You are on page 1of 29

Rồng – từ biển Đen tới đất Việt

Đỗ Ngọc Giao

1 Giới thiệu

Chuyện dân gian của những nhóm nói tiếng Indo-European (viết tắt ‘IE’) có một con vật dữ
dằn kêu bằng dragon theo tiếng Anh/Pháp mà ở đây tạm dịch là rồng: nó hay phá hại loài người
nên sớm muộn cũng bị người diệt trừ.

Trước khi có những thứ tiếng IE lối 4100 năm trước công nguyên, 1 thì nhóm nói tiếng
2
Proto-IE ở ‘Pontic-Caspian steppe’ kế biển Đen và biển Caspian đã kể chuyện xẻ một con
‘rắn’ để lấy lại những gì thiết yếu của xã hội loài người mà bị nó nuốt, thí dụ nước hoặc bò. 3
Đó có lẽ là cái gốc gần nhứt của chuyện ‘người diệt rồng’ (the dragon slayer) trong văn hóa
dân gian IE.

Hình 1. Chuyện ‘người diệt rồng’ ở cựu thế giới (chấm đen = đã ghi nhận, chấm trắng = chưa
ghi nhận), với mật độ cao nhứt ở vùng màu tím, quanh biển Đen (Bortolini et al 4).

Hình 1 cho thấy chuyện ‘người diệt rồng’ dường như từ cái gốc ở vùng biển Đen lan khắp
châu Âu, tới bắc châu Phi, Tây Á, Đông nam Á và Đông Á.

Ở bài này, ta sẽ đi tìm ‘người diệt rồng’ trong chuyện dân gian người Việt.

Bài này có lược dịch và lược thuật một số câu chuyện để làm thí dụ, mà không kể lại nguyên
văn, vì những lý do dễ hiểu.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 2

2 Giải thích thuật ngữ

2.1 Chuyện dân gian (folktale)

‘Chuyện dân gian’ ở đây là tên gọi chung những loại chuyện kể lại bằng lời hoặc chép lại bằng
chữ, thí dụ: ‘chuyện đời xưa’ (fairy tale), ‘truyền thuyết địa phương’ (local legend/tradition),
‘huyền thoại’ (myth).5

Chuyện dân gian mọi nơi xài chung một số ‘thành phần’ (element) như sau:

‘Motif’: thành phần nhỏ nhứt trong câu chuyện: có thể là một vai (actor), một bối cảnh
(background) hoặc một biến cố (incident).
‘Type’: một câu chuyện riêng rẽ, không chuyện nào giống chuyện nào.
‘Function’: nhiệm vụ của những ‘nhơn vật’ (dramatis personae) trong câu chuyện.

Thompson6 phân loại 23 nhóm motif trong văn hóa dân gian:

nhóm thí dụ
A mythological motifs A420 ‘thần nước’
B animal motifs B11 ‘con rồng’
C motifs of tabu C41 ‘không được xúc phạm thần nước’
D magic D110 ‘người biến ra thú’
E the dead E251 ‘ma cà rồng’ (vampire)
F marvels F420 ‘tinh nước’ (water-spirit)
G ogres G303 ‘quỷ’ (devil)
H tests H310 ‘thử tài chàng rể tương lai’
J the wise and the foolish J1085 ‘tiền không đem lại hạnh phúc’
K deceptions K150 ‘làm thuê những việc tầm phào’
L reversals of fortune L161.1 ‘trai nghèo lấy gái giàu’
M ordaining the future M146 ‘thề lấy một cô nào làm vợ’
N chance and fate N733.1 ‘anh em không biết nên đánh nhau’
P society P475 ‘kẻ cướp’
Q rewards and punishments Q241 ‘bị phạt vì tội ngoại tình’
R captives and fugitives R211 ‘thoát khỏi ngục’
S cruelty S110 ‘giết người’ (murder)
T sex T251 ‘bà vợ cục cằn’
U the nature of life U121 ‘cha nào con nấy’
V religion V1.8.6 ‘thờ rắn’
W traits of character W10 ‘lòng tốt’
X humor X110 ‘chuyện người điếc’
Z miscellaneous groups of motifs những nhóm motif khác
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 3

Hệ thống ATU (viết tắt tên của Aarne, Thompson và Uther) phân loại 2399 type như sau. 5

chỉ số nội dung thí dụ


1–299 animal tales ATU 59 Con cáo và chùm nho
300–749 tales of magic ATU 300 Người diệt rồng
750–849 religious tales ATU 750A Ba điều ước
850–999 realistic tales (novelle) ATU 954 Bốn chục tên cướp
1000–1199 tales of the stupid ogre ATU 1049 Cái rìu nặng
1200–1999 anecdotes and jokes ATU 1326 Dời chỗ nhà thờ
2000–2399 formula tales ATU 2015 Con dê không chịu về nhà

Ashliman,7 dựa theo hệ thống AT (viết tắt tên của Aarne và Thompson), phân loại 2335
type:

1–298C animal tales


300–745A tales of magic
750A–849 religious tales
850–992A romantic tales
1000–1965 anecdotes
2010–2335 formula tales

Berezkin8 gán cho ‘motif’ hai nghĩa:

 ‘image’ (ảnh tượng), na ná như motif trong hệ thống Thompson,


 ‘episode’ (chuỗi biến cố), na ná như type trong hệ thống ATU,

và chia ra hai nhóm motif,9

a–i cosmology and etiology trời đất và cái gốc của muôn loài
j–m adventures and tricks hành động và mánh khóe

Propp thì phân loại 31 function của những nhơn vật trong chuyện dân gian, 10 và cho rằng
có thể coi hết thảy những câu chuyện đời xưa ở vùng Âu-Á (Eurasia) đều là ‘variant’ (biến thể)
của chuyện ‘người diệt rồng’.11

Mỗi type có một nhóm motif đặc trưng; nên những câu chuyện kể theo cùng type hoặc
episode thì ắt đều là từ một gốc mà ra.

Lưu ý rằng hệ thống phân loại của Thompson và Berezkin mới khai thác 9% và 6% nguồn
chuyện châu Phi mà thôi, lần lượt.12 Nghĩa là, hai hệ thống đó chưa có nhiều motif của châu
Phi, và cả những nơi khác như Việt Nam chẳng hạn. (Nếu học giả người Việt có thể đưa thêm
những motif của xứ mình vô hai hệ thống đó, thì thực là có ích.)
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 4

Dưới đây, những ký hiệu như ‘A1’ là ‘chỉ số’ (index) của những motif trong hệ thống
Thompson và những ký hiệu như ‘a1’ là chỉ số của những motif trong hệ thống Berezkin.

2.2 Quái (monster)

‘Monster’ tiếng Anh gốc ở monstrum tiếng Latin nghĩa là ‘những gì lạ, kỳ, trái với lẽ tự nhiên,
coi như điềm chẳng lành, có thể là một người nào, một con gì, một cái gì, mà lạ, kỳ, dị hợm’.13
Song le, ta cần giải thích để cho mọi người trong một cái cộng đồng nào đó cùng hiểu như nhau
rằng ‘lạ’, ‘kỳ’ như thế nào thì mới gọi là quái.

Muốn vậy, theo Swanepoel,14 trước hết, ta phải có một cái ‘mô hình nhận thức lý tưởng’
(idealized cognitive model, viết tắt ‘ICM’), ở đó mọi người trong một ‘cộng đồng ngôn ngữ’
(speech community) đồng ý tách thế giới ra bao nhiêu loại và gán cho mỗi loại một cái nghĩa
ra sao, thí dụ cái ICM kêu bằng ‘Great Chain of Being’ như sau:

cấu tạo thế giới phân loại


trời (heaven) chúa (god), thần (angels)
đất (earth) con người có hồn, không hồn
con vật cá, chim, rắn, sâu, thú
cây cối cây, cỏ
đất đá cát, khoáng,…
ngạ quỷ (hel) quỷ (devils), yêu (demons)

và rồi những gì không giống với bất cứ loại nào nêu trên thì đều là quái.

Nói cho dễ hiểu, ‘quái’ là những gì không-thể-phân-loại 15 thí dụ:

 không thể phân loại giữa hai nhóm đã phân loại: thí dụ ‘garuda’ nửa người nửa chim (B56),
 không thể phân loại bên trong một nhóm đã phân loại: thí dụ cái con ‘nửa bê nửa cừu’
(B14.3),
 ‘nhiều hơn’ hoặc ‘ít hơn’ một nhóm đã phân loại: thí dụ ‘cọp hai đầu’ (B15.1.2.1.2), ‘chó
không đầu’ (B15.1.1.1),
 vượt khỏi phạm vi tự nhiên của một nhóm đã phân loại: thí dụ ‘ngựa bay’ (B41.2).

