You are on page 1of 8

ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA RUBI VÀ SAPHIR

TRONG MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGUỒN GỐC Ở VIỆT NAM


PHẠM VĂN LONG1, VIRGINIE GARNIER2, GASTON GIULIANI2,
DANIEL OHNENSTETTER2, DIETMAR SCHWARZ3
1
Trung tâm Nghiên cứu - Kiểm định đá quý và vàng, 91 Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội
2
UPR 2300 CRPG/CNRS, BP 20, 54501 Vandœuvre, Pháp
3
Gubelin Gemmological Laboratory, Maihofstrasse 102, 6000 Lucerne 9, Thuỵ Sĩ

Tóm tắt: Bài báo trình bày những kết quả nghiên cứu đặc điểm thành phần hoá học
của rubi và saphir ở một số vùng mỏ của Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
chúng liên quan tới các thành tạo đá hoa thường có hàm lượng Cr2O3 cao, đồng thời
các tương quan giữa Cr2O3 với Fe2O3, TiO2 là tương quan nghịch, và tương quan giữa
Cr2O3 với V2O5 là tương quan thuận. Saphir thành tạo liên quan với đá bazan, đặc
trưng bởi hàm lượng cao của Fe2O3 và tương quan giữa Fe2O3 với TiO2 thường là
tương quan thuận. Trên cơ sở đặc điểm thành phần của các nguyên tố, có thể xây dựng
biểu đồ trường phân bố của rubi và saphir dựa trên tương quan của các tỷ số
Cr2O3/Ga2O3 và Fe2O3/TiO2.

