You are on page 1of 46

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN


“Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008”
Nhóm 4

Danh sách thành viên nhóm


1. Trịnh Trung Hiển
2. Nguyễn Thị Huyền
3. Hoàng Thị Khánh Ly
4. Nguyễn Cẩm Ly
5. Phạm Thị Nga

Bộ môn: Tài chính quốc tế


Năm học: 2013 - 2014
Mục lục
I. Giới thiệu tổng quan về đề tài...........................................................................................................1
1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính.............................................................................................1
2. Các loại khủng hoảng tài chính:....................................................................................................1
II. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (2008)................................................................3
1. Toàn cảnh cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ..................................................................................3
1.1 Giai đoạn từ năm 2000 – 2007, những dấu hiệu cảnh báo cuộc khủng hoảng.........................3
1.2 Giai đoạn 2007: các tổ chức tín dụng thứ cấp bị phá sản........................................................5
1.3 Giai đoạn đỉnh điểm (2008) – Sự sụp đổ của các ngân hàng lớn.............................................6
2. Cuộc khủng hoảng đã lan ra khỏi các nước khác.......................................................................11
3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng..............................................................................................14
1. Nguyên nhân trực tiếp..................................................................................................................14
1.1 Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ chức tài
chính hàng đầu..................................................................................................................................14
1.2 Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế...........................................................15
1.3 Lòng tham của thị trường......................................................................................................16
2. Nguyên nhân sâu xa.....................................................................................................................16
2.1 Sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản............................................................16
2.2 Chứng khoán hóa các khoản tín dụng bất động sản..............................................................18
2.3 Sự buông lỏng quản lí nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà nước...19
4. Tác động của cuộc khủng hoảng.....................................................................................................20
1. Tác động đối với kinh tế toàn cầu................................................................................................20
2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến hệ thống tài chính quốc tế...........................................23
2.1 Ảnh hưởng lên thị trường tài chính........................................................................................23
2.2 Ảnh hưởng đến các tổ chức tài chính.....................................................................................25
5. Những biện pháp khắc phục...........................................................................................................27
1. Hành động chung.........................................................................................................................27
2. Hành động của Mỹ.......................................................................................................................27
3. Các nước khác..............................................................................................................................30
...............................................................................................................................................................30
6. Tình hình Việt Nam giai đoạn đó...................................................................................................32
1. Tác động tiêu cực..........................................................................................................................32
2. Tác động tiêu cực..........................................................................................................................38
7. Bài học và giải pháp rút ra đối với các quốc gia............................................................................40
Lời nói đầu

Bước sang thế kỉ XXI, nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng, các nước phát
triển như Mỹ, Nhật, khu vực EU luôn đạt được sự gia tăng về GDP, GNP. Tốc độ tăng
trưởng luôn từ 2% - 3% một năm. Cùng với đó là sự tăng trưởng và phát triển của Trung
Quốc từ một nước không nằm trong bảng xếp hạng 10 nước phát triển trên thế giới thì chỉ
sau 6 năm đã dần trở thành cường quốc lớn thứ 4 trên thế giới, là một trong 4 con rồng
Châu Á mới của thế kỷ.

Tuy nhiên đi kèm với sự phát triển đó là nguy cơ, hiểm họa của cuộc khủng hoảng
tài chính cùng với đó là sự suy thoái tất yếu của chu kỳ phát triển kinh tế sau những năm
phát triển cực đại. Với những mầm mống khủng hoảng từ trước, năm 2007 đã đánh dấu
sự suy thoái, bắt đầu những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế thế giới. Chỉ trong
vòng một vài tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cả thế giới chứng kiến sự rung
chuyển của hệ thống tài chính Mỹ - nơi được xem như cường quốc hùng mạnh nhất thế
giới. Đây được xem như cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất xảy ra kể từ 80 năm trở lại
đây. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan, sự lây lan vẫn tiếp tục lan rộng và ảnh hưởng mạnh
mẽ ra toàn thế giới.

Chính vì thế, chúng em muốn tìn hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm
2008 với hy vọng có thể giúp mọi người hiểu hơn về cuộc khủng hoảng với diễn biến,
nguyên nhân và những tác động của nó đến nền kinh tế toàn cầu. Như thế, mỗi chúng ta
sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc khủng hoảng và từ đó, chúng ta có thể sẽ tìm ta được
những bài học cũng như những giải pháp để giúp cho nền kinh tế tránh được những rủi ro
mà cuộc khủng hoảng gây ra, đồng thời tìm ra những định hướng phù hợp giúp cho mỗi
quôc gia có thể tận dụng được những cơ hội của mình để tăng trưởng kinh tế.

Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức còn hạn chế cũng như kinh
nghiệm thực tế chưa nhiều, đề tài thảo luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn!
I. Giới thiệu tổng quan về đề tài.
1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ
khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ
mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của
mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế (Bách khoa toàn thư) là sự suy giảm của hoạt động
kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng
hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài
chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ
làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng
hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu
cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây
ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng
và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một
phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt
hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển
qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn
khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
Khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh
khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sụp đổ và phá sản dây chuyền
trong hệ thống tài chính.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
 Các ngân hàng không hoàn trả được cá khoản tiền gửi của người gửi
tiền
 Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng
không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng
 Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định
2. Các loại khủng hoảng tài chính:
 Khủng hoảng ngân hảng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ra khỏi
ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách
hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả
các khoản nợ. Sự rút tiền hàng loạt có thể sẽ dẫn đến sự phá sản của
ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ
phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sé gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 1


hiện tượng treenkhoong lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên
(để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Luc này,
chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính.
 Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân
chính: do cá chính sách của Nhà Nước và do sự tồn tại của các “bong
bóng” đầu cơ.
Yếu tố đầu tiên phải nói tới, đó chính là các chính sách của nhà nước.
Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt
ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng đến tỷ giá cố định. Người dân sẽ
mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ.
Khi đó, dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần. Nhà nước buộc phải từ
bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn
tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết
những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một lạo hàng hóa nào
đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản),
nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích
đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này
đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó.
Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường
tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu
hướng chung trên thị trường : họ mua vào khi thấy nhiều nhiều người
cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều
người cùng bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do
khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy đàn”.
 Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình
hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây
khủng hoảng tiền tệ.
 Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do hai nguyên
nhân chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi
được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay để
đầu tư dẫn tới phá sản; do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng
chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các
dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 2


II. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (2008)
Khủng hoảng kinh tế năm 2008 là một cuộc khủng hoàng bao gồm sự đổ vỡ hàng
loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giảm giá chứng
khoán và mất giá tiền tệ trên quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, mà xuất phát
điểm chính là những đổ vỡ của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ

1. Toàn cảnh cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ

Các chuyên gia nhận định cuộc khủng hoảng Kinh tế ở Hoa Kỳ năm 2008 là
một cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc đại suy thoái cũng tại Hoa Kỳ từ
năm 1929 - 1930. Có thể nói cuộc khủng hoảng đã âm ỷ từ những năm 2000
với cuộc khủng hoảng Dot-com và vụ khủng bố 11/9/2001, làm cho nền kinh
tế Hoa kì suy yếu. Cuộc khủng hoảng đã có mầm mống từ nhiều năm về
trước, cụ thể như sau:

1.1Giai đoạn từ năm 2000 – 2007, những dấu hiệu cảnh báo cuộc
khủng hoảng
 Bong bóng Dot-com 2000
Năm 1995, Microsoft giới thiệu hệ điều hành Window 95 với nhiều cải tiến
mang tính đột phá so các phiên bản trước. Sự cạnh tranh giữa các hãng phần mềm
chế tạo phần cứng máy tính, nhất là chế tạo bộ vi xử lí đã làm cho máy tính cá
nhân rẻ hơn. Hai yếu tố mở ra cơ hội sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân tại doanh
nghiệp và gia đình. Trình duyệt Internet của Netscape đã cho phép mọi người khai
thác, trao đổi thông tin qua mạng, mở ra kỉ nguyên của thương mại điện tử, khai
thác sức mạnh của hệ thống quản lý.