Quái vật không thể phân loại nên nó chẳng ở bên trong cõi của người hoặc bất kỳ cõi nào
khác đã phân loại, mà ở rìa của những cõi đó, thỉnh thoảng nó sấn vô cõi của người. 16

Quái vật không tuân theo hệ thống phân loại của người, nên một khi sấn vô cõi của người,
nó sẽ làm những chuyện phá hại xã hội loài người mà thôi, để rồi bị loài người tiêu diệt.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 5

3 ATU 300 ở châu Âu

3.1 Mô tả

ATU 300 Người diệt rồng có 7 mục, với những motif đặc trưng thí dụ như sau. 17

Hiệp sỹ (the hero)

-đổi đồ lấy những con vật có ích B312.2


-là người chăn cừu P412.1

Cúng người

-cúng người cho rồng [nạn nhơn thường là công chúa] B11.10
-ai cứu công chúa sẽ được nửa xứ Q112
-ai cứu công chúa sẽ được lấy cổ T68.1

Con rồng (the dragon)

-có bảy đầu B11.2.3.1


-thở ra lửa B11.2.11

Trận đánh

-[hiệp sỹ] đánh rồng B11.11


-con chó [của hiệp sỹ] giết rồng B524.1.1
-cứu công chúa / gái tơ thoát khỏi rồng R111.1.3

Lưỡi rồng

-hiệp sỹ cắt lưỡi rồng để làm chứng cho việc giết rồng H105.1
-hiệp sỹ bỏ lại công chúa sau khi cứu cổ R111.6

Tên bợm (the impostor)

-con vật của hiệp sỹ cứu ảnh sống lại [sau khi bị tên bợm giết] B515
-cấm công chúa nói tên người giết rồng C422.1
-giành công của hiệp sỹ K1932
-công chúa xin dời đám cưới một năm [bị ép gả cho tên bợm] T151

Xác nhận công trạng

-vật làm tin [của công chúa đưa] H80


-chứng cớ đã cứu công chúa H83
-vật làm tin là khăn tay của công chúa H113
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 6

Berezkin thì mô tả chuyện ‘người diệt rồng’ với nhóm motif này:

k38f quái vật bò sát [rắn/rùa/sấu] phá hại loài người (đòi cúng người / bắt gái / chặn
nguồn nước), hiệp sỹ giết nó; nạn nhơn không có vai trò gì hết.
k38f1 hiệp sỹ cắt giữ một phần của xác rồng (thường là cái lưỡi), tên bợm không biết vì
sao rồng mất lưỡi, hiệp sỹ đưa lưỡi rồng ra.
k38f2 hiệp sỹ được nhận ra nhờ vết máu rồng mà nạn nhơn quệt lên người.
k38f3 hiệp sỹ đào hố núp chờ rồng tới gần hoặc bò ngang hố thì lấy gươm đâm nó chết.

3.2 Thí dụ

3.2.1 Nhóm 1

Những chuyện dưới đây có đủ 7 mục: hiệp sỹ, cúng người, con rồng, trận đánh, lưỡi rồng,
tên bợm, xác nhận công trạng.

1. Con quái bảy đầu (Pháp).18

Xưa có anh kia bị ba má đuổi đi, ảnh đòi cho được một bộ giáp có ba mươi sáu màu
và một cây gậy màu trắng mới chịu đi. Ảnh tới trại của nhà vua, xin vô chăn bò.

Ngày nọ, ảnh để một con bê màu đen đi qua ăn cỏ ở đồng kế bên. Một tên khổng lồ
hiện ra đòi đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu màu, lấy cây gậy trắng đánh chết
tên đó, y để lại một con ngựa màu đen. Hôm sau, ảnh cũng để con bê đen qua ăn cỏ
đồng đó. Một tên khổng lồ nữa hiện ra đòi đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu
màu, lấy cây gậy trắng đánh chết tên đó, y để lại một con ngựa màu nâu. Hôm sau
nữa, ảnh cũng để con bê đen qua ăn cỏ đồng đó. Một tên khổng lồ nữa hiện ra đòi
đánh, ảnh bận vô bộ giáp ba mươi sáu màu, lấy cây gậy trắng đánh chết tên đó, y
để lại một con ngựa màu trắng. Từ đó ảnh vừa chăn bò vừa chăn ba con ngựa. Con
màu nâu mạnh hơn con màu đen, con màu trắng mạnh hơn con màu nâu.

Bữa nọ, ảnh nghe đồn xứ này có con quái bảy đầu bắt nhà vua mỗi năm nộp cho nó
một người gái tơ, mà năm nay tới phiên công chúa.

Tới ngày nộp người, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, lận cây gậy trắng, cưỡi con
ngựa đen, tới gặp vua, xin cho đi theo để đánh con quái cứu công chúa. Ảnh đánh
tới chiều, đập đứt hai đầu nó, cắt hai cái lưỡi nó gói lại trong cái khăn của công
chúa, đưa cổ về cung.

Ngày thứ hai, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, cưỡi con ngựa nâu, đưa công chúa
tới chỗ hẹn, đánh con quái tới chiều, đập đứt thêm hai đầu nó, cắt hai cái lưỡi nó
gói lại trong cái khăn của công chúa, đưa cổ về cung.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 7

Ngày thứ ba, ảnh bận bộ giáp ba mươi sáu màu, cưỡi con ngựa trắng, đưa công chúa
tới chỗ hẹn, đánh con quái tới chiều, đập đứt luôn ba đầu nó, cắt ba cái lưỡi nó gói
lại trong cái khăn của công chúa, đưa cổ về cung.

Ảnh về trại, chăn bò và ngựa như trước, trong khi đó nhà vua muốn gặp người đã
cứu công chúa, mà chẳng ai ra mặt. Một tên trong đội làm vườn của nhà vua đi
lượm bảy cái đầu đem về, nói chính y giết con quái, nhưng công chúa nói không
phải. Rốt cuộc ảnh tới, đưa ra bảy cái lưỡi ráp vô khít bảy cái đầu thì nhà vua tin và
gả công chúa cho.

2. Ba con chó (Đức).19

Xưa có hai anh em con ông chăn cừu, cha mất để lại cái nhà và ba con cừu, em gái
lấy nhà, anh lấy cừu. Người anh bỏ nhà đi, đổi ba con cừu lấy ba con chó khôn: con
Muối giỏi kiếm đồ ăn, con Tiêu giỏi cắn người, con Mù-tạt giỏi cắn sắt.

Bữa nọ, ảnh gặp chiếc xe chở một người đẹp đang ngồi khóc, hỏi xà ích thì mới biết
xứ này có con rồng bắt người ta mỗi năm nộp cho nó một gái đẹp, mà năm nay tới
phiên công chúa: chính là cái cô trong xe. Ảnh đi theo xe, tới chỗ hẹn với con rồng
trên đồi.

Con này mình rắn, có cánh, chưn có vấu, thở ra lửa. Khi nó nhào ra, ảnh kêu con
Tiêu nhảy vô cắn chết, rồi nhai nó sạch nhách chừa lại hai cái răng cửa của nó mà
thôi. Ảnh lượm cất vô túi. Công chúa tính đưa ảnh về chung, nhưng ảnh còn muốn
đi và hẹn ba năm nữa gặp lại.

Tên xà ích nãy giờ thấy hết, liền ép công chúa về nói với vua là y giết rồng. Vua tin
lời, tính trong một năm sẽ gả công chúa cho y. Tới hạn, công chúa kiếm cớ dời thêm
một năm, rồi một năm nữa.

Ngày đám cưới, ảnh quay về, tâu với vua là xà ích nói láo, bị vua nhốt vô ngục. Ảnh
kêu con Mù-tạt cắn đứt cửa sắt cho ảnh thoát ra, sai con Muối đi kiếm đồ ăn. Nó
chạy vô bàn tiệc chỗ công chúa đang ngồi với vua, liếm tay cổ. Cổ nhận ra nó, kể
cha nghe mọi chuyện…

Vua cho người theo con chó đi gặp anh chăn cừu dẫn ảnh tới. Công chúa nhận ra
ảnh, ảnh đưa ra hai cái răng rồng làm chứng. Vua xử tội người xà ích, cho anh chăn
cừu làm chú rể.

Ảnh xin đón cô em ở quê về cung với mình. Ba con chó biến thành ba con chim bay
mất.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 8

3. Hai anh em (Đức).20

[ATU 567A]

Xưa có hai anh em tên Đực Lớn và Đực Nhỏ. Đực Lớn làm nghề thợ bạc thì giàu
và gian, Đực Nhỏ làm nghề sửa chổi thì nghèo và ngay. Đực Nhỏ có hai con trai
sanh đôi tên Bi và Bo, thường qua nhà Đực Lớn xin đồ ăn vặt.

Ngày nọ Đực Nhỏ vô rừng thấy con chim kia, lấy đá chọi làm nó rớt một cái lông
bằng vàng. Đực Nhỏ đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y. Bữa sau Đực Nhỏ
tới chỗ gặp con chim hôm qua, kiếm ra cái tổ của nó trong đó có một cái trứng bằng
vàng. Đực Nhỏ cũng đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y. Mấy bữa sau Đực
Nhỏ bắt được con chim, cũng đem về cho Đực Lớn coi và bán lại cho y.

Đực Lớn biết ai ăn được tim và gan của con chim này thì mỗi sáng ngủ dậy sẽ ‘đẻ’
ra một thỏi vàng dưới gối. Y nói vợ chiên con chim cho mình ăn, đừng bỏ bộ lòng.
Vợ chiên xong để đó. Ai dè Bi và Bo qua nhà Đực Lớn, vô bếp thấy con chim chiên
thơm lừng, thì lén bốc trái tim và lá gan của nó chia nhau ăn sạch.

Một hồi sau vợ Đực Lớn vô bếp thấy mất tim gan, liền lấy tim và gan của một con
gà thế vô. Đực Lớn ăn nguyên con chim, sáng sau chẳng thấy gì dưới gối hết. Bi và
Bo về nhà ngủ, sáng sau thấy dưới gối mỗi đứa là một thỏi vàng. Ngày nào cũng
vậy. Đực Nhỏ mừng lắm, qua nói Đực Lớn biết. Đực Lớn hiểu ra, tức cành hông,
kiếm cớ nói Đực Nhỏ đem Bi và Bo bỏ ra ngoài rừng [cho chết].

[ATU 303]

May thay, Bi và Bo gặp ông thợ săn đem về nuôi... Hai đứa lớn lên, bỏ nhà ra đi
tìm vận may. Dọc đường, có một cặp thỏ, một cặp chồn, một cặp sói, một cặp gấu,
một cặp sư tử, đi với Bi và Bo. Hai ảnh và đám thú chia ra hai nhóm đi hai hướng.

[ATU 300]

Bi tới xứ nọ, vô quán trọ nghe nói xứ đó có một con rồng trên núi xuống bắt người
ta mỗi năm nộp cho nó một gái tơ, không thôi nó phá. Nhà vua đã hứa gả công chúa
cho ai diệt được con rồng, nhưng chưa ai làm được, và ngày mai tới lượt công chúa
nộp mạng.