MỞ ĐẦU
Nghiên cứu đặc điểm thành phần hoá học của rubi và saphir có một ý nghĩa quan trọng trong
việc luận giải điều kiện thành tạo và nguồn gốc của chúng. Thành phần hoá học không những
quyết định đến màu sắc cũng như các tính chất vật lý và quang học của rubi và saphir, mà
chúng còn phản ánh tính chất hoá lý của môi trường thành tạo và mối quan hệ của chúng với
đá vây quanh.
Trong bài báo này, các tác giả phân tích một cách chi tiết và có hệ thống thành phần của
rubi và saphir ở các vùng mỏ khác nhau và trong các loại hình nguồn gốc khác nhau, như sa
khoáng và trong đá gốc, để từ đó làm cơ sở cho việc phân biệt các kiểu nguồn gốc khác nhau
của chúng.
I. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA RUBI VÀ SAPHIR
1. Các mỏ và điểm quặng rubi và saphir ở miền Bắc
Đại diện cho các mỏ và điểm quặng rubi và saphir ở miền Bắc là các mỏ rubi và saphir liên
quan đến đá hoa vùng Lục Yên và Quỳ Châu. Các mỏ rubi và saphir vùng Yên Bái gồm các
mỏ Tân Hương, Trúc Lâu, các điểm quặng Tân Đồng, Ba Bể và một số khu vực khác. Đại diện
cho các mỏ và điểm quặng saphir miền Nam là các mỏ saphir liên quan với các đá bazan vùng
Tây Nguyên.
Tại Lục Yên, rubi và saphir thương phẩm chủ yếu được khai thác trong các thành tạo sa
khoáng liên quan tới các hố sụt karst. Các điểm rubi và saphir gốc được phát hiện trong các
trầm tích biến chất cao có tuổi cổ thuộc đới Lô - Gâm tại Bãi Đá Lăn, An Phú, Minh Tiến,
Nước Ngập, Khoan Thống. Trong đá gốc, rubi có dạng lăng trụ sáu phương tháp cụt, tang trống,
màu đỏ sắc hồng, kích thước thay đổi từ 1,5 đến 30 mm, từ bán trong đến trong. Saphir dạng
lăng trụ sáu phương, dạng thùng có màu lam loang lổ, hồng tím,... Rubi gốc trong đá hoa phân
bố cùng với phlogopit, margarit, pyrit và graphit.
Vùng mỏ rubi Quỳ Châu phát triển trên cấu trúc vòm nâng Bù Khạng cũng liên quan tới các
thành tạo biến chất có tuổi cổ và giàu nhôm. Tại đây, rubi được khai thác chủ yếu trong các
thành tạo eluvi, đeluvi khu Đồi Tỷ, Đồi Triệu, Bản Gié,.... Rubi gốc được phát hiện trong đá
hoa tại ranh giới giữa đồi Mồ Côi và đồi Tỷ. Đá hoa bao gồm chủ yếu là calcit màu xám trắng,
hạt nhỏ chứa rubi, phlogopit, graphit. Tại Quỳ Châu, chủ yếu gặp rubi và saphir hồng, còn
saphir lam và saphir các màu khác hiếm gặp hơn. Rubi Quỳ Châu thường có màu đỏ phớt tím
với độ bão hoà màu cao và rất được ưa chuộng trên thị trường.
Tại vùng Tân Hương, rubi gốc gặp trong pegmatit, granosyenit có kích thước thay đổi
khoảng 0,1-0,4 mm [4]. Rubi ở đây có màu khác nhau: đỏ hồng, đỏ tía. Saphir có màu lam
loang lổ, hồng nhạt phớt lam, phớt vàng.
Tại Trúc Lâu, saphir có trong pegmatit và trong plagioclasit (Trần Ngọc Quân, 1998). Saphir
dạng lăng trụ, kích thước 1,2-8,2 cm, màu lam loang lổ, hồng tươi phớt vàng, bán trong đến
trong.
Tại Tân Đồng, gặp đá gốc chứa tổ hợp khoáng vật saphir, margarit, plagioclas, được coi là
liên quan tới các hoạt động biến chất trao đổi.
Tại Ba Bể, gặp saphir lam nhạt và không màu trong các thân pegmatit xuyên cắt các thành
tạo đá phiến hoặc đá hoa. Các tinh thể saphir ở đây thường đục và không có giá trị thương
phẩm.
2. Các mỏ và điểm quặng saphir miền Nam
Các mỏ saphir liên quan đến các thành tạo bazan phát triển chủ yếu ở miền Nam Việt Nam
với các cụm mỏ như Ngọc Yêu (bắc Kon Tum), Ea Hleo (Buôn Ma Thuột), Đăk Nông (Đăk
Lăk), Tiên Cô, Sơn Điền, Sa Võ (Lâm Đồng), Ma Lâm, Đá Bàn (Bình Thuận). Tại các vùng
trên, saphir phân bố chủ yếu trong các thành tạo sa khoáng. Saphir ở đây thường có màu xanh
đen thẫm (saphir đen), xanh lục, xanh nước biển, xanh lục vàng,...ở dạng mảnh vỡ, tinh thể bị
mài tròn với các kích thước khác nhau. Tại Đá Bàn, gặp các tinh thể saphir ban tinh trong đá
gốc là bazan kiềm.
II. ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN HOÁ HỌC
1. Rubi và saphir ở các mỏ Lục Yên và Quỳ Châu
Kết quả phân tích thành phần hoá học của rubi và saphir liên quan với các thành tạo đá hoa
trên hai vùng mỏ Lục Yên và Quỳ Châu giúp phát hiện được một tổ hợp nguyên tố phụ rất
phong phú, bao gồm chrom, sắt, silic, titan, vanađi, mangan, magnesi, calci, gali, germani,
scanđi và kẽm. Trên cả hai vùng mỏ thì các oxit tạo màu chính và có hàm lượng trội hơn cả là
Cr2O3, Fe2O3 và TiO2.
Ở Lục Yên, hàm lượng Cr2O3 dao động trong khoảng 0-2,080%, trung bình: 0,227%;
Fe2O3 dao động trong khoảng 0-0,420%, trung bình: 0,083%; TiO2 trong khoảng 0-0,230%,
trung bình: 0,050%. Các oxit khác ít phổ biến hơn và thường có hàm lượng thấp hơn, như CaO
trung bình: 0,043%; MgO trung bình: 0,021%; V2O5 trung bình: 0,011%;...
Trong rubi và saphir ở Quỳ Châu, hàm lượng các oxit cũng có những sự khác biệt. Hàm
lượng Cr2O3 dao động trong khoảng 0-2,566%, trung bình: 0,295%; hàm lượng Fe2O3 khoảng
0-2,08%, trung bình: 0,086%; hàm lượng TiO2 khoảng 0-0,230%, trung bình: 0,045%; CaO
trung bình: 0,075%; MgO trung bình: 0,026%; V2O5 trung bình: 0,013%,...
Rubi gốc trong đá hoa vùng mỏ Lục Yên được đặc trưng bởi hàm lượng Cr2O3 và MgO cao
(tương ứng là 0,660% và 1,970%) (Bảng 1); các hàm lượng Fe2O3 và TiO2 thấp (tương ứng là
0,040% và 0,050%). Hàm lượng cao của MgO chứng tỏ mối liên quan chặt chẽ với các đá hoa
đolomit trong khu vực. Trên biểu đồ trường phân bố (Hình 5), rubi gốc trong đá hoa phân bố
ở một vùng riêng biệt với tỷ số Cr2O3/Ga2O3 cao, đồng thời trường phân bố của rubi trong đá
gốc và trong sa khoáng phân bố cạnh nhau, điều đó có thể lý giải nguồn cung cấp chủ yếu rubi
cho sa khoáng là các thành tạo gốc trong đá hoa.
Như vậy, khi xem xét đặc tính của 3 oxit tạo màu chính là Cr2O3, Fe2O3 và TiO2 ở hai vùng
mỏ Lục Yên và Quỳ Châu, ta thấy Cr2O3 luôn chiếm ưu thế cả về đặc điểm phân bố và hàm
lượng, tiếp đến là Fe2O3 và TiO2. Trên cả hai vùng, hàm lượng Cr2O3 cực đại nhiều khi đạt đến
một vài % và hàm lượng cực đại của Cr2O3 ở Quỳ Châu cao hơn so với hàm lượng cực đại của
Cr2O3 ở Lục Yên.

