyện cổ tích đã trải qua bao gian nan khổ cực cuối cùng được đền đáp
xứng đáng là được làm vợ vua và hưởng cuộc sống hạnh phúc, điều này thể hiện khát
khao của người dân cũng như chỗ dựa tinh thần của người dân vào cuộc sống đó là “ở
hiền gặp lành” những người hiền lành bị áp bức bóc lột sẽ được các vị thần giúp đỡ và
hưởng hạnh phúc sau này, những kẻ tham lam độc ác sẽ bị trừng phạt một cách thích
đáng . Phật giáo cũng hứa hẹn sự đền bù đến con người chính là luật nhân quả - gieo
nhân nào gặp quả đấy, Phật giáo không thiên vị một ai, không phân biệt giàu nghèo
nếu như bạn làm điều ác sẽ có những hình phạt thích đáng. Trong Phật giáo không có
hình ảnh những vị tiên đứng ra bảo vệ giúp đỡ chúng ta khi gặp khó khăn mà chính
bản thân mỗi người phải nỗ lực cố gắng của bản thân mình. Phật giáo có những tín
ngưỡng phù hợp với người dân Việt Nam ta ở phần bản chất và quan niệm nhận thức.
Tuy nhiên, Phật giáo đi được vào trong quần chúng nhân dân ta và được người
dân tiếp nhận gắn bó sâu sắc thì đều phải trải qua một quá trình nhất định. Người dân
Việt Nam khi xưa không có điều kiện hay trình độ để thẩm định hay lựa chọn, song

8
khi họ chấp nhận, sửa đổi những giáo lý để phù hợp với trình độ tư duy, với các sinh
hoạt trong cuộc sống thường ngày điều đó chứng tỏ họ đã ngầm đồng ý và chấp nhận
Phật giáo. Có thể nói rằng, Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa
dạng sau này bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải phù hợp với tín ngưỡng bản địa.
Để phù hợp với người dân Việt Nam, Phật giáo biến Ỷ Lan thành Quan Âm, Man
Nương thành Phật Mẫu mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì
huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là sự giao thoa giữa hai nền văn hoá Việt - Ấn, Phật giáo xuất
hiện ở Ấn Độ được du nhập vào Việt Nam không phải một sự kiên đơn độc mà nó còn
kéo theo ít nhiều những văn hoá Ấn Độ đến Việt Nam thời xưa và ảnh hưởng đến ngày
nay. Mặc dù việc tìm hiểu và nghiên cứu về văn hoá Việt - Ấn còn ít nhưng chắc chắn
rằng văn hoá Ấn Độ sẽ ảnh hưởng đến đới sống văn hoá Viêt Nam trên các lĩnh vực
như lối sống, nông nghiệp, văn hoá,…
Văn hoá Việt Nam xưa đã tiếp thu một lượng lớn nền văn hoá Ấn Độ qua con
đường truyền bà, du nhập của Phật giáo vào Việt Nam. Trong suốt thời kỳ bắc thuộc
và chống bắc thuộc, ngoài ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ta còn ảnh hưởng bởi văn
hoá Trung Hoa dần dần thâm nhập vào Việt Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ
rệt.
Về mặt khách quan ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ là một đối trọng của văn hoá
Trung Hoa trên lãnh thổ Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ có tác dụng trung hoà ảnh hưởng
của nền văn hoá Trung Hoa đến Việt Nam; văn hoá Ấn Độ đã kết hợp cùng nền văn
hoá Việt Nam xưa ngăn chặn sự đồng hoá của văn minh Trung Hoa lại, văn hoá Ấn Độ
đã lĩnh hội những tinh hoa và làm giàu, làm nên cái riêng biệt, cái khác biệt của văn
hoá dân tộc Việt Nam với văn hoá Trung Hoa.
Ví dụ như vào thời kỳ nhà Lý ở Thăng Long: Hoàng thành Long Phượng mở
bốn cửa nếu cửa phía tây Long thành được mang tên “Quảng Phúc Môn “ mở ra phía
tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức Phật ở Tây Thiên” còn ở cửa
phía bắc Long thành thờ Trần Vũ – Trần Võ là một vị thần linh Trung Hoa được nhập
nội vào Việt Nam.
Đạo Phật được truyền bá từ Ấn Độ vào Việt Nam ở những năm đầu thời kỳ Bắc
thuộc về khách quan mà nói đạo Phật như một đối tượng của Nho giáo. Nho giáo cũng
bắt đầu du nhập và ảnh hưởng đến Việt Nam vào những năm đầu Công Nguyên với
việc mở trường học dạy những giáo lý, lễ nghĩa Trung Hoa cho người Việt nhằm Hán
hoá người Việt. Tuy nhiên ta không thể phủ nhận việc Nho giáo cũng có rất nhiều mặt
tích cực , Nho giáo góp phần làm tăng hiểu biết, tri thức, đạo nghĩa cho người dân,
Nho giáo chủ yếu nhấn mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Ái. Nhưng dù sao đi nữa thì Nho giáo
được đưa vào Việt Nam chủ yếu là làm công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa

9
nhằm nô dịch, áp bức, bóc lột người nông dân Trung Quốc và các dân tộc thuộc địa mà
Trung Hoa lấn áp.
Nho Giáo đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị của con người nhưng chủ
yếu vẫn nhấn mạnh vào Lễ, Lễ ở đây có nghĩa là trật tự “tiên học lễ, hậu học văn”,
nghĩa là trước hết và trên hết ta phải học tập để tôn trọng và duy trì tôn ti trật tự đẳng
cấp, trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ hay còn gọi là tam cương. Nếu
trong thời kỳ đó, chúng ta hoàn toàn chấp nhận Nho giáo trong đời sống văn hoá thì
nói chung chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả.
Song người Việt cổ xưa, có một sức sống, tự sinh quật cường, bất khuất, có lối
sống riêng tự do từ thời Bắc thuộc. Một lối sống không quá ngăn cách giữa mọi người
với nhau, bình đẳng không phân biệt cao thấp, giới tính. Như vậy người Việt không
thể chấp nhận trật tự “Cương thường” của Nho gia. Những người Việt bình dân khó có
thể nào cãi lý với những nho sĩ, Nho gia. Họ chỉ biết dựa vào những người thầy để bảo
vệ họ.
Dù sao đi nữa, đạo Phật chủ trương bình đẳng, mọi người đều bình đẳng trước
Phật. Nếu Nho giáo ở Việt Nam xây dựng Đình ở làng quê với chủ trương trọng nam
khinh nữ, thì người dân quê ở Việt Nam xây dựng và bảo vệ chùa, làng của dân, và
phụ nữ không được sinh hoạt ở đình có thể sinh hoạt ở chùa và trở thành lực lượng
quan trọng trong sinh hoạt ở chùa. Ngày xưa điều kiện để Phật giáo du nhập vào nước
ta cũng được mở rộng và tạo điều kiện hơn so với Trung Quốc.
Phật giáo khi du nhập vào Trung Quốc đã bị dân chúng phản đối mãnh liệt,
truyền thông, đặc biệt là Nho giáo. Ở Việt Nam Phật giáo vào tương đối thuận lợi, phát
triển nhanh chóng và không bị phản đối trừ một số Nho sĩ thời Trần, Hồ. Xã hội của
Việt Nam chưa chịu sự phân chia gay gắt khi tiếp nhận Phật giáo từ Ấn Độ hay Trung
Quốc. Điều này khiến cho Phật giáo khi du nhập vào nước ta không bị phản đối. Phật
giáo khi du nhập vào nước ta có lẽ chưa gây đảo lộn, không phủ nhận những giá trị
tinh thần, phong tục tập quán của mỗi người, của xã hội. Do vậy người Việt bình dân
dễ dàng hấp thụ cái triết lý nhân sinh của Phật giáo.
Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền
Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà xã hội dễ dàng chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông hiếm khi bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong
phong cách tu hành. Thiền Tông với phương trâm “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt
truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương
của Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về với cuộc sống nơi trần thế,
đặt nó trong lòng người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông với chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng (720 -
814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm, một ngày không

