You are on page 1of 15

Đại Học Bách Khoa Hà Nội

Trường Hóa và Khoa học sự sống


Viện Kỹ Thuật Hóa Học

Đề Tài
Ứng dụng đất hiếm trong phân bón vi lượng
(Nguyên tố Lanthanum)

Họ và tên: Đào Thị Như Ngọc MSSV: 20190997


Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Thị Vân Anh
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT HIẾM
1. Khái niệm
1.1 Đất hiếm là gì?
- Đất hiếm là nhóm nguyên tố có hàm lượng ít trong vỏ trái Đất, chỉ chiếm
0,015% khối lượng vỏ Trái Đất, khó tách ra từng nguyên tố riêng biệt.
- Đất hiếm là một loại khoáng sản đặc biệt được xem là một kho báu có
tiềm năng kinh tế cao.
- Đất hiếm đóng vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất. Đặc biệt ở
lĩnh vực công nghệ kỹ thuật được ứng dụng rất đa dạng.
1.2 Phân loại đất hiếm
Có nhiều cách khác nhau để phân loại nhóm đất hiếm. Theo trọng lượng
nguyên tử và vị trí của chúng trong Bảng tuần hoàn, các nguyên tố đất hiếm
(NTĐH) được chia làm hai nhóm, nhóm nặng và nhóm nhẹ.
Các nguyên tố Số thứ tự Được phát hiện Năm phát hiện
đất hiếm nguyên tử bởi
Nhóm nhẹ
Lanthanum (La) 57 C.G. Mosander 1839
Cerium (Ce) 58 M.H. Klaproth & 1803
J.J Berzelius
Praseodymium 59 C.A von Welsbach 1885
(Pr)
Neodymium (Nd) 60 C.A von Welsbach 1885
Promethium 61 J.A. Marinsky L.E. 1947
(Pm) Glendenin & C.D.
Coryell
Samarium (Sm) 62 Lecoq de 1979
Boisbaudran
Nhóm nặng
Europium (Eu) 63 Sir William 1889
Crookes
Gadolinium (Gd) 64 J.C.G Marignac 1880
Terbium (Tb) 65 C.G Mosander 1843
Dysprosium (Dy) 66 Lecoq de 1886
Boisbaudran
Holmium (Ho) 67 P.T Cleve & J.L. 1879
Soret
Erbium (Er) 68 C.G Mosander 1843
Thulium (Tm) 69 P.T. Cleve 1879
Ytterbium (Yb) 70 J.C.G Marignac 1878
Lutetium (Lu) 71 G. Urban & C.A. 1908
von Welsbach
Bảng 1: Nhóm các nguyên tố đất hiếm theo số thứ tự nguyên tử`
1.3 Tính chất vật lý và tính chất hóa học
1.3.1 Tính chất vật lý
- Các kim loại đất hiếm là những kim loại màu trắng bạc, riêng Pr và Nd có
màu vàng rất nhạt. Ở trạng thái bột, chúng có màu từ xám tới đen.
- Đa số kim loại kết tinh ở trạng thái tinh thể lập phương.
- Tất cả chúng đều khó nóng chảy và khó sôi. Các NTĐH có nhiệt độ nóng
chảy, nhiệt độ sôi, nhiệt độ thăng hoa và tỉ khối biến đổi tuần hoàn theo
điện tích hạt nhân.
- Các oxit đất hiếm có thể ở dạng vô định hình hoặc tinh thể, chúng rất bền
với nhiệt và khổ nóng chảy.
- Hidroxit ở dạng kết tủa vô định hình, không tàn trong nước, độ bền nhiệt
giảm xuống từ Ce tới La lan đất hiếm Ln có màu sắc biến đổi tùy thuộc
vào cấu hình 4f. Những electron có cấu hình 4f0, 4f7, 4f14 đều không có
màu còn các cấu hình electron 4f khác có màu khác nhau.
