Professional Documents
Culture Documents
Viet Origins - Part 13
Viet Origins - Part 13
13.1. Nước
1
Hình 1. màu vàng: nước Cổ Loa, vẽ lại theo Pryce et al.7
2
Đây là lúc hưng thạnh của trống đồng ở Vân Nam, từ đó kiểu trống Shizaishan đưa sang miền
bắc Việt Nam và Quảng Tây để làm mẫu (bài 9). Đây cũng là lúc hưng thạnh của trống đồng Đông
Sơn ở miền bắc Việt Nam.
Ngược lại, Quảng Tây chưa làm trống đồng, có thể là vì lúc đó hàng trăm ngàn quân của trào
Tần (221–207 BCE) đang đóng ở Lãnh Nam, tên gọi chung Quảng Tây và Quảng Đông, để ngừa
bạo loạn.9 (Coi thêm 13.2.2 bên dưới.)
2. Thế kỷ 1 BCE ~ 1 CE (hình 3)
Ở phase này, Vân Nam không còn làm trống đồng nữa, sau khi vua nước Điền ở đó thần phục
trào Hán lối 110 BCE. Quảng Tây vẫn chưa làm trống đồng, có thể là vì xung đột giữa thổ dân với
trào Hán hồi đầu thế kỷ 1 CE (coi thêm 13.2.2 bên dưới). Miền bắc Việt Nam vẫn chế tạo trống
đồng như phase 1.
3
3. Thế kỷ 2 CE ~ (hình 4)
Đây là lúc hưng thạnh của trống đồng Quảng Tây, có thể là nhờ kỹ thuật đúc trống ở miền bắc
Việt Nam đem qua.
(Cho tới ngày nay, ở Quảng Tây, nhiều nhóm thiểu số, thí dụ Yao ‘quần trắng’, vẫn còn giữ
một nền ‘văn hóa trống đồng’ đặc sắc.10)
Ngược lại, ở phase này, miền bắc Việt Nam không có nhiều trống đồng. Vì sao?
Calo,11 nhà khảo-cổ-học người Úc, phân tách hoa văn trang trí trên những trống Đông Sơn tìm
thấy ở vùng đảo Đông Nam Á, cho rằng số trống đó là do nhiều nhóm ‘thương nhơn’ (trader) đem
từ miền bắc Việt Nam xuống vùng đảo Đông Nam Á bán chác trong hai thời kỳ (hình 5):
1. thế kỷ 1~2 CE: kiểu trống Ngọc Lũ 1, ‘date’ thế kỷ 3 BCE ~ 1-2 CE, đi nhiều chuyến, bán ở
phía tây;
2. thế kỷ 3~5 CE: kiểu trống Hữu Chung (với 4 hình cóc trên rìa mặt trống), ‘date’ thế kỷ 3~4
CE, đi một chuyến, bán ở phía đông.
4
Hình 5. đường màu đỏ: kiểu trống Ngọc Lũ 1, đường màu nâu: kiểu trống Hữu Chung,
vẽ trên hình nền của https://aseanup.com/free-maps-asean-southeast-asia/
Vậy, trống đồng miền bắc Việt Nam ở phase 3 ít hơn so với hai phase trước, có lẽ là vì bán bớt
ra nước ngoài chớ không phải vì bị trào Hán [và/hoặc những trào sau đó] cấm làm. Tới thế kỷ 6
CE miền bắc Việt Nam vẫn còn làm trống đồng, dựa theo ‘date’ của những mảnh khuôn đúc tìm
thấy ở Luy Lâu (Bắc Ninh).12
Ta thấy trống đồng Đông Sơn cho tới đầu công nguyên đã trở nên một món đồ quý có giá trị
thương mãi: ngay người Tàu lúc đó cũng ưa dùng đồ đồng Đông Sơn, kể cả trống, trong nếp sống
của họ.13
Tóm lại, việc chế tạo trống đồng ở nước Cổ Loa đã xảy ra đều đặn suôn sẻ suốt 3 phase, từ 300
BCE tới 200 CE và có thể lâu hơn nữa. Điều đó ngụ ý rằng Cổ Loa hẳn là một nước yên ổn trong
khoảng 500 năm đó hoặc lâu hơn mà không xảy ra những biến cố bất lợi cho việc chế tạo trống
đồng, thí dụ can qua, loạn lạc. Thời gian đó đủ lâu để tạo ra trào vua đầu tiên cho nước Cổ Loa –
nước đầu tiên của người Việt.
5
13.2. Suy luận
6
13.2.2. ‘Nước ta’ là nước nào?
Nếu hai biến cố trên không xảy ra ở nước Cổ Loa, thì có thể xảy ra ở đâu?
1. Triệu Đà đem binh đánh chiếm và sát nhập vô nước Nanyue (phase 1)
Ở phase này, Quảng Tây không làm trống đồng (hình 2). Rõ ràng Quảng Tây mới là nơi đã
từng bị Triệu Đà đánh chiếm để có một nước Nanyue như hình 6, chẳng dính gì tới nước Cổ Loa
[mà ta cũng không chắc Triệu Đà có biết nước Cổ Loa hay chăng].
Hình 6.14
2. Hai bà Trưng khởi nghĩa rồi bị Mã Viện đem binh đàn áp (phase 2)
Ở phase này, Quảng Tây vẫn chưa làm trống đồng (hình 3). Vậy Quảng Tây mới là nơi đã từng
xảy ra biến cố ‘hai bà Trưng’.