10
ăn) và lấy việc phục vụ lợi ích xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này làm cho các tăng
nhân không bị coi là một tầng lớn ăn bám xã hội. Thiền tông lại chấp nhận sự bần hàn
khổ cực coi sự chịu đựng bần hàn khổ cực cũng là cách tu hành. Chấp nhận bần hàn
khổ cực và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ dàng đi vào nông thôn, dễ bám vào
làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết một
mạng người mà cứu được ngàn người thì quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là
người bị động mà có thể vùng lên chống lại áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời
phong kiến cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo. Phật
giáo lại biết bám vào làng xã bằng những hoạt động thiết thực có tổ chức, kết hợp với
tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa đóng vai trò quan trọng trong đời
sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng phải có chùa.
Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng
quân có công với nước. Ngôi chùa trở thành trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói
rằng chính Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hoá của dân tộc.
Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá trở nên khô cứng thì Phật giáo có
phần làm mền hơn, sinh động và phong phú hơn. Hội chùa được coi như hội làng là
tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là cơ hội để con người được giải phóng tình cảm,
hoà cái ta của bản thân vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó, giới
hạn và toả chiết tâm hồn. Dưới mái chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao
nhiêu câu chuyện tình duyên thắm thiết đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi
không hề nghiêm ngặt, giáo điều như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật là nhân chứng
cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do bản chất Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống tương đối ổn định
và bền lâu. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ
và ưu ái, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo giành vị trí thống
trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn luôn duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ
Phật giáo mang cơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật “thịnh” theo cái
nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần nâng đỡ bảo trợ .... Cũng chính vì thế mà Phật
gia được chính quyền ưu ái mà sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ hơn và trái
ngược với đời sống của Đức Phật chối bỏ sinh hoạt theo cung đình, trái ngược với giới
luât Bách Trượng tự lao động mà sinh sống giản dị để “ đến ngộ thành Phật”. “Suy”
theo nghĩa cơ bản mà mất đi sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng thì
lại toả ra dân ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu không quá khắt khe và cứng trong
nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần gọi là Phật giáo quý tộc, còn
Phật giáo Lê - Nguyên về sau gọi là Phật giáo dân gian. Từ khi trở thành dân tộc từ lâu

11
về trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành dân gian, nhân gian hay là đã
được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể đã mất đi, như mọi hiện tượng vô thường khác
2.2. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày nay.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa
giáo, Đạo Cao Đài, Cơ đốc giáo, ... Ngoài ba tôn giáo chính từ xưa, Phật giáo vẫn giữ
một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam.
Nhìn vào đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta
thấy qua nhiều biểu hiện tích cực của Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Ở
Việt Nam, số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày
càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời
sống tinh thần xã hội, số nhà sư được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều,
số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng theo. Trong những năm gần đây người Phật
tử nước ta rất chăm lo và chỉnh chu đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ
hay lên chùa trong các ngày đặc biệt của tháng ( đầu tháng và giữa tháng ) , họ nghiêm
túc và thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới,
làm việc thiện,....để họ có một cuộc sống yên bình và thanh nhàn hơn. Việc ăn chay
hàng ngày trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Nhà chùa còn
sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này
củng cố niềm tin vào giáo lý, tư duy nhận thức và hành động của họ. Vừa là lối sống
vừa là cơ sở để hình thành những phẩm chất và nhân cách riêng biệt của mỗi người
dân.

Ngày nay, Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Nước ta vừa
trải qua hàng chục năm chiến tranh và sống dưới chế độ bao cấp đô hộ, đời sống còn
nghèo nàn và lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển nhiều hơn nữa. Nhân dân ta cần sự tăng
trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá bản sắc dân tộc. Đảng và
nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ cần thực hiện ngay lập tức đó là làm dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người có
tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo. Vậy việc
cần làm hiện nay là cần xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người
dân như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm
cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ, giữ vững lối sống văn hoá xã hội và bản sắc
sắc dân tộc tốt đẹp hơn.