Sáng sớm hôm sau Bi lên núi, tình cờ uống được ba chén thuốc bổ và đào được cây
gươm sắc lẻm. Khi công chúa đi lên núi, con rồng bảy đầu trờ tới, thấy Bi nó khạc
lửa tính chụp, nhưng, nhờ đám thú giúp sức, ảnh giết được rồng, chặt hết bảy đầu
nó.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 9

Công chúa lấy chuỗi ngọc chia cho đám thú, lấy cái khăn của mình đưa cho Bi,
trong đó ghi tên ảnh, để sau này hai người nhận nhau. Bi cắt bảy cái lưỡi con rồng,
gói vô khăn cất đi, rồi ảnh và đám thú nằm xuống ngủ.

Viên lãnh binh (marshal) đi theo công chúa, nãy giờ ở dưới núi, bây giờ mò lên,
thấy vậy hiểu ra mọi chuyện. Y chặt phăng đầu Bi, lấy bảy cái đầu rồng, dọa công
chúa khi về cung phải nói là y giết rồng. Vua tin lời, gả công chúa cho y, nhưng cổ
xin dời đám cưới một năm.

Trong khi đó, con thỏ đi kiếm lá thuốc dán đầu Bi vô cổ cho ảnh sống lại. Ảnh dắt
đám thú đi nữa, một năm sau quay lại xứ đó, vô quán trọ mới biết hôm nay là ngày
đám cưới công chúa… Rốt cuộc, khi Bi vô cung đưa cho vua coi cái khăn của công
chúa gói bảy cái lưỡi rồng, và chuỗi ngọc mà công chúa đã tặng cho đám thú, thì
vua hiểu ra, gả công chúa cho ảnh và trị tội viên lãnh binh.

[hết ATU 300]

Về sau, Bi và đám thú đi vô rừng, bị bà phù thủy biến ra tượng đá…

Lúc đó, Bo và đám thú cũng đi tới xứ của Bi, bị mọi người kể cả công chúa dòm
lộn là Bi…

Rốt cuộc Bo cứu được Bi và kể cho Bi mọi chuyện. Nghe chuyện Bo ngủ chung với
công chúa mấy đêm, Bi nổi máu ghen, rút gươm chém đầu Bo, nhưng Bo sống lại
nhờ con thỏ đi kiếm lá thuốc dán đầu vô cổ. Hai anh em về cung. Tối đó, công chúa
cho Bi biết, mấy đêm trước, khi ngủ chung với mình, Bo đều để cây gươm xen giữa
hai người…

4. Tristan và Isolde (truyện thơ của Thomas of Britain, viết bằng tiếng Pháp thế kỷ 12,
dựa theo một câu chuyện dân gian Tây Âu).21

Rivalen là chúa ấp Armenye ở xứ Brittany [bên Pháp] của công tước Morgan.
Rivalen qua Tintagel ở xứ Cornwall [bên Anh] làm khách của vua xứ đó là Mark,
rồi thương em gái của Mark là Blancheflor. Rivalen giúp Mark đánh trận, bị thương,
được Blancheflor chăm sóc, rồi cô này có bầu với Rivalen. Nghe tin quê nhà bị
Morgan đánh, Rivalen đem vợ về, chống lại, thua trận, chết. Sau đó Blancheflor đẻ
con trai, đặt tên Tristan [nghĩa là ‘sad man’], rồi cũng chết, để lại đứa con, cái nhẫn
của mình, và gởi con cho cậu Mark.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 10

Roald, lãnh binh (marshal) của Rivalen, coi Tristan như con ruột của mình để tránh
tai mắt của Morgan. Ổng giao nó cho Governal dạy dỗ. Tristan còn nhỏ mà đã văn
võ song toàn, biết nói bảy thứ tiếng. Khi mười bốn tuổi, Tristan theo thầy ra bến
cảng, chơi cờ, bị một nhóm lái buôn Na Uy bắt cóc tính bán cho người Irish làm nô
lệ, nhưng rồi thả ra. Tristan đi tìm vua Mark. Thấy Tristan có tài, ổng cưng, nhưng
chưa nhận ra đó là cháu mình.

Sau đó, Roald sang Cornwall kiếm Tristan, gặp vua Mark, cho coi cái nhẫn của
Blancheflor và cho biết Tristan là cháu của ổng. Mark phong Tristan tước ‘knight’,
thêm hai chục cận vệ (squire) và một trăm kỵ binh. Tristan đem quân về Brittany,
giết Morgan để trả thù cha và lấy lại đất. Rồi nhường cho cha nuôi (Roald) làm công
tước xứ Brittany, Tristan trở sang Cornwall vì thích ở với cậu hơn.

Goram, vua xứ Ireland, có em vợ là công tước Morholt. Ông này đòi vua Mark nộp
cống. Không ai dám chống lại Morholt, nên Tristan quyết định đấu với Morholt trên
đảo St Samson...

Rốt cuộc Morholt bị một nhát chí mạng vô đầu, Tristan thì bị nhẹ hơn. Trước khi
chết, Morholt cho biết mũi gươm của mình đã tẩm thuốc độc và Tristan sẽ chết bởi
vì trên đời không ai có thuốc giải, ngoài chị mình là hoàng hậu Isolde xứ Ireland.
Tristan nhắn vua Goram sang nhận xác Morholt đem về. Hoàng hậu Isolde tìm thấy
một miếng gươm ghim trong đầu Morholt, gỡ ra, giao cho công chúa, cũng tên là
Isolde, cất giữ.

Tristan nhận ra Morholt không nói dối, vì chẳng ai ở Cornwall chữa nổi vết thương
bốc mùi thúi hoắc của ảnh, nên đành làm liều sang Ireland tìm gặp hoàng hậu Isolde
nhờ chữa. Đổi tên thành Tantris, đóng vai thầy đờn, Tristan làm cho công chúa
Isolde mê tài chơi ‘harp’ của ảnh và muốn bái ảnh làm thầy. Hoàng hậu thấy Tristan
bị thương, bèn chữa giùm, mà không biết đó là kẻ đã giết em mình. Bốn chục ngày
sau, công chúa đã biết chơi đờn, vết thương của Tristan cũng đã lành, ảnh bỏ về.

Là người thân nhứt của vua Mark, nên Tristan đương nhiên sẽ kế vì ổng. Cận thần
(noblemen) không muốn vậy, khuyên vua Mark lấy vợ, nhưng ổng chưa chịu. Ngày
nọ Mark thấy con chim ngậm một sợi tóc óng ánh, mới nói rằng ổng sẽ lấy ai có sợi
tóc giống như vậy mà thôi. Tristan kể cho vua Mark biết sắc đẹp của Isolde, nhưng
vì hai xứ Cornwall và Ireland đang hục hặc, nên chưa chắc vua chịu hỏi công chúa.
Cận thần xúi vua cho Tristan qua đó làm mai, thầm mong ảnh sẽ bị họ giết. Tristan
đi liền.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 11

[ATU 300]

Bên xứ Ireland, sau khi Tristan bỏ về, có một con rồng tới quấy phá, vua Goram nói
ai diệt được rồng sẽ gả công chúa cho.

Tristan trở lại đó, giết con rồng, cắt cái lưỡi nó giữ làm chứng. Ai dè khi Tristan ra
sông uống nước, nọc độc trong lưỡi rồng ngấm vô người ảnh làm ảnh ngất đi.

Tổng quản (seneschal) của vua tìm thấy xác rồng. Không gặp ai, y cho rằng người
giết rồng cũng đã chết. Muốn được lấy công chúa, y chặt đầu con rồng đem về cung
nói y là người giết rồng.

Chẳng ai tin, vì ai nấy đều biết y xưa nay nhát như cheo. Công chúa cũng không
tin, than với mẹ. Hai mẹ con quyết tìm ra người giết rồng.

Họ tới chỗ có xác rồng, không gặp ai. Nhưng tới bờ sông thì thấy Tristan nằm đó,
hẳn là người đã giết rồng, và họ nhận ra đó là Tantris, thầy đờn. Họ lén đưa ảnh về
cung chữa trị. Tỉnh lại, Tristan cho họ biết chuyện mình giết rồng và vì sao bị ngất.
Hoàng hậu vô cung cho vua biết sự thực. Tổng quản bác bỏ, vịn vô cái đầu rồng mà
y có trong tay, rồi thách Tristan đấu tay đôi.

Vua ra lịnh triệu tập hai người ngày mai có mặt. Đêm đó, công chúa lấy cây gươm
của Tristan đem rửa, thấy nó mẻ một miếng. Đem so với miếng gươm ghim trong
đầu cậu mình thì vừa y [H101], cổ nhận ra đây chính là người đã giết cậu mình.
Công chúa tính dùng gươm đó giết Tristan, ảnh nói nếu ảnh chết thì cổ sẽ phải lấy
viên tổng quản.

Công chúa kể chuyện cho mẹ nghe. Hai mẹ con đồng ý tha chết cho Tristan. Nhơn
dịp đó Tristan nói ảnh muốn làm mai công chúa cho cậu mình là vua xứ Cornwall,
nếu cổ ưng thì con của họ về sau sẽ được cả hai xứ. Hôm sau, Tristan đưa ra cái
lưỡi rồng làm chứng. Tổng quản chịu thua, bỏ đi.

[hết ATU 300]

Hoàng hậu cho vua biết thân phận của Tristan. Vua đồng ý tha tội cho ảnh, nếu công
chúa chịu lấy vua Mark…
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 12

5. Shortshanks (Scandinavia).22

Xưa có hai anh em con nhà nghèo lên đường tìm vận may, anh tên Đô Con đi hướng
tây, em tên Cẳng Ngắn đi hướng đông, dặn nhau hễ người này cần gặp người kia
gấp thì gọi tên ba lần.