1.3.2 Tính chất hóa học
- Các muối clorua, bromua, rodua, nitrat, sunfat của các NTĐH tan trong
nước, còn các muối florua, cacbonat, photphat và oxalate không tan.
- Các NTĐH có cấu hình electron hóa trị dạng tổng quát là 4f2-145d0-16s2.
Với cấu hình này, nguyên tử của NTĐH có xu hướng mất đi 2, 3, hoặc 4
electron hóa trị để tạo thành các ion có số oxi hóa (II), (III), và (IV).
Trong đó, các ion có số oxi hóa (III) là đặc trưng nhất.
- Oxi của các nguyên tố đất hiếm Ln203, ở dạng kết tủa vô định hình, dễ tan
trong axit, không tin trong dung dịch kiềm nhưng tin trong kiểm nóng
chảy.
- Hidroxit của chúng có tính bazơ khí mạnh, dễ dàng tan trong axit tạo
thành muối của các NTĐH.
- Muối của các NTĐH như LnX3, Ln2(SO4)3, Ln(NO3)3, được điều chế bằng
cách hòa tan oxit, hidroxit, cacbonat của các NTĐH với axít tương ứng.
- Trong khi các muối Ln2(CO3)3. Ln2(C2O4)4, khi nhiệt phân tạo thành oxit
Ln2O3.
- Người ta sử dụng tính chất này để điều chế các oxit đất hiếm.
- Ngoài trạng thái oxi hóa đặc trưng +3, các NTĐH còn có những trạng
thái oxi hóa khác, đặc trưng nhất là Ce số oxi hóa +4. Muối của Ce(IV) bị
thủy phân rất mạnh khi tan trong nước.
2. Trữ lượng đất hiếm trên thế giới
Trên thực tế, đất hiếm được tìm thấy ở khắp nơi trên bề mặt vỏ trái đất. Nó có
thể được tìm thấy ở trong các lớp trầm tích, các mỏ quặng và cát đen.
Nhìn chung trữ lượng đất hiếm trên trái đất khá nhiều. Chúng thực chất rất dồi
dào, nếu được khai thác hiệu quả và bền lâu thì chắc chắn đất hiếm sẽ đem lại
vô vàn giá trị to lớn cho con người. Và là một nguồn cung nguyên liệu quan trọng
cho sản xuất các thiết bị mới trong tương lai.

Biểu đồ 1: Top 7 quốc gia có trữ lượng đất hiếm cao nhất thế giới

Biểu đồ 2: Phân bố đất hiếm tại các vùng lãnh thổ trên thế giới
Nước Sản xuất Tỷ lệ Trữ lượng Tỷ lệ Trữ lượng Tỷ lệ
(tấn) (%) khai thác (%) tài nguyên (%)
(triệu tấn) (triệu tấn)
Hoa Kỳ 0 13,0 13,0 14,0 9,3
Trung 120.000,0 97,0 36,0 36,0 89,0 59,3
Quốc
Nga và các 19,0 19,0 21,0 14,0
nước thuộc
Liên Xô cũ
Úc 5,4 5,0 5,8 3,9
Ấn Độ 2.700,0 2,0 3,1 3,0 1,3 1,0
Braxin 650,0 0,05 0,05
Malaixia 380,0 0,03 0,03
Các nước 270,0 22,0 22,0 23,0 12,5
khác
Tổng cộng 124.000 99,0 154,0
Bảng 2: Trữ lượng và sản xuất ĐH trên thế giới năm 2009
3. Tình hình khai thác
3.1 Tình hình khai thác trên thế giới