2.3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa dân tộc:
Việt nam, một đất nước mang truyền thống đạo đức dân tộc lâu đời, một truyền
thống gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Trải qua hơn nghìn năm lịch sử, nền
12
văn hóa của dân tộc Việt nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ suối nguồn đạo lý Phật
Giáo. Phật giáo đã góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc, một trong những sức
mạnh đóng góp vai trò quyết định trong công cuộc gìn giữ nền độc lập nước nhà. Ý
thức được giá trị của bản thân, vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội,
dân tộc Việt nam đã liên kết lại xây dựng thành khối đại đoàn kết vững mạnh. Giáo lý
phật giáo đã dạy cho con người Việt nam thấy được rằng muốn giữ vững nền hòa bình
độc lập của đất nước thì bản thân mỗi cá nhân trong xã hội phải nỗ lực phấn đấu,
không ngồi đó chờ đợi hạnh phúc.
Một đất nước tuy nhỏ bé, một nền kinh tế còn nghèo nàn và lạc hậu nhưng
không vì thế mà dân tộc Việt Nam cảm thấy tự ti và mặc cảm, hay chấp nhận một quá
khứ đau thương như là định mệnh. Trong hoàn cảnh ấy, mỗi con người Việt nam càng
ý thức sâu sắc vai trò và trách nhiệm thiêng liêng trọng đại của bản thân, để rồi cùng
nhau góp phần xây dựng một đất nước giàu mạnh trong tinh thần đoàn kết dưới sự soi
sáng của giáo lý phật giáo. Đoàn kết ở đây không phải là kích động chiến tranh hận thù
mà chính là kêu gọi hòa bình nhân ái. Giá trị lớn lao của giáo lý phật giáo chính là
hướng dẫn con người sống sao cho tốt, hành động sao cho thiết thực và có ý nghĩa cho
bản thân, gia đình và xã hội. Theo tinh thần của Đạo Phật, đoàn kết còn mang một ý
nghĩa cao đẹp và rộng mở hơn đó là xa lìa lối sống ích kỷ hẹp hòi.
Trên tinh thần đoàn kết, Đạo Phật đã xây dựng cho dân tộc Việt nam một
truyền thống rất đẹp đó là tính cách chan hòa yêu thương, mở rộng tấm lòng. Nói khác
đi là truyền thống tương thân tương ái. Một truyền thống gần gũi và gắn liền với con
người Việt nam, dân tộc Việt nam, một dân tộc từ xưa đến nay vốn hiền hòa, thân
thiện và dễ mến. Đặc tính yêu thương, mở rộng tấm lòng được thể hiện rất rõ ràng qua
những việc làm nhân nghĩa, giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn.
Luôn nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương châm “Nhường cơm xẻ áo”, “
Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Những việc làm ấy
phần nào phản ánh được phẩm chất tốt đẹp của con người Việt nam. Thật đúng như lời
của cố Hòa Thượng Thích Đức Nhuận đã từng nói: “Hãy tỏ ra mình có đức hạnh, can
đảm và hết lòng. Cố gắng yêu thương mọi loài. Con người chỉ xứng danh với danh
nghĩa của nó chừng nào làm chủ được ý nghĩ, lời nói và hành động của bản thân về cả
nội giới và ngoại giới. Chinh phục được ngoại giới là một công trình to lớn, nhưng
điều đáng ca ngợi hơn hết vẫn là sự điều ngự trị được bản thân. Vì vậy, về phương
diện luân lý, Đạo Phật đặt trọng tâm vào sự thiện ác vào tội phúc báo ứng phân minh
và luật nhân quả, vì biết rằng: làm lành được sung sướng. Làm ác chịu khổ ải.Gieo
nhân nào gặt quả nấy. Hành động của chúng ta hiện nay ra sao thì kết quả trong ngày
mai cũng nhận lại y như thế. một hành động tốt hay xấu của cá nhân sẽ có ảnh hưởng
đến toàn thể không ít … Người có đạo đức luân lý là một con người sung sướng nhất

13
trên đời, khác nào như bông hoa nở đẹp, làm thơm cho cuộc đời”. Qua những lời phát
biểu trên, chúng ta không còn cảm thấy mơ hồ gì đối với giáo lý phật giáo. Một triết lý
xây dựng cho con người nhận thức được trách nhiệm cá nhân để tự hoàn thiện cho bản
thân một phong cách sống lành mạnh và có ý nghĩa. Đặc biệt tạo dựng mối quan hệ
tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với đất
nước, với dân tộc.
Ngoài mang tính nhân văn khẳng định và đề cao giá trị của con người cũng như
xây dựng truyền thống tương thân tương ái, triết lý phật giáo còn xây dựng cho dân tộc
Việt nam một truyền thống luân lý đạo đức mang tính chất đặc trưng riêng của văn hóa
Việt nam. Truyền thống tôn vinh “ Đạo đức”, đó còn là quan niệm “Tích đức” vốn
mang tính chất dân tộc rất cao. Nó thể hiện ý nghĩa giáo dục đạo đức làm người không
chỉ trong hiện tại mà còn lưu lại về sau này. Hai chữ “tích đức” nghe qua sao thật dung
dị và đời thường nhưng ẩn chứa bên trong một giá trị nhân văn rất lớn. Quan niệm ấy
vốn được hun đúc sâu xa từ tính chất nhân sinh quang của Đạo Phật và đã ăn sâu vào
nhận thức của dân tộc Việt nam. Tích đức bao hàm ý nghĩa khuyên răn con người sống
ở đời phải luôn lấy nhân đức làm trọng, tránh xa điều ác, nổ lực làm việc thiện với một
tâm nguyện cao đẹp là để lại cái “Đức” cho con cháu sau này. Như ông cha ta thường
nói: “Cây xanh thì lá cũng xanh, Tu nhân tích đức để dành cho con.” Hay : “Cây xanh
thì lá cũng xanh, Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Mừng cây rồi lại mừng cành, Cây
đức lắm chồi, người đức lắm con. Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời
con sang giàu.” Để lại cho con cháu cái danh thơm tiếng tốt là một quá trình ông cha ta
đã sống tốt sống đẹp (tu nhân tích đức) mà có được. Truyền thống ấy được tiếp nối từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
Không những thế, trong quan hệ qua lại với xóm giềng, trong sinh hoạt của
cộng đồng xã hội, người dân việt nam luôn luôn khuyên bảo nhắc nhở lẫn nhau sống
sao cho tốt đẹp không chỉ cho hôm nay mà còn lưu lại tiếng tốt cho sau này. Quan
niệm và nhận thức về hành động “Tích đức” luôn được người Việt nam coi trọng và
lưu truyền cho nhau qua câu nói thật đơn giản mà sâu sắc “Ăn ở có đức mặc sức mà
ăn”. Quan niệm ấy được coi như một lẽ sống tự nhiên không thể thiếu trong mỗi gia
đình Việt nam. Dưới ảnh hưởng của phật giáo, truyền thống ấy dần dần đã trở thành
một lối sống tự nhiên của con người Việt nam. Như lời Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần
đã từng nói : “Tích đức cho thế hệ sau là để lại gia sản thiêng liêng và vô giá nhất. Từ
nhận thức với những mức độ khác nhau và từ ứng dụng thực tế thuyết nhân quả vào
cuộc sống, đạo đức làm người luôn được tôn vinh, vượt lên trên hết tất cả những giá trị
vật chất khác”