Hình 1. Biểu đồ tương quan giữa Cr2O3 và Fe2O3 trong rubi và saphir liên quan với đá hoa

Hình 2. Biểu đồ tương quan giữa Cr2O3 và V2O5 trong rubi và saphir liên quan với đá hoa

Khi xem xét mối tương quan của Cr2O3 với Fe2O3 trong rubi và saphir liên quan với các
thành tạo đá hoa, ta thấy hàm lượng Cr2O3 thường trội hơn so với hàm lượng Fe2O3 (0,295%
so với 0,086% ở Quỳ Châu và 0,227% so với 0,083% ở Lục Yên) (Bảng 1) và tương quan giữa
Cr2O3 và Fe2O3 trên cả hai vùng là tương quan nghịch (Hình 1), điều đó dẫn đến kết quả là trên
cả hai vùng mỏ, rubi và saphir hồng chiếm tỷ lệ cao hơn so với saphir lam và saphir các màu
khác.
So với các nguyên tố khác thì hàm lượng V2O5 thường thấp hơn và chênh nhau không đáng
kể ở cả hai vùng mỏ (trung bình: 0,011% ở Lục Yên và 0,013% ở Quỳ Châu). Tuy nhiên,
V2O5 là nguyên tố tạo màu tím và sự có mặt của chúng cũng ảnh hưởng đáng kể đến màu sắc
của rubi và saphir. Khi xem xét tương quan giữa Cr2O3 và V2O5, ta thấy chúng thể hiện mối
tương quan thuận chặt chẽ (Hình 2). Như vậy, có thể thấy rằng V2O5 thường đi cùng với
Cr2O3 và đã làm cho màu đỏ của rubi ở cả hai mỏ thường có ánh phớt tím.
Hàm lượng trung bình của Fe2O3 và TiO2 trong rubi và saphir Quỳ Châu và Lục Yên gần
như tương đồng (0,086% ở Quỳ Châu và 0,083% ở Lục Yên đối với Fe2O3 và 0,045% ở Quỳ
Châu và 0,050% ở Lục Yên đối với TiO2) (Bảng 1). Trên cả hai vùng mỏ, nếu không xét đến
những mẫu có hàm lượng tăng đột biến, thì hàm lượng Fe2O3 phân bố tương đối đồng đều. Khi
xem xét tương quan của Fe2O3 với TiO2 ta thấy, trên cả hai vùng mỏ, tương quan giữa
Fe2O3 với TiO2 là thuận và hai nguyên tố này liên quan chặt chẽ với nhau (Hình 3).

