Professional Documents
Culture Documents
2. Hòa Bình
2.1. Giới thiệu
Hòa Bình là một ‘truyền thống làm đồ đá’ (lithic technological tradition),1 gọi theo tên của tỉnh
Hòa Bình ở miền bắc Việt Nam (viết tắt ‘VN’), nơi Madeleine Colani (1866–1943), nhà khảo cổ
người Pháp, cuối những năm 1920, đã lần đầu tìm ra di tích – mà sau đó người ta cũng tìm thấy ở
mấy tỉnh khác thí dụ Lai Châu, Tuyên Quang, Thanh Hóa.2 Địa điểm xưa nhứt ở VN có di tích Hòa
Bình là hang Chổ, với một mẫu than có ‘date’ đo được 29140±200 năm BP (‘BP’ nghĩa là ‘trước năm
1950’).3 Ở vùng Đông Nam Á tới nay đã tìm thấy hơn một trăm địa điểm có di tích Hòa Bình, sớm
nhứt là mái đá Tham Lod (Thái Lan) có ‘date’ 34130 năm BP,4 và trễ nhứt là Huai Hin (Thái Lan) có
‘date’ 3700 năm BP.5 Xưa nhứt là mái đá Xiaodong ở Vân Nam, có ‘date’ 43500 năm BP.6
Đồ đá Hòa Bình có nhiều thứ lắm, nhưng đều mang nét chung là cấu trúc ‘một mặt phẳng, một
mặt lồi’ (plano-convex structure); dù vậy, một món đồ đúng kiểu Hòa Bình phải có đặc điểm kỹ thuật
ra sao thì ta vẫn chưa rõ nên cũng khó cắt nghĩa Hòa Bình là gì.5 Nói dè dặt, Hòa Bình là một ‘kỹ
thuật’ đẽo đá (stone knapping) của những nhóm người săn-hái trong quãng 40000–5000 năm BP, với
những cách làm khác nhau tùy theo 1) đá cuội (cobble) hay đá sỏi (pebble), 2) ý tưởng của người
đẽo, 3) công dụng của món đồ đẽo ra.5
Từ năm 1994, giới khảo cổ đã coi Hòa Bình như một ‘nghề’ (industry) chớ không phải ‘văn hóa’
(culture) hay ‘công nghệ’ (technocomplex).8 Dù vậy, nếu hiểu ‘văn hóa Hòa Bình’ theo hai ý: 1) đồ
đá đục lỗ, và 2) cách chôn người chết gập giò [nằm thẳng hoặc nằm nghiêng], thì ta có ‘văn hóa Hòa
Bình’ khắp một vùng rộng từ đảo Sumatra ở Indonesia lên tới bờ nam sông Dương Tử.9
Hình 2 mô tả bộ mặt một bà thổ dân Hòa Bình 25–35 tuổi, cao 152±4cm, sống cách nay 13640
năm, phỏng theo bộ xương còn 65%, chôn gập giò, nằm nghiêng, tìm thấy ở mái đá Tham Lod (Thái
Lan). So với 25 nhóm người thời nay thì mặt của bà đó mang nhiều nét gần với 4 nhóm Tàu, Việt,
Thái, Nhựt, hơn những nhóm châu Âu và châu Phi (Hayes et al10).
1
Hình 2. (Hayes et al10)
Thổ dân Hòa Bình có liên quan với người Việt thời nay hay chăng, ta sẽ tìm hiểu ở bài này.
2.2. Khảo cứu
2.2.1. Dữ liệu số đo sọ
Matsumura et al11 khảo sát 16 số đo sọ của 89 nhóm người xưa và nay (hình 3).
2
Hình 3 cho thấy hai lớp người khác nhau theo kiểu sọ:
1. lớp săn-hái (màu đỏ trong hình): gồm một số mẫu Hòa Bình, thí dụ Gua Cha ở Malaysia, hang
Làng Gạo và hang làng Bon ở VN, và những mẫu khác cùng thời (không phải Hòa Bình), xưa
nhứt là Zhoukoudian ở miền bắc Đông Á (c 34000–18000 BP);
2. lớp trồng lúa (màu lam trong hình): gồm một số mẫu ở VN thí dụ Mán Bạc (đá mới), Đông Sơn
(đồng), Giồng Cá Vồ (sắt), và những mẫu khác.
