You are on page 1of 69

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC ĐƯỜNG


LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tên đề tài:

VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GVHD: Đào Thị Bích Hồng

Lớp: A06

Nhóm: 01

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2021


Trang 2 / 69
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ

Kết
STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Chữ ký
quả
Làm mục 1.1; 1.2 và
1 Hà Thị Trâm Anh 1710458 2.1, tổng hợp bài, trình 100%
bày theo yêu cầu.
2 Phạm Quốc Bảo 1811540 Làm mục 2.2 100%
Làm mục 3.2 và Kết
3 Lê Quốc Cường 1811649 100%
luận
4 Nguyễn Minh Châu 1610272 Làm mục 1.1 và 1.2 70%

Làm mục 3.1 và Mở


5 Hồ Tiến Doanh 1811684 100%
đầu

THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN

NHÓM TRƯỞNG

Trang 1 / 69
MỤC LỤC

MỤC LỤC....................................................................................................................4

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 5

PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................7

I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp và sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc........7
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam......................................................................................7
1.2. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920).....10
II. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.............................41
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam............................................................................................................................. 41
2.2. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản..................................46
III. Chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị thành lập Đảng và soạn thảo Cương lĩnh
chính trị đầu tiên........................................................................................................54
3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên.....................54
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên........................................................................................................................ 63

PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................70

Trang 2 / 69
PHẦN MỞ ĐẦU

Học thyết Marx – Lenin về Đảng Cộng Sản đã trải qua quá trình hình thành và phát
triển với thuộc tính cơ bản là tính cách mạng và tính khoa học, đòi hỏi những người cộng
sản phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong thực tiễn. Lenin cũng đã nêu rõ: “Chúng ta
không thể coi lý luận của Marx như một cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái
lại, chúng ta tin rằng lý luận đó đã đặt nền móng cho môn khoa học mà những người chủ
nghĩa xã hội cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu
đối với cuộc sống”.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là một trong những người cộng sản như thế. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Người đã quán triệt sâu sắc lời chỉ dẫn trên của Lenin và có
nhiều đặc điểm sáng tạo rất độc đáo. Trong chiến lược cách mạng của Người, quan điểm
xây dựng Đảng Cộng Sản ở một số nước thuộc địa để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc là quan điểm cực kỳ quan trọng. Quan điểm đó được hình thành từ khi Người
tiếp cận chủ nghĩa Marx – Lenin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta. Từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ người yêu nước trở
thành người quốc tế cộng sản, Người tự nguyện phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản.
Hoạt động trong phong trào quốc tế cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã
sớm nhận thức được nhiệm vụ đầu tiên tối quan trọng đối với cách mạng: sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản là yếu tố quyết định cho sự nghiệp thắng lợi của cách mạng. Vì thế, vấn đề
thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam được đặt ra, được Người thực hiện một cách khoa học
và sáng tạo. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam, với đặc điểm của nó đặt ra cho việc thành
lập Đảng dù về bản chất không khác so với việc thành lập Đảng cộng sản tại các quốc gia
khác, đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể tại Việt Nam – một quốc
gia thuộc địa, nửa phong kiến, đa số là nông dân, giai cấp công nhân có tuy nhiên chiếm số
lượng không lớn. Trên cơ sở của học thuyết Marx – Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành
xây dựng thành công Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Đảng do Người sáng lập là
sự kết hợp của chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước

Trang 3 / 69
tại Việt Nam. Đây là cống hiến quan trọng của Người về xây dựng Đảng kiểu mới ở một
nước thuộc địa vào kho tàng chung của lý luận Marx – Lenin.

Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng do Nguyễn Ái Quốc thành lập, cách
mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vẻ vang, lập kỳ tích vĩ đại trong thế kỷ XX.
Cũng chính từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta trở thành người duy nhất lãnh đạo dân
tộc Việt Nam. Hơn 30 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu
rất quan trọng. Hiện nay, tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh, đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới, nâng cao năng lực. Vì vậy, nghiên cứu
làm rõ những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trên đường thành lập Đảng là việc làm cần
thiết, đưa tới sự ra đời nghiên cứu này của nhóm.

Đề tài này làm rõ bốn nhiệm vụ chính sau đây.

Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp và kết quả của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.

Hai là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920)

Ba là, làm rõ sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về chính trị-tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam

Bốn là, làm rõ sự chủ động của Nguyễn Ái Quốc trong việc triệu tập, chủ trì Hội nghị
thành lập Đảng và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Trang 4 / 69
PHẦN NỘI DUNG

I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp và sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam
1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp:

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập
tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, làm thay đổi từ một nước phong kiến thành thuộc địa nửa phong
kiến.

Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc
Kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính
sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế
và áp bức chính trị đối với nhân dân ta.

Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư vốn
khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã
tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới…)
nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm
trong vòng lạc hậu.

Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân; dung túng,
duy trì các hủ tục lạc hậu… Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở
Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị
hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi phải
sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”1.

Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 33-34.

Trang 5 / 69
1.1.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân,
xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa ngày càng sâu sắc:

Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa
thành 2 bộ phận: đại địa chủ và địa chủ vừa và nhỏ. Đại địa chủ gắn liền với Pháp, đi
ngược là quyền của dân tộc. Địa chủ vừa và nhỏ là bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau.

Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của
giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai,
làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền
sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.

Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công
nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật là: “ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin”1.

Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn
ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt. Vì

Lê Duẩn (2008), Tuyển tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.551.

Trang 6 / 69
vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ đi đến thành công.

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu
tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người
vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực dân, lại chịu ảnh
hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh
thần cách mạng cao.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của 2
giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam
lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau đều bị thực
dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong
kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ
yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là:
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất xã
hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Trang 7 / 69
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng:

Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân. Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là
ruộng đất cho nông dân. Trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

1.2. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)
1.2.1. Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến


Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)
Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế,
đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp
kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số
quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên. Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các
địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản công. Dò biết tình hình, ngày 27
tháng 6 năm 1885, De Courcy (tổng chỉ huy vừa được cử sang) đem 4 đại đội và 2 tàu chiến
từ Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm loại trừ phe chủ chiến, dự định bắt cóc Tôn Thất Thuyết.

Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, yêu cầu Hội đồng
phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân
sĩ, đào hào đắp lũy trong thành, bố trí hai đạo quân đặc biệt phòng thủ hoàng thành, nhằm
giành thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập
hoàng thành.

Đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia
sông Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân làm
hai cánh. Cánh thứ nhất (do Tôn Thất Lệ chỉ huy) có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh
thứ hai (do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy) sẽ đánh úp tiêu diệt toàn bộ lính Pháp ở đồn
Mang Cá. Biết trước âm mưu của giặc nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất
Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công. Đúng 1 giờ sáng
ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng
súng thần công nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột
nhập đồn, lính Pháp rối loạn, vài sĩ quan bị thương, bị chết.

Trang 8 / 69
Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính địch bốc
cháy dữ dội. De Courcy đối phó cầm chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, lợi dụng quân
Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành
Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng, vượt qua các ổ phục kích lọt được vào hoàng
thành. Quân Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vô cùng dã man nhiều người dân
vô tội trên đường tiến quân. Trong ngày hôm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị giết.
Không chỉ hàng vạn người bị giết hại mà kinh thành Huế còn bị cướp đi phần lớn những tài
sản quý báu nhất. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển
đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn
lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5
ngày mới xong và chở về Pháp.

Sáng mùng 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng đời
kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885,
Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở
Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại
đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại đây,
Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885. Hai tờ chiếu này
tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu,
văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước.

Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là một phong trào đấu tranh
yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Việt Nam. Trong thời kì này, hoàn toàn vắng
mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần Vương không
phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là các sĩ phu văn
thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện
đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự
biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm 1885 và phát triển qua hai giai đoạn:

Giai đoạn I (1885-1888): Phong trào bùng nổ khắp cả nước

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã hưởng
ứng qua việc tập hợp các n ghĩa binh, xây dựng lên căn cứ. Họ cùng nhau đấu tranh mạnh
mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên đại bàn rộng lớn thuộc Bắc và
Trang 9 / 69
Trung Bộ. Nhiều tướng lĩnh và văn thân tham gia như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn,
Phàm Bành, Mai Xuân Thưởng… Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất
Đàm và Tôn Thất Nghiệp (vốn là hai người con của Tôn Thát Thuyết). Dưới sự đàn áp của
thực dân Pháp, vua Hàm Nghi đã rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau về Ấu
Sơn (Hà Tĩnh). Tháng 6 năm 1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh
toàn quyền P.Bert xuống dụ kêu hàng, nhưng không ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu
hàng buông súng. Đặc điểm của phong trào Cần Vương trong giai đoạn này là các hoạt động
chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn lẻ tẻ riêng rẽ.

Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như Khởi nghĩa Cai Kinh ở Bắc
Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đông Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi nghĩa Tạ
Hiện ở Thái Bình và Nam Định, khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuận ở Hưng Yên và Hải
Dương, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Thanh Hóa, khởi nghĩa của Phan
Đình Phùng và Lê Ninh ở Hương Khê-Hà Tĩnh… Tại khu vực Trung Kì, nổi bật là khởi
nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình, khởi nghĩa của Trần Quang Dự,
Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm ở Quảng Nam, khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng
Ngãi, khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng ở Bình Định…. Cuối năm 1888, do sự phản bội của
Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri, giai đoạn thứ nhất của
khởi nghĩa Cần Vương kết thúc.

Giai đoạn II (1888-1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn

Giai đoạn này từ cuối năm 1888, mặc dù không có sự lãnh đạo từ triều đình nhưng
phong trào Cần Vương vẫn quy tụ nhiều văn thân sĩ phu yêu nước và phát triển thành nhiều
cuộc khởi nghĩa lớn, tiếp tục duy trì với tổ chức cao hơn. Một số cuộc khởi nghĩa lớn như
cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do
Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuận chỉ huy… Trong giai
đoạn này, xuất hiện nhiều khởi nghĩa lớn nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường càn quét
mạnh. Do đó, để duy trì và phát triển hoạt động, các nghĩa quân phải chuyển địa bàn hoạt
động đến nhiều vùng khác, từ đồng bằng lên trung du và miền núi. Đặc điểm chung trong cả
hai giai đoạn của phong trào Cần Vương vẫn là hoạt đông riêng rẽ, lẻ tẻ chưa có sự thống
nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa này dẫn đến sự thiếu
lãnh đạo và tính liên kết. Do đó, đây cũng là một trong các nguyên nhân khiến về sau chúng

Trang 10 / 69
lần lượt thất bại dưới sự đàn áp và càn quét của Pháp. Năm 1896, phong trào Cần Vương kết
thúc.

Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu
văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp:

Khởi nghĩa của Nguyễn Văn Giáp ở Sơn Tây và Tây Bắc (1883-1887)

Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu.

Khởi nghĩa Hương Khê (1885–1896) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê,
Hà Tĩnh.

Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An.

Khởi nghĩa Ba Đình (1886–1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn,
Thanh Hóa.

Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.

Khởi nghĩa của Lê Thành Phương ở Phú Yên (1885–1887).

Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886–1892) của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương,
Thanh Hóa.

Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883–1892) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.

Phong trào kháng chiến ở Thái Bình – Nam Định của Tạ Hiện và Phạm Huy Quang.

Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.

Khởi nghĩa Thanh Sơn (1885–1892) của Đốc Ngữ (Nguyễn Đức Ngữ) ở Hòa Bình.

Khởi nghĩa của Trịnh Phong ở Khánh Hòa (1885–1886).

Khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình.

Khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh ở vùng Lạng Sơn, Bắc Giang.

Khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân ở Quảng Ngãi.

Khởi nghĩa của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị.

Trang 11 / 69
Khởi Nghĩa của Cù Hoàng Địch ở Nghệ Tĩnh

Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc mọi
người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi, thực dân Pháp ra sức dụ dỗ thuyết phục, mua
chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không
mua chuộc được vua Hàm nghi thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại
Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn
tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị
tiêu diệt. Từ cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan
Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt.

Nguyên nhân thất bại

Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua
nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:

Tính chất địa phương: Sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự
kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối
thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất
thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy
mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.

Quan hệ với dân chúng: Các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để
có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.

Mâu thuẫn với tôn giáo: Sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương
khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của
người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.

Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số
được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người
Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc
của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi,
họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.

Trang 12 / 69
Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức (tương tự như
"tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh), phong trào Cần Vương còn có
những nguyên nhân thất bại khác:

Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể
chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.

Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào
những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực
lượng chính quy của địch.

Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết
vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương
quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu
và tan rã.

Ngoài ra, vì triều đình phong kiến Việt Nam đã kí hàng loạt các hiệp ước với Pháp,
nên thực tiễn Việt Nam đặt ra yêu cầu là chống thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân
tộc. Sau đó là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là vấn
đề ruộng đất. Trong khi đó phong trào Cần Vương là khôi phục lại chế độ phong kiến, mà
thực tiễn đặt ra là cần xóa bỏ. Vì vậy phong trào này đã thất bại vì không thể đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn, dẫn đến thiếu khả năng tập hợp lực lượng và thể thành công.