Trên đường đi, Cẳng Ngắn lần lượt gặp ba bà già lưng còng một mắt, ảnh móc mắt
cả ba, mỗi bà đưa ra một món đồ để chuộc mắt, bà thì đưa cây gươm quý, bà thì đưa
cái thuyền phép, bà thì đưa bí quyết nấu mỗi lần một trăm ‘last’ bia. Ảnh lấy ra cái
thuyền phép, đứng vô, biểu nó đưa tới cung vua, nó biến ra một cái thuyền lớn bay
lên không đưa ảnh đi. Tới cung vua ở xứ kia, ảnh xin vô phụ nấu bếp.

Thấy chỗ nào cũng treo vải đen làm như có chuyện gì buồn, ảnh hỏi thì bà bếp nói:
‘Có ba con rồng (ogre) bắt vua gả công chúa cho chúng, chiều ngày thứ năm tuần
này một con sẽ tới đem cổ đi, vua nói ai cứu công chúa sẽ được cho lấy cổ và nửa
xứ. Kỵ sỹ Đỏ tình nguyện đi cứu công chúa nhưng không ai dám chắc y sẽ cứu được
hay chăng, nên treo vải đen là vậy.’

Tới ngày hẹn, Kỵ sỹ Đỏ dắt công chúa xuống bến sông, chưa thấy rồng đâu y đã
vội leo lên cây núp trốn, công chúa kêu thì y nói thà chết một còn hơn chết hai.

Cẳng Ngắn xin bà bếp cho xuống bến sông coi. Ảnh tới chỗ công chúa ngồi thì con
rồng cũng tấp vô bến. Con rồng bự dễ sợ, có năm cái đầu.

Nó chọc ảnh là đồ lại cái, khích ảnh đánh lộn, ảnh thách nó.

Nó đang cầm cây chùy sắt, xáng vô ảnh một cái, ảnh né, rút gươm chém lại một cái
bay hết năm đầu nó. Công chúa mừng rơn, nói ảnh nằm kê đầu vô lòng cổ ngủ một
chút cho đỡ mệt, rồi đắp cái ‘robe’ bằng đồng (tinsel) lên người ảnh. Kỵ sỹ Đỏ lúc
đó hết sợ, leo xuống cây, tới ép công chúa phải hứa khi về cung thì nói y là người
cứu cổ, không thôi y giết cổ tức thì. Rồi y cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn gói
lại, cất đi, đưa công chúa về cung, được vua ghi nhận. Trong khi đó Cẳng Ngắn lên
thuyền con rồng, thấy quá trời đồ quý bằng bạc, liền gom hết đem về. Bà bếp hỏi,
ảnh đưa bả một mớ.

Chiều ngày thứ năm tuần sau, mọi chuyện xảy ra y vậy, có điều con rồng thứ hai bự
gấp đôi con rồng thứ nhứt, với mười cái đầu lận. Cẳng Ngắn cũng giết được nó và
khi ảnh nằm kê đầu vô lòng công chúa ngủ thì cổ đắp cái robe bằng bạc lên người
ảnh. Kỵ sỹ Đỏ cũng cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn gói lại, cất đi, đưa công
chúa về cung, được vua ghi nhận. Cẳng Ngắn lên thuyền con rồng thứ hai, thấy quá
trời đồ quý bằng vàng, gom hết đem về, đưa bà bếp một mớ.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 13

Chiều ngày thứ năm tuần sau nữa, mọi chuyện xảy ra y vậy, có điều con rồng thứ
ba còn bự hơn con rồng thứ hai, với mười lăm cái đầu. Cẳng Ngắn cũng giết được
nó và khi ảnh nằm kê đầu vô lòng công chúa ngủ thì cổ đắp cái robe bằng vàng lên
người ảnh, hỏi ảnh làm sao để mọi người biết ảnh là người cứu cổ. Cẳng Ngắn dặn
cổ làm như vầy như vầy. Sau đó Kỵ sỹ Đỏ cũng cắt phổi và lưỡi con rồng, lấy khăn
gói lại, cất đi, đưa công chúa về cung, được vua định ngày làm đám cưới cho y với
công chúa. Cẳng Ngắn lên thuyền con rồng thứ ba, thấy quá trời đồ quý bằng kim
cương, gom hết đem về, đưa bà bếp một mớ.

Tới ngày đám cưới, công chúa xin cho Cẳng Ngắn bận đồ nấu bếp vô làm người
dâng rượu. Khi dâng rượu lần đầu, ảnh rưới một giọt vô khay của Kỵ sỹ Đỏ, khiến
y nổi nóng xáng một cái, làm áo ảnh rớt xuống lòi ra cái robe bằng đồng của công
chúa. Lần thứ hai cũng vậy, làm lòi ra cái robe bằng bạc của công chúa. Lần thứ ba
cũng vậy, làm lòi ra cái robe bằng vàng của công chúa. Tức thì công chúa hỏi y sao
dám tự tiện đánh ảnh là người đã cứu cổ và được cổ chọn làm chồng [K1935.1]. Kỵ
sỹ Đỏ khăng khăng y mới là người cứu cổ.

Vua nói hai bên đưa ra chứng cớ. Kỵ sỹ Đỏ đưa ra cái khăn gói lưỡi và phổi của ba
con rồng, Cẳng Ngắn đưa ra mớ đồ quý bằng bạc, vàng và kim cương lấy trên
thuyền của ba con rồng. Vua nói ai có mớ đồ quý này mới là người đã giết ba con
rồng và lấy đồ của chúng, vì mớ đồ này không thể có ở đâu khác hết.

Vậy là Kỵ sỹ Đỏ [bị xử tội] bằng cách quăng xuống hang rắn, Cẳng Ngắn được lấy
công chúa và nửa xứ.

Vua xứ đó còn một công chúa nữa bị một con rồng khác dưới đáy biển bắt đi. Cẳng
Ngắn dùng chiếc thuyền phép đi tới đó, cho giòng dây đưa ảnh xuống đáy biển, vô
dinh con rồng, dùng bí quyết nấu mỗi lần một trăm ‘last’ bia để nấu một thứ bia
thiệt mạnh làm con rồng và lâu la của nó uống vô chết hết, cứu công chúa đưa về.
Sau đó Cẳng Ngắn gọi tên kêu Đô Con tới, nhường cho Đô Con lấy công chúa thứ
hai và nửa xứ còn lại...
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 14

3.2.2 Nhóm 2

Những chuyện dưới đây có 5 mục: hiệp sỹ, cúng người, con rồng, trận đánh, xác nhận công
trạng.

6. Bốn chục hoàng tử và con rồng bảy đầu (Thổ Nhĩ Kỳ).23

Xưa có ông vua (padishah) đẻ ra bốn chục đứa con trai, chúng lớn lên muốn lấy bốn
chục chị em làm vợ. Tìm khắp trong xứ có nhà kia đẻ ra ba mươi chín đứa con gái
mà thôi, nên chúng đòi đi xứ khác kiếm vợ. Vua dặn chúng có đi thì chớ nên nghỉ
đêm gần sông, trong ‘han’ (lữ quán), ngoài đồng.

Đi một ngày đường, họ tới một con sông. Cả đám ngủ đêm bên sông, riêng người
em út [gọi tắt là Út] nhớ lời cha, ráng thức canh chừng. Nửa đêm thấy hiện ra một
con rồng bảy đầu. Út đánh nó, chém đứt sáu đầu, nó nói chém luôn cái đầu thứ bảy,
Út thôi vì biết chém nữa nó sẽ lấy lại sức mạnh. Thấy cái đầu rồng lăn xuống một
cái giếng, Út cột dây xuống giếng, gặp một cái dinh với đủ thứ đồ quý và thấy trong
đó có bốn chục cô kia, nói họ là chị em ruột bị rồng bắt đem về đây nhốt. Út biểu
họ chờ, hứa sẽ cứu, rồi ảnh leo lên giếng, về ngủ.

Sáng sau mấy người anh thức dậy, thấy không có gì xảy ra trong đêm, tưởng cha họ
nói gạt. Đi thêm ngày đường, họ tới một cái ‘han’, ngủ đêm ở đó. Út cũng ráng thức
canh chừng. Nửa đêm thấy hiện ra một con rồng nữa, cũng bảy đầu, bự hơn cái con
đêm qua. Út đánh nó, chém đứt sáu đầu, chừa cho nó một đầu, rồi thấy cái đầu rồng
lăn xuống một cái giếng. Út xuống giếng, gặp một cái dinh còn bự hơn cái hôm qua,
với đồ quý còn nhiều hơn, rồi ảnh leo lên giếng, về ngủ.

Thêm ngày đường nữa và bọn họ tới một cánh đồng. Sắp sửa đi ngủ thì bỗng nhiên
hiện ra một con rồng bự tổ chảng có bảy đầu, thở ra lửa, rú lên: ‘Thằng nào đã hại
hai đứa em của ta?’ Út đưa chìa khóa hai cái dinh cho mấy người anh, hối họ đi cứu
bốn chục cô kia và đem kho báu về, còn ảnh ở lại đánh rồng. Hai bên đánh nhau,
ngang ngửa. Đánh một hồi, rồng nói: ‘Nếu mi tới Chinimatchin đem công chúa về
cho ta, ta sẽ bỏ qua việc này.’ Út chịu.

Con rồng, tên là Champalak, đưa Út bộ dây cương, dặn tới cánh đồng nọ kiếm con
ngựa tên Ajgyr, nó sẽ đưa Út tới xứ Chinimatchin. Út làm theo, được Ajgyr cõng
bay tới đó ban đêm. Út gặp bà kia nghe nói xứ đó đang bị một con rồng bảy đầu
quấy phá vì nhà vua (sultan) không chịu gả công chúa cho nó. Út tìm cách tới gặp
và hỏi chuyện công chúa, lúc đó đang lánh trong một cái ‘kiosk’. Thì ra con rồng
muốn lấy cổ chính là Champalak.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 15

Út bày mưu đưa công chúa đi gặp nó, làm bộ ưng nó để dụ cho nó nói ra cái nơi mà
nó giấu bùa hộ mạng: lấy bùa này mới giết được nó. Rồng mắc mưu, chịu nói, Út
nhờ con ngựa Ajgyr cõng bay tới nơi đó. Nghe lời ngựa, Út tìm thấy bùa hộ mạng
của Champalak: đó là ba con bồ câu. Út vặn cổ một con, trở về dinh Champalak,
vặn cổ luôn hai con. Rồng lúc đó gần chết, xin Út cho rờ xác hai con chim. Út tính
cho, công chúa chạy ra ngăn lại. Con ngựa Ajgyr nói rồng mà rờ chim thì nó sẽ lấy
lại sức mạnh. Rồi ngựa biến mất.