14
2.4. Phật giáo với lễ hội:
Ta thấy vấn đề lễ hội trong Phật giáo là hoàn toàn không đúng vì bản thân Phật
giáo không có hội mà chỉ có lễ. Thế nhưng có hai lý do, một là thời Lý – Trần ngày
xưa mọi sinh hoạt văn hóa được diễn ra ở chung ngôi chùa, thế nên lễ hội được diễn ra
ở chùa và được duy trì cho đến ngày nay. Hai là ở Phật giáo ngôi chùa đã chung tín
ngưỡng để vừa có thể thờ Thần vừa có thể thờ Mẫu vào trong đó nên lễ hội diễn ra
cùng ở ngôi chùa. Cả hai khía cạnh hội chùa mang tính chất là hội làng là chủ yếu.
Vậy phật giáo với lễ hội chỉ có một vài lễ hội để làm nổi bật sự ảnh hưởng của Phật
giáo đối với đời sống văn hóa xã hội ở nước ta

2.4.1. Lễ hội Quan Thế Âm:


Lòng tin vào Quan Âm ở nước ta đã có từ thời Lý với câu chuyện vua Lý
Thánh Tông nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, giơ tay đón mình lên và
ngày nay dấu tích liên quan còn lại đó là chùa Một Cột ở Hà nội. Đức Phật Quan Thế
Âm ở chùa Hương bắt nguồn từ chuyện Nam Hải Quan Âm của một nhà sư Trung
Quốc thời Nguyên du nhập vào nước ta và đã được Việt hóa vào thế kỷ thứ 15.
Ngày nay, lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức vào ngày 19 tháng 2; 19 tháng 6;
và 19 tháng 9 mỗi năm để kỷ niệm ngày hiển linh của Bồ tát. Sau đó, năm 1962 lễ hội
được tổ chức tại động Quan Âm, sau ngày hoàn toàn thống nhất đất nước, từ năm 1991
lễ hội được tổ chức lại với quy mô lớn hơn, nội dung phong phú hơn và kéo dài trong
ba ngày bao gồm hai 2 phần đó là lễ và hội.
Phần lễ mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung đó là lễ rước ánh
sáng mặt trời bình minh: Nghi lễ rước ánh sáng mặt trời bình minh thường tổ chức vào
tối ngày 18, gồm có các sự kiện như là : cầm đuốc, khiêng kiệu, múa lân hoa sư tử,....
tạo lên ánh sáng soi đường cho chúng sinh, ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng
thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện , giúp đỡ mọi người trong
cuộc sống xung quanh.
Lễ khai kinh thánh: Được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện
cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc,vui vẻ hạnh phúc. Lễ trai đàn chẩn tế: Được tổ
chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu, cúng bái thập loại chúng sinh, trước đó người phật
tử gửi danh sách những người thân của mình đã qua đời đến chùa để làm lễ cầu siêu.
Người có chức bậc quan trong trong chùa mới có thể đứng ra làm lễ.
Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và thổ độ chúng sinh: lễ cúng được tổ
chức vào sáng ngày 19, ngợi ca lòng từ nhân từ của Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu
đức cho nhân dân bình an, thịnh vượng.
Lễ rước tượng Bà Quan Âm: Lễ tổ chức cuối cùng vào khoảng 10 giờ sáng
ngày 19, gồm có bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi phía trước, và người
Phật tử đi phía sau. Kiệu được bốn người khênh từ trên cửa chùa và đi xuống Sông
15
Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò) sau đó cho chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này
nhằm mục đích cầu nguyện cho người dân đi biển, đi làm ăn và sinh sống chủ yếu trên
sông nước được thuận lợi bình an.Ngoài các nghi lễ đó còn lễ nữa đó là lễ tế xuân
(cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an được tổ chức vào đêm ngày 18. Cầu
an này giúp tạo nên sự tin tưởng hơn và dũng cảm hơn trong những điều kiện khó khăn
nhất. Khi xong xuôi hết tất cả, đoàn bô lão có nhiệm vụ sẽ dẫn đầu đoàn rước cộ
xuống bờ sông Cầu Biện để mở hội hoa đăng, rồi từ chùa Quan Thế Âm đi quanh các
khu phố qua các làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và trở về
lại lễ đài với lộ trình dài hơn 2km.
Ở phần hội: Diễn ra cũng không kém phần sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá
truyền thống và thể thao mang đậm bản sắc dân tộc như hội hoạ, hát dân ca, thả đèn
trên sông, hát tuồng trèo,.v.v. tất cả mọi người đều có thể tham gia. Đa số hoạt động
văn hóa đặc sắc và thể thao mang đậm tính dân tộc và có lối sống lành mạnh , lễ hội
Quan Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, tạo lòng
tin mãnh liệt vào Đức Phật, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân
tộc Việt Nam càng ngày càng trở lên vững mạnh và có điểm nhấn hơn.

2.4.2. Lễ cầu an:


Từ trước tới nay Phật giáo luôn tồn tại trên cuộc đời này và trong suốt thời gian
đó những giáo lý, những kinh điển của Phật giáo đã thấm sâu vào máu và tủy của mỗi
con người khiến mọi người đều ý thức được rằng mình là chủ được hành động mà
mình đã làm, không ai có thể gánh đỡ và chịu đựng cùng mình được. Trong cuộc sống
hiện tại, mọi người thường hay cầu an mỗi khi gia đình có người đau ốm, bệnh tật, hay
những chuyện bất thành đều đến xin cầu an. Họ nghĩ rằng cầu an là cầu cho người
bệnh được khỏe mạnh, được an ổn, sống lâu v.v…nên họ luôn đặt hy vọng vào những
vị sư đến cầu an cho họ.
Mỗi người xuất gia đều có nhiệm vụ cao cả của mình là “ Thừa như lai sứ, hành
như lai sự” vì vậy khi được Phật tử mời đi cầu an thì phải làm sao để chỉ cho họ thấy
được mục đích của sự cầu an, chúng ta cũng không thể từ chối khi được thỉnh mời như
vậy. Từ những dịp cầu an, ta tiếp xúc với họ, ta gần gũi và khuyên bảo, chỉ rõ cho họ
biết cầu an này chỉ là trợ duyên mà thôi, không phải hoàn toàn là dựa vào sự cầu an đó
mà được an lành. An ổn hay không là do chính hành động, việc làm, cách sống và đối
đáp hàng ngày của mình. Ví như một người chuyên đi trộm cắp, giết người,... thử hỏi
xem mời quý sư về để cầu an cho người đó thì họ có được an lành hay không? Còn
một người chuyên đi làm điều tốt, giúp đỡ mọi người, luôn sống trong sự bình thản thì
cho dù không cầu an thì họ vẫn luôn có cảm giác an lạc, hạnh phúc không sợ hay bất
an điều gì hết .