Các phong trào đấu tranh của nông dân


Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song với các cuộc đấu tranh Cần
Vương còn có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đổng bào miền núi. Theo bước
chân xâm lược của thực dân Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng
bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi như

Khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Thái Bình, Hải Dương (1821-1827)

Khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Ứng Hòa – Hà Tây (1854 – 1855).

Cuộc nổi dậy của binh lính do Lê Văn Khôi chỉ huy (1883 – 1835)

Và nhiều hơn 400 cuộc khởi nghĩa khác

Trang 13 / 69
Trong hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân cuối thế kỷ XIX, nổi bật nhất là phong trào
nông dân Yên Thế.

Cuộc khởi nghĩa Yên Thế - Bắc Giang (1884 – 1913),


Cuộc khởi nghĩa Yên Thế khởi nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Trước khi thực dân
Pháp đặt chân đến vùng này, nơi đây đã là một vùng đất có một cư dân phức tạp, chủ yếu là
nông dân lưu tán các loại. Họ chọn nơi đây làm nơi cư trú và đã công khai chống lại triều
đình. Khi thực dân Pháp đến bình định vùng này, các toán vũ trang ở đây có thể cũng chống
lại quân Pháp như đã từng chống lại triều đình nhà Nguyễn trước đó để bảo vệ miền đất tự
do của họ.Và vì Yên Thế là bình địa của Pháp khi chúng mở rộng chiếm đóng Bắc Kì nên
họ đã nổi dậy đấu tranh để bảo vệ cuộc sống của mình.

Nhiều học giả nhận định ba nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa: Do nhu cầu tự vệ
của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ vững vùng đất này như là một vùng đất ngoài
pháp luật, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ chính quyền nào. Sự yêu nước và chống
ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế. Yên Thế là vùng đất phía Tây Bắc Giang, diện
tích rộng cây cối rậm rạp, cây cỏ um tùm từ đấy có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái
Nguyên, Phúc Yên, Vĩnh Yên nên rất thích hợp với lối đánh du kích, dựa vào địa thế hiểm
trở và công sự dã chiến, đánh nhanh và rút nhanh lại rất thuận tiện khi bị truy đuổi. Chưa có
sự phối hợp và chỉ huy thống nhất. Lúc bấy giờ xuất hiện hàng chục toán nghĩa quân của Đề
Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật, Đề Chung... Mỗi thủ lĩnh cầm đầu một
toán quân và làm chủ một vùng. Theo Chapuis, tới cuối năm 1889, lực lượng của Đề Thám
gồm khoảng 500 quân được huấn luyện chu đáo. Đề Thám liên kết với lực lượng của Lương
Tam Kỳ, một chỉ huy quân Cờ đen, và thủ lĩnh người Thái Đèo Văn Trị. Ngoài căn cứ địa
Yên Thế, Đề Thám còn tổ chức đồn điền tại Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc
Yên và Bắc Giang.

Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892)

Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống nhất vào một mối, nhưng nghĩa
quân vẫn hoạt động có hiệu quả. Tháng 11-1890, nghĩa quân Đề Thám đã giành thắng lợi
trong trận chống càn ở Cao Thượng. Từ đầu đến cuối tháng 12-1890, ba lần quân Pháp tấn
công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị nghĩa quân Đề Thám đánh bại. Đến cuối

Trang 14 / 69
năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng Yên Thế, mở rộng hoạt động sang cả
Phủ Lạng Thương.

Năm 1891, quân Pháp lại tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám phải rút lên Đồng
Hom. Tranh thủ thời cơ, chúng tiến nhanh vào vùng Nhã Nam, rồi vừa tổ chức các cuộc càn
quét, vừa xây dựng các đồn bốt để bao vây nghĩa quân.

Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một cụm cứ
điểm gồm 7 hệ thống công sự ở phía bắc Yên Thế do Đề Nắm, Đề Thám, Bá Phức, Đề Tâm,
Đề Tuất, Đề Chung, Tổng Tài chỉ huy. Lúc này, Đề Nắm là một trong những thủ lĩnh có uy
tín nhất của nghĩa quân Yên Thế.

Tháng 3 - 1892, Pháp huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh,
pháo binh...) do tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Do
tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi
căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày càng nhiều, một số thủ lĩnh
ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4 -
1892. Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh
tối cao của nghĩa quân Yên Thế. Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của quân Yên Thế là
thông thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thoát được vòng vây của quân Pháp.

Giai đoạn thứ hai (1893-1897)

Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến với Pháp, lần thứ nhất vào tháng
10-1894, lần thứ hai vào tháng 12-1897. Sau khi Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai
trò lãnh đạo phong trào Yên Thế. Ông đã khôi phục những toán quân còn sót lại ở Yên Thế
và các vùng xung quanh, rồi tiếp tục hoạt động. So với giai đoạn trước, số lượng nghĩa quân
tuy có giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn.

Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố Chuối, đồng
thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang. Lúc này, các phong trào
Bãi Sậy, Ba Đình, cũng như các đội quân kháng chiến của Đốc Ngữ, Đề Kiều đều đã tan rã,
nên thực dân Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn áp khởi nghĩa Yên Thế.

Trang 15 / 69
Ngày 17-9-1894, quân Yên Thế bắt cóc Chesnay , biên tập viên tờ Avenir du Tonkin.
Do phải chịu áp lực từ phía chính quyền thuộc địa và khó khăn trong việc dập tắt cuộc khởi
nghĩa, quân đội Pháp phải tiến hành hòa hoãn để nghĩa quân Yên Thế thả Chesnay. Về phía
nghĩa quân, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực lượng cũng suy yếu rõ rệt. Trong
tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời cơ củng cố lực
lượng. Tháng 10-1894, cuộc thương lượng giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp kết
thúc.Theo đó, phía Pháp trả 15.000 francs tiền chuộc, họ phải rút khỏi Yên Thế và để Đề
Thám kiểm soát 4 tổng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng, với quyền thu thuế
trong 3 năm. Trong thời gian này, Đề Thám tới sống ở đồn Phồn Xương và cho cày cấy với
quy mô lớn. Ông cũng được Kỳ Đồng hỗ trợ, tuyển mộ người cho ông từ thành phần phu từ
một đồn điền của Pháp do Kỳ Đồng quản lý.

Năm 1895, Đề Thám tham gia tổ chức đánh Bắc Ninh, và từ chối trả lại những vũ khí
mà ông chiếm được tại đây cho phía Pháp. Tới tháng 11-1895, thiếu tá Gallieni đưa một
pháo thuyền chở quân lên uy hiếp, buộc Đề Thám đầu hàng, nhưng nghĩa quân Đề Thám đã
chống đỡ quyết liệt. Để tránh những cuộc đụng độ lớn với quân Pháp, Đề Thám chủ trương
chia nghĩa quân thành những toán nhỏ phân tán hoạt động trong rừng và ở các làng mạc.
Nghĩa quân phải di chuyển hoạt động trong bốn tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên,
Phúc Yên.

Trước sự truy lùng và vây quét ráo riết của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày
càng suy yếu. Để bảo toàn lực lượng, Đề Thám lại xin giảng hòa với Pháp lấn thứ hai. Thực
dân Pháp lúc này cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa. Vì vậy,
tháng 12-1897, hiệp ước hòa hoãn giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Đề Thám đã được ký
kết với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ hơn, nghĩa quân phải nộp cho Pháp tất cả vũ khí
và phải bãi binh. Đề Thám bề ngoài tỏ ra là phục tùng, nhưng bên trong vẫn ngầm củng cố
lực lượng.

Giai đoạn thứ ba (1897 - 1908)

Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu.
Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa
vũ khí, ra sức luyện tập. Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân ở Phồn Xương tuy không đông

Trang 16 / 69
(khoảng 200 người), nhưng rất thiện chiến. Đồng thời, Đề Thám còn mở rộng quan hệ giao
tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì.

Tại Yên Thế, nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đã hai lần đón tiếp nhà yêu nước Phan Bội
Châu. Giữa năm 1906, Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám. Đề Thám còn lập một
căn cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trung ra huấn luyện quân sự. Về
phía Pháp, trong thời gian này chúng đã ráo riết lập đồn, bốt, mở đường giao thông... tạo
mọi điều kiện cần thiết để đánh đòn quyết định vào căn cứ nghĩa quân Yên Thế.

Giai đoạn thứ tư (1909 - 1913)

Năm 1908, Đề Thám tham gia cuộc nổi dậy của lính khố xanh tại Bắc Ninh, Nam
Định và Nhã Nam, khiến một sĩ quan Pháp bị giết. Tới 27-7 năm 1908, xảy ra vụ đầu độc
binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia của Đề Thám. Cuộc binh biến này được chuẩn bị rất
chu đáo, theo đó nghĩa quân sẽ bắn phá đồn binh Pháp tại Đồn Thủy (nay là Bệnh viện
Quân đội 108, Hà Nội) bằng đại bác nhằm vô hiệu hóa đồn này. Các đồn binh tại Sơn Tây
và Bắc Ninh sẽ bị chặn đánh, không cho tiếp cứu Hà Nội. Quân Đề Thám chờ ngoài thành
Hà Nội, chờ tín hiệu từ trong thành, sẽ đánh Gia Lâm và cắt đường xe lửa và điện thoại. Tuy
nhiên cuộc binh biến thất bại, quân Đề Thám phải rút về, 24 người tham gia cuộc binh biến
bị Pháp xử tử, 70 người bị xử tù chung thân.

Nhân cơ hội này, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa quân.
Tháng 1-1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Batay (Bataille), khoảng 15.000 quân cả Pháp
và ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ, vừa chuyển dần xuống
Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái Nguyên. Trên đường di chuyển,
nghĩa quân vẫn tổ chức đánh trả quyết liệt, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Điển hình
là trận chặn giặc ở đồn Hom, Yên Thế (ngày 30 tháng 1 năm 1909), trận núi Hàm Lợn ở
Tam Đảo, Phúc Yên (ngày 15 tháng 3 năm 1909).

Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày
càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa vào tay giặc.
Từ 29-1 tới 11-11 năm 1909, quân Đề Thám thua 11 trận quan trọng, bị quân Pháp vây hãm
tại Yên Thế. Bà Ba Cẩn bị bắt, bị đày đi Guyana. Đến đây, phong trào coi như đã thất bại về
cơ bản. Ngày ngày 10 tháng 2 năm 1913, Đề Thám bị hai tên thủ hạ Lương Tam Kỳ giết hại

Trang 17 / 69
tại một khu rừng cách chợ Gồm 2 km, nộp đầu cho Pháp lấy thưởng. Sự kiện này đánh dấu
sự thất bại hoàn toàn của phong trào khởi nghĩa Yên Thế.

Nguyên nhân thất bại

Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hòa) không hợp với nhiều nghĩa quân (chủ
chiến). Nhiều nghĩa quân đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây nên sự
rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân. Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi
khi nghĩa quân vẫn cướp bóc, sách nhiễu dân chúng. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để
giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán
cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.
Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó. Ngoài ra còn do
Pháp cấu kết với lực lượng phong kiến.

Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong
kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ
dân tộc ở Việt Nam.

Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản


Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu
ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu
lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng.
Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ
quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để
tiến tới khôi phục độc lập.

Phong trào Đông Du


Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp bạo
động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc.

Đầu năm 1904, sau khi từ Nam Kỳ về, ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), Phan
Bội Châu cùng Kỳ Ngoại hầu Cường Để và hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của
Nguyễn Hàm tại Nam Thịnh sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập ra một tổ chức bí mật
có tên là Duy Tân hội. Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm Hội chủ để thu phục nhân
tâm tập hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước.

Trang 18 / 69
Còn Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân...
đều là những hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội.

Sau khi bàn bạc, hội nghị thành lập hội đã đề ra ba nhiệm trước mắt, đó là: Phát triển
thế lực hội về người cũng như về tài chính. Xúc tiến chuẩn bị bạo động và các công việc
khác sau khi khởi phát bạo động. Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện, và cách
thức tiến hành.Hai khoản trên giao cho toàn thể hội viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì
ủy thác cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện. Và theo Nguyễn Hàm,
thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình không xong thì cứu được ai. Duy nước
Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng mới đánh được Nga, dã tâm đang
hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng viện cho ta. Nếu nó không xuất binh
nữa mà mướn tư lương mua khí giới, tất có thể dễ lắm... Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu
viện đã được đông đảo hội viên tán thành

Nhưng thời điểm này chưa thích hợp để Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, được một số
lời khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật, viết sách báo để tranh thủ sự đồng tình
của dư luận thế giới, đồng thời cổ động thanh niên sang Nhật học tập để chờ đợi thời cơ.
Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu đã chuyển hướng từ
"cầu viện" sang "cầu học". Tháng 6 năm Ất Tỵ (1906), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính
mang một số sách "Việt Nam vong quốc sử" bí mật về nước.