Út đưa công chúa về Chinimatchin, được vua cha gả cho. Họ về xứ và Út kể lại mọi
chuyện. Rốt cuộc, ba mươi chín anh em lấy ba mươi chín chị em, cô thứ bốn mươi
gả cho hoàng tử xứ Chinimatchin.

7. Hiệp sỹ con nhà cá (Tây Ban Nha).24

[ATU 303]

Xưa có ông thợ giày nhà nghèo ra sông bắt được con cá bự, nó nói ổng cứ kho nó
lên và rắc muối tiêu rồi ăn, chừa lại hai khứa cho bà vợ và hai khứa chôn trong
vườn. Sau đó bà vợ sanh đôi hai con trai và ngoài vườn mọc hai cây lạ. Lớn lên, hai
đứa con, tên Sặc và Rô, chia nhau đi hai hướng kiếm vận may.

[ATU 300]

Sặc tới xứ nọ, ở đó có một con rồng bắt người ta mỗi năm nộp cho nó một gái đẹp,
năm nay tới phiên công chúa, và cổ đang ở chỗ hẹn nộp mạng cho con rồng, dưới
gốc cây kia.

Sặc liền đi kiếm một con ngựa, một cây giáo và một tấm gương thiệt bự, tới chỗ
công chúa. Sặc biểu công chúa cho mượn tấm mạng che mặt, rồi phủ lên tấm gương,
treo tấm gương lên cành cây, nói cổ đứng sau gương, hễ con rồng tới gần phía trước
thì lột tấm mạng ra, mọi chuyện khác ảnh lo.

Công chúa làm theo. Rồng ta thấy bóng trong gương, tưởng là con rồng khác, phóng
vô chụp [K1052]. Gương bể cái rầm. Rồng hết hồn đứng sững, bị Sặc nhào vô xỉa
cây giáo ngang họng, chết ngắt. Ảnh cưỡi ngựa đưa công chúa về, kéo theo xác con
rồng. Vua gả công chúa cho ảnh.

[hết ATU 300]

Gần đó có một cái dinh, nghe đồn ai vô đó sẽ bị nhốt ở trỏng. Sặc mò vô. Ai dè ở
trỏng có bà phù thủy (witch) biến ảnh ra tượng đá…

Lúc đó, Rô đi tới xứ của Sặc.


Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 16

Thấy mọi người chào mình, Rô hỏi mới biết người ta đã dòm lộn mình là Sặc, và
Rô đoán rằng Sặc đã gặp nạn trong cái dinh kia. Vậy là Rô theo về cung, làm như
mình là Sặc, nhưng chẳng ngủ chung và cũng ít nói chuyện với công chúa.

Hôm sau, Rô vô dinh của bà phù thủy, bả tưởng ảnh là hồn ma của Sặc, bỏ chạy, bị
Rô lấy gươm lụi. Ảnh hỏi Sặc đâu, bả biểu ảnh làm thuốc xức cho bả sống thì bả
mới nói… Rô làm theo lời bả, rốt cuộc cứu được Sặc và nhiều người khác nữa sống
lại.

3.2.3 Nhóm 3

Những chuyện dưới đây có 4 mục: hiệp sỹ, cúng người, con rồng, trận đánh.

8. Anh thợ thuộc da Nikita (Nga).25

Gần Kiev có một con rồng, hàng ngày người ta phải nộp một gái tơ cho nó nuốt.
Bữa đó tới lượt công chúa. Nó đem công chúa về động nhưng thấy cổ đẹp nên không
nuốt mà để lại ép làm vợ.

Công chúa có đem theo một con chó để đưa thơ cho cha mẹ. Bữa nọ nhà vua gởi
thơ biểu công chúa tìm cách hỏi con rồng coi ai mạnh hơn nó. Cổ dụ nó, cuối cùng
nó nói có một anh thợ thuộc da ở Kiev tên Nikita là mạnh hơn nó mà thôi.

Vua tự mình tới gặp Nikita xin ảnh đi giết rồng cứu dân và công chúa. Ban đầu ảnh
không chịu đi. Tới khi vua sai người đi gom năm ngàn đứa nhỏ tới trước mặt Nikita
cùng khóc một lượt để năn nỉ thì ảnh mới chịu đi. Ảnh lấy mười hai ngàn ‘pound’
sợi gai (hemp) trét đầy nhựa đường (pitch) quấn khắp người để khỏi bị rồng nuốt,
rồi tới động kêu nó ra.

Rồng đóng cửa, không chịu ra. Nikita hăm phá tan động, nó mới ra đánh với Nikita.
Đánh mấy trận thua hết, rồng tính chia đôi thế giới với Nikita, mỗi bên một nửa.
Ảnh lấy cái cày nặng mười hai ngàn pound, cột rồng vô, cho nó kéo đi thành một
cái rãnh để làm ranh giới, từ Kiev tới biển Caspian. Chia đất xong, Nikita nói nó
xuống dưới nước chia biển. Khi con rồng ra tới giữa biển, Nikita xáng một cái, nó
chết ngắt.

Cái rãnh đó ngày nay còn nguyên, cao mười bốn ‘feet’, chưa ai đụng tới. Nikita làm
xong việc, chẳng màng nhận thưởng, quay về với nghề thuộc da.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 17

9. Con rồng bảy đầu (Hy Lạp).26

Xưa có vua xứ kia cùng thuộc hạ giong thuyền đi chơi, lên một hòn đảo thấy có sư
tử canh gác liền giết sạch. Họ tới một cái vườn, thấy ba con suối thay vì chảy ra
nước thì một suối chảy ra vàng, một suối chảy ra bạc, một suối chảy ra ngọc. Họ
nhào vô hốt lia lịa. Rồi họ thấy một cái hồ, tới gần thì nghe cái hồ nói ra tiếng người
rằng chúa đảo này là một con rồng bảy đầu, đang ngủ, nó sắp tới đây tắm.

Cái hồ nói họ cởi hết đồ đang bận trên mình ra, lót kín khúc đường từ dinh con rồng
tới đây để nó bò cho êm, may ra nó bớt giận. Họ làm theo vậy. Rồi con rồng tới. Nó
tha mạng cho về, nhưng bắt nhà vua mỗi năm đem tới đây cúng cho nó mười hai
đứa con trai và mười hai đứa con gái, không thôi nó phá tan xứ. Vua đành chịu.

Vua không có con. Bữa kia, hoàng hậu gặp một bà già tới đưa cho trái táo, kêu ăn
vô sẽ có con. Hoàng hậu lột vỏ ăn. Ai dè một con ngựa cái trong dinh đi ngang, ăn
luôn vỏ táo. Sau đó, hoàng hậu đẻ ra một thằng, ngựa kia đẻ ra một con [B311]. Cả
hai lớn lên, chơi với nhau như anh em.

Bữa nọ người anh nhờ ngựa em chở đi gặp bà già hồi xưa đã đưa táo cho hoàng hậu
ăn, xin bả bày cách diệt con rồng. Bả dặn ảnh đi theo một lối kín tới dinh con rồng,
vô buồng nó ngủ, lấy cây gươm treo bên trên giường nó, gọi nó dậy, dùng gươm đó
đánh nhau với nó, nhớ mỗi lần chém nó đứt một đầu thôi để cho gươm đừng gãy,
hễ bị đứt hết bảy đầu thì nó chết…

Ảnh làm theo, quả nhiên diệt được con rồng. Xứ ảnh thoát nạn.

10. Lambton và con rồng (Anh).27

Xưa có Lambton ra sông Wear câu được con rắn (worm) ở mỗi bên miệng có chín
cái lỗ. Ông kia đi ngang thấy vậy nói ảnh giữ lấy con đó chớ không được thả lại
xuống sông, sợ mai mốt nó lên bờ hại người. Ảnh quăng đại nó xuống cái giếng gần
đó. Nó lớn lên [thành con rồng, B11.1.3.1], khi giếng chật thì bò ra sông, ban ngày
cuộn quanh gộp đá giữa sông, ban đêm vô làng bú sữa bò [B11.12.4], nuốt cừu, rượt
gái, rồi tới một cái gò gần nhà Lambton, cuộn quanh gò, ngủ.

Lambton thấy vậy, hối hận, tình nguyện đi thánh chiến, mong sao dân làng thoát cái
họa con rồng. Nhưng bây giờ con rồng bò ngay tới đất của nhà Lambton, người ta
phải vắt sữa chín con bò đổ ra cái máng đá đặt trước cổng cho nó. Uống xong, nó
tới gò ngủ. Ngày nào cũng vậy. Thiếu sữa, nó nhổ cây. Như vậy suốt bảy năm trời.
Nhiều người đã bỏ mạng khi tìm cách diệt con rồng.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 18

Lambton trở về, đau lòng nhìn cảnh nhà xơ xác. Người cha biểu ảnh tới gặp bà mo
(wise woman) ở Brugeford coi bả có cách gì giúp diệt con rồng hay chăng. Bả ra
điều kiện là nếu diệt được con rồng thì Lambton phải giết thứ gì mà ảnh gặp trước
hết ở cổng nhà mình, bằng không sẽ chẳng có ai trong giòng họ Lambton chết trên
giường suốt chín đời. Ảnh hứa. Bà mo biểu ảnh đặt thợ rèn làm một bộ giáp gắn
đầy đinh nhọn, mặc vô, ban đêm bơi ra gộp đá giữa sông chờ, tới sáng rồng về thì
ráng sức ắt diệt được nó. Lambton làm theo.