Ngày 09/08/1995, công ty Netscape thực hiện phát hành cổ phiếu ra lần đầu,
ngay trong ngày hôm đó, giá cổ phiếu của Netscape đã tăng từ 28 lên 71 USD.
Hiện tượng này đã kéo theo hàng loạt các công ty máy tính phát hành cổ phiếu và
niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Cơn sốt đầu tư vào các cổ phiếu của ngành công nghệ thông tin kéo dài từ năm
1995-2000 làm cho chứng khoán tăng điểm mạnh. Cho dù các công ty hoạt động
không có lãi nhưng giá cổ phiếu vẫn tăng mạnh không còn phản ánh đúng giá trị
thực của công ty. Bong bóng chứng khoán xuất hiện, bong bóng lớn và vỡ năm
2000 dẫn tới việc hàng loạt công ty công nghệ thông tin bị phá sản, mở đầu thời kì
suy thoái kinh tế đầu thập niên 2000 của Hoa kỳ.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 3


Chỉ số tổng hợp NASDAQ trong thời kỳ bong bóng Dot – com

 Bong bóng nhà đất 2001-2006.

Năm 2001- 2004, FED thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm cứu nền
kinh tế thoát khỏi suy thoái, sử dụng biện pháp hỗ trợ đầu tư và kích thích tiêu
dùng. Cụ thể là việc giảm lãi xuất từ 6,25% năm 2001 xuống còn 1,75% năm
2003 và duy trì ở mức 1% giữa năm 2003 tới giữa năm 2004. Điều này là động
lực cho sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng. Ngân hàng dễ
dàng cung cấp tín dụng cho khách hàng, hệ quả là việc đi vay ồ ạt nhằm mục đích
đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Giá cả ở các bang Arizona,
California, Florida, Hawaii… tăng lên trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở
Mĩ bắt đầu.

Năm 2005: có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12%
mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở phát triển đến mức cực đại và bùng
nổ. Từ quý IV đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Khi đó
tổng giá trị tích lũy các khoản tín dụng nhà ở lên 600 tỷ USD. Nhiều người vay
tiền không có khả năng trả nợ dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Giá nhà xuống
khiến cho tài sản tịch biên không bù đắp được các khoản ngân hàng cho vay,
nhiều ngân hàng rơi vào khó khăn.

Năm 2006: thị trường BĐS tiếp tục suy giảm. Giá giảm mạnh dẫn tới 1 lượng
nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 8 giảm 40% so
năm trước.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 4


Doanh số bán nhà tại Mỹ từ năm 1987 – 2008

1.2Giai đoạn 2007: các tổ chức tín dụng thứ cấp bị phá sản.

Ngay khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005. Kinh tế Mỹ bắt đầu tăng
trưởng chậm lại. Tuy nhiên bong bóng nhà ở dẫn tới các khoản vay không trả
nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Đến năm
2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan tín dụng nhà ở ở
Mỹ bị phá sản.

Ngày 05/02/2007, công ty đứng thứ 15 về cho vay dưới chuẩn nhiều nhất
ở Hoa Kỳ - Mortage Lenders Network USA đã tuyên bố phá sản (tổng dư nợ
lên tới 3,3 tỷ USD, quý III, 2006).

Ngày 02/04/2007, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất nước Mỹ , New
Century Financial tuyên bố phá sản.

Ngày 06/08/2007, công ty đầu tư cầm cố nhà Hoa Kỳ (American Housing


Mortage Investment Corporation, Melville, Newyork) đệ đơn xin phá sản sau
khi sa thải hàng loạt công nhân trong tuần trước đó.

Quỹ bảo hiểm lớn nhất trị giá 8 tỷ USD của Goldman Sach- Global
Alpha- thông báo lỗ 26% trong năm 2007. Đồng thời Citigroup cũng thông báo
lỗ 700 triệu USD trong hoạt động tín dụng tháng 7, tháng 8/2007.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 5


Ngày 14/8/2007, một quỹ khác là Sentinel Management Group đã đình
chỉ việc tất toán nợ của các nhà đầu tư và bán tháo 321 triệu USD tài sản. 3
ngày sau, Sentiel đệ đơn xin phá sản. Cuối ngày hôm đó, Thomburg Mortgage,
một công ty cho vay cầm cố khổng lồ thông báo họ đang hoãn lại việc chia cổ
tức sau khi đối mặt với việc tăng dự phòng rủi ro và sự gián đoạn trong hoạt
động đầu tư cầm cố trên thị trường chứng khoán đảm bảo bằng tài sản và
thương phiếu. Giao dịch cổ phiếu của Thomburg đã giảm trên 46% trên sàn
chứng khoán New York.

Ngày 15/8/2007, cổ phiếu của Countrywide Financial, công ty cho vay


cầm cố lớn nhất ở Mỹ, giảm khoảng 13% trên sàn chứng khoán New York,
mức giảm trong ngày lớn nhất kể từ khủng hoảng thị trường chứng khoán năm
1987, do lo ngại rằng công ty có thể đối mặt với rủi ro phá sản. Ngày 16/8 tập
đoàn đã buộc phải vay 11 tỷ USD từ nhóm các ngân hàng khác để tránh nguy
cơ phá sản.

Những nạn nhân đáng kể đầu tiên đều liên quan trực tiếp tới hoạt động
cho vay dưới chuẩn như Northern Rock và Countrywide Financial vào hau
tháng 8 và 9/2007. Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, vào tháng
9/2007, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp
bất động sản, đã phải cầu cứu NHTW Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền
khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này. Trước đó,
Countrywide Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho vay thế chấp địa ốc của
Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại Countrywide
Financial với giá 4 tỷ USD. Tiếp đến, vào ngày 17/2/2008, Northern Rock
chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiên Northern Rock và Countrywide Financial
là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng
như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị chính phủ tiếp quản của các định chế tài
chính.

1.3 Giai đoạn đỉnh điểm (2008) – Sự sụp đổ của các ngân hàng lớn

Năm 2008 là giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính với sự
đổ vỡ của hàng loạt các ngân hàng lớn và lâu đời, cùng việc mất niềm tin mạnh
mẽ của người dân vào nền kinh tế đã làm cho kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng
khủng hoảng nhất trong lịch sử kể từ cuộc đại suy thoái năm 1930. Chính phủ
Mỹ buộc phải vào cuộc với một loạt các chiến dịch cứu trợ khẩn cấp.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 6


Ngày 16/03/2008, Bear Stearm, một trong năm ngân hàng đầu tư hàng
đầu Mỹ, phải chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại do sự sụt giảm không
kiểm soát được của các khoản đầu tư tài chính- bất động sản. Dưới sự bảo lãnh
của Chính phủ Mỹ, ngân hàng JP Morgan Chase mua lại Bear Stearns với giá 2
USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời
điểm mua. Giá này sau khi được điều chỉnh thành 10 USD một cổ phiếu. Việc
ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Stearm và buộc lòng
để công ty này bị bán với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực của
Chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear
Stearm đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.

Ngày 11/7/2008, Indy Mac – ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Ủy
ban giám sát tiết kiệm của nước này (OTS) đóng cửa và chuyển giao lại cho tập
đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC).

Ngày 7/9/2008, Chính phủ Mỹ chi 200 tỷ USD để tiếp quản Fannie Mae
và Freddie Mac thông qua mua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này
không bị phá sản. Fannie Mae và Freddie Mac là 2 hãng cho vay thế chấp lớn
nhất Mỹ, bảo lãnh cho số bất động sản trị giá 5000 tỷ USD trên khắp nước Mỹ,
chiếm 50% thị trường. Sự kiên này nổ ra đã gây nên cơn địa chấn tài chính thực
sự.

Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tư tài chính
Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD. Cuộc sát nhập này sẽ cho ra đời tập đoàn tài
chính hùng mạnh nhất trên thế giới trong bối cảnh kinh tế Mỹ có nhiều khó
khăn.

Ngày 15/9/2008, sau khi nỗ lực huy động vốn bị thất bại do chính phủ
Mỹ từ chối bảo lãnh, Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư hàng đầu trên thế giới
với 158 năm lịch sử và trên 26000 nhân viên, tuyên bố phá sản. Tổng số tiền nợ
của Lehman Brothers lên tới 768 tỉ USD (bao gồm 614 tỷ USD nợ ngân hàng
và 155 Tỷ USD nợ trái phiếu). Giá trị tài sản xác định trên giấy tờ là 639 tỷ
USD bao gồm nhiều tài sản mà giá trị thực tế có thể thấp hơn nhiều giá trị sổ
sách. Sự phá sản của Lehman Brothers và những sự kiện diễn ra trước đó đánh
dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính mà theo đánh giá của nhiều
chuyên giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại suy thoái kinh tế năm 1930 của thế kỉ
trước.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 7


Ngày 16/09/2008, FED chi 85 tỷ USD cứu trợ khẩn cấp cho AIG, tập
đoàn cung cấp dịch vụ tài chính và bảo hiểm hàng đầu thế giới đang bên bờ vực
phá sản. AIG cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tài chính tại hơn 100 quốc gia trên
thế giới. Tập đoàn này bảo hiểm cho lượng trái phiếu trị giá tới 441 tỷ USD,
trong đó có 57,8 tỷ USD chứng khoán liên quan tới địa ốc. Trong vòng 18
tháng qua, AIG đã lỗ hơn 18 tỷ USD. Khoản thua lỗ này bắt nguồn từ hoạt
động đầu tư vào các loại chứng khoán được bảo lãnh bằng địa ốc và bán các
hợp đồng hoán đổi khả năng vỡ nợ tín dụng (CDS) – những hợp đồng dạng bảo
hiểm đối với khả năng vỡ nợ của một công ty nào đó. Chỉ trong hai quý đầu
năm 2008, AIG đã chịu khoản thâm hụt tài sản trước thuế lên tới 14,7 tyt USD
vì loại hợp đồng này.

Ngày 26/9, ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhất
Mỹ được Chính phủ tiếp quản và sau đó được bản lại cho JP Morgan Chase &
Co với giá 1,9 tỷ USD. Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn
nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD.

Tháng 9 và 10/2008 cũng trở thành giai đoạn đen tối với Wall Street khi chỉ số
Dow Jone sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Kể từ
giai đoạn này, biến động tại Wall Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục
cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá.

Xen giữa những sự kiên trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiên các cơn
sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt
là giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 USD
một ounce vào ngày 17/3. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực
sự tai nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát
từ đó cũng xảy ra lan tràn tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào
tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân cho hiện
tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và
Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn kinh tế. giá loại nhiên liệu này chỉ còn
khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100 USD, tương ứng gần 70%, so với giá
trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.

Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến
NHTW Mỹ, Anh , Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng
loạt để khơi thông dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất,
từ đó lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở các điều
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 8
chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và
cho vay.

Ngày 29/09/2008, gói giải pháp cứu trợ thị trường tài chính trị giá 700 tỷ
USD bị Quốc hội bác bổ do các ý kiến trái chiều của các Đảng, sự kiện này
khiến Dow Jones có mức sụt giảm lớn nhất lịch sử, gần 778 điểm và phố Wall
mất 1200 tỷ USD.

Ngày 03/10/2008, Trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp lâu dài ,hạ viện
Hoa Kỳ thông qua gói giải pháp 700 tỷ USD sau khi đã có nhiều điểu chỉnh.
Cùng với đó, FED quyết định cắt giảm lãi suất từ 2% xuống 1,5% nhằm hạn
chế sự suy thoái của nền kinh tế.

Kế hoạch này thực chất là việc Chính phủ nước này vay tiền từ thị trường
tài chính thế giới. Họ hy vọng có thể trả được những khoản vay này một khi thị
trường nhà đất ổn định trở lại.

Ngày 05/11/2008, Barack Obama đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ, với đường
lối kinh tế được thế giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Hoa Kỳ và toàn
cầu.

Bước vào quy IV, cuộc khủng hoảng được đẩy lên một nấc thang mới.

Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chỉ tiêu của người dân. Hệ
quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỉ lệ thất nghiệp
tại nhiều quốc gia tăng cao, chỉ tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 9


xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong ba thàng, tính tới cuối thàng
9/2008, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp
tại nhiều quốc gia này tính tới 6/12/2008 đã lên tới 6,7%, mức cao nhất trong
vòng 15 năm qua. Ngoài ra, một số kỉ lục buồn tồn tại hàng chục năm về số
người mới thất nghiệp theo tuần và tháng cũng đã bị phá trong quy IV/2008.

Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất
xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors(GM), và Chryslẻ phá sản. Kể từ đầu
năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính
ảnh hưởng nghiêm trọng. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của
Mỹ tụt xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi tệ hơn
do khủng hoảng tài chính, ba đại gia trên đang phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngừng
hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân
nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, “vay nóng”
14 tỷ USD, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho việc mua nợ xấu
nhà băng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời, đủ
để hai hãng “sống sót” đến hết quy I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm giải
quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó sẽ được chuyển giao cho
Chính phủ mới của tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các nhà kinh
tế, nếu các công ty được coi là biểu tượng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá
sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại
Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.

Ngày 23/11/2008, ba cơ quan quản lý tài chính quan trọng của Mỹ đồng
thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo lãnh toàn bộ nợ của
Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hưởng toàn cầu khỏi nguy cơ sụp đổ.

Ngày 25/11/2008, cục dự trữ liên bang Mỹ chi 600 Tỷ USD trong đó 500
tỷ được dùng để mua lại các khoản cầm cố chứng khoán của Fannie Mac và
Freddie Mac và cả Ginnie Mac và 100 tỷ USD để mua lại các khoản lỗ của
Fannie, Freddie và Federal Home Loan Banks.

Ngày 01/12/2008, cục nghiên cứu kinh tế quốc gia Hoa Kỳ tuyên bố nước
Mỹ lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 và được Chính phủ Hoa Kỳ chính thức
thừa nhận. Hiệu ứng “domino” bắt đầu từ sự sụp đổ của hàng loạt các tổ chức
tài chính lớn và lâu đời kéo theo sự sụp đổ cả hệ thống ngân hàng. Năm 2008

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 10


có tới 25 ngân hàng bị đóng cửa, đến năm 2009 con số này là 140 và năm 2010
là trên 200 ngân hàng bị sụp đổ do các khoản nợ xấu tiếp tục tăng mạnh.

Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế, Mỹ và EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa tháng
12/2008 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard Madoff thực hiện bị phanh
phui. Lợi dụng ảnh hưởng và uy tín của Madoff tại Wall Street, quỹ đầu tư của
Madoff, hoạt động theo mô hình Ponzi, đã thu hút được hơn 50 tỷ USD từ các
nhà đầu tư, trong đó có nhiều ngân hàng lớn tại Châu Âu. Nhiểu khách hàng
của Madoff đang đối mặt với nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Vụ scandal trên
hiện vẫn chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống
giám sát tài chính Mỹ cũng như sự dính líu của quan chức tại Washington tới
Madoff.