Phan Bội Châu cùng các thành viên nòng cốt trong hội Duy Tân, sau khi bàn bạc đã đề
xướng việc lập các hội nông, công, thương, để vừa tập hợp đoàn kết lực lượng, vừa lấy đó
làm cơ sở kêu gọi thanh niên xuất dương và là cơ quan tài chính giúp đỡ phong trào Đông
Du.

Song song với các hoạt động trên, các thành viên của phong trào còn sáng tác nhiều
thơ ca yêu nước như: "Hải ngoại huyết thư", "Việt Nam Quốc sử khảo", "Tân Việt Nam",
"Sùng bái giai nhân" (Phan Bội Châu), "Viễn hải quy hồng" (Nguyễn Thượng Hiền), "Kính
cáo toàn quốc" (Cường Để), v.v...gửi về nước tuyên truyền cổ động nhân dân hưởng ứng
phong trào. Vì vậy, sau khi phát động, phong trào Đông Du đã được đông đảo người dân ở
cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.

Trang 19 / 69
Ở Nam Kỳ, phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần
Chánh Chiếu. Ông này đã lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ của nhưng người
yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã, để vừa chấn hưng công-thương-nghiệp, vừa để có
tiền ủng hộ phong trào Đông Du. Ngoài ra, với vai trò là chủ bút tờ Nông cổ mín đàm và
Lục tỉnh tân văn, ông còn cho đăng báo những bài có tư tưởng chống Pháp. Nhiều nhân sĩ
khác ở đây cũng tích cực tham gia và hết lòng lo cho sự nghiệp chung như Đặng Thúc
Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí Nhuận, Đặng Minh Chương…

Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học Trường Quân sự Tokyo (Đông
Kinh Chấn Võ Học Hiệu) cùng với Lương Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học
sinh sang Nhật du học lên tới khoảng 200 người, hầu hết đều vào học tại trường Đông Á
Đồng Văn thư viện - một trường của Nhật tại tô giới của Nhật ở Thượng Hải (Trung Quốc),
sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội...

Để tăng cường quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu tổ chức Việt Nam
Cống hiến hội (gọi tắt là Cống hiến hội), cử Cường Để làm Hội trưởng và ông (Phan Bội
Châu) làm Tổng lý kiêm Giám đốc trực tiếp chỉ đạo tổ chức này.

Lúc bấy giờ, các cuộc vận động duy tân ở trong nước của các tổ chức Duy Tân hội,
phong trào Duy Tân (phát động năm 1906) và Đông Kinh nghĩa thục (thành lập tháng 3 năm
1907) đã tạo nên một không khí cách mạng về dân trí rất sôi nổi.Phong trào Đông Du cũng
đã và đang lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam; và việc học tập của lưu học sinh ở Nhật cũng đã
ổn định và đang phát triển thuận lợi.

Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam, rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân
Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt,
trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội.

Đang khi ấy ở Nam Kỳ, Trần Chánh Chiếu (một trong số người tích cực ủng hộ Phong
trào Đông Du ở Nam Kỳ) lại cho đăng những bài có tư tưởng chống Pháp. Vì thiếu chứng
cớ, chính quyền thực dân không thể kết án ông, nhưng kể từ đó nhiều người cùng hoạt động
với ông, họ bí mật khủng bố.

Trang 20 / 69
Thêm một cái cớ nữa để thực dân ra sức đàn áp, đó là vào tháng 3 năm 1908, các phụ
huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai theo đường bưu điện cho Phan Bội
Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay tin, thực dân Pháp bèn bố trí người và
bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh Thành cùng với mọi giấy tờ, khi tàu vừa cặp
bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về,
các hội buôn có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt
bớ...

Tháng 5 năm đó, Hà Thành xảy ra đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra sức
đàn áp các phong trào, tổ chức cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, để làm tan rã phong trào
Đông Du, Pháp còn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9 năm 1908. Theo đó, Pháp cho Nhật
vào Việt Nam mua bán; đổi lại Nhật sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt
Nam ở Nhật nữa. Sau khi cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán tất
cả các học sinh người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục
xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và Duy Tân hội đã dày công xây
dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.

Nguyên nhân thất bại

Thứ nhất, ngay từ đầu ông đã sai lầm về mặt tư tưởng. Việc xác định kháng Pháp bằng
cách dựa vào Nhật của ông là điểm sai trọng yếu. Vì bản chất đế quốc mà Nhật sẽ bất chấp
tất cả, bất chấp cả thứ tinh thần châu Á mà ông tin Nhật sẽ tôn trọng. Rốt cuộc, cái mà đế
quốc Nhật muốn lúc đó là vấn đề bành trướng lãnh thổ hơn là tình bang giao với các nước
lân bang. Kết quả là, để có viện phí chi trả trong cuộc chiến Nga Nhật, Nhật đã phải vay từ
Pháp và chấp nhận yêu cầu tôn trọng các nước thuộc địa của Pháp mà Pháp đưa ra. Từ đó,
họ tiến hành trục xuất các thanh niên trong phong trào Đông Du về nước, không chấp nhận
thỉnh cầu giúp đỡ từ phía Phan Bội Châu. Những điều này đã được các chí sĩ đương thời
như Lương Khải Siêu, Phan Châu Trinh nhìn thấu, nhưng Phan Bội Châu lại bị ánh hào
quang của chiến thắng 1905 của Nhật Bản làm lu mờ.

Sai lầm thứ hai trong con đường cứu nước của Phan Bội Châu đó là việc chủ trương
cứu nước bằng con đường bạo động. Tình cảnh bấy giờ ở nước ta sau cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào chỗ mê muội, nghèo nàn, dốt nát. Nếu như chỉ
độc một con đường bạo động vũ trang mà hy vọng có thể cứu nước là hoàn toàn sai lầm.
Trang 21 / 69
Bởi chính việc thu phục nhân tâm, công cuộc “khai dân trí”, chấn hưng đất nước mà Phan
Châu Trinh từng nói đến mới là điều cần làm trước. Chỉ khi nào tập hợp được một lực lượng
to lớn là toàn thể nhân dân, trên dưới đồng lòng thì lúc đó, làm cách mạng bằng con đường
bạo động vũ trang mới nên tiến hành. Còn nếu chỉ bạo động xảy ra lẻ tẻ ở một vài nơi, với
sự ít ỏi về số lượng sẽ nhanh chóng bị dập tắt. Mà tiêu biểu là sự đàn áp của thực dân Pháp
lên những người làm hoạt động ám sát trong hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội.

Sai lầm thứ ba của Phan Bội Châu đó là việc chủ trương cứu nước bằng con đường
dân chủ tư sản từ đó thiết lập nền cộng hòa. Vì thời điểm đó, cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân pháp đã dần tạo ra sự chuyển biến giai cấp. Đông đảo trong xã hội bấy giờ là giai
cấp nông dân và công nhân. Trong khi cuộc cách mạng này lại đem lại quyền lợi cho giai
cấp tư sản. Về cơ bản, nó chỉ tiếp tục thay thế sự bóc lột từ giai cấp phong kiến qua giai cấp
tư sản. Tinh thần dân chủ là điểm tiến bộ lớn nhất trong con đường này.

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu rốt cuộc thất bại là vì những lý do cơ bản
trên. Điểm tiến bộ là ông đã nhìn ra sự lạc hậu và bảo thủ của chế độ phong kiến, việc cần
thiết phải có một chế độ mới mà ở đó quyền của nhân dân được đảm bảo. Ông cũng để lại
cho thế hệ đi sau bài học kinh nghiệm để cứu nước theo một con đường khác phù hợp hơn.
Con đường cách mạng vô sản mà người dẫn đầu không ai khác chính là Nguyễn Ái Quốc.

Phong trào Duy Tân

Đại diện cho xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải cách
văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến
thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn hưng khí, hậu dân
sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu ngoại viện.

Sau khi phong trào Cần vương và phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó,
theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng phong trào Đông Du
(1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát
động tại miền Trung Việt Nam. Tinh thần duy tân được coi như bắt đầu từ những bản điều
trần của Phạm Phú Thứ (1821-1882), Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Nguyễn Lộ Trạch
(1852-1895) với văn bản "Thiên hạ đại thế luận" (1892). Để cứu nước, Phan Bội Châu chủ

Trang 22 / 69
trương dựa theo mô hình Nhật Bản để xây dựng lực lượng. Vì vậy, ông đã lập ra Hội Duy
Tân (1904) với mục đích là lập ra một nước Việt Nam độc lập. Trong quá trình hoạt động
của hội, năm 1905, Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du. Khoảng thời gian ấy,
sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh từ quan (1904), rồi làm cuộc Nam du,
Bắc du với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Sau đó, ông bí mật
sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật
Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét
công cuộc duy tân của xứ sở này[5]. Ông hoan nghênh việc Phan Bội Châu đưa thanh niên
ra nước ngoài học tập, phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo dục trong nước, nhưng ông phản
đối chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo động vũ trang và việc mưu cầu ngoại
viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải đi theo con đường dân chủ và cải cách
xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.

Phong trào Duy Tân còn được gọi là Minh xã (Hội ngoài ánh sáng), vì hoạt động công
khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự cường" (dựa vào Pháp để giàu mạnh).
Còn Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập còn được gọi là Ám xã (Hội trong bóng tối),
vì hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc lập". Tuy
nhiên, hai khuynh hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt đối,
mà là đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và phần lớn trí thức nho học ủng
hộ cả hai phong trào.

Năm 1906, Phan Châu Trinh ra Bắc, liên lạc với Lương Văn Can và các thân sĩ Bắc
Hà để lập cơ sở Duy tân ở Bắc (sau đó gần một năm, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được
thành lập). Ông cũng tìm gặp Đề Thám, sang Quảng Châu gặp Phan Bội Châu rồi cùng sang
Nhật quan sát tình hình chính trị và dân trí nước Nhật, khi bàn luận và biết là không cùng
chí hướng với Phan Bội Châu, ông về nước, xúc tiến con đường Duy Tân.

Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức thư
chữ Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm
quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để
giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh. Liền theo đó, với phương châm "tự lực
khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp

Trang 23 / 69
đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của
phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

Khai dân trí: Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến
thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa...

Chấn dân khí: Làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu được quyền lợi
của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào...

Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm vườn, lập hội buôn
và sản xuất hàng nội hóa...

Ngoài ra, Phan Châu Trinh còn viết bài Tỉnh quốc hồn ca để kêu gọi mọi người hăng
hái duy tân theo hướng dân chủ tư sản.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một số sĩ phu như
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương cải cách ôn hòa, nghị viện. Họ vận động
mở trường dạy học, cải đổi phong tục tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang công
thương. Một số khác như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên thì thiên về khuynh hướng bạo
động...

Đến năm 1908, nhân dân Trung Kỳ đang điêu đứng vì nạn sưu thuế, đã đứng lên làm
cuộc đấu tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" (sử Việt thường gọi là Phong trào chống
sưu thuế Trung Kỳ). Khởi đầu là ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa Vang,
Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam; rồi lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh...

Khi nổ ra phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ, do các lãnh đạo chủ chốt của phong
trào kháng thuế cũng đồng thời tham gia phong trào Duy Tân và do lo sợ phong trào Duy
Tân ảnh hưởng xấu đến nền cai trị nên chính quyền thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn
thẳng tay đàn áp. Họ ra lệnh phải đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Đồng thời
cho lính đi lùng sục bắt bớ hàng trăm người có liên quan, trong đó các thành viên lãnh đạo
phong trào Duy Tân. Một số người có liên quan đến phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ bị
chính quyền nhà Nguyễn tại các tỉnh kết án tử hình, như Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn
Bá Loan... Những người khác chỉ tham gia phong trào Duy Tân bị đày đi Côn Đảo (trong số
đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Ngô Đức Kế...) hay Lao Bảo.

Trang 24 / 69
Đến cuối tháng 5 năm 1908, cuộc đấu tranh chống sưu thuế và phong trào Duy Tân đều kết
thúc.

Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã khẳng
định sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến trình độ giác ngộ và
tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó, qua phong
trào còn cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ...

Nguyên nhân thất bại

Thực dân Pháp còn mạnh đủ sức đàn áp, giải tán các phong trào Duy Tân, cải cách sau
khi đã ổn định nền thống trị Việt Nam. Trên thế giới xu hướng cải cách Duy tân đã trở nên
lỗi thời, lạc hậu, xu hướng duy tân ở Việt Nam đầu thế kỷ XX không còn phù hợp với thời
đại. Những yếu tố du nhập vào Việt Nam khi điểu kiện kinh tế chính trị Việt Nam chưa chín
muồi chỉ hấp dẫn trong thời gian ngắn. Hạn chế về tư tưởng của lực lượng lãnh đạo: chủ
trương Duy Tân dựa vào Pháp, một nước Thực dân đang cai trị để đưa đất nước phát triển
chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương, biện pháp thực hiện mang tính cải lương, ảo tưởng;
giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để làm chỗ dựa cho phong trào.