16
Vậy cầu an là sự mong muốn,ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc.
Nó không đem lại điều kì diều như là người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi,...
mà nhiều người vẫn nghĩ. Để có được sự khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự bình tâm,
theo Phật là mỗi người phải tự nhận thức, trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ. Luôn
lòng vị tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ chánh niệm và luôn tỉnh táo trong từng
phút giây ở hiện tại, không suy nghĩ về quá khứ để thoát khỏi thế giới đau thương,
không mơ mộng về tương lai để không phải lo lắng hay sợ sệt, sống một cách sáng
suốt và an nhàn trong hiện tại để khắc chế mọi dục vọng ở đời. Người có phẩm chất
sống như vậy thì lúc nào cũng bình an, lúc nào cũng khỏe mạnh và hạnh phúc mà
không cần cầu nguyện và hi vọng.
Nếu chúng ta sống buông thả, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, luôn làm điều ác, rơi vào
con đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể bình
thản được. Vậy vấn đề cầu an trong Phật giáo là nhấn mạnh đến sự thảnh thơi an nhàn
trong từng phút giây hiện tại, từng cử chỉ, từng hành động của bản thân được ý thức,
được chọn lọc và luôn tỉnh táo thì tâm mình luôn được an lạc.

2.4.3. Lễ cầu siêu:


Cầu siêu là hình thức cầu mong cho vong hồn người chết được sớm siêu thoát
hay sanh về thế giới chư Phật. Vì vậy chữ “cầu siêu” có thể là viết tắt của từ “cầu siêu
độ” hay “cầu siêu sanh” hay đầy đủ hơn là “cầu siêu sanh tịnh độ”. Như vậy cầu siêu
là nguyện vọng, là ước muốn nhắm tới chủ yếu là người đã khuất.
Sau khi người thân qua đời, con cháu làm lễ cầu siêu cho Cha Mẹ, Ông Bà
trong mỗi tuần thất, tiểu tường, đại tường hoặc lễ Trung nguyên bằng hình thức lập
đàn cầu siêu tại chùa, hoặc thỉnh chư Tăng, Ni về gia đường tụng kinh chú nguyện, cốt
yếu là nhắc cho người đã khuất nhớ lại pháp môn niệm Phật “nhất tâm bất loạn” như là
điều kiện nhất quyết để vãng sanh tịnh độ, để vong linh nương theo đó niệm Phật mà
vãng sanh. Các bài kinh thường tụng trong dịp cầu siêu như: Kinh A Di Đà, Kinh Địa
Tạng, Kinh Vu Lan. Chư tăng ni tụng kinh nhằm nhắc nhở cho con cháu của người
quá vãng trau dồi tâm tính cho thành thục và noi gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền
Liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người đã khuất mà
hơn hết là nhằm răn dạy cho thân quyến của người chết về các hình thức tu tập và làm
nhiều điều phước thiện. Song theo đạo Phật không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có
thể giải thoát cho ai cả, chỉ có mình tạo ra nghiệp lành hay dữ mà đến khi mạng chung
chiêu cảm quả báo thiện ác, chứ không phải lúc sinh tiền làm bao nghiệp ác rồi đợi sau
khi chết người thân cầu siêu để được vãng sanh là điều không thể. Chính vì lẽ đó, nên
người phật tử phải luôn ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin,
chúng ta cũng phải là người nhận lại kết quả đau khổ. Không một ai có thể đánh đổ
quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho thấy rõ điều đó: “ nếu ai tạo
17
mười nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành tâm mong
rằng người ấy sẽ được sinh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, tạo mười nghiệp
ác phải rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào dòng sông, rồi
nhiều người đến cầu khẩn, van xin cho tảng đá ấy được nổi lên, sự cầu khẩn như vậy là
vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể dạt vào bờ như
lời cầu khẩn. Cũng như vậy, tạo mười nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ”. Ở đây, lời
của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiện là nguồn gốc gây ra các hậu quả
đau khổ, mà người đã làm ra nó phải gánh chịu trong cuộc đời của mình, dù hiện tại
hay về sau.
Như vậy, sự cầu siêu chỉ mang hình thức tượng trưng, thể hiện tấm lòng thương
kính và biết ơn đối với người đã khuất, và ở phương diện khác nhằm nhắc nhở cho
người đã khuất biết về quy luật sinh tử mà không lưu luyến trần gian, thanh thản ra đi
hay tái sinh.
Tóm lại, để có thể siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành
trang đạo đức khi còn mạnh khỏe, làm lành tránh dữ, bố thí cúng dường, làm mọi
phước đức, để khi thình lình cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, nghiệp thiện của
chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sinh về cảnh giới thiện hay vãng sanh về cảnh giới của
chư Phật. Không nên cầu mong vào tha lực, mọi thứ tùy thuộc vào đời sống đạo đức,
trí tuệ và hành vi sáng suốt của chúng ta.

2.5. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán
Phong tục tập quán cho ta thấy tính đặc thù về văn hóa riêng của mỗi dân tộc.
Từ việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta lại tìm được ra những giá trị văn hóa
mang bản sắc truyền thống của mỗi dân tộc. Đối với người dân nước ta, những phong
tục tập quán chịu ảnh hưởng của phật giáo khá nhiều. Đặc biệt làm thay đổi cách suy
nghĩ và hành động của mỗi người dân để áp dụng vào cuộc sống nhằm mục đích tạo
điều kiện mở rộng và phát triển hơn. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến những phong tục
tập quán phổ biến trong đời sống hằng ngày của người dân Việt Nam.
2.5.1. Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng
sanh và bố thí.
Về ăn chay, hầu như tất cả người dân chúng ta đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Ăn chay xuất phát từ quan niệm của phật giáo. Vì khi đã là phật pháp,
mỗi phật tử phải thọ giới và giữ phép tắc, trong đó giới căn bản là không sát sinh hại
vật, mà phải thương yêu mọi loài trên đời. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, phật tử
phải thể hiện lòng từ bi . Điều cấm kỵ đó là khi con người còn ăn thịt, còn uống máu
chúng sanh. Muốn đạt được mục đích đó, phật tử phải dùng đến phương pháp ăn
chay. Bình thường người xuất gia ăn chay hằng ngày, còn phật tử tại gia còn nhiều trở

18
ngại nên chỉ ăn chay theo những ngày đặc biệt. Thông thường mỗi phật tử và người
không phải phật tử cũng làm theo tục lệ đặc biệt này, bình thường họ ăn chay mỗi
tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, có những người ăn mỗi
tháng bốn ngày là ngày mùng một , ngày mười bốn , ngày mười năm và ngày ba mươi
cuối tháng, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày hai chín. Có người ăn mỗi tháng sáu ngày
là những ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười năm, ngày hai ba, ngày hai chín
và ngày ba mươi (nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày hai tám , ngày hai chín), lại có
người ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày mùng một , mùng tám ,ngày mười bốn,
ngày mười năm, ngày mười tám, ngày hai ba , hai tư , hai tám và ba mươi (nếu tháng
thiếu thì ăn vào ngày hai bảy , hai tám và ngày hai chín) cũng có nhiều người phát
nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng
giêng, tháng bảy và tháng mười) hay cả năm, đôi khi có một số người đi phát nguyện
ăn trường trai giống như những người xuất gia.