2. Cuộc khủng hoảng đã lan ra khỏi các nước khác


Các nước trên thế giới cũng không tránh khỏi “cuộc viếng thăm không được
chào đón” của cuộc khủng hoảng. Nhất là với các quốc gia có nền kinh tế phát
triển và vững mạnh như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản,…
 Tháng 7 – 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu
tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị
trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng
SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ Chính phủ.
 Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn
kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân
hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
 Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc
với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các
phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo
lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các
giao dịch ở Sydney.
 Ngày 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập
dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ
USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm
cố.
 Và trên thế giới không có quốc gia nào có thể miễn dịch trước cuộc
khủng hoảng kinh tế này:
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 11
Ở Mông Cổ, chính phủ đã phải bơm tiền vào các ngân hàng; Achentina
đã phải tiến hành quốc hữu hoá các quỹ đầu tư hưu trí; ba ngân hàng lớn
và đồng nội tệ của Aixơlen bị đổ sụp; Nhật Bản và nhiều quốc gia châu
Âu cũng chìm vào suy thoái.
Ấn Độ và Nga đều vật lộn với các khó khăn kinh tế, giảm việc làm và
đầu tư. Nga đã chi 160 tỷ USD để bảo vệ đồng rúp và thị trường tài
chính nội địa. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm xăng dầu rớt giá, khiến
cho một phần các dự tính lớn của Nga cũng như của các nước xuất khẩu
dầu khác tan biến. Giá dầu mỏ giao dịch ở mức dưới 40 USD/thùng,
khiến các nhà xuất khẩu như Nga, Vênêxuêla và Iran chao đảo.
Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tụt dốc trong tháng 11/2009, mức
giảm lớn nhất trong 7 năm qua. “Công xưởng của thế giới” chịu ảnh
hưởng nặng nề của sự sa sút thị trường thế giới, trước hết là Tây Âu và
Bắc Mỹ. Tại Quảng Đông, trái tim công nghiệp Trung Quốc, 80.000 nhà
máy xuất khẩu có thể đóng cửa. Người ta hy vọng, gói kích cầu 600 tỷ
USD chính phủ Trung Quốc thực hiện có thể khôi phục thị trường nội
điạ, tác động chuyển đổi cơ cấu của một trong những nền kinh tế quan
trọng nhất thế giới.
Bước sang năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục tác
động tiêu cực đến nền kinh tế các nước trên toàn thế giới. tăng trưởng
kinh tế giảm, sản xuất công nghiệp sụt giảm mạnh trong những tháng
đầu năm 2009. Tiêu biểu là ngành công nghiệp ô tô của Mỹ. Có thể nói,
năm 2009 là một năm gian khó nhất đối với ngành công nghiệp ô tô ở
Mỹ. Chrysler và General Motors, hai trong số ba đại gia của ngành xe
hơi đều lần lượt đệ đơn xin bảo hộ phá sản, dựa vào khoản cức trợ từ
Chính phủ để bước ra khỏi trình tự phá sản, hoàn thành việc tái cơ cấu
nợ. Trong khi đó, hãng Ford dù chưa phải nộp đơn bảo hộ phá sản,
nhưng trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hóa cũng bước đi rất gian nan. Để
giải cứu ngành công nghiệp ô tô, tổng thống Obarma đã phải nhanh
chóng thành lập tổ công tác đặc biệt của ngành công nghiệp ô tô, đồng
thời cung cấp khoản cứu trợ trị giá 50 tỷ USD cho GM và Chrysler.
Không chỉ tiếp nhận 9,85% cổ phần của Chrysler, 60,8% cổ phần của
GM và 2,1 tỷ USD cổ phần ưu đãi, chính phủ còn nhận khoản nợ trị giá
13,8 tỷ USD của hai công ty này. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng Mỹ tiếp
tục gặp khó khăn khi số ngân hàng bị giải thể từ tháng 1 đến tháng
12/2009 đã lên tới con số 140. Đây là con số kỉ lục về số vụ giả thể ngân

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 12


hàng tại Mỹ kể từ năm 1992. Năm ngoái, chỉ có 25 ngân hàng Mỹ đổ vỡ.
cơ quan bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ cho hay, cơ quan này đã phải
chi 30 tỷ USD để giải quyết các vụ đóng cửa ngân hàng trong năm nay
và dự kiến sẽ phải chi thêm khoảng 100 tỷ USD cho công tác này trong
bốn năm tới. mặt khác, đông đô la Mỹ USD – đơn vị tiền tệ thuộc loại
mạnh nhất trên thế giới đã trải qua một năm tuột dốc không phanh. Cuộc
khủng hoảng tài chính bùng nổ khiến chỉ số ngoại tệ này không ngừng
rơi xuống mốc thấp nhất trong lịch sử. trong bối cảnh giá dầu mỏ, vàng,
hàng hóa tăng mạnh, tỷ giá đồng USD/EUR, tỷ giá USD/GBP, tỷ giá
USD/AUD đều trượt giảm.
Bên cạnh Mỹ, nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm mạnh. Theo số
liệu được công bố hôm 9/12/2009 từ Văn phòng nội các Nhật Bản, trong
quy III/2009, GDP của Nhật bản giảm 0,3% so với quy II/2009. Văn
phòng nội các Nhật Bản cho hay, nguyên nhân chủ yếu khiến cho kinh tê
nhật giảm trong quy III/2009 là nhu cầu thị trường nội địa có những thay
đổi lớn, mức tăng trưởng bị điều chỉnh giảm thành âm, những đóng góp
cho tăng trưởng kinh tế của thị trường nội địa từ 0,8% cũng chỉ còn
0,1%.
Vấn đề thất nghiệp trở lên đáng báo động trên toàn cầu. Tỷ lệ người thất
nghiệp ngày càng gia tăng. Có thể nói 2009 là một trong những năm đen
tối nhất đối với người lao động. theo thống kê của Văn phòng lao động
quốc tế (IPO), so với năm 2007, tức thời kì tiền khủng hoảng, trận động
đất tài chính và kinh tế lần này cướp mất công ăn việc làm của từ 40 – 60
triệu người trong năm 2009; đẩy khoảng 200 triệu người lao động vào
cảnh khốn cùng với thu nhập chưa đầy hai USD một ngày. Tầng lớp bị
tác động nhiều nhất là thanh niên và phụ nữ. Số thanh niên dưới 26 tuổi
không có việc làm nhảy vọt từ 12% lên thành 15% trong một năm vừa
qua.
Bên cạnh đó, nợ quốc gia trở thành một trong những tác động nặng nề
nhất của cuộc đại khủng hoảng này với nền kinh tế toàn cầu năm 2009.
Sau những gói kích thích kinh tế, nhiều quốc gia sẽ phải coi việc trả nợ
là nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch tài khóa năm nay. Trong suốt năm
2009, nhiều tổ chức nghiên cứu kinh tế đã cảnh báo về tình trạng nợ của
các chính phủ sau khi chi rất nhiều tiền cho các biện pháp kích thích
kinh tế. Tình trạng này đặc biệt phổ biến tại châu Âu khi thâm hụt ngân
sách ở hầu hết các quốc gia đều vượt quá 3%. Tạp chí Business Week