Kết quả các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản không thành công.
Nguyên nhân thất bại: hông thấy được sức mạnh của giai cấp công nhân và nông dân từ
đó không đề ra được chiến lược tập hợp lực lượng từ các giai cấp này.
Đối với Phan Bội Châu, phong trào này dựa vào Nhật mà đánh Pháp. Theo quan điểm
của Nguyễn Ái Quốc, làm như vậy chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Đối với Phan Chu Trinh, phong trào diễn ra bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.
Theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc thì như vậy chẳng khác nào xin địch nhủ lòng
thương.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống
Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc
lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong
kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư
sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo
động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để

Trang 25 / 69
thực hiện cải cách hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp… Nhưng cuối cùng các cuộc đấu
tranh đều thất bại.

Nguyên nhân thất bại cơ bản do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội
Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân
tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.

Với phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, phong trào còn mang nặng cốt
cách phong kiến. Tuy nhiên, phong trào yêu nước do nông dân là tích cực hơn cả, là lực
lượng hùng hậu, quyết liệt và mạnh mẽ, là yếu tố quyết định đến việc thắng lợi, nhưng cần
phải có một cách làm đúng. Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong
kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.

Với phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản, không thấy được sức mạnh của giai
cấp công nhân và nông dân từ đó không đề ra được chiến lược tập hợp lực lượng từ các giai
cấp này.

Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò
của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và
tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức lại thiếu
chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được 2 lực
lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất
bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản trong tiến trình cách
mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt
Nam đặt ra.

1.2.2. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc

Những yếu tố tác động đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước (trước năm 1911)
Chúng ta đều biết, việc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước
xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và khát vọng giải phóng dân tộc cháy bỏng,

Trang 26 / 69
cùng với hoài bão lớn lao của một lãnh tụ thiên tài. Đây chính là động cơ và mục đích của
chuyến đi lịch sử ấy. Tuy nhiên, để đi đến quyết định này, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đã chịu sự tác động và thúc giục của nhiều nhân tố:

1. Tinh thần yêu nước, thương dân, thân dân của gia đình, nhất là ảnh hưởng của người
cha đã tác động trực tiếp đến việc hình thành chí hướng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước, gần
gũi với nhân dân. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ đảm đang, hiền lành,
chịu thương chịu khó và giàu lòng nhân ái. Thân phụ là ông Nguyễn Sinh Sắc, một vị Phó
bảng, một nhà nho yêu nước, thương dân, có ý chí và nghị lực kiên cường. Sinh trưởng
trong một gia đình như vậy đã sớm thắp sáng trong tâm hồn Nguyễn Ái Quốc tình yêu quê
hương, đất nước thiết tha, tình cảm sâu sắc với người dân lao động đang chịu cảnh “nước
mất, nhà tan”, “một cổ hai tròng”. Tình cảm yêu nước, thương dân của Nguyễn Ái Quốc
được bồi đắp và không ngừng lớn lên do Người chịu ảnh hưởng từ tư tưởng và nhân cách
của người cha. Ông Nguyễn Sinh Sắc mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải chịu nhiều vất vả thiệt
thòi. Có tài, có chí, thông minh, hiếu học, mà không được học. Nhờ có bà con làng xóm
đùm bọc, nhờ sự giúp đỡ của gia đình cụ Hoàng Đường (ông ngoại của Bác), của người vợ
hiền tần tảo; nhờ có trí cao, nghị lực mạnh, kiên trì theo đuổi học hành thi cử, cuối cùng ông
đã đạt được chí hướng - đỗ Phó bảng vào năm 1901. Trong 05 năm dạy học ở quê nhà, ông
Nguyễn Sinh Sắc có điều kiện đi sâu tìm hiểu và trải nghiệm cuộc sống cùng nhân dân lao
động, giao du tiếp xúc với nhiều sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý,
Đặng Thái Thân… Những nơi ông đến đều là những nơi có phong trào đấu tranh chống
Pháp sôi nổi và anh dũng. Những người ông kết giao đều là những người có lòng yêu nước,
có chí cứu nước.

Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung là người được ông đặt nhiều hy vọng nhất và khi
đỗ Phó bảng ông đã đổi tên Nguyễn Sinh Cung thành Nguyễn Tất Thành với hy vọng sau
này con sẽ thành đạt. Đi đến đâu ông cũng thường cho Nguyễn Tất Thành đi cùng. Nhờ vậy,
mọi việc làm, lời nói, cử chỉ hàng ngày của cha và của những người bạn của cha đều tác
động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc tới Nguyễn Tất Thành. Đặc biệt, những cuộc đàm luận
với các sĩ phu yêu nước đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành,
góp phần giúp cho người thanh niên trẻ có thêm nhiều suy nghĩ về con đường sẽ lựa chọn.

Trang 27 / 69
Thời kỳ này, phong trào yêu nước phát triển mạnh trên phạm vi cả nước với nhiều
khuynh hướng khác nhau. Ông Nguyễn Sinh Sắc đi nhiều, thăm dò, đàm luận, đắn đo suy
nghĩ nhưng không nghiêng hẳn về một xu hướng nào. Vì thế, ông không hành động theo
một tổ chức nào, kể cả phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, người bạn chí thân của
ông. Cũng vì thế mà Nguyễn Tất Thành từ chối con đường Đông Du ngay từ khi cụ Phan
Bội Châu có ý muốn đưa mình sang Nhật du học. Nguyễn Tất Thành đã ở lại với cha trong
ngôi nhà ấm cúng và bắt đầu tham gia những hoạt động yêu nước.

Tư tưởng thương dân và thân dân của ông Nguyễn Sinh Sắc là yếu tố ảnh hưởng sâu
sắc nhất, quyết định nhất đối với sự hình thành chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất
Thành. Lòng thương dân, thân dân có gốc rễ sâu xa từ trong chính cuộc đời ông, từ nghèo
khổ mà đi lên, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhân dân. Ông hiểu rất rõ nỗi khổ của nhân dân,
với nỗi niềm thương dân vô hạn, trước khi vào Huế nhận chức “Thừa biện Bộ Lễ”, ông chỉ
để lại một ít ruộng cho con gái, còn một nửa ông bán lấy tiền, giúp cho những người dân
trong làng có người thân phải đi phu. Trong thời gian làm quan ngắn ngủi, ông vẫn luôn
đứng về phía nhân dân, trừng trị bọn cường hào, tổng lý hay ức hiếp dân để bênh vực cho
những người dân nghèo. Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của người cha đã để lại
những ấn tượng tốt đẹp và đậm nét trong Nguyễn Tất Thành từ lúc thiếu thời, sớm làm nảy
nở tình yêu nước, thương dân và chí hướng cách mạng ở Người. Rõ ràng, truyền thống gia
đình, đặc biệt là nhân cách và những tư tưởng tiến bộ của người cha chính là cội nguồn cho
chí hướng cách mạng và hoài bão ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc.

2. Truyền thống văn hiến và cách mạng của quê hương đã nuôi dưỡng và tiếp thêm
nguồn sức mạnh cho tinh thần yêu nước, thương dân và chí hướng cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trên quê hương Nghệ An giầu truyền thống
văn hiến và cách mạng. Cư dân ở đây, từ thế hệ này qua thế hệ khác đã tôi luyện được tính
cách khác thường, một nét văn hóa rất riêng đó là truyền thống hiếu học với nhiều dòng họ,
nhiều làng học nổi tiếng, đã sản sinh cho đất nước nhiều danh tướng, lương thần, nhiều nhà
khoa học, nhà văn hoá có tầm cỡ quốc gia và quốc tế, đã để lại nhiều chiến công hiển hách
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Quê ngoại của Nguyễn Ái Quốc là làng Hoàng Trù (làng
Chùa), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thời ấy, đất Hoàng Trù rất nghèo,
nắng lên là hạn, mưa to là lụt. Người dân vừa phải làm ruộng một nắng hai sương, vừa phải

Trang 28 / 69
làm nhiều nghề phụ khác mà cuộc sống vẫn gian nan, vất vả. Quê nội của Người là làng
Kim Liên (làng Sen) cách Hoàng Trù khoảng 02 km. “Tuy nghèo nhưng Kim Liên mang
truyền thống hiếu học của xứ Nghệ. Từ năm 1635 đến năm 1918, qua 96 khoa thi Hương và
thi Hội, làng Kim Liên đã có 53 người đỗ đạt” 1. Nho sĩ ở làng Kim Liên khá đông và làng
trở thành nơi thường xuyên lui tới của các nho sĩ quanh vùng. Không chỉ giầu truyền thống
hiếu học, cần cù trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống mà người dân nơi đây còn giàu
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm với nhiều tấm gương
được ghi vào sử sách như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu, Hoàng Xuân Hành, Nguyễn Sinh Quyết...

Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thấm đẫm truyền thống văn hiến và cách mạng
kiên cường, bất khuất; lại được tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bóc lột
cùng cực của đồng bào ngay trên mảnh đất quê hương, càng làm cho tinh thần yêu nước,
thương dân của Nguyễn Tất Thành ngày một lớn mạnh. Đây chính là những “chất liệu quan
trọng”, là nguồn sức mạnh “vô hình” tiếp tục nuôi dưỡng, hun đúc thêm chí hướng cách
mạng và thúc giục Người cần phải ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, đem lại độc lập, tự
do cho Tổ quốc, đem lại hạnh phúc cho đồng bào.

3. Những tư tưởng tiến bộ của các thầy giáo, các bậc sĩ phu yêu nước đã tiếp thêm sức
mạnh và thôi thúc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Truyền thống gia đình và quê
hương là “mảnh đất tốt” ươm mầm và làm nảy nở tinh thần yêu nước, thương dân và chí
hướng cách mạng ở Nguyễn Tất Thành. Song, tinh thần ấy lại tiếp tục được nuôi dưỡng và
ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn từ sự ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiến bộ của các thầy
giáo trong các nhà trường mà Người được học, của các bậc sĩ phu yêu nước mà Người được
gặp hoặc qua các “tân văn”, “tân thư” mà Người được đọc.

Khi còn nhỏ, Nguyễn Tất Thành được cha gửi sang học chữ Hán ở nhà thầy Hoàng
Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và Trần Thân ngay trong làng Kim Liên. Mặc dù sống trong
sự dò la, kiểm soát của bộ máy thống trị từ làng đến tỉnh, nhưng thầy Quý không hề ngần
ngại dạy cho học trò tư tưởng yêu nước, thương dân và “chí làm trai phải giúp ích cho đời”.
Nhà thầy còn là nơi thường xuyên lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng. Nguyễn Tất
1

Song Thành (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính Trị Quốc Gia, tr. 21.

Trang 29 / 69
Thành được thầy sai tiếp nước cho các vị khách đặc biệt, nhờ đó Nguyễn Tất Thành dần dần
hiểu thêm về thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan.

Năm 1902, khi theo cha vào dạy học ở Võ Liệt, huyện Thanh Chương, qua những cuộc
tiếp xúc của cha với các thân sĩ trong vùng đã giúp cho Nguyễn Tất Thành hiểu rõ hơn sự
trăn trở về con đường cứu nước, cứu dân của các bậc cha anh. Theo lời khuyên của ông
nghè Nguyễn Quý Song: “Muốn đánh kẻ thù phải học tiếng kẻ thù để hiểu được kẻ thù” 1,
Nguyễn Tất Thành được cha gửi vào học ở lớp dự bị trường Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất
Thành chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ gắn ở phía trên bảng đen “LIBERTÉ, ÉGALITÉ,
FRANTERNITÉ” nghĩa là “TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI”, đó là câu khẩu hiệu nổi tiếng
của cuộc Đại Cách mạng Pháp năm 1789. Những điều này hoàn toàn mới lạ, khác với
những điều mà Cậu đã được học trong sách Thánh hiền. Vì vậy, Nguyễn Tất Thành nảy ra ý
muốn “tìm xem những gì ẩn dấu sau những chữ ấy” 2. Tuy nhiên, chưa hết năm học, Nguyễn
Tất Thành đã phải nghỉ học để chuẩn bị theo cha vào Huế. Khi vào Huế, Nguyễn Tất Thành
được cha gửi vào học ở Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, rồi trường Quốc học Huế.
Đây là một quyết định rất riêng của ông Nguyễn Sinh Sắc. Bởi vì, tại thời điểm này, đa số
các nhà nho đều không muốn cho con cái mình vào học trường Pháp - Việt, vì vào đây phải
học chữ Pháp, bỏ mất chữ Nho, là “chữ Thánh hiền”. Đi học ở những ngôi trường này là
điều kiện tốt để Nguyễn Tất Thành trực tiếp tiếp xúc với nền giáo dục mới nói riêng và nền
văn minh phương Tây nói chung. Và quan trọng hơn, Nguyễn Tất Thành muốn tận mắt thấy
những kẻ luôn miệng nói “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” thực chất là như thế nào?