Về mặt ăn uống, ăn chay rất được ưa chuộng với phong cách ăn uống ở Á
Đông, chú trọng ăn thực phẩm trồng trọt như ngũ cốc, khoai, sắn, ... nhiều hơn là thực
phẩm động vật, với lại ăn chay giúp cho cơ thể được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn
và sáng suốt hơn với ăn thực phẩm động vật. Gần đây các bác sĩ hàng đầu trên thế giới
cho biết trong các loại thịt có nhiều chất độc rất nguy hại cho sức khoẻ con người. Và
các nhà khoa học nổi tiếng đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và không kém chất
dinh dưỡng so với thịt động vật. Trên tinh thần đó, người dân Việt Nam dù không phải
là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tục lệ này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai cấp
tầng lớp của xã hội Việt Nam từ trước đến nay.
Ăn chay và thờ phật là hai việc luôn đi đôi với nhau của người dân Việt Nam.
Việc thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị và giúp con người trở nên nhẹ
nhàng hơn. Người phật tử, người tin tưởng phật thờ phật đã đành, nhiều người không
nhất thiết phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh có hình phật giáo để tôn
thờ và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm
người này, Phật Giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa đặc sắc của mỗi dân tộc và
toàn nhân loại.
2.5.2. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ
chùa.
Theo truyền thống của Việt Nam tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên các thần thánh, tổ tiên
có thể liên lạc, thông thương với nhân loại, cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các
cõi giới khác nhau và sự cảm thông sẽ được hình thành là ngày trong sạch để các vị
tăng kiểm điểm và sám hối hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối.
Người tín đồ về chùa có thể tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi

19
bản thân trong thân tâm họ. Ngoài việc đi chùa sám hối ra, ở nhà họ vẫn có thể cúng
vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và
tổ tiên ông bà, họ thể hiện lòng tôn kính, nhớ thương những người quá cố và tĩnh tâm
sám hối chuyện trong quá khứ của họ.

2.6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của người
Khmer khu vực ĐBSCL nói riêng và Trà Vinh nói chung
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng rộng lớn và màu mỡ
bậc thất ở thời điểm hiện tại của Việt Nam. Nơi đây có thời tiết trong năm có hai mùa
rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Đây cũng là nơi cư trú của cư dân các dân tộc Khmer,
Việt, Hoa, Chăm... Người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long có hình thức sinh hoạt
cộng đồng là một hình thức phổ biến, mang tính truyền thống đặc sắc của cư dân miền
sông nước.
Người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là tộc người cư trú lâu đời nhất,
trước khi có người Việt, Hoa và Chăm, các dân tộc hiện nay sống đan xen với nhau
trong vùng, mỗi dân tộc tập trung ở một địa bàn cư trú riêng. Người Khmer tập trung
cư trú chủ yếu ở khu vực tỉnh Trà Vinh. Dù cho ở mỗi vùng điều kiện môi sinh khác
nhau nhưng người Khmer vẫn bảo lưu, gìn giữ được truyền thống văn hóa đặc sắc của
dân tộc mình.
Trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt Tôn Giáo đóng một vai trò
đặc biệt quan trọng đó là Phật Giáo, nó vừa là chất kết dính cộng đồng dân cư bền chặt
nhất lại còn là nét đặc thù nổi bật nhất của xã hội Khmer truyền thống, cho dù Phật
giáo chỉ mới xuất hiện ở Đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng thế kỷ XII, nhưng nó
đã làm thay đổi khá nhiều về đời sống nông thôn Khmer.
Chùa của người dân Khmer thường tọa lạc trên một khu đất rộng, xung quanh
chùa thường được trồng các loại cây to để tạo thành một khu rừng nhỏ tĩnh lặng. Toàn
cảnh chùa là một không gian yên tĩnh và trầm mặc. Khác với nhiều tôn giáo khác, Phật
giáo không chỉ đảm nhận chức năng tôn giáo mà còn đảm nhận các chức năng văn
hóa, xã hội, đạo đức...với từng cá nhân và cả cộng đồng. Vì vậy ngôi chùa của người
Khmer được xây dựng lên không chỉ đáp ứng nhu cầu của hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng mà còn đáp ứng nhu cầu của giáo dục và các sinh hoạt văn hóa xã hội của cư
dân. Tham gia các lễ sinh hoạt, lễ nghi tôn giáo một cách thường xuyên và những hoạt
động tích cực mang tính tôn giáo đã giúp các cá thể có cơ hội hòa hợp, gần gũi và hiểu
biết lẫn nhau hơn.
Một nét đẹp khác về văn hoá của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là
tất cả nam công dân đều biết chữ. Theo phong tục truyền thống, người con trai khi lớn
lên phải vào chùa đi tu, đi tu là hình thức vừa học chữ vừa học đạo, tu để trở thành