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 13


vừa đưa ra danh sách những nước có tỷ lện nợ so so với GDP dự kiến ở
mức nguy hiểm trong năm 2010, trong đó có cả những nền kinh tế hàng
đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Iceland, Hy lạp. Nổi bật nhất là cú sốc
Dubai. Thị trường thế giới ngày 23/11/2009 đón nhận một thông tin gây
sốc khi Dubai World, một doanh nghiệp Nhà nước hàng đầu xin khất nợ,
khiến thị trường tài chính toàn cầu được phen chao đảo. Vụ “nhà giàu
khất nợ” bắt đầu khi Chính Phủ Dubai tuyên bố, Dubai World có kế
hoạch xin hoãn trả khoản nợ lên tới 59 tỷ USD, hơn 2/3 trong tổng số nợ
80 tỷ USD của chính phủ nước này. Tuyên bố về kế hoạch xin khất nợ
của Dubai đã nhanh chóng tác động tiêu cực tới thị trường chứng khoán
các nước và niềm tin của giới đầu tư đối với nợ Chính phủ. Không chỉ
khiến chứng khoán thế giới “đỏ sàn”, yêu cầu hoãn thanh toán nợ này
của Dubai còn kéo giá dầu và vàng cùng sụt giảm.
Đến cuối năm 2009, có những dấu hiệu tích cực cho thấy nền kinh tế
toàn cầu bươc đầu đã có những dấu hiệu hồi phục nhất định, trong đó các
quốc gia châu Á đóng vai trog là đầu tàu trong quá trình vực dậy nền
kinh tế khu vực. Kinh tế các nước bắt đầu tăng trưởng trở lại, sản xuất
bắt đầu được phục hồi.
Sang năm 2010, nền kinh tế thế giới tiếp tục có những dấu hiệu khả quan
hơn. Triển vọng phục hồi của nền kinh tế Mỹ cũng lớn dần. Tổng sản
phẩm công nghiệp cũng như các đơn đặt hàng mới ở các nước EU cũng
gia tăng. Các quốc gia châu Á như trung quốc, nhật bản, Singapore cũng
có những bước hồi phục đáng kể. tuy nhiên vấn để về tỷ lệ thất nghiệp
cao và vấn đề về các khoản nợ khổng lồ của các quốc gia vẫn đang là
những khó khăn lớn cho nền kinh tế thế giới.

3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng


1. Nguyên nhân trực tiếp
1.1 Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền
của các tổ chức tài chính hàng đầu.
Khi nền kinh tế bước vào thời kì suy thoái, kinh tế khó khăn, giá
bất động sản giảm mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được
nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín
dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thêm vào đó, việc các
hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các chứng khoán

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 14


MBS là nợ khó đòi dẫn đến các chứng khoán MBS mất giá trị trên thị
trường, khiến cho cá ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những chứng
khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình trạng khó khăn về
tính thanh khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài chính
không còn chịu đựng được sức ép của tính thanh khoản và các khoản
thua lỗ, nên đã buộc tìm sự cứu trợ từ tất cả các nguồn và thậm chí là đệ
đơn phá sản. Do sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức chứng
khoán hóa đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống.
Đồng thời, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả
tiền bảo hiểm theo các hợp đồng bảo hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do
các tổ chức này bán ra. Ước tính nước mỹ có khoảng 35000 tỷ USD tiền
bảo hiểm và toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ USD (theo ước tính của
“International Swap and Derivatives association”). Tập đoàn tài chính
hàng đầu thế giới AIG bị đổ vỡ, một phần là do đầu tư vào MBS và
phần lớn là các hợp đồng CDS. Nếu không có sự giải cứu kịp thời đối
với thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS sẽ tàn phá các ngân
hàng và các tổ chức tài chính khác.
Chỉ tính đến tháng 07/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn
trên 435 tỷ USD. Hơn nữa không một ai có thể chắc về giá trị đích thực
của các khoản đầu tư tài chính – bất động sản được ước tính là hàng
ngàn tỷ đô la vẫn còn nằm trên sổ sách của các tập đoàn tài chính – ngân
hàng.

1.2 Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế

Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường
chứng khoán ngày càng sâu rộng là sự khủng hoảng niềm tin của người
dân Mỹ đối với đội ngũ lãnh đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài
chính tưởng chừng như được thông qua khi hầu hết các lãnh đạo chính
trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại không được Hạ viện thông qua.
Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu cực với kết quả này khi
các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế hoạch giải
cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiếu lại chưa chắc
rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không thì trong
bất cứ trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt
trong tình trạng thị trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 15


pháp này đã thông qua nhưng rõ ràng đã có sự không nhất quán trong nội
bộ các nhà lập pháp Mỹ về cách thức điều hành và quản lý thị trường.
Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã không còn phù hợp và không
theo kịp được sự phát triển của thị trường. Vấn đề là khi lòng tin vào vai
trò của chính phủ đã bị giảm sút và những dấu hiệu của một cuộc đại
khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn cong hiển hiện thì những
giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường.

1.3 Lòng tham của thị trường


Các nhà đầu tư tập trung chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận đã không dừng
lại ở việc sáng tạo ra nhiều công cụ tài chính mới, mà không cần biết
mức độ rủi ro như thế nào và các sản phẩm này có phù hợp với nhu cầu
của người dân hay không.Từ những rủi ro và không quản lý chặt chẽ,
chỉ chạy theo lợi nhuận. Đã dẫn đến bùng nổ quả bóng đã căng hơi từ
lâu.

2. Nguyên nhân sâu xa


2.1 Sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản
Có 3 yếu tố chính đã khởi tạo nên thị trường bong bóng bất động sản.
 Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ,
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến
việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng
hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất
cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ
cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao
hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào
giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi
suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn
1%.
 Thứ nhì, về phương diện sơ hữu nhà cửa, chính sách chung của chính
phủ luc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và
các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc
này phần lớn được thực hiện qua hai công ty được bảo trợ bởi chính
phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách
mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 16


chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay thế
chấp (mortgage – backed securities – MBS), rồi bán lại cho các nhà
đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như
Bear Steams và Merrill Lynch.
 Thứ ba, như đã trình bàyở trên , bởi vì có sự biến đổi các khoản cho
vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ
cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các
ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất
động sản nữa. Nó đã trở thành một sân chơi mới cho các nhà đầu tư,
có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn
ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm
MBS (mortgage – backed securities), là vô cùng phức tạp cho nên nó
diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ.
Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo
hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể
bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành
MBS (mortgage – backed securities), các ngân hàng thương mại đã
trở nên mạo hiểm hơn trông việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ
của người vay.
 Với ba lí do trên thị trường bất động sản thỏ nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều
người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua
nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn
và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (
ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm
thì đúng 3 năm sau lãi suất mới được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại,
nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với lãi suất dưới chuẩn
(subprime rate).
Có thể hiểu “ Nợ dưới chuẩn là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt tại
Hoa Kỳ. Những đối tượng đi vay thường có mức tín nhiệm thấp, không có
công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín
dụng không tốt trong quá khứ. Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn là
một trong những loại hình thuộc lĩnh vực cho vay dưới tiêu chuẩn”.
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay
của nhóm này đã tăng lên vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỷ
USD ở năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và trên 1300 tỷ vào năm 2007.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 17


Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo
hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng
hạn như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho
tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ
bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua
thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS (credit default swap) từ các công ty
bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm ngày
càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS rs thị trường bất chấp khả năng bảo
đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất
động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn
năm từ năm 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng
dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta
sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này
vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một
bong bóng đã hình thành trong thị trường bất động sản.
Những nới lỏng về quản ý như việc hủy bỏ đạo luật Glass- Steagal vốn tách
biệt ngân hàng thương mại chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an
toàn với ngân hàng đầu tư chuyên thực hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro
cao đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho
xung đột lợi ích phát triển. Vì vậy đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất
động sản.
2.2 Chứng khoán hóa các khoản tín dụng bất động sản
Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh
chóng phát triển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt
động chứng khoans hóa các khoản nợ và đầu tư.
Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách
sử dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản
đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách
khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ
sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản
tài chính sẵn có. Do đó các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận
rủi ro liên quan đến danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng
khoán hóa.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 18