Các thầy giáo có cả người Pháp và người Việt không chỉ dạy về kiến thức văn hóa, mà
còn dành nhiều thời gian để nói chuyện với học sinh về những thành tựu dân chủ, văn minh
của phương Tây, kích thích lòng ham hiểu biết của học sinh. Nhờ những ảnh hưởng của các

Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1985), Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb Sự
thật, tr. 61.
2

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử,
Tập 1, Nxb Chính Trị Quốc Gia, tr. 41.

Trang 30 / 69
thầy giáo tân học và những trang sách báo tiến bộ mà ý muốn sang phương Tây để tìm hiểu
tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong
tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Thời gian đó, Nguyễn Tất Thành đã tìm đọc sách báo từ
nước Pháp chuyển vào Việt Nam. Chú ý theo dõi những lời nói và việc làm của người Pháp
ở trường và cả những người Pháp đang làm việc trong cái mà bọn chúng gọi là “Chính phủ
bảo hộ”. Càng học, Người càng hoài nghi về những “mỹ từ” đẹp đẽ do người Pháp nêu ra và
Người nhận thấy, “thiên đường trường học” này không phải để giáo dục cho thanh niên Việt
Nam một nền học vấn tốt đẹp, chân thật, mở mang trí tuệ, phát triển tư tưởng tự do như bọn
Pháp thường nói. Ngược lại, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục hoàn toàn khác lạ
với những điều kể trên. Điều này càng làm cho Người suy nghĩ và nung nấu chí hướng,
quyết tâm phải ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Nhiều người cùng học với Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh lúc còn niên thiếu đã có nhận xét: “Việc dạy dỗ của thầy là một yếu tố
quan trọng trong việc hình thành tư tưởng sang Tây chứ không phải sang Đông của Chủ tịch
Hồ Chí Minh”1. Bên cạnh đó, vốn là một người ham học, ham hiểu biết, Nguyễn Tất Thành
thường say mê đọc những cuốn tiểu thuyết lịch sử cổ đại của Trung Quốc như Tam Quốc
chí, Tây du ký,… Hay các tác phẩm văn học cổ điển của Việt Nam như Bình Ngô đại cáo,
Truyện Kiều và kể cả những câu chuyện về các nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc… Tất
cả những kiến thức đó giúp Người làm giầu hơn vốn tri thức của mình, góp phần nuôi
dưỡng và bồi đắp thêm lòng yêu nước, thương dân cũng như hun đúc hoài bão lớn lao của
Người - ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

4. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết
định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Hằng ngày, Nguyễn Tất Thành nhìn
thấy xung quanh toàn cảnh đói, nghèo, khổ ải. Bọn quan lại đặt ra đủ các thứ thuế và chúng
thu ngày càng tăng lên. Bọn hào lý thì tham nhũng vô bờ, ra sức bóc lột nhân dân không
thương tiếc. Đặc biệt, thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên và đàn áp các phong trào nổi

GS Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (chủ biên) (2009), Vàng trong lửa - Chủ tịch Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ
quốc, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 54.

Trang 31 / 69
dậy đấu tranh của nhân dân ta. Hiện thực này tác động mạnh mẽ tới tư tưởng và tình cảm
của Người.

Năm 1908, Người đã trực tiếp tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Thừa
Thiên Huế. Cuộc đấu tranh mặc dù mang tính chất ôn hòa nhưng vẫn bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp dã man. Chúng chém đầu hai người cầm đầu cuộc biểu tình ở huyện
Hương Thủy. Một số sĩ phu yêu nước đã bị chúng cầm tù và lưu đầy biệt xứ… Đại tướng
Võ Nguyên Giáp trong hồi ký của mình đã viết: “Vào thời kỳ này (tức 1908) phong trào đấu
tranh ở Huế rất sôi nổi… Đồng bào các nơi kéo về Huế biểu tình suốt mấy ngày liền, đòi
giảm thuế. Pháp đưa lính đồn Mang Cá xả súng bắn vào những người dân không tấc sắt.
Nhiều người bị đẩy xuống sông, máu đỏ loang trên cầu Trường Tiền” 1. Chính việc tích cực
tham gia phong trào đấu tranh chống thuế ở Trung Kỳ là minh chứng bước đầu khẳng định
những chuyển biến về chất ở Nguyễn Tất Thành, từ nhận thức yêu nước đến hành động yêu
nước.

Năm 1911, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, Người chứng kiến thêm nhiều
điều mới lạ, nhất là sự đối lập giữa hai cảnh sống của bọn thực dân và những người dân mất
nước. Cảnh ăn chơi xa hoa, phù phiếm dành riêng cho người Pháp, còn người dân Việt Nam
thì đa số vẫn rách rưới, lam lũ, khổ cực trong kiếp “ngựa trâu tôi tớ”, làm đủ các nghề nặng
nhọc, kéo xe, bốc vác… sống chui rúc trong các túp nhà lụp xụp, tối tăm. Những sự kiện mà
Nguyễn Tất Thành được tham gia và chứng kiến đã khiến Người ngày càng trăn trở suy
nghĩ, “làm thế nào để cứu nước, cứu dân”. Câu hỏi đó, ngày một lớn dần lên và không
ngừng thúc dục, nung nấu trong tâm trí của Người. Với lòng yêu nước, thương dân cháy
bỏng cùng với tuy duy sắc sảo, nhạy bén, Người đã tìm cho mình một hướng đi riêng, đó là
quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước, cứu dân.

Như vậy, từ truyền thống của gia đình, quê hương, dân tộc; từ những tri thức, tư tưởng
tiến bộ mà Nguyễn Tất Thành tiếp thu được ở các nhà trường, ở các thầy giáo và đặc biệt từ
những điều mà Người trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm đã làm nảy nở, bồi đắp, hun đúc,
nhân lên lòng yêu nước, thương dân và khát vọng giải phóng dân tộc. Người nói: “Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
1

Võ Nguyên Giáp (1997), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn hóa, tr. 325.

Trang 32 / 69
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” 2. Ham
muốn đó thật cao cả và vĩ đại, thể hiện lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, một hoài bão
lớn lao, một khát vọng cháy bỏng, một tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí
Minh. Đây chính là những nhân tố cơ bản tác động và thúc giục Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh quyết định ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc và
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.

Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)
Hành trang lớn nhất Người mang theo là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và đôi bàn
tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi kiếp đọa đày, nô
lệ. Tuy nhiên, với vốn tri thức phong phú và những kinh nghiệm quý báu có được trong quá
trình gần 10 năm bôn ba, hòa mình vào cuộc sống của các tầng lớp nhân dân lao động ở
khoảng 30 quốc gia trên thế giới; cộng với tư duy sắc sảo, nhãn quan chính trị nhạy bén,
Người đã bắt gặp và đến được với chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa Cộng sản và trở thành
người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt chính trị vĩ đại đánh dấu sự chuyển
biến căn bản trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường cứu nước, vạch ra hướng
đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam – Đó là: cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với
cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam vốn là sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch
sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất của đạo lý làm người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
đời sống văn hóa của nhân dân ta... Nó đã trở thành dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nội dung cơ bản của Chủ Nghĩa Yêu
Nước truyền thống là sự liên kết cộng đồng chặt chẽ giữa nhà, làng, nước để bảo vệ non
sông đất nước, bảo vệ độc lập thống nhất dân tộc, bảo vệ cuộc sống cộng đồng và sự trường
tồn của nền văn hóa dân tộc. Đối với người Việt Nam, “nước” phải gắn chặt với “dân” và
Chủ Nghĩa Yêu Nước mang nội dung nhân dân sâu sắc. Những bậc anh hùng, hào kiệt của
dân tộc ta trước đây đã nhận thức rất rõ chân lý đó. Trần Quốc Tuấn đã coi “nước nhà chung
sức”, “ý chí của dân chúng” như cội nguồn sức mạnh giữ nước; hay Nguyễn Trãi đã ví sức

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 627

Trang 33 / 69
mạnh của dân như sức mạnh của nước “nước có thể chở thuyền và lật thuyền”. Dĩ nhiên,
trong mỗi thời đại, Chủ Nghĩa Yêu Nước còn bị chi phối bởi hệ tư tưởng thống trị của thời
đại đó. Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên Chủ Nghĩa Yêu
Nước gắn với chủ nghĩa trung quân. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn do hệ tư tưởng
phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu, phản động… thì chủ nghĩa trung quân cũng trở nên bảo thủ
và đối lập với Chủ Nghĩa Yêu Nước chân chính. Những bế tắc và thất bại của phong trào
yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân.

Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà nho nhưng không bị ràng buộc bởi
tư tưởng trung quân như một số trí thức đương thời. Chủ Nghĩa Yêu Nước ở Người vừa kế
thừa tinh hoa của Chủ Nghĩa Yêu Nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới
phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại. Quyết tâm ra đi tìm đường
cứu nước của Người mang ý nghĩa đó.

Trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu nước. Chỗ
khác nhau cơ bản không phải ở hành động xuất dương, mà trước hết ở mục đích của nó.
Những chuyến đi của Tôn Thất Thuyết, của những nhân vật trong phong trào Đông Du chủ
yếu để tìm ngoại viện. Nguyễn Tất Thành xác định mục tiêu xuất dương hoàn toàn khác:
“Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Rõ ràng, trước lúc ra đi Người đã nhận thức một
cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi
giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp
cách mạng.

Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng (1911-1920), bàn
chân của Người đã từng in dấu trên 3 đại dương, 4 châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ) và khoảng ba
chục quốc gia, đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất
thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Đâu đâu Người cũng chịu đựng mọi gian khổ, hòa mình vào
cuộc sống của những người lao động, sẵn sàng làm mọi thứ nghề lao động chân tay như nấu
bếp, làm vườn, vẽ thuê... không chỉ để kiếm sống mà cao hơn nữa đó là để trải nghiệm, thấu
hiểu hơn về cuộc sống của những người dân lao động trên khắp thế giới. Từ đó, Chủ Nghĩa
Yêu Nước ở Người có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được
nâng lên thành đồng cảm với nhân dân lao động với các dân tộc cùng cảnh ngộ. Và cũng

Trang 34 / 69
qua đó sự nhận biết diện mạo của kẻ thù trở nên sâu sắc hơn, khái quát hơn không chỉ đối
với thực dân Pháp, mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Trên cơ sở đó
Người rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng
tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng giục giã Người quyết tâm tìm con đường giải
phóng mà Người đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc.
Thành phố Paris hoa lệ sống trong bầu không khí sôi động với những cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân Pháp và sự chuyển mình của những người cánh tả trong Đảng Xã hội
Pháp theo đường lối Quốc tế Cộng sản của V.I.Lênin. Người thanh niên - Nguyễn Tất
Thành nhiệt tình hăng hái ấy vừa bước đến Paris đã lao ngay vào hoạt động chính trị. Anh
cùng với Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh - những người mà Anh đã trao đổi thư từ khi
còn ở nước Anh lập ra Hội những người yêu nước Việt Nam, nhằm đưa phong trào yêu
nước của Việt kiều ở Pháp đi theo một hướng tích cực. Đầu năm 1919, Anh gia nhập Đảng
Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ lúc đó thường lên tiếng chống lại chính sách áp bức, bóc lột
của thực dân Pháp ở các thuộc địa theo hướng nhân đạo hóa các chính sách đó. Ngày
18/6/1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam ở
Pháp, Anh đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ
Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Cùng ngày, bản yêu sách đó xuất hiện trên tờ báo Nhân đạo - Cơ quan ngôn luận của Đảng
Xã hội Pháp, dưới nhan đề: Quyền của các dân tộc. Bản Yêu sách còn được Nguyễn Ái
Quốc dịch ra chữ Hán và chuyển thành một bài diễn ca tiếng quốc ngữ. Nó được in dưới
dạng truyền đơn gửi tới các tòa báo, phân phát trong các mít tinh, cuộc họp ở nhiều tỉnh
nước Pháp và bí mật gửi về Việt Nam qua con đường thủy thủ và khách về nước.

Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn không những trong dư
luận xã hội nước Pháp mà còn dội mạnh về nước, tạo nên bước chuyển mới trong phong
trào giải phóng dân tộc. Còn đối với bọn thực dân Pháp thì chúng đi từ kinh ngạc đến lồng
lộn hò hét cuối cùng ra lệnh điều tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách
theo dõi những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp

Trang 35 / 69
dụng những biện pháp ngăn chặn. Báo L’Humanité (Nhân đạo) số ra hai ngày 16 và
17/7/1920 đã đăng toàn văn Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của V.I.Lênin dưới tiêu đề chạy suốt trang đầu. Bản Luận cương đã ngay lập tức
thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua
lăng kính Chủ Nghĩa Yêu Nước chân chính Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn
giải phóng dân tộc và đất nước khỏi ách thực dân. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba.