Theo số liệu của Cục Địa chất Mỹ công bố, tổng trữ lượng tài nguyên đất hiếm
Thế giới là 150 triệu tấn, trong đó trữ lượng đất hiếm ở cấp R1E đạt tới 87,7
triệu tấn nhưng phân bố không đồng đều (cấp R1E - Theo tiêu chuẩn Liên Hợp
Quốc là đã thăm dò chi tiết và nếu khai thác là có lãi). Trong đó tập trung chủ
yếu ở các nước như: Trung Quốc 27 triệu tấn; Liên Xô cũ 19 triệu tấn; Mỹ 13
triệu tấn, Australia 5,2 triệu tấn; Ấn Độ 1,1 triệu tấn; Canada 0,9 triệu tấn; Nam
Phi 0,4 triệu tấn; Brazil 0,1 triệu tấn; Các nước còn lại 21 triệu tấn. Trung Quốc
là nước có tiềm năng, có trữ lượng đất hiếm lớn nhất và hiện tại cũng là nước
khai thác và sản xuất đất hiếm nhiều nhất. Trong những năm qua, bốn nước sản
xuất đất hiếm đáng kể có sản lượng nhiều nhất hằng năm như sau: Trung Quốc
là 120.000 tấn (chiếm 96,8% sản lượng Thế giới), Ấn Độ 2.700 tấn, Brazil 650
tấn, Malaysia 350 tấn. Theo số liệu thống kê, tiêu thụ các sản phẩm đất hiếm
trên thế giới vẫn không ngừng gia tăng. Dự báo chung nhu cầu tiêu thụ đất hiếm
trên toàn cầu sẽ tăng trưởng từ 4 đến 7%/năm. Châu Á là thị trường tiêu thụ lớn
nhất 13.710 tấn/năm, tiếp đó là Bắc Mỹ 8.335 tấn/năm và châu Âu là 7.180
tấn/năm. Các nước tiêu thụ đất hiếm lớn nhất là Mỹ (26,95%), Nhật Bản
(22,69%), Trung Quốc (21,27%). Các nước nhập khẩu các sản phẩm đất hiếm
lớn nhất là Nhật Bản, Pháp, Đức, Anh, Australia. Các nước xuất khẩu sản phẩm
đất hiếm lớn nhất là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan.
3.2 Tình hình khai thác tại Việt Nam
STT Tên mỏ, Thành phần Hàm Trữ Ghi chú
điểm khoáng vật lượng lượng,
quặng tấn
TR2O3
1 Mỏ đất Bastnezit, + Quặng 7.707.461 Đang
hiếm Bắc parizit, phong thăm dò
Nậm Xe lantanit, orthit, hóa: 2,0 -
cordilit, 16,8%
fluocerit, TR2O3 +
sinkirit, Quặng
mariniakit, gốc: 0,6 -
monazit, 31,35%
xenotim, TR2O3
uranokiecxit.
2 Mỏ đất Bastnezit, 0,5 - 4.381.873 -
hiếm Đông parizit, 39,0%
Pao lantanit, orthit, TR2O3
barit, fluorit.
3 Mỏ đất Parizit, 0,5 - 4.090.059 Đang
hiếm Nam bastnezit, 36,0% thăm dò
Nậm Xe lantanit. TR2O3
4 Mỏ đất Monazit, 1,0 - 129.207 Quy
hiếm bastnezit, 3,18% hoạch dự
Mường samarskit, TR2O3 trữ quốc
Hum rabdophanit, gia
cordilit, exinit,
thorit, zircon.
5 Mỏ đất Fergruxonit, 0,1 - 7,0% 31.695 -
hiếm Yên xenotim, TR2O3
Phú monazit,
samarskit,
orthit, treralit,
cherchit,
rabdophanit,
tocbecnit.