Hình 3. Biểu đồ tương quan giữa Fe2O3 và TiO2 trong rubi và saphir liên quan với đá hoa

2. Rubi và saphir vùng Tân Hương, Trúc Lâu


Kết quả phân tích thành phần của rubi và saphir vùng Tân Hương và Trúc Lâu cho thấy,
thành phần tạp chất chính là Cr2O3, Fe2O3, TiO2 và V2O5. Hàm lượng Cr2O3 khá cao, trung
bình: 0,355%. Sau Cr2O3 là Fe2O3 cũng thường có mặt trong thành phần của rubi và saphir Tân
Hương, Trúc Lâu với hàm lượng trung bình 0,339%. Tại mỏ Trúc Lâu, so với Cr2O3 thì hàm
lượng Fe2O3 thường thấp hơn, tuy nhiên về đặc điểm phân bố thì chúng lại phổ biến hơn và có
mặt trong hầu hết các mẫu nghiên cứu. Sự phổ biến của Fe2O3 trong thành phần corinđon Trúc
Lâu giải thích sự chiếm ưu thế của saphir so với rubi. Tiếp theo Fe2O3, TiO2 cũng thường có
mặt trong rubi và saphir Tân Hương, Trúc Lâu với hàm lượng trung bình là 0,178% (Bảng 1).
Rubi và saphir trong các thành tạo gốc vùng Tân Hương và Trúc Lâu có thành phần khá
khác biệt so với rubi và saphir trong sa khoáng (Bảng 1). Tuy nhiên, trên biểu đồ phân bố thì
chúng lại phân bố trùng nhau (Hình 5, 6). Từ đó, có thể đi đến nhận định là rubi và saphir trong
sa khoáng có chung kiểu nguồn gốc với các thành tạo gốc kế cận.
Trên biểu đồ trường phân bố, saphir gốc các vùng Ba Bể, Trúc Lâu và Km 15 lại phân bố
trùng nhau và chúng nằm trùng với trường phân bố của rubi và saphir trong các thành tạo gốc
là gneis và amphibolit, với tỷ số Cr2O3/Ga2O3 nhỏ hơn 1 và tỷ số Fe2O3/TiO2 lớn hơn 100.
Saphir trong đá biến chất vùng Tân Đồng phân bố ở một vùng riêng biệt với hai tỷ số trên đều
rất thấp (Hình 5).

Bảng 1. Hàm lượng trung bình của rubi và saphir trong sa khoáng và đá gốc
ở một số mỏ và điểm quặng khác nhau
SA KHOÁNG
Miền Bắc Việt Nam Miền Nam Việt Nam
Quỳ Lục Tân
Quỳ Hợp Trúc Lâu Đăk Nông Bình Thuận
Oxit Châu Yên Hương
Saphir Saphir
Rubi Rubi Rubi Saphir Saphir lục Saphir đen
lam lam
TiO2 0,045 0,348 0,050 0,178 0,243 0,035 0,022 0,048
Al2O3 99,460 99,445 99,330 99,490 99,450 100,433 100,697 98,14
Cr2O3 0,295 - 0,227 0,355 0,356 0,001 0,010 -
Fe2O3 0,086 0,933 0,083 0,086 0,256 1,338 0,754 2,040
V2O3 0,013 - 0,011 - 0,049 0,001 0,001 -
Ga2O3 0,007 0,008 0,009 - - 0,028 0,024 0,028
CaO 0,075 - 0,043 - - - - -
MgO 0,026 - 0,021 - - 0,004 0,003 0,006
Tổng 100,007 100,734 99,774 100,109 100,354 101,84 101,511 100,262
ĐÁ GỐC
Lục Yên Yên Bái Ba Bể
Oxit Đá hoa Đá biến chất Amphibolit Tân Pegmatit Pegmatit
Lục Yên Tân Đồng Hương Trúc Lâu Ba Bể
Rubi Saphir lam Saphir lam Saphir lam Saphir lam
TiO2 0,050 0,190 - 0,010 -
Al2O3 97,330 99,310 99,040 99,190 99,900
Cr2O3 0,660 - 0,010 - -
Fe2O3 0,040 0,670 0,940 1,310 0,440
V2O3 0,040 - - - -
Ga2O3 0,010 0,030 0,010 0,020 0,020
MgO 1,970 0,010 - - -
ZnO 0,020 - - - -
Tổng 100,120 100,210 100,010 100,530 100,360
3. Saphir liên quan với đá bazan
Saphir liên quan với các thành tạo đá bazan miền Nam được phát hiện và khai thác trong sa
khoáng ở các vùng Di Linh (Lâm Đồng), Đăk Nông (Đăk Lăk), Ma Lâm, Đá Bàn (Bình
Thuận)... Về đặc điểm, saphir ở đây với các tinh thể có kích thước khác nhau, từ 0,4 đến 4 cm
chiều dài, 0,2-1 cm đường kính. Hầu hết chúng đều có màu lam, lam phớt lục sẫm, rất sẫm,
nhiều khi đen (saphir đen). Saphir vàng cũng gặp, nhưng rất hiếm. Các tinh thể thường bán
trong đến đục, tỷ lệ các tinh thể trong suốt để mài hàng trang sức rất thấp.
Hình 4. Biểu đồ tương quan giữa Fe2O3 và TiO2 trong saphir liên quan với đá bazan

