Professional Documents
Culture Documents
Phụ trách dịch nội dung phần Archaeology in Loc Giang, trang 3 (1540).
1. Tóm tắt bài viết:
Bài viết của Elle Grono và các tác giả khác đăng trên tạp chí Antiquity 2022, số
96(390) (trang 1538-1554), là một báo cáo về việc sử dụng các công nghệ phân tích vi
khảo cổ học để làm rõ tính chất của các lớp cư trú tại di tích Lộc Giang (Long An), một
trong những minh chứng sớm nhất cho việc sử dụng sàn trình vữa vôi trong khu vực.
Đại đa số các di tích Đá mới ở miền Nam Việt Nam đều là mộ táng, có rất ít các di
chỉ cư trú được tìm thấy tại đây, giới hạn các kiến thức về đời sống sinh hoạt, cư trú của
người tiền sử. Tại các di tích Lộc Giang, Rạch Núi, An Sơn, đã tìm thấy các lớp sàn
được nén chặt, chồng xếp lên nhau có màu kem trắng, bước đầu được xác định là sàn
làm từ vữa vôi. Trong bài viết này, các tác giả tiếp cận di tích dưới góc độ vi khảo cổ
học thông qua phân tích vi hình thái học, quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR),
đánh giá định lượng tự động khoáng sản bằng quang phổ tán sắc năng lượng (QEM-
EDS), nhiễu xạ tia X (XRD) và nồng độ silica sinh học.
Bài viết phân biệt 2 loại: cốt vữa (hỗn hợp vôi đã được gia nhiệt dùng để làm sàn
nhà) và lớp phủ (hỗn hợp đất sét hoặc đá vôi – làm lớp hoàn thiện bề mặt). Di tích này
gồm hơn 30 lớp văn hóa, thuộc 4 giai đoạn xây dựng. Trong đó, giai đoạn 2 (11 lớp) và
giai đoạn 3 (hơn 25 lớp) chứa những bằng chứng cho thấy sự mở rộng không gian cư
trú và cư trú liên tục. Niên đại xác định khoảng từ 3510 đến 3150 BP.
Các kết quả phân tích đã xác định ba loại vôi được dùng tại Lộc Giang. Cốt vữa là
loại được tìm thấy nhiều nhất, hỗn hợp tinh thể CaCO3, khoáng sét, tro can xi nén chặt
và được gia nhiệt, điển hình cho vật liệu đá vôi đã được nung. Mỗi chất trong hỗn hợp
có độ nung khác nhau (từ 600-800°C). Một số các chất khác đôi khi được thêm vào hỗn
hợp như hạt thạch anh, samot, xương, vỏ nhuyễn thể và phân. Độ dày của mỗi lớp sàn
này khoảng từ 10 đến 50mm. Lớp phủ chỉ dày <5mm được phủ ở trên cùng của sàn
trình vữa vôi. Không đủ số liệu để xác định đây có phải là lớp hoàn thiện cuối cùng hay
không, nhưng các tác giả đã đoán định dựa vào độ sáng, cùng mức độ hao mòn bề mặt
trong quá trình cư trú. Cuối cùng, xà bần là các khối bột vôi màu trắng, mặt cắt mỏng,
bị cacbon hóa nhiều lần, phụ phẩm thải ra trong quá trình sản xuất cốt vữa vôi.
Dựa vào các kết quả phân tích, Lộc Giang hiện được xác định là di tích sớm nhất sử
dụng vữa vôi ở Đông Nam Á với niên đại của giai đoạn 2 là 3510-3370 BP và giai đoạn
3 là 3320 – 3150 BP. Với việc không tìm thấy dấu vết của các công đoạn thử nghiệm,
các tác giả cho rằng cư dân tại đây đã thành thạo kỹ thuật này từ rất sớm. Không có mỏ
đá vôi trong vùng và cũng không tìm thấy bằng chứng cho việc nhập nguyên liệu từ nơi
khác, các nhà nghiên cứu cho rằng, nguồn vôi được lấy từ việc nghiền vỏ các loài nhuyễn
thể, tuy nhiên cũng cần phải nghiên cứu sâu hơn.
Từ các nghiên cứu liên quan, các tác giả cho rằng tại Lộc Giang đã hình thành một
trong những cộng đồng cư trú sớm nhất Đông Nam Á lục địa và sàn trình đá vôi là một
truyền thống xây dựng và phản ánh quá trình cư trú lâu dài nơi đây. Các kết quả nghiên
cứu mở ra các hướng nhìn mới về cư trú và tổ chức xã hội ở Đông Nam Á thời Đá mới,
một giai đoạn văn hóa phân hóa đa dạng và phong phú trong lịch sử. Và việc ứng dụng
công nghệ vi khảo cổ học vào trong nghiên cứu nên được ứng dụng rộng rãi hơn.
2. Bình luận nội dung bài viết
Bài viết là một báo cáo ngắn gọn các kết quả khai quật được tại Lộc Giang, Long
An, miền Nam Việt Nam thông qua một hướng tiếp cận khá mới mẻ là sử dụng công
nghệ để phân tích cấu tạo vật liệu từ cấp độ phân tử, gồm cả tính chất vật lý và hóa học
của vật liệu. Các kết quả cũng đã được trình bày tóm lược thông qua các bảng biểu và
hình ảnh đính kèm.
Việc phân tích vi khảo cổ học trong bài chỉ dừng lại ở mức độ hiểu biết về vật liệu
và kỹ thuật người xưa đã sử dụng để làm nên các lớp sàn này; tuy nhiên, chưa đủ cơ sở
để khẳng định nguồn gốc nguyên vật liệu, cũng như tập quán cư trú, xây dựng thời này
chỉ mới dừng lại ở bước giả định. Nguyên nhân một phần là do sự thiếu vắng các di tích
cư trú, trước nay chỉ mới tập trung vào nghiên cứu các di tích mộ táng và khả năng mở
rộng khai quật còn hạn chế.
Bài viết đã giới thiệu được các công nghệ lần đầu tiên được ứng dụng trong nghiên
cứu các di tích cư trú ở Đông Nam Á lục địa là phân tích vi hình thái học, FTIR, QEM-
EDS, XRD và nồng độ silica sinh học; và đề xuất nên các công nghệ này nên được ứng
dụng rộng rãi. Tuy nhiên, trong bối cảnh khảo cổ học Việt Nam thì điều này không dễ
do các vấn đề về chi phí, trình độ, kỹ thuật, đội ngũ nhân sự… trong quá trình khai quật
và hậu khai quật.