6 Mỏ Monazit, 0,15 - 4,8 1.315 -
monazit xenotim, orthit kg/m3
Pom Lâu monazit
7 Mỏ Monazit, 0,15 - 4,8 3.366 -
monazit xenotim, orthit kg/m3
Châu Bình monazit
8 Mỏ Monazit, 0,15 - 4,8 2.749 -
monazit xenotim, orthit kg/m3
Bản Gió monazit
9 Mỏ Monazit, 5,42 193.680 -
monazit xenotim kg/m3
Cát khánh, monazit
Đêzi
10 Mỏ Monazit, 1,41 50.044 -
monazit xenotim kg/m3
Mỹ Thọ monazit
11 Mỏ Monazit, 2,97 18.343 -
monazit Kẻ xenotim kg/m3
Sung monazit
12 Mỏ Monazit, - 12.619 -
monazit xenotim
Cẩm Hòa
13 Mỏ Monazit, 2,21 8.256 -
monazit xenotim kg/m3
Quảng monazit
Ngạn
14 Mỏ Monazit, 1,33 4.754 -
monazit xenotim kg/m3
Cửa Đại monazit
15 Mỏ Monazit, 0,62 3.885 -
monazit xenotim kg/m3
Hòn Gốm monazit
16 Mỏ Monazit, 1,00 3.246
monazit xenotim kg/m3
Vĩnh Mỹ monazit
17 Mỏ Monazit, 0,73 2.866 LĐ Địa
monazit Kỳ xenotim kg/m3 chất 10
Ninh monazit
18 Mỏ Monazit, 1,01 1.594
monazit xenotim kg/m3
Tuy Phong monazit
19 Mỏ Monazit, 1,30 1.478
monazit xenotim kg/m3
Xuân monazit
Thịnh
Bảng 3: Tổng hợp trữ lượng tài nguyên đất hiếm Việt Nam theo mỏ
4. Những ứng dụng quan trọng của đất hiếm
4.1 Ứng dụng đất hiếm trong công nghiệp
Đất hiếm được sử dụng nhiều trong các ngành công nghiệp như sau:
- Được dùng để chế tạo các nam châm vĩnh cửu cho các máy phát điện;
- Góp phần vào hoạt động chế tạo các nam châm ở các máy tuyển từ
trong công nghệ tuyến khoáng. Nam chiến lại là một phần thiết yếu của ổ đĩa,
mô tả nhỏ, bất cứ thứ loa nào phát ra âm thanh, turbine chạy điện hay máy phát;
- Giúp chế tạo các đèn cathode trong các máy vô tuyến truyền hình;
- Được làm chất xúc tác ở trong công nghệ lọc hóa dầu và xử lý môi
trường hiệu quả;
- Được dùng để làm vật liệu siêu dẫn;
- Các ion của đất hiếm còn được sử dụng phổ biến như các vật liệu phát
quang trong các ứng dụng quang điện;
- Ứng dụng quan trọng trong công nghệ laser hồng ngoại cho mục đích
quân sự
- Được sử dụng để chế tạo cảm biến cho hệ thống tên lửa.
- Được ứng dụng nhiều trong ngành công nghiệp kinh. Cụ thể: Cerium,
lanthanum và lutetium được dùng trong cả việc đánh mặt kính và thêm các màu
sắc cho kính.
- Đất hiếm còn được tìm thấy trong các đồ gia dụng để giúp máy tính và
điện thoại thông minh nhẹ hơn, nhỏ gọn và hiệu quả hơn rất nhiều.
4.2 Ứng dụng trong nông nghiệp
Song song với những ứng dụng trong công nghiệp, đối với ngành nông nghiệp,
đất hiểm được ứng dụng để bổ sung thêm vào phân bón cho cây trồng. Đặc biệt,
các chế phẩm phân bón vi lượng giúp tăng năng suất và chống chịu sâu bệnh
cho các loại cây trồng. Đồng thời, đất hiểm cũng được dùng như một chất thử
nghiệm để bổ sung vào thức ăn trong chăn nuôi. Đặc biệt hơn, đất hiếm còn
giúp diệt mối mọt trong các cây trục để giúp bảo tồn các di tích lịch sử.
4.3 Ứng dụng trong y tế
Đối với lĩnh vực y tế, đất hiếm dùng để sản xuất thiết bị y tế, thuốc trị ung thư,
thuốc viêm khớp. Đất hiếm còn được tìm thấy trong ống nhòm, động cơ máy
bay, vũ khí. Các chất phụ gia trong hệ thống khi thải xe hơi còn tìm thấy đất
hiếm. Nó giúp hệ thống này giảm phát thải.