Trên đường đi tìm chân lý cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin từ một phương diện hết sức thực tế: Chỉ Chủ nghĩa Cộng sản mới có thể chỉ ra con
đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Từ đó,
Lênin và Quốc tế 3 là nguồn động lực tinh thần cho Nguyễn Ái Quốc tiếp bước vững chắc
trên con đường đã được định hướng rõ ràng. Người say sưa tìm đọc những tác phẩm của
Lênin và Quốc tế Cộng sản về Cách mạng Tháng Mười được công bố ở Pháp. Nguyễn Ái
Quốc rất tâm đắc với 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản, đặc biệt là điều thứ 8.

Tiếp theo những sự kiện trong tháng 8, 9/1920, Đại hội lần thứ nhất các dân tộc
phương Đông nhằm phổ cập các nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản và tư tưởng
đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong
khẩu hiệu lần đầu tiên trong Đại hội: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại. Biên bản của Đại hội đã thu hút sự chú ý của tất cả những ai quan tâm đến phương
Đông, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, sau Luận cương, những sự kiện chính trị
trên đã góp phần củng cố thêm niềm tin vững chắc vào Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, vào
nước Nga Xô viết, củng cố thêm lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 12/1920, tại Đại hội Tua, bằng quyết định sáng suốt về mặt tổ chức là bỏ phiếu
ủng hộ QTCS, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển căn bản về nhận thức tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, theo lập trường vô sản, nó có ý
nghĩa to lớn: Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại diện của giai cấp công
nhân và dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở một
nước đế quốc lớn đang áp bức dân tộc mình. Điều đó có nghĩa là thông qua Nguyễn Ái
Quốc, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam đã bắt tay với giai cấp công nhân

Trang 36 / 69
Pháp hợp thành một mặt trận đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản Pháp. Sự kiện đó
còn mang một ý nghĩa tượng trưng cho xu thế cách mạng thế giới – tính đoàn kết chiến đấu
giữa giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức trên thế giới theo khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế
Cộng sản.

Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đến với Chủ nghĩa Cộng sản, trở thành người
cộng sản. Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản theo con đường riêng của mình. Từ
một người dân thuộc địa trong hoàn cảnh phong trào công nhân chưa phát triển, ảnh hưởng
của chủ nghĩa Mác – Lênin chưa rọi tới, nhưng xuất phát từ Chủ Nghĩa Yêu Nước chân
chính, Người đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại để tìm hiểu, khảo nghiệm cuộc sống
của các dân tộc trên thế giới và trực tiếp tham gia phong trào công nhân của chính quốc là
một nước công nghiệp phát triển, rồi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người cộng
sản. Tiêu chuẩn cao nhất cho sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên quyết đứng về
phía học thuyết và tổ chức cách mạng nào thực sự quan tâm đến cuộc sống và quyền lợi của
các dân tộc bị áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra con đường đúng đắn để giải phóng dân
tộc. Tiêu chuẩn hết sức thiết thực đó của một thanh niên yêu nước một nước thuộc địa lại
phù hợp với chân lý của thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới. Đây chính là điểm gặp gỡ có ý nghĩa then chốt giữa
con người Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam với Chủ nghĩa Cộng sản, với thời đại Lênin.

Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc - Từ Chủ Nghĩa Yêu Nước đến Chủ nghĩa Cộng
sản. Đây cũng là sự khởi đầu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng
của dân tộc Việt Nam. Thực hiện bước ngoặt đó, Người đã hoàn tất chặng đường đầu của
hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc đấu tranh đưa sự nghiệp
giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới bằng việc truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị dần dần, từng bước về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời một Đảng ở Việt Nam, nhân tố cơ bản, đầu tiên đảm bảo mọi thắng lợi
của cách mạng nước ta.

II. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam

Trang 37 / 69
2.1.1. Sự chuẩn bị về tư tưởng

Do cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên Nguyễn Ái Quốc đã đi
sâu nghiên cứu, tham gia viết nhiều bài đăng trên báo (Báo Người cùng khổ, Nhân Đạo, Đời
sống công nhân, Tập san thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng sản...) để tuyên truyền về vấn đề
thuộc địa và cách mạng thuộc. Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước
để tuyên truyền giáo dục Việt Kiều ở Pháp. Năm 1922, Người làm chủ nhiệm chủ bút cho
báo "Người cùng khổ" đề vạch trần chính sách đàn áp bọc lột dã man của chủ nghĩa đế
quốc, góp phần vào việc thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng. Song song
đó, Người viết nhiều bài đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp, báo Đời sống
công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp.

Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để tham dự Hội nghị Quốc tế
nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng 10 Nga và
chủ nghĩa Mác - Lênin. Người có nhiều bài cho các báo “Sự thật' (là cơ quan ngôn luận của
Đảng Cộng Sản Liên Xô) và tạp chí “Thư tín Quốc tế’ của Quốc tế Cộng sản. Qua các bài
báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa
thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động. Đây là thời
gian Người thu thập tư liệu cho tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và các
đại hội của Quốc tế công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,... và nhất là Đại hội lần
V, đã có bản báo cáo rất quan trọng về dân tộc và thuộc địa; làm sáng tỏ và phát triển một số
luận điểm quan trọng của Lênin về bản chất chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các Đảng
Cộng Sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh giải phóng dân
tộc các ở thuộc địa. “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc dù bị nhà cầm quyền
Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật truyền về
Việt Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khơi dậy tinh thần yêu
nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược; "Chủ nghĩa tư bản là một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.

Trang 38 / 69
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô
sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra".

Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có ý nghĩa rất quan
trọng. Vì giống như Lênin đã nói “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh,
vận động… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách
nhiệm cách mệnh tiên phong” . "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"

2.1.2. Sự chuẩn bị về chính trị

Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguy ễn Ái
Quốc được thể hiện thông qua việc hình thành các quan điểm sau đây, trong đó ảnh hưởng
lớn nhất là cuốn “Đường cách mệnh”:

1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao dộng trên thế giới.

2. Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan
hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải
phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng
chính quốc.

3. Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc
phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần
phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia
đông đảo các giai tầng khác tham gia.

4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai
trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin .

Trang 39 / 69
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một vài
người, "công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu
bạn cách mệnh của công nông". Cách mạng "là việc chung của cả dân chúng chứ không
phải là việc của một hai người". Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên truyền bá trong
nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau này, các quan điểm đợc phát triển thành những nội
dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng.

2.1.3. Sự chuẩn bị về tổ chức

Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách
mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội lên hiệp thuộc địa năm 1921 nhằm tập
hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Và cũng thông qua hội này để truyền bá chủ nghĩa Mac - Lê Nin đến các dân tộc thuộc địa.

Đến ngày 11/11/1924, Người tới Quảng Châu - nơi có rất đông người Việt Nam yêu
nước hoạt động. Tại đây, Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Án Độ,...
sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) đã nêu bật được tầm quan trọng của
vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới. Và bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ
chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên. Hội được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6/1925 với cơ quan tuyên truyền của
Hội là tờ báo Thanh niên. Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm
thúc đầy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam. Chống lại những đường lối dân tộc
chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản. Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính
theo con đường Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng
trung thành, làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản sau này. Truyền bá chủ nghĩa
Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào trong phong trào công nhân và phong
trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế,
chính trị quan trọng.

Trang 40 / 69
Từ năm 1925 - 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào
tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài giảng ở đây của Người đã
được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản
hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai
cấp công nhân, để truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc
đầy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.

Những ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và các lớp huấn luyện của
Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các phong trào công nhân, phong trào
yêu nước.Đưa lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin và tôn chỉ, mục đích đấu tranh của Hội vào các
phong trào này. Chứng tỏ: “Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của vô sản đã thắng
lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của tư sản”.

Trang 41 / 69
2.2. Phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
2.2.1. Các phong trào công nhân từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1918

Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với quá trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp những năm cuối thế kỷ XIX. Trước khi thực dân Pháp nổ
súng xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản là giai
cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân; duy trì nền kinh tế lạc hậu dựa vào sản xuất
tiểu nông là chính, cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Sau khi cuộc xâm
lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt tay tiến hành khai thác thuộc
địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy rượu bia, vải sợi, điện nước,
ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê...lần lượt ra đời và cùng với đó đội ngũ
những người công nhân Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ là những người nông dân bị
tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc phải vào làm việc trong
các doanh nghiệp tư bản Pháp. Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
tổng số công nhân của Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung ở một số
thành phố lớn như: Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh...

Đời sống của công nhân rất cực khổ; chế độ làm việc khắc nghiệt, thời gian thường
trên 10 tiếng một ngày; phương tiện lao động thô sơ, thiếu thốn; hay bị cúp phạt, sa thải; tai
nạn lao động trầm trọng khiến cho lòng câm phẩn trong giai cấp công nhân giành cho chính
quyền thống trị cụ thể là thực dân Pháp càng cao, họ đã đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi về
kinh tế với hình thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang.

Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất: có 61 cuộc đấu tranh của
công nhân với các hình thức bỏ việc, phá giao kèo,…Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công
nhân hãng Liên hiệp thương mại Đông Dương ở Hà Nội (5-1909), bãi công của công nhân
xưỡng Ba Son (1912)…

Năm 1916, nữ công nhân nhà máy sàng Kế Bào (Quảng Ninh) bỏ việc bảy ngày chống
cúp phạt lương, công nhân mỏ Hà Tu đánh trả lính khố xanh.

Năm 1917, nhiều cuộc đấu tranh diễn ra: 22 công nhân mỏ bôxít Cao Bằng bỏ trốn, 47
công nhân Thái Bình chống lại bọn cai thầu, nhiều công nhân than Phấn Mễ và Na Dương

Trang 42 / 69
tham gia khởi nghĩa Thái Nguyên. Công nhân mỏ than Hà Tu biểu tình đồi thả công nhân bị
bắt.

Năm 1918, 700 công nhân mỏ than Hà Tu đốt nhà tên cai thầu Bang Sâm hống hách,
hay ngược đãi công nhân.

Phong trào đấu tranh trong thời kì này mang tính chất lẽ tẻ tự phát,nhưng vẩn thể hiện
tinh thần đoàn kết ý thức kĩ luật của giai cấp công nhân chứng tỏ đây là một lực lượng xã
hội quan trọng.

2.2.2 Phong trào công nhân từ năm 1919-1925

Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất nặng nề trong chiến tranh, thực dân Pháp đẩy mạnh
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Việt Nam cả về quy mô và mức độ, nên
số lượng công nhân tăng lên nhanh chóng. Do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cũng
mạnh lên.

Đời sống của công nhân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp vô cùng cực
khổ: ngày làm việc thường kéo dài từ 9h đến 10h trong một ngày. “Có nơi như khu dệt Nam
Định, ngày công của công nhân trong năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ, công
nhân không được hưởng bất kỳ một chế độ bảo hiểm thân thể nào. Tiền lương rất thấp” 1.
Ngoài đồng lương rẻ mạt, chết đói, điều kiện làm việc cực khổ, công nhân còn bị đánh đập,
cúp phạt, ngược đãi như nô lệ! Ở nhiều đồn điền, hầm mỏ, bọn chủ tư bản còn lập nhà lao,
xà lim riêng để đàn áp các cuộc phản kháng của công nhân. Tình trạng bị áp bức, đói khổ,
cộng với lòng yêu nước và truyền thống dân tộc đã thúc đẩy giai cấp công nhân hăng hái
đứng lên đấu tranh chống cường quyền.

Vào thời kỳ đầu, do số lượng còn ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu
tranh của công nhân chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc…
Mục đích đấu tranh chủ yếu là đòi quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. Hình
thức đấu tranh chủ yếu là đập phá máy móc, đánh cai ký, chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn tập
thể… “Trong thời gian những năm 1919-1925, số lượng công nhân bỏ trốn, phá giao kèo
với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, công nhân đã biết sử dụng hình thức đấu tranh

Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.261

Trang 43 / 69
đặc thù của mình là bãi công, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết
án tù”1. Một sự kiện có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam,
đó là năm 1921“Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông” đã được thành lập và phát triển
các cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Một số công nhân, thủy thủ Việt Nam làm
việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng góp trong
việc đưa đón cán bộ, vận chuyển các sách báo cách mạng từ Pháp về trong nước.

Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là
cuộc bãi công của 600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nguyễn Ái Quốc đánh giá
đây là một “dấu hiệu của thời đại mới”, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở
thuộc địa”2.

Năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam
Định, Hà Nội, Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi
công có quy mô lớn và có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình
nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8/1925 để ngăn
không cho tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trò tổ chức của
đồng chí Tôn Đức Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920 đồng chí
Tôn Đức Thắng về nước, xin vào làm công nhân ở Sài Gòn. Tại đây, ông đã bí mật thành
lập tổ chức “Công hội” đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.

Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp,
phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ được sức
mạnh của một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp mình. Cuộc bãi công Ba Son kết thúc thắng lợi đánh dấu một bước tiến mới của phong
trào công nhân Việt Nam: không chỉ nhằm vào mục tiêu đấu tranh kinh tế mà cao hơn nữa
còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công

Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.262

Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ Thực dân pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.153

Trang 44 / 69
nhân Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, cuộc bãi công Ba Son là một mốc son rất quan
trọng trong phong trào công nhân - giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh
có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.