Con rồng quấn lấy ảnh xiết, bị đinh nhọn đâm, nó xả ra; ảnh chặt nó làm hai, khúc
dưới rớt xuống sông liền bị nước cuốn đi. Còn lại khúc trên, rồng quấn xiết nữa,
cuối cùng bị đinh nhọn đâm chết, nước cuốn đi luôn. Lambton bơi vô bờ, lấy tù và
thổi ba tiếng. Nghe vậy, đáng lẽ người nhà thả con chó săn tên là Boris cho nó chạy
ra, như lời Lambton dặn, ai dè cha của ảnh mừng húm liền chạy ù ra. Lambton thổi
tiếng nữa, người nhà mới thả Boris ra, ảnh chặt đầu con chó.

Nhưng không kịp rồi. Từ đó về sau, giòng họ Lambton, suốt chín đời, không ai chết
trên giường. Người chót hết thì chết trong xe ngựa, khi băng qua cầu Brugeford, hồi
một trăm ba chục năm trước.

3.3 Ý nghĩa

Đọc xong mười câu chuyện kể trên, ta thấy rồng có thể mang dạng của bất cứ con gì; dù vậy
nó chẳng phải loài vật mà là một thứ ‘siêu nhiên’ (supernatural) ở giữa ‘yêu’ (demon) và ‘quỷ’
(devil).28

Những câu chuyện ‘người diệt rồng’ muốn nói lên điều gì? Có 3 cách hiểu. 29

1. Bạn phải diệt được một con rồng thì mới trở thành kẻ giỏi nhứt trong thiên hạ và xứng đáng
nhận giải thưởng cao nhứt, thí dụ một cô công chúa.
2. Rồng là tượng trưng cho lòng tham: nó khư khư giữ một đống của hoặc một bầy gái cho
đã, vậy thôi. Nói rộng ra, nó là bất cứ một cái trở ngại nào bên trong hoặc bên ngoài con
người của mình mà bạn phải vượt qua thì mới nhận được những gì tốt đẹp trong đời.
3. Rồng là quái vật. Hiệp sỹ là người, phải diệt quái vật thì cõi người mới yên.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 19

4 ATU 300 ở Đông nam Á

11. Hai anh em (Philippines).30

[ATU 303]

Xưa có hai anh em sanh đôi tên Pedro và Fortunato, vô rừng kiếm củi lượm được
một ổ chim bằng vàng và trứng chim bằng vàng. Dân làng cho là điều xấu, xúi ba
má hai đứa đem bỏ chúng vô rừng [cho chết].

May thay, hai đứa được bà kia nuôi, lớn lên chúng đòi đi. Bả dặn chúng đem theo
cây kim đặt dưới tảng đá nọ, hễ một trong hai đứa gặp nạn thì cây kim bị rỉ. Hai đứa
chia tay.

[ATU 300]

Pedro tới nơi kia, thấy một cái dinh treo vải đen. Hỏi thăm thì được biết đó là dinh
vua và canh ba đêm nay sẽ có một con rồng từ chỗ nọ tới dinh ăn thịt công chúa thứ
nhứt. Ảnh vô dinh tìm gặp công chúa, cỡi ngựa đưa cổ tới chỗ con rồng, giết nó,
chặt bảy đầu của nó treo lên cây, rồi đưa công chúa về. Cổ cho ảnh cái nhẫn.

Pedro gặp một con sóc và một con sư tử xin đi theo sau khi được ảnh tha mạng.
Mấy bữa sau, thấy dinh vua treo vải đen nữa. Hỏi thăm thì được biết canh ba đêm
nay sẽ có một con rồng thứ hai từ chỗ khác tới dinh ăn thịt công chúa thứ hai. Ảnh
vô dinh tìm gặp công chúa, cỡi ngựa đưa cổ tới chỗ con rồng, sai con sư tử giết nó,
rồi ảnh chặt bảy đầu của nó treo lên cây gần chỗ treo bảy đầu của con rồng hôm
trước, đưa công chúa về. Cổ cho ảnh cái nhẫn.

Pedro gặp một con khỉ lùn (tarsier) xin đi theo sau khi được ảnh tha mạng. Mấy bữa
sau, thấy dinh vua treo vải đen nữa. Hỏi thăm thì được biết canh ba đêm nay sẽ có
một con rồng thứ ba từ chỗ khác tới dinh ăn thịt công chúa thứ ba. Ảnh vô dinh tìm
gặp công chúa, cỡi ngựa đưa cổ tới chỗ con rồng, sai con khỉ lùn giết nó, nhưng
rồng khạc lửa làm chết khỉ lùn. Pedro bèn giết rồng, chặt bảy đầu của nó bỏ đó, lấy
bảy cái lưỡi của nó treo lên cây, rồi đưa công chúa về. Gặp vua, ảnh kể chuyện giết
rồng và xin cưới công chúa thứ ba, vua chịu, chọn ngày làm đám cưới.

Có anh hoàng tử kia mê công chúa thứ ba, tìm cách giết Pedro, chặt đầu quăng đi,
rồi lượm bảy đầu của con rồng thứ ba đem về đưa vua coi, nói chính y giết rồng, và
xin cưới công chúa thứ ba. Vua tin lời, gả cho y.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 20

Trong khi đó con sóc tha cái đầu ráp vô mình Pedro, cho ảnh sống lại. Pedro được
biết vua đã gả công chúa thứ ba cho người khác, bèn đi lấy bảy cái lưỡi của con
rồng thứ ba, hai cái nhẫn của công chúa thứ nhứt và công chúa thứ hai, đem tới đám
cưới đưa vua coi, kể lại mọi chuyện. Vua hiểu ra, cho Pedro làm phò mã, xử tội tên
bợm kia.

[hết ATU 300]

Ngày nọ, Pedro lạc vô rừng, bị mụ phù thủy biến thành đá…

Fortunato lúc đó thấy lòng xốn xang, đi coi cây kim thì nó đã bị rỉ. Fortunato tìm
tới nơi Pedro ở, bị công chúa thứ ba dòm lộn là chồng của cổ. Fortunato ngồi ngoài
cầu thang chớ không vô nhà, nghe nói Pedro đã gặp nạn, liền vô rừng tìm cách cứu
anh mình…

Rốt cuộc, cứu được Pedro và nhiều người khác, trong đó có hai cha con mà cô con
sau này là vợ của Fortunato.

12. Công chúa tóc thơm (Cao Miên).31

[ATU 303]

Xưa có hai anh em tên Chan và Son, làm biếng, bị ba má đuổi đi. Có ông đạo kia
thấy hai đứa tốt tướng, kêu chúng về dạy, được ba ngày chúng cũng xin đi. Ổng cho
mỗi đứa một cây gươm phép, hễ chỉ vô ai thì nấy chết, và khi một đứa bị chết thì
cây gươm của đứa kia sẽ hiện ra ba đốm rỉ [E761.4.7], đứa còn sống lấy gươm chỉ
vô đứa đã chết sẽ sống lại.

[ATU 300]

Tới xứ kia hai anh em nghe nói có cặp chằng (yaksa) đòi nhà vua mỗi năm nộp cho
chúng một cô công chúa, vua có hai mươi mốt cô thì đã nộp cho chúng hai chục cô,
còn lại cô út tên Pou chúng cũng không tha. Chan và Son tới dinh của chằng, dùng
gươm phép chỉ vô chúng, cho chúng chết, cứu công chúa. Công chúa đòi theo Chan
nhưng hai anh em không chịu, dặn công chúa khi về gặp vua đừng nói chuyện họ
giết chằng.

Sau có hai viên quan tới nơi tính hốt xương công chúa về chôn, thấy xác cặp chằng
mà chẳng thấy công chúa, bèn về tâu với vua là chính họ đã giết chằng. Vua hứa
nếu tìm thấy công chúa sẽ gả cho. Họ tìm thấy Pou và khi nhà vua đưa về thì cổ
không nói gì chuyện Chan và Son.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 21

Tới khi nhà vua tính gả Pou cho một viên quan thì cổ mới kể lại chuyện Chan và
Son giết chằng. Vua sai bắt giam hai viên quan, cho người tìm Chan và Son. Hai
anh em cũng chưa chịu về. Tới khi xác chằng sình thúi, mà nặng quá chẳng ai kéo
đi nổi, thì Chan và Son mới về, lấy gươm đẩy xác chúng đi chôn, rồi vô gặp vua.
Vua gả công chúa cho Chan, nhường ngôi.

[hết ATU 300]

Son từ giã Chan, đi nữa. Chan cho một nắm hột cây để Son rải trên đường đi, phòng
khi cần hai anh em sẽ theo hàng cây mà kiếm ra nhau.

Son tới thành Nokor Thom, vừa lúc có một đàn quái hình chim đang lùng bắt người
ăn thịt và ngay cả ông vua ở đó cũng bị chết khi cùng quan binh chống lại chúng.
Công chúa, có mái tóc thơm phức, thì trốn trong lòng một cái trống bự. Son giết
đàn chim, cứu công chúa ra khỏi cái trống và đưa về cung. Công chúa kể lại chuyện
Son giết quái vật, hai người lấy nhau, Son lên làm vua.

Bữa nọ hoàng hậu tóc thơm tắm sông với đứa thị tỳ, nó bị nước cuốn tới xứ của một
ông vua bị cùi. Ổng nghe nó nói chuyện, liền dụ nó đưa hoàng hậu tóc thơm qua
cho ổng. Nó về, lấy trộm gươm của Son, chỉ vô ảnh cho chết. Hoàng hậu không
thiêu Son, mà chôn, theo lời ảnh dặn. Đứa thị tỳ gạt hoàng hậu đưa qua xứ vua cùi,
nhưng ông này chẳng dám làm gì hết vì hoàng hậu có đem theo cây gươm phép.