5. Tác hại của việc khai thác đất hiếm
- Quá trình khai thác đất hiếm mặc dù không phức tạp, nhưng ảnh hưởng
nặng nề tới sức khỏe của những người công nhân. Đồng thời làm ô nhiễm
môi trường xung quanh các mỏ, các trung tâm xử lý quặng, ô nhiễm
không khí và ô nhiễm đất nghiêm trọng.
- Quá trình này còn có thể tàn phá môi trường. Bởi các mỏ khai thác sẽ đặt
hệ sinh thái vào thế nguy hiểm khi thải ra các sản phẩm phụ gốc kim loại,
gây ô nhiễm nguồn nước.
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG CỦA ĐẤT HIẾM (LANTHANUM)
TRONG PHÂN BÓN CHO CÂY TRỒNG
1. Đất hiếm trong phân bón nông nghiệp
Trong những thập kỷ gần đây, đất hiếm và phân bón chứa đất hiếm cùng với
phân đạm (N) và phân lân (P) đã được các nhà nông sử dụng để cải thiện năng
suất và chất lượng cây trồng. Sự tương tác giữa đất hiếm và N đã được giải
thích trong đất, nhưng người ta biết rất ít về ảnh hưởng của đất hiếm đối với
dinh dưỡng P của cây trồng trên đồng ruộng. Khi cây ngô bước vào giai đoạn
kéo dài thân sớm, một loại phân bón có chứa đất hiếm (lantan (La) và xeri (Ce)
là các loại đất hiếm chính) được bón vào đất cùng với nước tưới. Mười ngày sau
khi bón đất hiếm, không có sự tích lũy đáng kể P phụ thuộc vào liều lượng trong
rễ và chồi, ngoại trừ một trường hợp nồng độ P tăng lên trong rễ với liều lượng
100 kg đất hiếm ha-1. Tuy nhiên, khi trưởng thành, việc bón đất hiếm ở mức
dưới 10 kg ha-1 đã cải thiện đáng kể sự hấp thu P của ngô trồng ngoài đồng và
sự vận chuyển P đến hạt. Việc sử dụng đất hiếm ở mức dưới 10 kg ha-1 đã làm
tăng năng suất cây trồng. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng ở tỷ lệ sử dụng đất
hiếm dưới 10 kg ha-1, không có sự tích tụ kim loại nặng và đất hiếm trong hạt và
tỷ lệ sử dụng đất hiếm trung bình hiện tại (< 0,23 kg.ha-1.năm-1) hiện đang được
áp dụng ở Trung Quốc không có khả năng ảnh hưởng đến sự an toàn của ngũ
cốc trong đất canh tác. Cùng với nhau, những nghiên cứu thực địa này có thể
mang lại hiểu biết khoa học về lợi ích và rủi ro khi sử dụng đất hiếm trong nông
nghiệp và về sự tương tác giữa đất hiếm và dinh dưỡng P trong cây trồng trên
đồng ruộng.