2.2.3. Phong trào công nhân từ 1926-1929

Từ năm 1925 trở đi, phong trào công nhân Việt Nam có nhiều tác động mới. Đó là
phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Quảng
Châu (1927) đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam. Ảnh hưởng của Cách mạng
tháng Mười Nga (1917) vang dội tới Việt Nam ngày một nhiều hơn. Đại hội lần thứ V của
Quốc tế Cộng sản (7/1924) đã ra những nghị quyết quan trọng về vấn đề cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những sự kiện trên trường quốc tế ấy đã giúp cho nhân
dân ta nhận thấy rõ hơn bản chất của giai cấp tư sản, yêu cầu cấp thiết sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa
như Việt Nam.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thông qua những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và nhiều người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách mạng đã được truyền bá
vào nước ta. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu biết tới Cách mạng tháng
Mười Nga, biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó dần dần tiếp thu ánh sáng của chủ
nghĩa cộng sản để từng bước thấm sâu hơn vào tinh thần giác ngộ lý tưởng và đã bắt đầu
biến thành hành động cách mạng.

Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến
mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của
chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
tổ chức cho việc thành lập chính đảng tiên phong ở Việt Nam.

Qua một thời gian học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới ở Liên
Xô, ngày 11/11/1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc lên đường trở về Quảng Châu (Trung
Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam cùng một số thanh niên
hăng hái mới từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện Phạm Hồng Thái
(6/1924), để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6/1925), có tổ chức Cộng sản

Trang 45 / 69
đoàn làm nòng cốt nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước, chuẩn bị tiền đề về
tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở
thành những cán bộ cách mạng. Từ năm 1925-1927, đã mở được 10 lớp, mỗi lớp từ một
tháng rưỡi đến ba tháng, với tổng số khoảng 200 học viên. Người còn lựa chọn một số học
viên ưu tú gửi sang Mátxcơva học tập lý luận ở Trường Đại học Phương Đông,Trường
Quân sự Hoàng Phố có cố vấn Liên Xô giảng dạy ở Quảng Châu (Trung Quốc), còn phần
lớn lên đường về nước hoạt động. Ngay sau khi Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ra đời,
tuần báo Thanh niên được xuất bản, làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Các bài giảng trong
các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được tập hợp lại, in thành sách với nhan đề Đường
cách mệnh (1927). Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra những phương hướng
cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đường
cách mệnh được viết ra chính là để trang bị cho cán bộ, công nhân và nhân dân ta hồi đó
hiểu biết “rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 với 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì
cả”1nhưng rõ ràng là rất cần thiết cho thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Suốt
trong hai năm 1926-1927, tác phẩm Đường cách mệnh, tuần báo Thanh niên đã được bí mật
chuyển từ Trung Quốc về trong nước, vào đúng lúc phong trào yêu nước và dân chủ đang
sôi nổi từ Bắc chí Nam, trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nhanh chóng, nên
càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng, mở đường cho sự du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin
và thúc đẩy quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam 2.

Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, các tư
tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi
trong công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát
triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh chóng về chất. Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp
nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-1927, đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu
biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn

Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.181
2

Bộ Giáo dục Đào tạo, Lịch sử 12, tập 2, Nxb Giáo dục, Việt Nam , tr.16

Trang 46 / 69
điền cao su Cam Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,… Các cuộc đấu tranh này đều nhằm
hai mục tiêu chung là đòi tăng lương từ 20% đến 40% và đòi thực hiện ngày làm 8h như
công nhân bên Pháp.

Điều đó chứng tỏ, công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách
lợi ích cục bộ, địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra
các yêu sách phù hợp với nguyện vọng chung của đông đảo công nhân. Một điều kiện thuận
lợi quan trọng lúc bấy giờ là một số cán bộ được Nguyễn Ái Quốc đào tạo tại Quảng Châu
được đưa về nước, trực tiếp tham gia lãnh đạo đấu tranh. Họ tham gia vào phong trào “vô
sản hóa”, cụ thể là đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp, thành thị, nông thôn…
Một mặt, để tự rèn luyện, mặt khác để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho công nhân, nông
dân và những người yêu nước khác ở Việt Nam. Phong trào “vô sản hóa” phát triển mạnh
nhất vào những năm 1928-1929, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng. Trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới
40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927 1. Lớn nhất là các cuộc bãi công ở nhà
máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi
(Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh)… Các cuộc đấu tranh đó đã mang tính
chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều
địa phương. Tình hình đó chứng tỏ, trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân đã được nâng
lên rõ rệt.

Đặc biệt, trong cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội)
tháng 5/1929 đã có sự lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Chi bộ
cộng sản đầu tiên, mà người đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ
đạo công nhân đấu tranh, một Ủy ban bãi công đã được thành lập, phát truyền đơn kêu gọi
công nhân và nhân dân lao động Hà Nội hưởng ứng và ủng hộ cuộc bãi công của công nhân
Avia. Cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà
máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.

Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc, Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr.335

Trang 47 / 69
Tháng 7/1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, đã đề ra chương trình, điều
lệ và quyết định xuất bản tờ báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện
bước trưởng thành của phong trào công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân
đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất.

Nhìn chung, trong thời kỳ 1926-1929, phong trào công nhân đã có những bước tiến bộ
mới, thay đổi về chất từ có chủ nghĩa, đấu tranh mục tiêu rõ ràng, có tổ chức thống nhất.
Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức
nổ ra liên tục, rầm rộ, rộng khắp, sôi nổi và quyết liệt hơn với số lượng người tham gia
đông, có sự phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị đấu tranh, có sự lãnh đạo chặt chẽ của
tổ chức công hội hay thanh niên với quy mô ngày càng lớn. Khẩu hiệu đấu tranh không chỉ
giới hạn ở mục đích kinh tế mà đã mang tính chất chính trị. Điều đó cho thấy, quá trình đấu
tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh
tự giác.

2.2.4 Sự ra đời các tổ chức cộng sản

Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân
dân yêu nước khác cũng phát triển, tạo thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ rộng
khắp cả nước. Trong đó, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi
đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng.

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” không còn
đủ sức lãnh đạo. Yêu cầu phải thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp
lực lượng toàn dân tộc, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
đang trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ,từ đó dẫn tới sự tan rã của
các tổ chức Thanh niên và Tân Việt. Đó là lý do để dẫn đến sự ra đời của chi bộ cộng sản
đầu tiên ở Bắc Kỳ (3/1929). Họ hoạt động tích cực để thành lập 1 Đảng cô ̣ng sản thay thế.
Vì thế, Đông Dương cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 6/1929, An Nam cô ̣ng sản
Đảng (7/1929) và Tân Việt cũng tự cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/1929).

Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng( 6/1929)

Trang 48 / 69
Cuối tháng 3/1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Viê ̣t Nam cách mạng thanh niên
ở Bắc Kỳ, trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh đã họp ở số 5D phố Hàm Long
(Hà Nội) để lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Viê ̣t Nam gồm 7 người, tích cực chuẩn bị tiến
tới thành lập một ĐCS thay thế cho Hội Viê ̣t Nam cách mạng thanh niên.

Tại đại hội toàn quốc lần thứ 1 của Hội Viê ̣t Nam cách mạng thanh niên (5/1929) khi
kiến nghị của mình đưa ra về việc thành lập Đảng cô ̣ng sản không được chấp nhận, đoàn đại
biểu Bắc Kỳ đã rút khỏi hội nghị về nước, rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng
lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cô ̣ng sản.

Ngày 17/6/1929 đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội, quyết
định thành lập Đông Dương cộng sản Đảng thông qua tuyên ngôn, điều lệ cyar Đảng, ra báo
Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. Đông Dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng yêu cầu bức
thiết của quần chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của Đảng phát triển
mạnh, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Sự ra đời của An Nam cộng sản Đảng (7/1929)

Sự thành lập của Đông Dương cộng sản Đảng đã tạo đà trực tiếp với sự ra đời các tổ
chức cộng sản tiếp theo. Tháng 7/1929 tổng bộ thanh niên cùng kì bộ Nam Kỳ của Hội Viê ̣t
Nam cách mạng thanh niên quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng. An Nam cộng sản
Đảng ra tờ “báo đỏ” ở Hương Cảng – Trung QUốc để tuyên truyền về trong nước. Tháng
11/1929 An Nam cộng sản Đảng đã họp đại hội thông qua đường lối chính trị, bầu Ban
Chấp hành Trung ương của Đảng.

Sự thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn

Sự phân hóa trong Hội Viê ̣t Nam cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra đời của hai tổ
chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng ( 6/1929) và An Nam cộng sản Đảng ( 7/1929).
Cũng từ đó xu hướng xã hô ̣i chủ nghĩa ngày càng lôi cuốn những đảng viên tiên tiến trong
Tân Việt cách mạng Đảng. Các đảng viên tiên tiến ấy từ lâu chịu ảnh hưởng của Hội
VNCMTN nay cũng tách ra để thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/1929). Đây
cũng là một bước phát triển mới của tổ chức này từ một đảng Tiểu tư sản chịu ảnh hưởng
của Hội Viê ̣t Nam cách mạng thanh niên có xu hướng vô sản nay đã phân hóa chuyển thành
Đảng cô ̣ng sản.

Trang 49 / 69
Như vậy, chỉ trong vòng không đấy bốn tháng (từ tháng 6 đến 9/1929) đã có 3 tổ chức
cộng sản lần lượt ra đời ở nước ta. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước
nhảy vọt của cách mạng Việt Nam: nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế
trong phong trào dân tộc và những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín
muồi trong phạm vi cả nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ “rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng”1 . Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam thực sự trở thành một lực
lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp
công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc vượt qua mọi thác ghềnh hiểm
trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi.

III. Chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị thành lập Đảng và soạn thảo Cương lĩnh
chính trị đầu tiên
3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng
yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần
dân tộc. Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia thành
nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách
mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An
Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị
bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày 03-02-1930, Hội nghị
đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam
Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua

Hồ Chí Minh (2002), Hồ chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb Chình trị quốc gia , Hà Nội, tr.8

Trang 50 / 69
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng1.

Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và
mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Từ việc phân
tích khách quan tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ
XX (phần I), Cương lĩnh chính trị đã vạch ra phương hướng chiến lược của Cách mạng Việt
Nam: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng không ngừng đã được thể hiện trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương thời đã
đi vào bế tắc và thất bại. Đường lối cơ bản của Cách mạng Việt Nam được phản ánh trong
Cương lĩnh đã thể hiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc
xác định đúng đắn phương hướng, con đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết
đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cụ thể

Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để
tiến lên xã hội cộng sản. Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : giai đoạn thứ
nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng
lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản2.

Trước nhất, tính đúng đắn và khoa học của Cương lĩnh thể hiện ở việc xác định đúng
mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, đó là “làm cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng để tiến lên chủ nghĩa cộng sản chính”. Sự lựa chọn xuất phát từ việc xác

Ngô Đức Hải (2021), Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, https://www.tuyengiaokontum.org.vn/Lich-
su/cuong-linh-chinh-tri-dau-tien-cua-dang-3051.html. Ngày truy cập: 3/5/21.

TTXVN (2020), Các Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-
ngay-truyen-thong-nganh-tuyen-giao/thong-tin-tu-lieu/cac-cuong-linh-cua-dang-cong-san-viet-nam-551004.html. Ngày
truy cập: 3/5/21.

Trang 51 / 69
định đúng đắn các mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam và nhận thức đúng xu thế phát
triển của thời đại.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến
và phân tích những chính sách kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc quyền khai
thác thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên những hậu quả tai hại, cản trở sự phát triển độc lập
của kinh tế Việt Nam. Nông dân bị tước đoạt ruộng đất, nhiều người bị lâm vào nạn thất
nghiệp. Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa một bên là dân tộc ta với
một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Bên cạnh đó, còn nổi lên mâu thuẫn giữa
nhân dân Việt Nam - mà đa số là nông dân - với bọn địa chủ phong kiến chung quanh vấn
đề ruộng đất, người dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng
của giai cấp địa chủ và bị bóc lột với tô thuế nặng nề.

Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc
và chống phong kiến.. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến
hành khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai
(phản đế) phải đặt lên hàng đầu.

Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp bách của dân
tộc lúc này chính là đánh đổ đế quốc để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và đánh đổ
phong kiến để giành dân chủ, giành ruộng đất cho người cày. Chỉ có giải quyết 02 mâu
thuẫn này thì xã hội Việt Nam mới thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi lên. Muốn giải
quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

Như vậy, cương lĩnh cũng đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam
không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực
hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH, CNCS – mà thắng
lợi của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ lên CNXH
trên toàn thế giới. Về thực chất, đó là con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực hiện
khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho các
tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ TBCN đi tới XH cộng sản mà CNXH là giai đoạn đầu của
nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau,
cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho cuộc cách mạng sau giành thắng lợi. Vì
Trang 52 / 69
vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH không có
bức tường ngăn cách. Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính
trị của cách mạng Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế
giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ
biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng XHCN. Con đường cách mạng
Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới của
Cách mạng Việt Nam và cũng là một chân lý cách mạng mà Đảng CSVN và nhân dân Việt
Nam phấn đấu thực hiện : giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; tự
do hạnh phúc của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và CNXH.

Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong
kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”, Cương lĩnh
chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và khắng khít
với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết". Điều này xuất phát từ hoàn cảnh xã hội
nước ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng mâu thuẫn chủ yếu
nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược
Pháp cùng bọn tay sai của chúng giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Việc xác
định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực
lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng
giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết
hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội.

Ba là, xác định lực lượng cách mạng, Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình để
lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách
mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai
là những người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.

Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên
lực lượng cách mạng là liên minh công - nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập họp cả những người yêu nước ở tầng
lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ,

Trang 53 / 69
tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những nhóm đối tượng khác
nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những người có lòng yêu nước,
trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị
đối với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp,
mỗi tầng lớp trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng
góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước1.

Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai
cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp vô sản thế giới
(như sống tập trung, đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, có sứ mệnh lịch sử…)
đồng thời họ lại có những đặc điểm riêng của dân tộc như vừa bị áp bức giai cấp, vừa bị áp
bức dân tộc cho nên họ có tinh thần triệt để cách mạng và quyền lợi giai cấp, gắn bó chặt
chẽ với quyền lợi của dân tộc, vì vậy họ phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam với điều kiện là phải giác ngộ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tự tổ chức ra chính Đảng
của mình. Tuy nhiên, muốn giữ vững và củng cố được vai trò lãnh đạo của mình, giai cấp
công nhân còn phải lôi cuốn được giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đi theo mình, trên
cơ sở ấy mới tạo ra được hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo của mình đến các
tầng lớp nhân dân lao động khác trong toàn xã hội. Với một nước có 90% dân số là nông
dân thì thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho
những thắng lợi của cách mạng. Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vốn xuất thân
từ nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một phương
thức sản xuất nào, không phải là một lực lượng chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng
lớp xã hội khác, do đó họ không có hệ tư tưởng riêng. Song đội ngũ trí thức dưới bất cứ chế
độ nào cũng có vai trò và vị trí rất quan trọng. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong
thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và
phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế
quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có tinh thần yêu nước,

GS. TS Nguyễn Phú Trọng (2010), Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của
chúng ta, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/cuong-linh-chinh-tri-ngon-co-tu-tuong-ly-luan-chi-dao-su-nghiep-
cach-mang-cua-chung-ta-417185. Ngày truy cập: 28/4/21.

Trang 54 / 69
chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả năng lãnh đạo cách mạng và chỉ có
thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. Thực tế lịch sử cũng đã chứng
minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ nhận vai trò của các lực lượng xã hội to
lớn này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng, củng cố khối liên minh công - nông và
trí thức trong các giai đoạn và các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp công nhân vào
một hoàn cảnh phải chiến đấu đơn độc và đó là một sai lầm chính trị nghiêm trọng.

Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên
Bái 2/1930, đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời với vai trò lãnh đạo cách mạng đã xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản
trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch
sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết
hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển
của xã hội Việt Nam. Sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam nằm ở chổ Đảng kết nạp đảng
viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những người ưu tú, tiên tiến
trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa
cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục
tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".

Năm là, về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng
bạo lực cách mạng1.

Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng
của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra Chính
phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh nghiệm được
rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới đã khẳng định rằng bản
chất của CNĐQ và giai cấp vô sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc

TS. Huỳnh Công Bá, Tìm hiểu sự hình thành bước đầu quan điểm phản đế phản phong ở Hồ Chí Minh,
https://bitly.com.vn/5vcnwx . Truy cập ngày 29/4/2021. Ngày truy cập: 3/5/21.

Trang 55 / 69
chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách
mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng của cách mạng tháng 8-1945, Chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 cho thấy sự chọn lựa
phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng là hoàn toàn đúng đắn để đánh đổ bọn đế quốc và
tay sai, giành độc lập dân tộc.

Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa
trên thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới.

Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế
giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong
khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" . Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những
tư tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư
bản mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang
tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Tư
tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó
luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tăng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn
có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam1.

Ngoài ra, do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự
chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, việc đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam (chứ
không phải là Đảng Cộng sản Đông Dương theo hướng chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản) là
hoàn toàn đúng đắn xuất phát từ sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm, tâm lý dân tộc

PGS. TS Lê Văn Yên, Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202001/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-la-nhan-to-quyet-dinh-moi-thang-loi-
trong-tien-trinh-cach-mang-viet-nam-307494/ . Truy cập ngày 29/4/2021

Trang 56 / 69
của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào) và theo quan điểm Lênin: các dân tộc
bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và có quyền tự quyết.

Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo:
vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính
xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Với tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và sáng tạo, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
trở thành ngọn cờ đoàn kết, tâ ̣p hợp, quy tụ mọi tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng CSVN trong sự nghiê ̣p đấu tranh giải phóng dân tô ̣c để đi tơid CNXH. Thực tiễn đã
chứng minh, mọi thắng lợi của CMVN trong hơn 75 năm qua đều gắn liền với tính đúng đắn
của CLCT đầu tiên của Đảng, với những luâ ̣n điểm sáng tạo, cách mạng, khoa học của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao đô ̣ng và của
dân tô ̣c Việt Nam1.

Đối với công cuộc đổi mới hiện nay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa
rất quan trọng: một là đổi mới phải kiên định mục tiêu XHCN, hai là đổi mới phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng; ba là đổi mới phải động viên được đông đảo quần chúng tham
gia; bốn là đổi mới phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương, đa dạng quan hệ
ngoại giao.

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ
chiếm 1,2% dân số, đã có Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn ngay từ đầu. Điều đó
chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác -
Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp
yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của
từng giai cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm
được quyền lãnh đạo cách mang. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng những chủ
trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã chứng tỏ sự đúng đắn,
khoa học và như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát

PGS. TS Đặng Dũng Chí, 90 năm đấu tranh vì độc lập, tự do dân tộc, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/90-nam-
dau-tranh-vi-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc-448035/ . Truy cập ngày 29/4/2021

Trang 57 / 69
huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới
xây dựng CNXH ngày nay.

3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới
cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con
đường cách mạng Việt Nam, đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành
ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, lực lượng cách mạng và toàn
thể dân tộc.

Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Ðảng đã nêu những vấn đề cơ bản về đường lối
của cách mạng Việt Nam, là lời tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng
Việt Nam của Ðảng ta khi mới ra đời. Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Ðảng
là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Cương lĩnh đã xác định rõ sự lựa chọn con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam.
Ðây là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không
ngừng. Luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất của kinh
tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa, tính chất độc quyền khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực cản trở sự phát triển độc lập về
kinh tế của Việt Nam. Chánh cương xác định rõ phương hướng phát triển của cách mạng
Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Về phương
pháp cách mạng, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực
lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Vì vậy, Người đã khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp

Trang 58 / 69
với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết
được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của
các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta -
Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi
đường của Cương lĩnh Đảng đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác nghềnh.
Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ
dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và dân tộc đã lựa chọn.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của
lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là
kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước, sự
chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của
những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi
vẻ vang, đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định
đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân
Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa
thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường
cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay
từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách

Trang 59 / 69
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"1.

Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu
tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời
(2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là
nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm
30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai
cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"2.

Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong
thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ,
khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu
tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có
quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt
minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại
độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng
(7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và
nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu,
dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"3.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 2.
2

Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 9.

Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, tr 203.

Trang 60 / 69
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng, trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy
xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp
xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo -
"Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc
để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi
tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị
Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác
nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải
phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai
cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững
chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi
thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội" 1. Trong khi đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư
tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

3.2.2. Giá trị và đối với sự phát triển của đất nước hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập cho đến nay,
Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của
giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành
tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh,

Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 248-249.

Trang 61 / 69
trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hộ

Cách mạng Việt Nam hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới. Những mục tiêu cơ bản
của cách mạng do Đảng xác định từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay đang được thực
hiện. Đất nước đã được độc lập, nhân dân được tự do. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao
động vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất nước vẫn chưa phát triển mạnh. Đảng ta chỉ rõ:
“Nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,... sự tồn tại và những diễn Sự kiện thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác
định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng
vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam, giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối
cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm
bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư
tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau
này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách
mạng Việt Nam trong suốt hàng chục năm qua.

Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát
thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc
sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta.
Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy
nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ
sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Trang 62 / 69
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở thành một
trong những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, chúng
ta có thể khẳng định một cách có cơ sở rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong
đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước,
mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh"

PHẦN KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định
đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng
bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng luôn nhạy bén, bám sát
tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa
đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt
Nam.

Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lý tưởng cộng sản, với
chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp, của dân
tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của
giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Ngày nay, thế giới có thể có
những biến đổi phức tạp, đất nước có thể có nhiều chuyển biến mới, nhưng Đảng Cộng sản
Việt Nam quyết không từ bỏ sứ mệnh lịch sử, không đổi thay mục đích phấn đấu của mình,
vẫn kiên định lập trường giai cấp công nhân, lấy cái bất biến ứng phó cái vạn biến đặng

Trang 63 / 69
mưu cầu lợi ích nhiều hơn cho dân, cho nước. Đó là: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của
Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu của Đảng, đấu
tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là sứ mệnh
của Đảng. Sự ra đời của Đảng đã đóng góp một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của đất nước.

Trang 64 / 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1985), Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẩu chuyện về
thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb Sự thật, tr. 61.

2. Bộ Giáo dục Đào tạo, Lịch sử 12, tập 2, Nxb Giáo dục, Việt Nam

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr 2.

5. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội

6. GS Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (chủ biên) (2009), Vàng trong lửa - Chủ tịch
Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 54

7. GS. TS Nguyễn Phú Trọng (2010), Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận
chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/cuong-
linh-chinh-tri-ngon-co-tu-tuong-ly-luan-chi-dao-su-nghiep-cach-mang-cua-chung-ta-
417185. Ngày truy cập 28/4/2021

8. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

9. Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr 627.

10. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Viện Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính Trị Quốc Gia, tập 1, tr. 41.

Trang 65 / 69
11.1 Lê Duẩn (2008), Tuyển tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.551.

12. Lê Duẩn (1967), Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội,
tr.54.

13. Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ Thực dân pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội

14. Ngô Đức Hải (2021), Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
https://www.tuyengiaokontum.org.vn/Lich-su/cuong-linh-chinh-tri-dau-tien-cua-dang-
3051.html . Ngày truy cập 28/4/2021

15. Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc, Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước
khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. PGS. TS Lê Văn Yên, Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi trong tiến trình cách mạng Việt Nam, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-
doi/202001/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-la-nhan-to-quyet-dinh-moi-thang-loi-trong-tien-
trinh-cach-mang-viet-nam-307494/ . Ngày truy cập 22/4/2021

17. PGS. TS Đặng Dũng Chí, 90 năm đấu tranh vì độc lập, tự do dân tộc,
https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/90-nam-dau-tranh-vi-doc-lap-tu-do-cua-dan-toc-
448035/ . Ngày truy cập 22/4/2021

18. TTXVN (2020), Các Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam,
https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tuyen-
giao/thong-tin-tu-lieu/cac-cuong-linh-cua-dang-cong-san-viet-nam-551004.html. Ngày truy
cập 24/4/2021

19. TS. Huỳnh Công Bá, Tìm hiểu sự hình thành bước đầu quan điểm phản đế phản
phong ở Hồ Chí Minh, https://bthcm.thuathienhue.gov.vn/Thu-vien-so/Bai-viet-nghien-
cuu/tid/Tim-hieu-su-hinh-thanh-buoc-dau-quan-diem-phan-de-phan-phong-o-Ho-Chu-
tich/newsid/D335B7DE-D99E-40FC-AC08-DB55BC6D8907/cid/f87a0f44-76ac-4908-
97f5-eae67183d68d. Ngày truy cập 3/5/2021

20. Tạp chí Tư tưởng Văn hóa, Bài học lịch sử: Trong quá trình đổi mới phải kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-

Trang 66 / 69
dang/bai-hoc-lich-su-trong-qua-trinh-doi-moi-phai-kien-dinh-muc-tieu-doc-lap-dan-toc-va-
cnxh-tren-nen-tang-chu-nghia-913. Ngày truy cập 3/5/2021

21. Võ Nguyên Giáp (1997), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn hóa, tr. 325.

Trang 67 / 69

You might also like