20
người có ý chí , nhân tài , văn hoá lối sống riêng và là một hình thức để báo hiếu cha
mẹ đã có công dưỡng dục, sinh thành.
Người Khmer họ cho rằng: Nhà có con trai mà không đi tu là gia đình mang
tiếng xấu, khi người con trai đã vào chùa tu rồi thì trở thành thành viên trong tam bảo
được mọi người cung kính và được gọi là “lục”. Hàng ngày cha mẹ, chị em phải dâng
cơm, sùng kính thi lễ, quỳ lạy như gặp “lục cả”. Người Khmer họ cho rằng người
không được tu hành trong chùa là người nhiều tội lỗi trong cuộc sống , câu nói bộc lộ
rõ và thể hiện tầm quan trọng của cuộc sống tu hành đối với người con trai của dân tộc
Khmer. Vì thế, nhà trường được coi là trường học giáo dục về tri thức và đạo lý mà
các bậc sư sãi, cao tăng là những người thầy giảng thuyết.
Đối với người Khmer, công việc giáo dục của nhà chùa chủ yếu thông qua hình
thức thuyết pháp và tu thiền. Nó được phản ánh trong lễ hội phật giáo, cũng như một
số lễ hội được tổ chức tại chùa hay các tiểu lễ tổ chức ở các gia đình đều có sự tham
dự của các vị cao tăng, sư thầy và những người tu hành trong các chùa. Trong những
dịp được mời đến dự, các vị sư sẽ đọc kinh và thuyết pháp. Nội dung của bài thuyết
pháp thường được nói về đạo đức làm người, lòng từ thiện, lòng yêu thương con
người, quy tắc ứng xử trong xã hội...
Tùy theo hoàn cảnh tính chất buổi lễ mà lựa chọn ra nội dung bài thuyết pháp
được lựa chọn sao cho phù hợp. Cũng chính trong khoảng thời gian đó mà buổi lễ tinh
thần của những bài thuyết pháp đã đi vào lòng người một cách rất tự nhiên, được đón
nhận một cách tự giác nhất. Nhờ vậy mà trong cộng đồng của người Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long cuộc sống khá yên bình, lành mạnh. Chúng ta thấy ít khi xảy ra
những tệ nạn xã hội, mọi người đối xử với nhau rất bình đẳng, mọi thành viên trong
cộng đồng đều thương yêu nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau. Vì vậy người Khmer ít khi li
hôn, hiện tượng đa thê cũng ít gặp. Phật giáo Khmer ở ĐBSCL được tôn kính và được
bảo vệ vững chắc không phải vì sự hấp dẫn của giáo lý giảng thuyết của nhà Phật đã
đem lại lợi ích vật chất cần thiết trong đời sống con người, mà điều chính yếu là những
hành động tôn giáo lưu truyền qua các thế hệ của người Khmer đã trở thành nếp sống,
quy tắc ứng xử, mỗi thành viên trong dân tộc đều phải mặc nhiên phải tuân theo.
Trong các dịp tổ chức lễ hội, bên cạnh những hình thức cổ truyền là hình thức
sinh hoạt vui chơi, giải trí, văn nghệ, thể dục, thể thao...tất cả được tổ chức trong
khuôn viên của chùa . Trong những dịp lễ hội này các nhà sư không chỉ lo phật sự mà
còn trực tiếp tham gia, tổ chức các công việc sinh hoạt văn hóa dân tộc như: đón tiếp
các nghệ nhân và khách qúy ăn và nghỉ tại chùa, khích lệ các phật tử tổ chức hay lập ra
các đội văn nghệ để giúp các buổi sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng có phần đặc sắc.
Ngoài ra, chùa của người Khmer còn là một hệ thống văn hóa, chùa là thư viện - nơi
cất giữ các bộ sách cổ, sách phật, là bảo tàng mỹ thuật và lịch sử và là nơi duy nhất cất

21
giữ và trưng bày các công trình nghệ thuật, tác phẩm mỹ thuật của các nghệ nhân dân
gian người Khmer.
Đối với những người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài sinh hoạt tôn
giáo, tính cộng đồng còn được thể hiện rất rõ trong một số sinh hoạt tín ngưỡng có liên
quan đến cộng đồng. Ở người Khmer Nam bộ cho đến nay vẫn còn tồn tại một loại tín
ngưỡng cũng khá phổ biến là Neck tà mà một số nhà nghiên cứu coi đó là vị thần bảo
hộ công xã cho các sóc người Khmer.

Khi đến sóc của người Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long dễ bắt gặp rất
nhiều thala (ngôi nhà nhỏ dựng ở ngã ba đường để mọi người nghỉ ngơi và trú mưa,
tránh nắng), ở đây thường có miếu cúng Neck tà. Nói về nguồn gốc của loại tín
ngưỡng này vẫn còn tồn tại các ý kiến khác nhau. Adlemar Leclire cho rằng Neck tà là
“hồn của người chết từ lâu”, còn Monod thì cho rằng Neck tà là “các vị thần đồng áng
hay thần ở trong rừng mà người ta phải cầu xin mỗi khi có công việc liên quan đến khu
vực này” và theo Monod thì Neck tà có nguồn gốc từ Bà-la-môn giáo, chính vì vậy mà
từ Bà-la-môn giáo cũng được L.Malleret đồng tình, lấy vị thần “Neang khmaư’ (Bà
Đen) trong tín ngưỡng của người Khmer làm thí dụ và ông cho rằng chỉ là thần Durga
trong Bà-la-môn giáo.

Theo tìm hiểu của tác giả, cho đến ngày nay có nhiều loại miếu thờ Neck tà,
loại đơn giản là loại miếu làm bằng tranh tre, nhà sàn hoặc nhà đất dưới một gốc cây
trong khuôn viên của một phum nhỏ hay ở góc một bờ ruộng, loại thứ hai thì lớn hơn
và thường được xây bằng gạch nằm ở phía đông bắc của khuôn viên chùa, hay ở một
địa điểm nào đó ở trong các sóc. Theo như dân gian thì Neck tà được gọi tên theo một
vật tiêu biểu có trong thiên nhiên hoặc tên của một loài cây, như xam rôn (cây trộm),
đomchey (cây đa)...Hoặc mang tên một đặc điểm của địa lý như: Neck tà Bến Đò,
Neck tà bến Bình An, loại Neck tà này tiêu biểu cho vùng Trà Vinh, Vĩnh Long.(l0)
Rõ ràng, qua việc tìm hiểu về nguồn gốc, đối tượng thờ cúng và tên gọi thì Neck tà là
thần bảo hộ cho công xã của người Khmer mà điển hình là Neck tà chủ xóm, chủ xứ
hay những người dũng cảm đã có công chiến đấu, bảo vệ công xã cho đến khi Bà-la-
môn giáo và tiếp theo là Phật giáo du nhập vào vùng này thì Neck tà lại đồng hoá và
dân gian hóa một số vị thần có trong Bà-la môn giáo thành thần bảo hộ công xã. Và,
khi Phật giáo Tiểu thừa cùng với các định chế tu trì ràng buộc đã trở thành tôn giáo
chính chi phối đời sống tâm linh của người dân Khmer, tín ngưỡng Neck tà mặc dù đã
yếu thế nhưng vẫn còn được duy trì sự hiện diện của mình trong khuôn viên chùa với
hình ảnh Neck tà Wat (neck tà chùa).

22
Tất nhiên thì sự hiện diện này không được nhà chùa khuyến khích, mà đó chỉ là
một số sự nhượng bộ của Phật giáo, điều đó nói lên rằng tín ngưỡng Neck tà với tư
cách là thần bảo hộ các sóc có ảnh hưởng và gắn bó ở nhiều mặt với đời sống, sản xuất
và tình cảm cộng đồng của người dân Khmer.