Một nghiên cứu về nhà kính đã được thực hiện để điều tra sự tích tụ của các
nguyên tố đất hiếm (REE), La, Ce, Pr và Nd, trong lúa mì vụ đông ( Triticum
aestivum L.), và sự phân loại của các nguyên tố này trong đất sau khi áp dụng
REE phân bón. Năng suất cây trồng được cải thiện đã được xác nhận bởi thí
nghiệm. Hành vi tích lũy của La, Ce, Pr và Nd trong lúa mì khác nhau tùy thuộc
vào nồng độ sử dụng phân bón REE, nghĩa là tăng khi tăng nồng độ REE ở mức
bón phân thấp, không đổi trong phạm vi REE trung bình và giảm khi tăng nồng
độ REE ở mức bón phân cao ứng dụng. Mối tương quan tiêu cực đáng kể đã thu
được giữa hàm lượng REE trong rễ và độ pH của đất ( r=−0,5787 đến −0,8442
đối với La). REE trong cả đất được bón phân và đất không được bón phân được
phân đoạn bằng quy trình chiết xuất tuần tự ba giai đoạn thành ba phần riêng
biệt về mặt hóa học: hòa tan trong nước, có thể trao đổi và liên kết với cacbonat
(B1), liên kết với oxit Fe–Mn (B2) và liên kết với hữu cơ và sunfua ( B3). REE
trong đất được bón phân được tìm thấy chủ yếu ở phân số B2 và B3, chỉ có một
lượng nhỏ ở phân số B1. REE ở phân số B1 và B2 có tương quan nghịch với độ
pH của đất ( r=−0,6892 đến −0,8927 và −0,7462 đến −0,9482). Mối tương quan
đáng kể đã thu được giữa các REE trong phần B1 và nội dung của REE trong
thư mục gốc. Hệ số tương quan dao động từ 0,6159 đến 0,7410 khi lượng bón
thấp hơn 20,0 mg/kg đất. Không quan sát thấy mối quan hệ có thể chấp nhận
được giữa hàm lượng REE trong chồi và bất kỳ thành phần chiết xuất nào trong
đất.
Việc sử dụng phân bón dựa trên REE đã được thực hiện rộng rãi ở Trung Quốc
từ năm 1990 (Wu và Guo, 1995, Yu và Chen, 1995). Năng suất được nâng cao
và chất lượng của cây trồng được cải thiện nhờ các ứng dụng của REE đã được
báo cáo (Guo, 1985, Ning, 1985). Tuy nhiên, do việc sử dụng chúng, ngày càng
có nhiều REE xâm nhập vào môi trường. Việc tiếp xúc liên tục với nồng độ
thấp của REE có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe do sự tích lũy
sinh học của chúng dọc theo chuỗi thức ăn. Mặc dù cho đến nay chưa có báo
cáo về tỷ lệ ngộ độc do hấp thụ REE thông qua chuỗi thức ăn.
Người ta đã dự báo rằng việc sử dụng REEs trong nông nghiệp và hậu quả là ô
nhiễm môi trường do REEs sẽ tiếp tục gia tăng trong vài thập kỷ tới (Volokh et
al., 1990). Các REE từ các nguồn do con người tạo ra thường xâm nhập vào môi
trường ở dạng có sẵn về mặt sinh học, điều này đặc biệt đáng quan tâm vì chúng
có thể làm mất cân bằng chu trình sinh địa hóa của các loài này. Do đó, cần có
các nghiên cứu được thiết kế tốt để xác định mức độ tích lũy REE trong các loại
đất khác nhau, đồng thời nghiên cứu phản ứng và sự hấp thu REE của cây trồng
do sử dụng phân bón. Ngoài ra còn có một nhu cầu cấp thiết là chỉ định các loại
REE trong đất để hiểu rõ hơn về tính khả dụng sinh học của các loại hợp chất
khác nhau của các loài REE.
Nhiều báo cáo đã được công bố trong đó sự phân bố và sự phong phú của REE
được nghiên cứu từ quan điểm địa hóa học hoặc khoáng vật học (Scott, 1990,
Wronkiewicz và Condie, 1990, Liu và cộng sự, 1993). Mặt khác, thông tin tài
liệu về các tác động môi trường, tích lũy sinh học và khả dụng sinh học của
REE đã nhận được rất ít sự chú ý cho đến những năm gần đây. Bắt đầu từ cuối
những năm 1990, nỗ lực ngày càng tăng đã hướng đến các tác động môi trường
của REE, và một số báo cáo gần đây bao gồm nghiên cứu về sự tích lũy REE
trong thực vật (Ichihashi và cộng sự, 1992), đất (Wyttenbach và cộng sự,
1998) , trầm tích (Zhu et al., 1997) và các mẫu sinh học (Tu et al., 1994).