Hình 5. Đặc tính phân bố của rubi và saphir


trong đá gốc theo tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3 và Fe2O3/TiO2

Kết quả phân tích các mẫu saphir miền Nam có màu sắc khác nhau giúp phát hiện các
nguyên tố sắt, silic, titan, gali và vanađi, trong đó Fe2O3 hoàn toàn chiếm ưu thế và có hàm
lượng trội hơn cả, với hàm lượng trung bình khoảng 1,338%. Saphir có màu lam đậm gần như
sẫm ở vùng Bình Thuận thường có hàm lượng Fe2O3 rất cao, trung bình: 2,040% (Bảng 1).
Cùng với Fe2O3, TiO2 cũng thường xuyên có mặt, nhưng hàm lượng thường thấp hơn, hàm
lượng trung bình của TiO2 khoảng 0,035%. Khi xem xét mối tương quan giữa Fe2O3 và
TiO2 trong saphir miền Nam, ta thấy chúng có mối tương quan thuận khá chặt chẽ (Hình 4).
Sự kết hợp của Fe2O3 và TiO2 trong corinđon là nguyên nhân tạo màu lam của saphir nói chung
và của saphir miền Nam nói riêng. Ở đây, chính sự chiếm ưu thế của Fe2O3 trong thành phần
và với hàm lượng tương đối cao đã chứng tỏ sự chiếm ưu thế của saphir với màu thường gặp
từ lam đến lam sẫm. Bên cạnh các oxit chính ở trên thì trong saphir miền Nam còn gặp các
nguyên tố ở dải hàm lượng thấp hơn như U, Th, Ta, Sc, Zc [3].