Ở nhà, Chan thấy gươm có ba đốm rỉ, biết Son đang gặp nạn, liền theo hàng cây,
qua thành Nokor Thom. Hỏi thăm, Chan biết Son đã chết, bèn tới mộ, lấy gươm
chỉ, hòm lộ ra, lấy gươm chỉ, xác lộ ra, lấy gươm chỉ, Son sống lại. Hai anh em giả
làm thầy thuốc tới xứ vua cùi xin trị bịnh cho ổng, rồi lừa cho ổng tắm trong nồi
nước sôi, bị phỏng chết. Đứa thị tỳ bị đuổi vô rừng cho cọp giảo. Son sau đó làm
vua của xứ vua cùi luôn...

5 ATU 300 ở Việt Nam

5.1 Miền xuôi

5.1.1 Chuyện kể

13. Tiêu diệt mãng xà.32

Xưa có con mãng xà, đầu bự như cái chum, cái mào đỏ chót, mắt bự như trái quýt,
mình dài hơn trượng, ở trong hang. Nhà vua mỗi năm phải nộp cho nó một người
gái tơ, không thôi nó phá. Ai giết được nó, vua gả công chúa.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 22

Anh kia [tạm gọi ‘Vô Danh’] ở chùa từ nhỏ, khi xuống núi thầy cho cây gươm quý.
Trên đường về làng, trời tối, Vô Danh thấy một cái đền có đèn hắt ra, bèn ghé vô
qua đêm. Dè đâu gặp một cô bị trói ngồi khóc ở trỏng. Cổ nói cổ là nạn nhơn của
con mãng xà và nhà vua đang cần người diệt nó. Vô Danh cởi trói cho cổ thoát về
làng, rồi ảnh nán lại chờ diệt con quái.

Nửa đêm quả nhiên mãng xà bò vô, ảnh lấy gươm đánh nhau với nó, cuối cùng chặt
đầu giết nó chết, nhưng gươm bị mẻ một miếng ghim trong đầu nó. Sáng, ảnh về
làng. Trưa, có một viên quan tới đền, thấy xác mãng xà. Không gặp ai hết, y mừng
húm xách đầu mãng xà đem nộp cho vua, nói chính y giết nó. Vua tin lời, định ngày
gả công chúa cho y.

Ngày đám cưới, Vô Danh tới gặp vua xin lại miếng gươm ghim trong đầu con mãng
xà. Xẻ đầu nó ra coi thì thấy một miếng thép giống như chỗ bị mẻ trên cây gươm
của Vô Danh. Vua cho rằng ảnh mới là người giết mãng xà, chớ không phải viên
quan, nên gả công chúa cho ảnh và xử tội viên quan.

14. Thạch Sanh.33

[Hồi 1]

Xưa xứ Mang Khảm [nay là Hà Tiên] có con chằng ở trong hang đá, nhà vua mỗi
năm phải cúng cho nó một mạng người, không thôi nó giết. Vua nói ai diệt được nó
thì cho làm quan lớn. Năm đó tới phiên Lý Thông, làm nghề nấu rượu, bị bốc thăm
nộp mạng cho chằng [S262.3]. Thạch Sanh có sức mạnh hơn người, làm nghề tiều
phu, bán củi cho Lý Thông.

Lý Thông muốn kiếm người thế mạng cho mình, nên y làm thân với Thạch Sanh,
rồi tới ngày đã định thì lừa anh này tới hang chằng nộp mạng. Ai dè Thạch Sanh
chém con chằng đứt đầu, về cho Lý Thông biết.

Một lần nữa, Lý Thông lừa cho Thạch Sanh bỏ đi, rồi báo với vua rằng y đã giết
con chằng. Vua tới hang coi, thấy xác chằng, tin lời, cho y làm quan lớn.

[Hồi 2]

Con vua là công chúa Quỳnh Nga, trong ngày hội quăng trái cầu để chọn phò mã,
bị một con đại bàng tha đi. Thạch Sanh tình cờ trông thấy, bắn tên trúng đại bàng
nhưng nó vẫn bay được về hang, để lại dấu máu.

Vua sai Lý Thông đi cứu công chúa. Ba ngày trôi qua vẫn chưa thấy Lý Thông báo
tin gì, nhà vua nóng ruột, nói ai cứu được công chúa sẽ cho làm phò mã.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 23

Lý Thông kiếm Thạch Sanh, nhờ giúp. Thạch Sanh dắt y theo dấu máu đại bàng tới
miệng hang, để y giòng dây cho ảnh xuống hang, giết chết đại bàng. Quỳnh Nga
đưa Thạch Sanh trái cầu [ngụ ý chọn ảnh làm phò mã]. Lý Thông kéo Quỳnh Nga
lên, bỏ mặc Thạch Sanh dưới hang, lấp đá lại, đưa cổ về cung. Thấy Thạch Sanh bị
hại, Quỳnh Nga tức mình, câm luôn [F569.3.1]. Vua bèn lo chạy chữa cho cổ…

Trong hang, Thạch Sanh cứu một vị thái tử cũng bị đại bàng bắt nhốt ở đó. Thái tử
đưa Thạch Sanh thoát khỏi hang, dẫn qua xứ chơi, khi ảnh về, được vua xứ đó tặng
cho cây đờn...

Lý Thông biết Thạch Sanh còn sống, y lập mưu bắt ảnh bỏ ngục [K1931.5]…

Nghe tiếng Thạch Sanh đờn trong ngục, Quỳnh Nga nói được, xin vua cha cho gặp
người đánh đờn. Thấy đúng là người đã cứu mình, Quỳnh Nga kể vua cha nghe mọi
chuyện. Thạch Sanh lấy trái cầu đưa Quỳnh Nga. Thấy trái cầu, vua hiểu ra, cho gọi
Lý Thông. Y nhận tội, nhưng được vua tha vì có Thạch Sanh xin, rốt cuộc y cũng
bị sét đánh chết [Q552.1.3]. Vua gả Quỳnh Nga cho Thạch Sanh.

5.1.2 Nhận xét

Tiêu diệt mãng xà

Chuyện này có 6 mục của ATU 300: hiệp sỹ (Vô Danh), cúng gái, con rồng (mãng xà,
B11.2.1.1), trận đánh, tên bợm (viên quan), xác nhận công trạng.

Nhưng còn thiếu mục ‘lưỡi rồng’ với motif H105.1 ‘hiệp sỹ cắt lưỡi rồng để làm chứng cho
việc giết rồng’ mà đáng lẽ phải có.

Ở đây, chứng cớ của Vô Danh được cho là miếng gươm ghim trong đầu mãng xà: nó khớp
với cây gươm bị mẻ của ảnh (motif H101 đã gặp ở chuyện Tristan và Isolde).

Song le, lấy lý mà xét, đó chưa phải là chứng cớ hoàn hảo chừng nào chưa kiểm tra cây
gươm của viên quan [mà y nói đã dùng để giết mãng xà]. Nếu cây gươm của y còn nguyên,
hoặc y không đưa ra cây gươm nào hết, thì cây gươm bị mẻ của Vô Danh mới là chứng cớ hoàn
hảo.

Thiếu chi tiết đó, nên mục ‘xác nhận công trạng’ nghe vụng về, không hợp lý.

Bởi vậy, ta ngờ rằng người kể chuyện này đã bỏ sót chi tiết.
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 24

Thạch Sanh

Hồi 1 chuyện này có 5 mục của ATU 300: hiệp sỹ (Thạch Sanh), cúng người, con rồng
(chằng), trận đánh, tên bợm (Lý Thông).

Nhưng còn thiếu 2 mục ‘lưỡi rồng’ và ‘xác nhận công trạng’ mà đáng lẽ phải có. Ngoài ra,
cốt chuyện còn bị sửa đổi làm cho:

 Thạch Sanh vừa là hiệp sỹ vừa là nạn nhơn (người bị cúng),


 Lý Thông vừa là nạn nhơn vừa là tên bợm,
 Lý Thông vừa là tên bợm vừa là hiệp sỹ [được xác nhận công trạng].

Vậy hồi 1 ắt là chuyện sáng tác, dùng một số motif của ATU 300.

Hồi 2 chuyện này có đủ 6 mục của ATU 301 Ba cô công chúa bị bắt cóc với những motif
đặc trưng như sau 17:

Hiệp sỹ (Thạch Sanh)

-sức mạnh hơn người F610

Xuống cõi dưới

-chuyến đi xuống cõi dưới F80


-xuống cõi dưới qua miệng hang F92.6
-xuống cõi dưới bằng dây F96
-hiệp sỹ bắn đại bàng và theo nó xuống cõi dưới F102.1

Công chúa (Quỳnh Nga) bị bắt đi

-[vua sai người] đi kiếm công chúa H1385.1


-công chúa bị đại bàng bắt đi R11.1

Công chúa được cứu

-tên bợm (Lý Thông, cùng đi với Thạch Sanh) phản bội F601.3
-tên bợm đem công chúa đi [sau khi cổ được cứu] K1935
-công chúa được cứu ra khỏi cõi dưới R111.2.1

Hiệp sỹ bị phản bội

-hiệp sỹ từ cõi dưới trở về bằng phép lạ (thái tử) F101.4


-tên bợm bỏ lại hiệp sỹ ở cõi dưới K1931.2
-tên bợm giành giải thưởng của hiệp sỹ K1932
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 25

Xác nhận công trạng

-vật làm tin [của công chúa đưa] H80


-vật làm tin là trái cầu -
-tên bợm bị trừng trị Q262
-hiệp sỹ nghèo hèn lấy công chúa L161
-ai cứu công chúa sẽ được lấy cổ T68.1

Vậy hồi 2 là một version của ATU 301.

Ta thấy ‘hiệp sỹ’ và ‘tên bợm’ ở hồi 1 đã bị bóp méo để trở thành ‘hiệp sỹ’ và ‘tên bợm’ ở
hồi 2, lần lượt.

Bởi vậy, tóm lại, ta cho rằng đây không phải chuyện dân gian mà là chuyện sáng tác, dựa
theo một số motif của ATU 300 và một version của ATU 301.