Mặc dù là những phật tử mộ đạo, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
vẫn tin tưởng vào sự gieo họa hay ban phúc của Neck tà. Khi đi qua miếu Neck tà
người ta vẫn phải ngả nón tỏ ý kính trọng. Khi bệnh tật, ốm đau, hay muốn cầu xin
điều gì đó người ta vẫn chạy đến miếu Neck tà để cầu xin. Khi có những bất đồng về ý
kiến mà không thể hòa giải được thì chính Neck tà là vị quan tòa chứng giám. Khi có
thiên tai hay dịch bệnh, tính mạng của người dân trong sóc bị uy hiếp, lúc này các
thành viên họp nhau lại làm lễ “Bon ban dan neck tà” (lên đồng Neck tà) để hỏi về
nguyên nhân tại sao xuất hiện tai họa?

Ngoài ra, việc cúng Neck tà còn là yếu tố để gắn kết thần dân trong sóc, thông
thường mỗi năm người dân trong sóc cúng Neck tà một lần, bắt đầu sau khi lễ năm
mới và trước khi mùa mưa đến. Mặc dù như vậy, nhưng lễ cúng này cũng không đồng
nhất ở tất cả các địa phương, ở miệt Kiên Giang, An Giang thường cúng trước hoặc
sau tết, còn ở vùng Sóc Trăng, Trà Vinh lại thường cúng vào tháng 5 hay tháng 6
đương lịch. Sự khác biệt này được giải thích là do những cơn mưa đầu mùa bắt đầu ở
vùng biển phía tây thường sớm hơn vùng nội địa một tháng, chính vì thế mà mới có sự
không đồng nhất này.

Như vậy, người Khmer là những di dân đã có mặt từ rất sớm ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Việc quản lý xã hội truyền thống của thum, sóc Khmer theo một cơ chế khá
là đặc biệt, bao gồm quyền lực của cộng đồng cùng vai trò của tổ chức Phật giáo Tiểu
thừa, khác với làng xã của người Việt, hay tập quán của người Trường Sơn - Tây
Nguyên, ở người Khmer các quan hệ xã hội được vận hành dựa trên tập quán dân tộc
truyền thống và những quy chế của Phật giáo Tiểu thừa.Ở đây giáo lý nhà Phật chính
là cơ sở cho các quy tắc nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Triết lý của
nhà Phật trở thành triết lý của đời sống văn hóa tư tưởng của con người và cũng chính
vì thế mà sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng mang tính cộng đồng đã trở thành một bộ
phận rất quan trọng, không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong
đời sống tâm linh của mỗi người dân trong cộng đồng cư dân ở ĐBSCL. Sư sãi là tầng
lớp được cộng đồng tôn kính.

Vì vậy, đạo Phật có ảnh hưởng rất quan trọng và chi phối nhiều mặt trong đời
sống xã hội của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ở một chừng mực nào đó,
chúng ta có thể nói rằng, tổ chức xã hội cổ truyền của người Khmer mang đậm tính tập

23
thể, tính cộng đồng, nương tựa vào nhau trên cơ sở tổ chức của nhà chùa và văn hóa
Khmer.

Đây là nền văn hóa mang đậm màu sắc Phật giáo và thể hiện rõ tính đặc thù.
Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội của người
Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long khác hắn so với tính cộng đồng làng của người
Việt và các dân tộc anh em khác sinh sống trên địa bàn. Những sinh hoạt mang tính
cộng đồng này dần dần thích nghi được với cộng đồng dân tộc Việt Nam, làm phong
phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc và người Khmer Đồng bằng sông
Cửu Long đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc ở
Việt Nam.

24
KẾT LUẬN
Qua việc bàn luận về vấn đề này ai trong chúng ta phần nào đều hiểu thêm được
nguồn gốc xuất hiện của Phật giáo, những tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của
Phật giáo đến xã hội và người dân Việt Nam, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta.
Đặc biệt vấn đề này cho ta thấy rõ về vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là vấn
đề xây dựng hình thành nên nhân cách và tư duy của con người Việt Nam trong tương
lai với sự góp sức của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo.
Dù còn nhiều khuyết điểm cần hạn chế, chúng ta không thể phủ nhận những giá
trị đạo đức mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng của Phật giáo giúp con người tự suy
ngẫm về bản thân, cân nhắc , suy nghĩ các hành động của mình để không gây ra đau
khổ cho người khác. Nó giúp con người sống tốt hơn, yêu thương nhau hơn và xã hội
yên bình hơn. Nhưng để giáo dục nhân cách và đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn
chưa đủ. Bước sang thế kỷ 21, là một thanh niên để có một nhân cách tốt cần chúng ta
cần phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn cả tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục
cả thế giới bên ngoài lẫn thế giới bên trong. Đạo đức ở thế kỷ 21, có thể khai thác sự
đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác
cao hơn vì sang thế kỷ 21, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu
thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ diễn ra dưới sự góp sức của khoa học,
các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại hơn, tàn nhẫn hơn, tạo nên suy nghĩ tiêu cực
của vài cá nhân và có nguy cơ gây ra sự huỷ diệt vô cùng khủng khiếp. Khi đó đòi hỏi
con người phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhìn nhận được mọi thứ sung quanh
, ''sạch sẽ'' vả bên trong và bên ngoài.
Vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn
liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác suy nghĩ tích cực của Đạo
Phật nhằm xây dựng lên nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ bây giờ.
Là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình
- nhà trường - bản thân mỗi cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống
và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ của ngày hôm nay và mai sau luôn
mạnh mẽ cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức
tác phong trong sáng kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản.
Phật giáo sẽ góp phần bảo tồn và xây dựng xã hội ngày nay càng ổn định và phát triển
nữa.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tinh hoa Phật giáo - Nguyễn Duy Cần
2. PGS Nguyễn Tài Thư - Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay - Lịch sử Phật giáo Việt Nam - NXB quốc gia
3. PTS. Phương Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học - NXB chính trị quốc gia
4. Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo - Lý Khôi Việt
5. Lịch sử Phật giáo Việt Nam - NXB khoa học xã hội Hà Nội
6. Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới
7. Đất Việt Trời Nam – Thái Văn Kiểm
8. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận – NXB Văn Học Hà Nội
9. Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC– NXB Văn Hóa Dân Tộc
10. Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm
11. Tư tưởng phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội việt nam – Liên hiệp các
hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam

26

You might also like