Hình 6. Đặc tính phân bố của rubi và saphir trong sa khoáng


theo tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3 và Fe2O3/TiO2

Trên biểu đồ trường phân bố thì saphir liên quan với bazan phân bố ở một khu vực riêng
biệt so với rubi và saphir thuộc các kiểu nguồn gốc khác. Saphir miền Nam thường có tỷ số
Fe2O3/TiO2 cao và tỷ số Cr2O3/Ga2O3 thấp (Hình 6).
BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN
- Khi đối sánh thành phần của rubi và saphir ở một số vùng khác nhau, ta thấy rubi và saphir
Lục Yên và Quỳ Châu thường có hàm lượng Cr2O3 trội hơn cả. Saphir liên quan tới bazan miền
Nam Việt Nam với sự chiếm ưu thế của Fe2O3 thường có màu lam đến lam sẫm, lục hoặc lam
phớt lục, đôi khi ta cũng gặp saphir có màu vàng phớt lục. Trên biểu đồ tỷ lệ, rubi và saphir
hồng Lục Yên và Quỳ Châu trong sa khoáng phân bố trong một vùng riêng biệt, trùng với vùng
phân bố của rubi trong đá gốc là đá hoa. Từ đó có thể khẳng định các thành tạo trong đá hoa là
nguồn cung cấp rubi chính cho sa khoáng liền kề. Saphir miền Nam Việt Nam phân bố trong
một khoảng riêng biệt với tỷ số Fe2O3/TiO2 cao cho thấy sự chiếm ưu thế của hàm lượng Fe2O3.
Một số mẫu saphir vùng Nghệ An (Quỳ Hợp) cũng có màu lam sẫm hoặc lam lục sẫm với hàm
lượng Fe2O3 rất cao và nằm trùng với vùng phân bố của saphir miền Nam. Có lẽ nguồn gốc
của chúng khác xa so với kiểu nguồn gốc của rubi và saphir vùng Quỳ Châu; vấn đề này cần
được tiếp tục nghiên cứu.
- Dựa trên đồ thị tương quan giữa các tỷ số Cr2O3/Ga2O3 và Fe2O3/TiO2 cũng giúp ta phân
biệt rubi và saphir trong các thành tạo gốc khác nhau (Hình 5). Trên đồ thị tương quan, ta thấy
sự tách biệt rõ ràng giữa chúng trong các thành tạo đá hoa và trong các thành tạo gneis,
amphibolit và pegmatit. Ngoại trừ trường hợp của saphir hồng ở điểm quặng Khe Nhàn nằm
trùng với vùng phân bố của rubi và saphir trong đá hoa, và phải chăng quá trình thành tạo saphir
hồng Khe Nhàn cũng liên quan mật thiết với các thành tạo đá hoa? Điều này cần phải được
nghiên cứu tiếp tục để làm rõ.
- Một số loại saphir không màu và saphir dạng “trapich” vùng Yên Bái phân bố gần trùng
với trường phân bố của các thành tạo đá hoa với tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3 thấp và tỷ lệ Fe2O3/TiO2 gần
bằng 1. Saphir ở đây không quan sát được trong đá gốc, nhưng chúng cũng không có nguồn
gốc từ gneis, amphibolit hoặc pegmatit. Nguồn gốc của chúng còn là một vấn đề bỏ ngỏ và cần
đầu tư để nghiên cứu tiếp tục. Cũng trên đồ thị tương quan, saphir màu hồng và màu tím vùng
Trấn Yên phân bố trùng với trường phân bố của rubi và saphir trong đá hoa, điều đó gián tiếp
cho thấy có lẽ chúng cũng liên quan tới các thành tạo đá hoa ở đâu đó trong vùng.
VĂN LIỆU
1. Hoàng Sao, Nguyễn Ngọc Khôi, Ngụy Tuyết Nhung, 2003. Đá quý rubi và saphir Việt
Nam và phương pháp xác định, Thông tin Khoa học Kỹ thuật Địa chất, Cục Địa chất và Khoáng
sản Việt Nam, Hà Nội.
2. Ngụy Tuyết Nhung, 1998. Rubi và saphir và các đá bán quý vùng mỏ Yên Bái. TC Địa
chất, A/245 : 62-68, Hà Nội.
3. Nguyễn Hoàng, Flower M., Phạm Tích Xuân, 1996. Thạch luận bazan Kainozoi muộn
Việt Nam. Công trình kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Địa chất, 1 : 142-155. Viện Địa chất,
Hà Nội.
4. Nguyễn Kinh Quốc, Phạm Trung Lượng, Nguyễn Đại Trung, Hồ Hữu Hiếu,
1995. Tiềm năng đá quý Việt Nam. Địa chất, khoáng sản, dầu khí VN, 2 : 143-152. Hà Nội.
5. Phạm Văn Long, 2003. Nghiên cứu đặc điểm tinh thể khoáng vật học và ngọc học của
rubi, saphir ở hai vùng mỏ Lục Yên (Yên Bái) và Quỳ Châu (Nghệ An). Luận án Tiến sĩ Địa
chất. Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội.
6. Pham Van Long, Hoang Quang Vinh, Virginie Garnier, Gaston Giuliani, Daniel
Ohnenstetter, 2004. Marble-hosted ruby from Vietnam. The Canadian Gemmologist, 25/3 :
83-95.

You might also like