Cách nay gần 65 năm, Võ Xuân Phố 34 cũng nêu lên ý na ná như vậy:

Truyện Thạch Sanh là một truyện rất phổ biến trong đồng bào Miên ở Cao Miên
cũng như ở các vùng thiểu số ở Việt Nam (như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc)… Các gánh hát ‘dù kê’ của người Miên ở các
vùng nói trên… đều lấy truyện Thạch Sanh xây dựng nên vở ‘dù kê’ của mình…
Nhân dân Miên coi Thạch Sanh là vị anh hùng cứu tinh của họ…

Theo tôi, truyện Thạch Sanh nguồn gốc có lẽ ở Cao Miên… Do đó, có thể là người
Việt chúng ta đã phóng tác theo một chủ đề dựa trên một chủ đề của người Miên.
35
Còn mục đích của việc sáng tác là gì thì ta không bàn ở đây, nhưng Nguyên Giác cho
rằng:

Như thế, có vẻ như ông bà mình khi kể truyện Thạch Sanh đã cho âm hưởng Phật
giáo vào. Hoặc, cũng có thể, chính một nhà sư nào đó đã nghĩ ra cốt truyện Thạch
Sanh - Lý Thông để đem thiện pháp ra dạy cho đồng bào mình. Nơi đây, chúng ta
chỉ suy đoán theo các nhân vật, hình ảnh và sự kiện…
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 26

5.2 Miền thượng

5.2.1 Chuyện kể

Dưới đây là một chuyện của người Mnong nói tiếng Bahnaric.

15. Prang và Iyang.36

Xưa có hai anh em tên Prang và Iyang. Bữa nọ Iyang lượm được cục đá thần, ném
trúng người ai cục đá cũng xuyên qua như không…

Iyang bị người anh đuổi đi, sang xứ kia được vợ chồng nọ nhận làm con nuôi. Ở đó
có một con rồng đòi nhà vua phải nộp công chúa tên Pou cho nó. Để cứu công chúa,
Iyang tìm một bọn ‘yeak’, đưa cục đá thần nhờ chúng rèn cho mình một cây gươm
thiệt bén [F833.5]…

Iyang tới chỗ Pou đang chờ nộp mạng cho con rồng, lấy gươm chém đầu nó ngọt
xớt, rồi bỏ về. Pou đòi theo, Iyang không chịu, dặn Pou khi gặp lại vua cha thì đừng
kể gì hết. Bảy ngày sau, nhà vua cho người tới nơi thăm dò. Khi biết rồng đã chết,
vua hỏi Pou ai đã cứu cổ. Pou nói không biết, nhưng đưa vua coi cái bao gươm và
một khúc đai bị đứt của Iyang bỏ lại. Vua cho rằng ai mang gươm vừa với cái bao
đó và mang đai vừa với cái khúc bị đứt đó, thì chính là người đã cứu con mình, nên
cho gọi hết thảy đàn ông người Mnong, người Jaraï, người Samré và người Stieng
– mà có xài gươm và đeo đai – tới cung vua để thử.

Chưa tìm thấy ai, nên vua cho gọi thêm hết thảy đàn ông người Miên, người Ấn,
người Lào và người Xiêm tới thử, nhưng cũng không tìm ra ai. Được biết còn Iyang
chưa tới thử, vua cho người mời. Ảnh không đi mà đưa họ cây gươm và cái đai để
đem về trình vua, nhưng chẳng ai nhấc nổi cây gươm [D1654.4.1]. Rốt cuộc, Iyang
ra mặt, vua nhận ra ảnh là người giết rồng cứu công chúa, bèn gả Pou cho ảnh…

5.2.2 Nhận xét

Chuyện này có 5 mục của ATU 300: hiệp sỹ (Iyang), cúng gái, con rồng, trận đánh, xác nhận
công trạng.

Vậy đây là một version của ATU 300, ở đó hiệp sỹ được nhận ra nhờ hai vật:

cái đai bị đứt một khúc H117


cây gươm [khớp với cái bao] H125.1
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 27

6 Thảo luận

Ta đã gặp những version của ATU 300 ở:

 Philippines và Cao Miên, có lẽ do người Âu và người Ấn lần lượt đem sang,


 miền thượng Việt Nam, được cho là ở Cao Miên truyền sang.36

Trong chuyện dân gian người Việt, ta gặp một version của ATU 300 (Tiêu diệt mãng xà)
mà có lẽ người kể đã bỏ sót chi tiết.

Ta cũng tình cờ nhận ra một chuyện sáng tác dựa theo một số motif của ATU 300 và một
version của ATU 301 (Thạch Sanh).

Vậy bằng cách nào ATU 300 Người diệt rồng [và ATU 301 Ba cô công chúa bị bắt cóc]
đã được phổ biến trong dân gian người Việt?

Nguyễn Đổng Chi cho rằng chuyện Tiêu diệt mãng xà là ‘tiếp thu’ của người Ấn.32 Song
le, Berezkin,8 khảo sát dữ liệu phân bố 548 motif trong nhóm ‘hành động và mánh khóe’ (gồm
cả ‘người diệt rồng’) ở 309 nền văn hóa dân gian trên cựu thế giới, cho biết rằng Đông nam Á
nói chung, và Việt Nam nói riêng, thì không có chung motif với hai vùng gần gũi là Đông Á
(Trung) và Nam Á (Ấn), mà có chung motif với hai vùng xa xăm là châu Phi bên dưới sa mạc
Sahara và nam châu Âu bên Địa Trung Hải.

Vậy cả hai type 300 và 301 đều do người Âu đích thân đem sang? hay là do người bổn xứ
chép lại tài liệu của người Âu?

Muốn tìm hiểu điều đó, ta phải chờ thêm dữ liệu.

Người viết xin ngừng ở đây.

Tạm biệt dragon!

Cám ơn rồng đã cho mượn tên!

21-Sep-2021
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 28

1
Hans J. Holm (2017) Steppe Homeland of Indo-Europeans Favored by a Bayesian Approach with Revised
Data and Processing.
2
A. David and Don Ringe (2015) The Indo-European Homeland from Linguistic and Archaeological
Perspectives. Annual Review of Linguistics.
3
Benjamin Slade (2010) How (exactly) to slay a dragon in Indo-European?
4
Eugenio Bortolini, Luca Pagani, Enrico R. Crema, Stefania Sarno, Chiara Barbieri, Alessio Boattini, Marco
Sazzini, Sara Graça da Silva, Gessica Martini, Mait Metspalu, Davide Pettener, Donata Luiselli, Jamshid J.
Tehrani (2017) Inferring patterns of folktale diffusion using genomic data.
5
Stith Thompson (1946) The Folktale.
6
Stith Thompson (1955) Motif-Index of Folk Literature.
7
D. L. Ashliman (1987) A guide to folktales in the English language.
8
Yuri E. Berezkin. Folklore and Mythology Catalogue: Its Lay-Out and Potential for Research.
9
Y. E. Berezkin, E. N. Duvakin. World mythology and folklore: thematic classification and areal distribution of
motifs.
10
Sapna Dogra. The thirty-one functions in Vladimir Propp’s morphology of the folktale: An outline and recent
trends in the applicability of the Proppian taxonomic model.
11
Ian Watts (2017) Rain Serpents in Northern Australia and Southern Africa: a Common Ancestry? (proof).
12
Marc Thuillard, Jean-Loïc Le Quellec, Julien d’Huy, Yuri Berezkin. A large-scale study of world myths.
13
J. E. Riddle (1843) English-Latin and Latin-English Dictionary, for the use of colleges and schools.
14
Piet Swanepoel (2010) On defining the category monster – using definitional features, narrative categories
and idealized cognitive models (ICM’s).
15
Yasmine Musharbash. Introduction: monsters, anthropology, and monster studies.
16
Liane Posthumus (2011) Hybrid monsters in the classical world: the nature and function of hybrid monsters in
Greek mythology, literature and art.
17
Antti Aarne (1973) The types of the folktale, translated and enlarged by Stith Thompson.
18
The seven-headed monster, Folktales of France, ed Genevieve Massignon, trans Jacqueline Hyland (1968).
19
The three dogs, The Green Fairy Book, ed Andrew Lang (1902).
20
The two brothers, German popular tales and household stories, ed Grimm (1853).
21
Jimmy Joe. Tristan and Isolde: Wagner’s Medieval Romance Summary.
22
Shortshanks, Popular tales from the Norse, ed Sir George Webbe Dasent (1903).
23
Ignácz Kúnos. The forty princes and the seven-headed dragon.
24
The knights of the fishes, The brown fairy book, ed Andrew Lang (1914).
Rồng – từ biển Đen tới đất Việt 29

25
Nikita the tanner, Russian Fairy Tales, ed Aleksandr Afanas’ev, trans Norbert Guterman (1945).
26
The seven-headed serpent, Andrew Lang’s Fairy Books.
27
The Lambton worm, More English fairy tales, ed Joseph Jacobs (1894).
28
Moncure Daniel Conway (1879) Demonology and Devil-Lore, vol I, p 320.
29
Lexine Lynner (2018) Dragon slayers: remastering and redefining the enduring struggle.
30
Donn V. Hart and Harriett C. Hart. A Philippine version of "The two brothers and the dragon slayer" tale.
31
Lê Quang Hương (1969) Chuyện cổ Cao Miên.
32
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, ed Nguyễn Đổng Chi (1957).
33
Trần Anh Tuấn (2011) Đôi nét về Kiên Giang.
34
Võ Xuân Phố (1957) Góp ý kiến về nguồn gốc truyện Thạch Sanh.
35
Nguyên Giác (2019) Đọc truyện Thạch Sanh Lý Thông.
36
Henri Maitre (1912) Les jungles Moï, Exploration et histoire des hinterlands moï du Cambodge, de la
Cochinchine, de l'Annam et du Laos, phần III, ‘Résultats géographiques de la mission: géographie -
ethnographie - histoire’, trans Lưu Đình Tuân (2007).

You might also like