Ngoài ra, còn một lớp người trồng lúa có kiểu sọ khác với lớp 1 và 2, nói tiếng Austronesian
(màu cỏ úa trong hình) từ miệt Phước Kiến lan xuống ngang Hòa Diêm tới Gua Harimau ở
Malaysia.11
Dù vậy, dựa theo số đo sọ mà nói, thì ta không biết có phải những nhóm Đông Nam Á thời nay,
thí dụ người Việt, là do lớp 1 và lớp 2 pha trộn với nhau mà ra hay chăng, bởi vì kiểu sọ của người
Việt thì không giống với nhóm Hòa Bình mà giống với kiểu sọ của những nhóm ở tuốt trên miền bắc
Đông Á, thí dụ Jundushan (màu đen trong hình 3).
2.2.2. Dữ liệu DNA trong ‘genome’
Tới nay, giới nhơn-chủng-học mới ‘đo’ được ‘genome’ của 43 mẫu ‘người xưa’ ở Đông Nam Á,
trong đó có 2 mẫu người Hòa Bình và 1 mẫu người Việt thời nay (chi tiết ghi ở phụ lục).
McColl et al12 phân tách ‘genome’ của 2 mẫu Hòa Bình và 23 mẫu ‘người xưa’, dựa theo các
thành phần chánh trong ‘genome’ của những nhóm người thời nay nói tiếng khác nhau (hình 4).
Hình 4 cho thấy thành phần chánh của hai mẫu Hòa Bình (Nam Á, màu lam) vẫn còn chút ít ở
các mẫu người Việt thời đá mới (Vt833), thời Đông Sơn (Vt808), thời nay (Vt719). McColl et al12
cho rằng thổ dân Hòa Bình là lớp ‘tổ’ đầu tiên tạo ra người Việt thời nay.
3
Yang et al13 cho biết thành phần Hòa Bình vẫn còn trong ‘genome’ của những nhóm người Đông
Nam Á thời đá mới (màu cam ở hình 5E), nhưng tới thời nay thì thành phần Hòa Bình đã hết mà còn
lại mấy thành phần Đông Á thôi (hình 5F).
Ngược lại, Wang et al14 cho biết thành phần Hòa Bình vẫn còn trong ‘genome’ của những nhóm
Đông Nam Á, kể cả người Việt (Kinh, KHV) từ thời đá mới cho tới thời nay (màu cam ở hình 6).
Tagore et al15 phân tách ‘genome’ của 2 mẫu Hòa Bình và 41 mẫu ‘người xưa’, dựa theo các
thành phần chánh trong ‘genome’ của những nhóm người thời nay nói tiếng khác nhau ở Ấn Độ và
Đông Á (hình 7).
4
Hình 7. (vẽ lại theo Tagore et al15)
Hình 7 cho thấy thành phần chánh của 2 mẫu Hòa Bình (màu tím) cũng là thành phần chánh của
những nhóm nói tiếng Austroasiatic ở xứ Ấn ngày nay, và thành phần đó vẫn còn trong ‘genome’ của
41 nhóm Đông Nam Á, kể cả người Việt từ thời đá mới cho tới thời nay, có điều thành phần đó đã
giảm dần từ thời đá mới về sau do thành phần Đông Á tăng lên.
Nhơn tiện nói thêm, thổ dân Hòa Bình cũng là lớp ‘tổ’ đầu tiên tạo ra người Malaysia thời nay.16
2.3. Thảo luận
Theo dữ liệu nêu trên, trong khi chờ dữ liệu mới, ta hiểu rằng:
• thổ dân Hòa Bình có lẽ là một nhóm người Nam Á (hình 6 cho thấy ‘genome’ của nhóm Juang ở
Ấn thời nay có gần 100% là thành phần Hòa Bình).
• thổ dân Hòa Bình ở miền bắc VN là một lớp ‘tổ’ tạo nên người Việt thời nay.
5
2.4. Phụ lục
43 mẫu ‘người xưa’ ở Đông Nam Á có ‘genome’ dùng trong những báo cáo khảo cứu nêu ở bài
này (McColl et al,12 Tagore et al15).
6
33. Mán Bạc (VN) I2731 4100–3600 đá mới
34. Ban Chiang (Thái) I8978 3500–2400 đá mới muộn - sắt
35. Ban Chiang (Thái) I8974 3500–2400 đá mới muộn - sắt
36. Ban Chiang (Thái) I8977 3500–2400 đá mới muộn - sắt
37. Ban Chiang (Thái) I4458 3500–2400 đá mới muộn - sắt
38. Ban Chiang (Thái) I8970 3500–2400 đá mới muộn - sắt
39. Oakaie (Myanmar) I4011 3200–2700 đồng
40. Oakaie (Myanmar) I7238 3200–2700 đồng
41. Núi Nấp (VN) I2497 2100–1900 đồng
42. Núi Nấp (VN) I2948 2100–1900 đồng
43. Vat Komnou (Cao Miên) I1680 1900–1700 sắt
1
Joyce White, Emergence of cultural diversity in mainland Southeast Asia: a view from prehistory, in Dynamics of
human diversity, 9-46, ed N. J. Enfield. Pacific Linguistics, 2011.