Nghiên cứu này được khởi xướng dựa trên nền tảng trên. Mục tiêu của chúng
tôi trong công việc hiện tại là: (1) đánh giá sự tích lũy REE trong lúa mì sau khi
bón phân ở các loại đất khác nhau; (2) xác định các dạng hóa học của REE
trong đất sau khi bón phân REE; và (3) điều tra mối quan hệ giữa sự hấp thụ của
thực vật và đặc tính hóa học của REE.
Hình 2: Thử nghiệm phân bón vi lượng đất hiếm trên cây chè
2. Lanthanum trong phân bón nông nghiệp
2.1 Phân chứa vi lượng La thử nghiệm trên cây trồng tại một số địa điểm của
Trung Quốc
- Bắc Kinh: lúa mì vụ xuân; dưa chuột; cà chua; bắp cải Trung Quốc; bắp
cải; củ cải và đậu tây. Phân bón thương hiệu Trường Lạc được phun lên
cây, có chứa 23,95% La ở dạng muối nitrat.
Đối với lúa mì và rau vụ xuân, 600g/ha Trường Lạc đã được sử dụng
trong mùa lúa mì vụ xuân xanh trở lại và rau phát triển mạnh tương ứng.
Đối với lúa, lượng phân REE 411 g/ha được bón khi khoảng 10% số bông
đang nở.
- Hắc Long Giang: lúa mì vụ xuân được chọn làm cây đại diện.
- An Huy: muối clorua của La được sử dụng trong hai thí nghiệm về lúa:
một phần 113 g La/ha và một lượng lớn hơn 1130 g La/ha được sử dụng
để tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa việc bón phân REE và sự tích
lũy REE trong cây.
Phân bón REE được trộn với các loại phân bón khác và bón vào đất trước
khi reo hạt giống
- Giang Tây: phân La dưới dạng nitrat được sử dụng với liều lượng 113 và
2260 g La/ha cho điểm thí nghiệm 1 và 2 trước khi gieo lúa.
2.2 Phân tích đặc tính của REE trong đất
Một quy trình ba giai đoạn được đề xuất bởi một nhóm công tác Châu Âu được
điều phối và hỗ trợ bởi Văn phòng Tham chiếu Cộng đồng (BCR), (hiện được
gọi là Chương trình Thử nghiệm và Đo lường Tiêu chuẩn của Cộng đồng Châu
Âu (SMT)), đã được sử dụng. REEs trong đất được phân đoạn thành ba phần:
hòa tan trong nước, trao đổi và liên kết cacbonat (B1), Fe Mn liên kết oxit (B2),
chất hữu cơ và sunfua hóa (B3).
2.2.1 Xác định REE trong đất và thực vật
Một phần 0,400 g mẫu thực vật khô và nghiền được phân hủy bằng hỗn hợp
gồm 5 mL HNO3 (68,0%) và 0,5 mL HClO4 (72,0%).
Một mẫu đất khô (0,100g) được phân hủy bằng 3 mL hỗn hợp HNO3-HF
HClO4 (1+1+1) dưới áp suất cao (Shan et cộng sự, 1992).
Tổng hàm lượng La trong đất và các mẫu thực vật được xác định bằng phép đo
phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS).