Mặc dù các công cụ nợ mới này giúp tăng nguồn tài chính và phân tán
rủi ro nhưng đã dẫn đến việc giá cả của cổ phiếu và trái phiếu ngày xa
rời giá trị thực của tài sản bảo đảm.
Ngược lại, với sự biến đổi sâu rộng của thị trường trong, những yêu cầu
của pháp luật về sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp. Không một cơ quan nhà nước,
đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng tài chính có đủ thông tin và hả
năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán có thể đánh giá
chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ
sách của các tổ chức tài chính và ngân hàng.
Thêm vào đó, những hoạt động chứng khoán hóa lại được che đậty qua
các hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3000 tỷ đô la
giá trị tài sản. Thêm vào đó, những hoạt động chứng khoán hóa lại được
che đậy qua các hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư nắm giữ tới gần
3000 tỷ đô la giá trị tài sản nhưng không phải công bố tài sản với công
chúng và gần như không chịu sự giám sát của bất kì một cơ quan nhà
nước nào.
Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm cảu quá trình này như
chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo
bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công
cụ tài chính tồn tại không ít rủi ro. Một khi sự cố đối với bong bóng thị
trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm
của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân
hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân
hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản.
Mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho
tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
2.3 Sự buông lỏng quản lí nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh
tế của nhà nước
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế Thê giới 1929 - 1933, các học thuyết kinh
tế đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường, điều tiết của “bàn tay vô
hình” bị phê phán, học thuyết kinh tế của Keynes đề cao vai trò điều tiết
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã ra đời. Cơ chế phối hợp
giữa điều tiết của thị trường và điều tiết của nhà nước đã giúp nền kinh
tế thị trường thế giới phát triển tương đối ổn định trong suốt 60 năm qua
(khắc phục, giảm bớt được quy mô, tính tàn phá của các cuộc khủng

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 19


hoảng kinh tế chu kỳ). Nhưng vào những năm 80 của thế kỷ trước, các
trường phái kinh tế Tân tự do (Tân cổ điển) lại được đề cao.
Trong bối cảnh thực hiện các chính sách tự do hóa kinh tế, Chính phủ
mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài. Để
phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2001, Cục Dữ
trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng (từ
6,5% xuống còn 1,75%), theo đó, lãi suất cho vay của tín dụng htuws
cấp cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng
đô la rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín
dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm. Tóm lại, sự buông lỏng
quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà
nước là nguyên nhân sâu sa hơn của cuộc khủng hoảng. Kinh tế thị
trường Mỹ dựa chủ yếu trên sở hữu tư nhân, lợi nhuận là động cơ mạnh
mẽ thúc đẩy các doanh nghiệp năng động, nhưng cũng là nguyên nhân
thúc đẩy các doanh nghiệp đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật,
vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội , phá vỡ những cân đối duy trì
sự phát triển ổn định của nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng.

4. Tác động của cuộc khủng hoảng


Khi khủng hoảng nổ ra, hàng loạt công ty bảo hiểm và ngân hàng bị phá sản, thâu
tóm, sát nhập; lợi nhuận của các tổ chức tài chính giảm sút, việc làm bị cắt giảm
là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các nước phát triển. Mặt khác, thị trường tài
chính cũng rơi vào tình trạng căng thẳng khi thanh khoản bị thắt chặt, lãi suất lên
cao trên thị trường tiền tệ, các chỉ số chứng khoán giảm sút và giao dịch bị đóng
băng. Các ngân hàng chịu ảnh hưởng từ việc giảm giá các tải sản thuộc thị trường
cổ phiếu, cùng với đó là áp lực chi phí gia tăng, các quy định khắt khe mới được
ban hành và sự can thiệp của Chính phủ nhằm kiểm soát hệ thống. Sự sụp đổ
trong khu vực tài chính Mỹ nhanh chóng lan rộng sang các nước mà trước tiên là
các nước có liên quan nhiều tới tài sản tài chính có nguồn gốc từ Mỹ.”Cơn bão
khủng hoảng” tiếp tục lan rộng ra khắp thế giới sau khi đã hạ gục những tên tuổi
lừng lẫy của Mỹ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính, thiệt hại của cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ lên đến 1,3 nghìn tỷ USD. Tất cả các nền kinh tế lớn của thế
giới như Nga, EU, Trung Quốc, và Nhật Bản đều đang trở thành nạn nhân của
“cơn địa chấn tài chính” Mỹ.

1. Tác động đối với kinh tế toàn cầu

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 20


Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh
tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo
hướng xuất khẩu ở Đông Á . Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã
làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng
cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng
hoảng giá lương thực toàn cầu. Một số nền kinh tế như Nhật
Bản, Singapore ,Hong Kong và Đài Loan rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế
khác đều tăng trưởng chậm lại. Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm
lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá
dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại.
- Giá vàng lập kỷ lục trên 1.000 đôla một ounce. Còn giá lương thực đắt
đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia
xuất khẩu lương thực. Lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc
gia.
- Giá dầu sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008 bắt đầu lao dốc không
phanh. . Nguyên nhân cho hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại
nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó
khăn kinh tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 đôla một
thùng, mất hơn 100 đôla, tương ứng gần 70%, so với giá trị ban đầu, bất
chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.  

Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi
kinh tế thế giới xấu đi

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 21


Các tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 đã lan toả
vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, đẩy các thị trường bước vào thời kỳ suy thoái
nghiêm trọng.
 Tăng trưởng kinh tế thế giới: Tốc độ tăng trưởng GDP của toàn thế
giới năm 2008 giảm xuống còn 2,8% (bằng một nửa so với 2007) và
rơi xuống trạng thái tăng trưởng âm (-0,6%) năm 2009. Đây là lần
đầu tiên kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái kể từ 1970 đến
nay. Theo thống kê của IMF, trong năm 2009 đã có 88 trong tổng số
233 nước (chiếm gần 40%) có tăng trưởng âm. Chỉ trong 2 năm 2008
và 2009, tổng giá trị GDP danh nghĩa toàn thế giới đã mất khoảng
12,7 nghìn tỷ USD. Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng trở lại
4,8% vào năm 2010, quá trình tái thiết một nền kinh tế thế giới
“mạnh mẽ, cân bằng và ổn đinh”, như mục tiêu đặt ra tại cuộc họp
G20, được khẳng định là không dễ dàng, và đến 2015, dự báo kinh tế
thế giới vẫn chưa thể lấy lại tốc độ tăng trưởng của năm 2007.
 Thương mại và du lịch: Khủng hoảng tài chính làm rung chuyển
nền kinh tế thế giới, đặc biệt là điều kiện tín dụng thương mại giảm
sút đã dẫn đến sự suy giảm lớn nhất trong hoạt động ngoại thương
trong hơm 70 năm trở lại đây. Từ quý IV/2008, thương mại toàn cầu
đã giảm 8,3% so với quý III và giảm 7,6% so với cùng kỳ năm 2007.
Tỷ lệ tăng trưởng thương mại đã chậm lại từ 6,4% trng năm 2007
xuống còn 2,1% trong năm 2008 và năm 2009 rơi xuống -12,2% là
mức chưa từng có trong lịch sử. Cùng với sự suy giảm của thương
mại, du lịch cũng rơi vào thời kỳ khó khăn với lượng khách du lịch
giảm tới 4% trong năm 2009. Tổng thu nhập từ lĩnh vực du lịch giảm
mạnh ở tất cả các nước.
 Đầu tư: Giai đoạn từ 2003 đến 2007, sự tăng trưởng kinh tế thế giới
được thúc đẩy bởi các luồng vốn đầu tư có quy mô lớn. Nhờ chính
sách tiền tệ nới lỏng duy trì mức lãi suất thấp tại các nền kinh tế lớn
như Mỹ, Châu Âu, cùng với sự mở rộng của thị trường chứng khoán
và sự phát sinh cảu nhiều sản phẩm tài chính phái sinh đã khiến cho
dòng vốn lưu chuyển rất dễ dàng. Khi khủng hoảng bùng nổ, các
dòng vốn đầu tư nhanh chóng giảm sút. FDI là dòng vốn ít có sự biến
động hơn so với dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng đã giảm gần một nửa
trong thời gian khủng hoảng, từ mức hơn 3 nghìn tỷ USD vào năm
2007, đến năm 2009 giảm xuống chỉ còn 1,14 nghìn tỷ USD.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 22