2
Nguyễn Lân Cường, Những nghiên cứu cổ nhân học quan trọng của Việt Nam (1906 - 2018). Khoa Học, Đại học Đà
Lạt, tập 9, số 3, 2019.
3
Seonbok Yi, June-Jeong Lee, Seongnam Kim, Yongwook Yoo and Dongwan Kim, New data on the Hoabinhian:
Investigations at Hang Cho cave, Northern Vietnam. IPPA Bulletin 28, 2008, pp. 73-79.
4
Suraprasit, K., Shoocongdej, R., Chintakanon, K. et al. Late Pleistocene human paleoecology in the highland savanna
ecosystem of mainland Southeast Asia. Sci Rep 11, 16756 (2021). https://doi.org/10.1038/s41598-021-96260-4
5
Hubert Forestier, Yuduan Zhou, Prasit Auetrakulvit, Chawalit Khaokhiew, Yinghua Li et al.
Hoabinhian variability in Mainland Southeast Asia revisited: The lithic assemblage of Moh Khiew
Cave, Southwestern Thailand. Archaeological Research in Asia, Elsevier, 2021, 25, pp.100236.
10.1016/j.ara.2020.100236ff. ffhal-03005587
6
Ji, X., et al., The oldest Hoabinhian technocomplex in Asia (43.5 ka) at Xiaodong rockshelter, Yunnan Province,
southwest China, Quaternary International (2015), http://dx.doi.org/10.1016/j.quaint.2015.09.080
7
http://www.covatvietnam.info/co-vat-chat-lieu-da/van-hoa-hoa-binh-nen-van-hoa-thuoc-so-ky-thoi-dai-do-da-moi/
8
Thanon Chitkament, Evolution of the technical behaviours during the Late Pleistocene and Early Holocene in North-
Western Thailand, with special reference to the lithic industry from Tham Lod rockshelter (District Pang Mapha, Mae
Hong Son province). Ph.D. thesis, 2016.
9
Valery Zeitoun, Prasit Auetrakulvit, Antoine Zazzo, Alain Pierret, Stephane Frere, Hubert Forestier, Discovery of an
outstanding Hoabinhian site from the Late Pleistocene at Doi Pha Kan (Lampang province, northern Thailand).
Archaeological Research in Asia 18(2019)1–16.
10
Susan Hayes, Rasmi Shoocongdej, Natthamon Pureepatpong, Sanjai Sangvichien & Kanoknart Chintakanon, A Late
Pleistocene woman from Tham Lod, Thailand: the influence of today on a face from the past. Antiquity 91 356 (2017):
289–303.
11
Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, Chi Zhang, Mariko Yamagata, Lan Cuong Nguyen et al,
Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in Eastern Eurasia. Scientific Reports | (2019) 9:1451.
12
McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV et al. The prehistoric peopling of
Southeast Asia. Science. 2018 Jul 6;361(6397):88-92. doi: 10.1126/science.aat3628. PMID: 29976827.
13
M. A. Yang et al., Science 10.1126/science.aba0909 (2020).
14
Tianyi Wang, Wei Wang, Guangmao Xie, Zhen Li, Xuechun Fan, Qingping Yang et al. "Human population history at
the crossroads of East and Southeast Asia since 11,000 years ago," Cell, Volume 184, Issue 14, 2021, 3829-3841.e21,
https://doi.org/10.1016/j.cell.2021.05.018.
7
15
Tagore, D., Aghakhanian, F., Naidu, R. et al. Insights into the demographic history of Asia from common ancestry and
admixture in the genomic landscape of present-day Austroasiatic speakers. BMC Biol 19, 61 (2021).
https://doi.org/10.1186/s12915-021-00981-x
16
Aghakhanian F, Hoh BP, Yew CW, Kumar Subbiah V, Xue Y, Tyler-Smith C, Ayub Q, Phipps ME. Sequence
analyses of Malaysian Indigenous communities reveal historical admixture between Hoabinhian hunter-gatherers and
Neolithic farmers. Sci Rep. 2022 Aug 12;12(1):13743. doi: 10.1038/s41598-022-17884-8. PMID: 35962005; PMCID:
PMC9374673.