Các điều kiện hoạt động cho xác định đã được tối ưu hóa; 115In đã được sử
dụng như một tiêu chuẩn nội bộ. Thông tin chi tiết được hiển thị trong Bảng 4:
Hệ thống ICP
Công suất 1350 W
Công suất hao tổn <5W
Tốc độ dòng làm mát (Argon) 14 L/phút
Tốc độ dòng phụ trợ 0,91 L/phút
Tốc độ dòng phun 0,8 L
Tỷ lệ hấp thụ mẫu 1,0 mL/phút
Độ sâu lấy mẫu 15 mm
Khối quang phổ kế (MS)
Dụng cụ lấy mẫu (lỗ Niken) 1,0 mm
Skimmer (niken) 0,7 mm
Áp suất giai đoạn 3 1.7 10-1 mPa
Thu thập dữ liệu Chế đọ quét phạm vi
Tổng thời gian 60 giây
Bảng 4: Điều kiện hoạt động của ICP-MS
2.2.2 Kiểm tra độ chính xác xác định REE
Độ chính xác của phép phân tích nguyên tố được kiểm tra bởi xác định REEs
trong tài liệu tham khảo tiêu chuẩn của lúa mì, đất và lá trà. Kết quả được liệt kê
trong Bảng 5, và một số điều kiện đã đạt được giữa các dữ liệu thu được bằng
phương pháp hiện tại và các giá trị được chứng nhận.
Bảng 5: Xác định REE trong các tài liệu tham khảo được chứng nhận bởi
ICP-MS
2.3 Kết quả thực nghiệm
Bắp cải Trung Quốc đều cao hơn đáng kể kiểm soát không chỉ đối với La mà
còn đối với hầu hết các REEs.
Không có sự tích tụ đáng kể nào của REEs được tìm thấy trong hạt lúa mì vụ
xuân và gạo sau khi sử dụng “Trường Lạc”.
Tuy nhiên, tìm thấy sự tích lũy La trong các phần khác của lúa mì. So với lúa,
nồng độ La trong lúa mì vụ xuân thường cao hơn, chứng tỏ rằng lúa mì mùa
xuân có thể có khả năng tương đối cao hơn để tích lũy La.
Điểm Hắc Long Giang: Giống như điểm Bắc Kinh, nồng độ La trong rễ, thân và
lá cao hơn.
Có lẽ nhiều yếu tố ảnh hưởng đến các mô hình phân phối của La trong thực vật
bao gồm tính chất đất, sự hình thành loài và quá trình tích lũy của NLMT trong
điều kiện đất đai, khí hậu, giống cây trồng và thời kỳ sinh trưởng của cây trồng.
Địa điểm An Huy: Hàm lượng REEs trong thân và lá tăng khi bón phân La với
liều lượng cao hơn. Tuy nhiên, không có tích lũy đáng kể trong hạt, trong đó
bón phân La thấp hơn.
Nồng độ của La trong hạt hơi cao hơn. Cần chỉ ra rằng sự tích lũy sinh học
trong lá và gốc.
Thứ tự tích lũy được quan sát được: lá>thân>hạt.
III. KẾT LUẬN
Dựa trên nghiên cứu trên, người ta có thể rút ra những kết luận sau:
(1) Trong điều kiện nghiên cứu thực địa, sự phân bố của La trong các bộ
phận khác nhau của cây tuân theo thứ tự: rễ, lá, thân, hạt. La có thể được
tích lũy đáng kể trong dinh dưỡng của một số loại rau. Do đó, có thể coi
La vi lượng cần để thúc đẩy sự phát triển của thực vật, cần có nhiều
nghiên cứu hơn về tác động độc tính của sựu hiện diện La trong cây trồng
ở nồng độ này.
(2) Mặc dù La ngoại sinh trong đất chủ yếu là các dạng liên kết oxit Fe-Mn,
chất hữu cơ và sunfua, nhưng La tan trong nước, có thể trao đổi và liên
kết với cacbonat được coi là dạng có sẵn của thực vật. Tuy nhiên, các
dạng tồn tại của La ngoại sinh phụ thuộc vào đặc tính hóa lý của đất.
(3) Khi bón phân chứa vi lượng La ở mức 165 g/ha đối với lúa mì và ở mức
113 g/ha đối với lúa thì nồng độ La trong rễ, thân, lá tăng đáng kể. nhưng
không tìm thấy sựu tích tụ La trong hạt lúa mì và gạo, ngoại trừ hạt được
trồng tại Giang Tây. Vì vậy cần chú ý bón phân La trên đất chưa tích lũy
REE cho thực vật.

You might also like