 Kiều hối: Khủng hoảng tài chính kéo theo suy giảm kinh tế và tình
trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước phát triển đã khiến cho xuất
khẩu lao động từ các nước đang phát triển giảm sút nhanh chóng.
Kiều hối về các nước Mỹ La Tinh và Caribe năm 2008 đạt 69,2 tỷ
Usd, chỉ tăng 1% so với năm 2007. Tổng kiều hồi cảu toàn thế giới
năm 2009 đã giảm xuống còn 317 tỷ USD, giảm 21 tỷ so với năm
2007.
 Việc làm: Thất nghiệp gia tăng, sô lượng việc làm giảm sút khiến đời
sống của người lao động rơi vào tình trạng khó khăn là một trong
những biểu hiện của thời kỳ khủng hoảng, đồng thời cũng là trọng
tâm trong các nỗ lực cứu vãn nền kinh tế của các nước. Tỷ lê thất
nghiệp toàn cầu đã tăng từ 5,6% năm 2007 lên mức 6.3% năm 2009
và trong ngắn hạn có rất ít hi vọng để tỉ lệ này có thể trở lại mức
trước khủng hoảng. Hệ số tạo việc làm được tính bằng tỷ số giữa tổng
số việc làm và tổng số dân trong độ tuôi lao động đã giảm từ 61,7%
năm 2007 xuống còn 61,2% trong năm 2009. Năm 2009, năng suất
lao động trung bình toàn thế giới giảm 1,4% trong khi chỉ số này tăng
tới 3,3% vào thời điểm trước khủng hoảng năm 2007. Số lao động
nghèo (với mức thu nhập dưới 1,23 USD/ngày) đã tăng lên hơn 40
triệu người, tăng 1,6% so với trước khủng hoảng. Nếu tính số lao
động có mức sống dưới 2 USD/ngày thì con số lên tới 1,2 tỷ người,
chiếm 39% lực lượng lao động toàn cầu.
 Những rủi ro hậu khủng hoảng: Mặc dù không xuất phát trực tiếp
từ khủng hoảng nhưng sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu đã thúc
đẩy những yếu kém vốn tiềm ẩn trong nội tại nền kinh tế bùng phát
thành những biến cố nghiêm trọng như cuộc khủng hoảng nợ công tại
Châu Âu, nguy cơ chiến tranh tiền tệ hay rủi ro lạm phát tăng cao tại
Châu Á tiếp tục gây ra những bất ổn trong nền kinh tế trong thời kỳ
hậu khủng hoảng.
2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến hệ thống tài chính quốc tế
2.1 Ảnh hưởng lên thị trường tài chính

Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người
dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ
thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 23


tiêu dùng rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Tình hình trên thị
trường tài chính thế giới như sau:

 Thị trường tiền tệ: Khi khủng hoảng tài chính nổ ra, các đồng vốn trên
trường tiền tệ thế giới bị ảnh hưởng đáng kể do các nhà đầu tư đều giảm
hoặc tái cơ cấu lại dòng vốn đầu tư. Dòng vốn quốc tế có giai đoạn tăng
trưởng âm khi Lehman Brothers bị sụp đổ. Quý III/2008 đến hết quý
I/2009 là thời kỳ suy giảm mạnh nhất của dòng vốn quốc tế, cũng là giai
đoạn khủng hoảng sâu nhất. Bên cạnh đó, dòng vốn trong hệ thống ngân
hàng cũng trở thành dòng vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khừng
hoảng tài chính, đặc biệt là ở các nước phát triển. Quy mô hoạt động cho
vay qua biên giới trong hệ thống ngân hàng toàn cầu giảm sút mạnh mẽ
trong suốt cuộc khủng hoảng. Giá trị của các khoản nợ phải đòi ở nước
ngoài của các ngân hàng đã giảm từ 59% GDP vào cuối năm 2007 xuống
còn 51% vào tháng 12 năm 2009. Tại các nước phát triển dòng vốn qua
ngân hàng vẫn tiếp tục giảm trong thời kỳ phục hồi (cuối năm 2009) còn
ở các nước đang phát triển dòng vốn này hầu như không tăng mà chỉ có
sự tăng trưởng mạnh mẽ trở lại của dòng vốn phi ngân hàng.
 Thị trường chứng khoán: Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới suy
giảm mạnh. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các
đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho
các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn
cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một
số nước buộc họ phải xin trợ giúp của IMF. Bong bóng thị trường chúng
khoán tự giải quyết bằng cách xuống giá chứng khoán nghiêm trọng.
Trong năm 2008, thị trường chứng khoán toàn cầu mất khoảng 17000 tỷ
USD trong đó thị trường chứng khoán các nước mới nổi giảm 54,72%,
thị trường các nước phát triển giảm 42,72%.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 24


 Thị trường bất động sản: Cuộc khủng hoảng tài chính cho vay thế chấp
bất động sản tại Mỹ cũng đã lan rộng và làm điêu đứng nhiều ngân hàng
lớn tại các quốc gia ở Châu âu như tập đoàn cho vay bất động sản Hypo
Real Estate, ngân hàng IKB, SachsenLB, DZ BanK, Deutsche Bank của
Đức; ngân hàng đứng thứ 2 Bradford & Bingley (B&B) và thứ 5
Northen Rock của Anh bị quốc hữu hóa; ngân hàng Dexia SA Pháp;
ngân hàng Fortis của Bỉ; ngân hàng Glitnir Bank của Iceland; Ngân hàng
Roskilde Bank của Đan Mạch; tập đoàn tài chính Centro Properties của
Úc.. Chính phủ các nước Châu Âu cũng phải vào cuộc để cứu vãn tình
thế, tránh một cuộc đổ vỡ hệ thống tài chính, suy thoái kinh tế. Nhiều
nước đã phải tuyên bố bảo hiểm 100% tiền gửi ngân hàng của các cá
nhân để bảo vệ người gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền ồ ạt. 

2.2 Ảnh hưởng đến các tổ chức tài chính


Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước Châu
Âu, cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ.
Chính vì vậy, bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức
tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa
Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nề nhất là Anh,
Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 25


Cơn bão khủng hoảng tài chính do cho vay bất động sản dưới chuẩn tràn
lan đã nhấn chìm hệ thống ngân hàng của quốc gia từng có thu nhập đầu
người cao nhất thế giới. Chính phủ Iceland đã phải đóng cửa thị trường
chứng khoán, và quốc hữu hóa những ngân hàng hàng đầu. Từ đó, đồng
nội tệ krona của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa sổ.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng “đột
biến rút tiền gửi” và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền
gửi còn làm căng thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm
2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành
2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao
gồm: Catholic Building Society, Alliance & Leicester, London Scottish
Bank và Dunfermline Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt
của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng.
Ngay quý I năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất
kể từ năm 1983 tới thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank,
Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa. Kaupthing,
Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan
giám sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của ngân hàng Ireland bị giảm, khiến
cho giá cổ phiếu của ngân hàng này sụt giảm nghiêm trọng, giá cổ phiếu
tại thời điểm đầu tháng 3 năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao
vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied
Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải
chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của chính phủ.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 26


Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận
kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3, tỷ EURO và phải
xin chính phủ Bỉ cho vay để củng cố.