Nhơn tiện, nhà khảo cứu Đỗ Hoàng Ý,15 dùng những tài liệu khác, cũng cho rằng chiến sự giữa
hai bà Trưng với Mã Viện đã xảy ra ở vùng Lãnh Nam (miền nam xứ Tàu ngày nay) chớ không
phải ở châu thổ sông Hồng và Mã Viện mới là bên thua trận lui binh chớ không phải hai bà Trưng.
Tới đây, ta hiểu rằng ‘nước ta’ thời đồ đồng trong Toàn thơ té ra là một nước nào khác
bên Quảng Tây, chớ không phải nước Cổ Loa như đã giải thích ở bài này.
7
13.3. Kết luận
Với dữ liệu khảo cứu trống đồng của Imamura,8 trong khi chờ thêm dữ liệu mới, ta tạm thời
tin rằng:
1. Khi biên soạn Toàn thơ, vì lý do nào đó, các vị sử thần đã lộn ‘nước ta’ trong thời đồng-
sắt (300 BCE – 200 CE) với một nước nào khác bên Quảng Tây, và, vì vậy, ghép vô ‘nước
ta’ hết thảy những gì của nước kia, từ tên gọi, bờ cõi cho tới lịch sử.
2. Cổ Loa mới thực là nước đầu tiên của ta trong gần 500 năm đó, với hàng chục đời vua
và những điều cần hiểu lại cho trúng, như sau:
• Cổ Loa không hề bị sát nhập vô nước Nanyue, bởi vậy, Triệu Đà, vua nước đó, không
có liên quan gì tới lịch sử nước ta.
• Cổ Loa không phải là nơi đã xảy ra biến cố ‘hai bà Trưng’, bởi vậy, Mã Viện không
hề có mặt ở nước Cổ Loa để làm bất cứ chuyện gì thí dụ tịch thâu đồ đồng. Biến cố
‘hai bà Trưng’ dường như đã xảy ra bên Quảng Tây, từ đó câu chuyện truyền sang
nước ta và bén rễ trong dân gian hồi nào không rõ.
Vì ‘nước ta’ trong Toàn thơ ngay từ đầu đã bị hiểu trật, nên những gì sau đó gán cho ‘nước ta’
cũng đều trớt huớt. ‘Nước ta’, với những cái tên bí hiểm Văn Lang, Xích Quỷ, Âu Lạc, Giao Chỉ,
đã trở thành một cái ‘trận đồ bát quái’ suốt 300 năm qua làm cho mọi nhà khảo cứu uyên thâm tới
đâu chăng nữa hễ lọt vô đó rồi là không bao giờ tìm thấy lối ra. Hết cãi nhau chuyện Triệu Đà có
dính tới người mình hay chăng, tới cãi nhau chuyện Mã Viện có trồng cột đồng ở nước mình hay
chăng.
Tiếc thay!
8
1
Emmanuel Souvignet (1922) Les origines langue de la Annamite
2
https://nguoicham.com/cdict/inalang/chau-state/
3
Trần Văn Giáp (1935) Di tích văn hóa của người Chiêm thành ở xứ Bắc Kỳ.
4
Nam C. Kim (2015) The origins of ancient Vietnam.
5
Nguyễn Thị Thao Giang, Chu Mạnh Quyền. Đình Tràng trong mối quan hệ với khu di tích thành Cổ Loa. Viện
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Thông báo khoa học số 1 – 2014.
6
Lại Văn Tới, Những phát hiện mới ở di tích Đình Tràng và ý nghĩa của nó trong nghiên cứu kinh đô Cổ Loa. Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Khoa học Huế, tập 2, số 2 (2014).
7
T. O. Pryce, Wengcheong Lam, Mélissa Cadet, Zhilong Jiang, Wei Yang & Alice Yao (2022) A late 2nd/early 1st
millennium BC interaction arc between Mainland Southeast Asia and Southwest China: Archaeometallurgical data
from Hebosuo and Shangxihe, Yunnan.
8
K. Imamura (2006) The distribution of bronze drums of the Heger-I and pre-I types: temporal changes and
historical background.
9
Zhou Zhenhe. Migrations in Chinese history and their legacy on Chinese dialects, trans Kathy Lo. Journal of
Chinese Linguistics Monograph Series, No. 3, Language and Dialects of China (1991).
10
William David Nitzky. Moving the living and the dead, The power of bronze drums in contemporary ethnic
China. Asian Ethnology volume 81, numbers 1 & 2 • 2022.
11
Ambra Calò (2009) The distribution of bronze drums in early Southeast Asia, p 117.
12
Trương Đắc Chiến. Phát hiện sưu tập khuôn đúc Luy Lâu (Bắc Ninh) - Thành tựu mói trong nghiên cứu kỹ thuật
đúc trống Đông Son ở Việt Nam. Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 8, số 1 (2022).
13
Nishimura Masanari. Settlement patterns on the Red River plain from the late prehistoric period to the 10th
century AD. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association, Vol. 25: The Taipei Papers (Volume 3), 2007.
14
https://artsandculture.google.com/asset/map-of-the-territory-of-nanyue/bAHbOMh78p9X5Q?hl=en
15
Đỗ Hoàng Ý (2018) Tìm lại sự thật về cuộc khởi nghĩa thời Hai Bà Trưng.
http://www.chanphuocliem.com/BaoXuan_2018-E-Bao-CPL/