Như vậy, theo ước tính của IMF tháng 4/2009, tổng các khoản ghi giảm
giá tài sản của hệ thống các tổ chức tài chính trên toàn cầu lên tới 4,1
nghìn tỷ USD. Tổng giá trị vốn hoá của thị trường của 500 ngân hàng
đứng đầu thế giới đã giảm tới 20% trong năm 2009. Từ tháng 8/2007 đến
12/2/2009, có khoảng 325000 người bị mất việc làm tại các ngân hàng,
các công ty bảo hiểm và các quý đầu tư trên toàn cầu, trong đó có
130000 người (chiếm 40%) bị mất việc kể từ tháng 10/2008 đến tháng
2/2009. Ở Mỹ, tổng cộng trong 3 năm từ 2008 đến 2010, tổng số ngân
hàng phá sản đã lên tới 322 ngân hàng với tổng tài sản là trên 633 tỷ
USD, tương đương với khoảng 4% GDP năm 2009.

5. Những biện pháp khắc phục


1. Hành động chung
Sáu ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới ngày 8/10 đã đồng loạt hạ tỷ lệ
lãi suất cơ bản 0,5% trong nỗ lực ổn định nền kinh tế toàn cầu trước cơn
sóng gió trên thị trường tài chính.
Đây là một việc chưa từng có tiền lệ, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân
hàng Trung ương châu Âu, Ngân hàng trung ương Anh, Ngân hàng trung
ương Canada, Thụy Điển và Thụy sỹ đã cùng phối hợp hành động.
Với lần cắt giảm này, lãi suất cơ bản đồng USD được đưa về mức 1,5%, lãi
suất cơ bản Euro giảm còn 3,75%, lãi suất Đô la Canada còn 2,5%, lãi suất
cơ bản đồng Bảng Anh còn 4,5%, lãi suất đồng Krona của Thụy Điển giảm
còn 4,25%.
2. Hành động của Mỹ
Ngày 23-3-2009, Cục Dự trữ liên bang Mỹ FED, bộ tài chính và các cơ
quan bảo hiểm tiền gửi liên bang FDIC đã công bố một chương trình đầu tư
hợp tác giữa chính phủ và tư nhân để mua lại các tài sản xấu mà chính các
tài sản này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đóng băng tín dụng và kéo
theo là cuộc khủng hoảng tài chính. Chương trình hợp tác đầu tư này sẽ sử
dụng 75 - 100 tỷ USD, số tiền được lấy từ chương trình hỗ trợ tài sản xấu
TARP – chương trình đã được phê chuẩn thành luật dưới thời tổng thống

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 27


Bush năm 2008. PPIP sẽ tạo nên sức mua lên tới 500 tỷ USD và rất có thể
số tiền chi ra của chương trình sẽ còn lên tới 1000 tỷ USD, có 3 nguyên tắc
cơ bản mà chương trình hướng tới:
 Chính phủ sẽ dùng số tiền thuế thu của dân kết hợp với các hoạt động
tài chính FDIC để đồng đầu tư với khối tư nhân nhằm mua lại các tài
sản xấu trong bảng cân đối tài sản của các ngân hàng. Điều này sẽ
khiến cho sức mua giữa bên công và bên tư sẽ được tối đa hóa và
ngân sách hoa kì sẽ được khia thác một cách tốt nhất
 Chia sẻ rủi ro cũng như lợi nhuận giữa các đơn vị tư nhân tham gia
chương trình. Thêm nữa chương trình PPIP sẽ nhằm mục đích đảm
bảo rằng nếu có thua lỗ xảy ra, phía đầu tư tư nhân sẽ chịu ảnh hưởng
trước tiên và chủ yếu, còn nếu có lãi người nộp thuế sẽ được hưởng
lợi.
 Để tránh khả năng rằng chính phủ phải trả giá quá cao hoặc quá thấp
cho các tài sản xấu, việc tham gia mua lại các tài sản từ phía các nhà
đầu tư như thế này sẽ tạo nên một mức độ cạnh tranh nhất định, nhờ
đó các tài sản này sẽ được xác định đúng giá trị thật. Chương trình
loại trừ các tài sản xấu trên bảng kết toán của các ngân hàng sẽ được
thực hiện với số tiền bằng một nửa tổng số tiền từ TARP. Thêm nữa,
phía các đối tượng tư nhân có thể tham gia cũng được mở rộng, trong
đó bao gồm các nhà đầu tư tư nhân, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và
các công ty đầu tư dài hạn khác. Quy trình tiến hành mua tài sản xấu
bắt đầu từ việc xác định các khoản nợ quá hạn mà các ngân hàng
muốn bán. Sau đó các khoản nợ xấu này sẽ được FDIC đem ra tổ
chức bán đấu giá, khối đầu tư tư nhân nào thắng cuộc trong cuộc đấu
giá tài sản xấu này sẽ được FDIC và bộ tài chính hỗ trợ thêm tiền một
khoản tiền để có thể hoàn thành việc mua lại tài sản xấu.
 Tiến trình cứu trợ
- 19/9/2008: quan chức Chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai kế hoạch 700
tỷ USD giúp các ngân hàng thoát khỏi tình trạng nợ xấu.
- 6/10/2008: FED công bố kế hoạch mua một lượng lớn cac khoản nợ
ngắn hạn từ các công ty nhằm khai thông thị trường tiền tệ đang đóng
băng
- 14/10/2008: chính phủ Mỹ dùng 250 tỷ USD trong gói 700 tỷ để mua
lại cổ phiếu của một số ngân hàng quan trọng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 28


-9/11/2008: tập đoàn bảo hiểm khổng lồ AIG có thêm hỗ trợ tài chính
của chính phủ Mỹ, nâng tổng khoản tiền nhận cứu trợ lên đến 150 tỷ
USD (khoản cứu trợ ban đầu là 85 tỷ USD)
- 12/11/2008: từ bỏ kế hoạch dùng một phần trong 700 tỷ USD mua lại
khoản nợ xấu của các ngân ngân hàng. Thay vào đó, chính phủ sẽ tập
trung mua cổ phiếu của các tổ chức cho vay đang gặp khó khăn
- 15/11/2008: hội nghị thượng đỉnh của nhóm các nền kinh tế giàu nhất
thế giới được tổ chức tại Washington (Mỹ), do tổng thống Bush chủ
trì.
- 23/11/2008: các cơ quan quản lý tài chính chủ chốt của Mỹ, gồm Bộ
tài chính, Cục Dự trữ liên bang (FED) và Hãng bảo hiểm tiền gửi liên
bang (FDIC) thông báo các biện pháp lập lại ổn định tại Citigroup
Inc. Bộ Tài chính sẽ bỏ ra 20 tỷ USD từ gói 700 tỷ USD để hỗ trợ
thanh khoản cho ngân hang có mạng lưới dịch vụ rộng nhất thế giới
này. Trước đó, Citi đã nhận 25 tỷ USD và là một trong những ngân
hàng đầu tiên được nhận hỗ trợ từ Chính phủ Mỹ.
- 25/11/2008: gói giải pháp mới với tổng số tiền lên đến 800 tỷ USD
được công bố
- Ngày 13/1/2009: tổng thống đắc cử Mỹ B.Obama yêu cầu Quốc hội
nước này giải ngân tiếp 350 tỷ USD trong Chương trình cứu trợ các
tài sản đang gặp khó khăn (TARP) trị giá 700 tỷ giúp nước Mỹ đối
phó với cuộc khủng hoảng tài chính.
- Ngày 15/1/2009: thượng viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận cho chính phủ
giải ngân tiếp 350 tỷ USD kích thích kinh tế với tỷ lệ phiếu
thuận/phiếu trống là 52/42. Một nửa còn lại của gói kích thích kinh tế
700 tỷ USD đã được chấp thuận để mua lại các tài sản đang gặp khó
khăn tại Mỹ.
- Đầu tháng 2/2009: Bộ trưởng bộ Tài chính Mỹ Timothy Geithner vừa
mới tiết lộ một kế hoạch cứu trợ ngân hàng toàn diện trị giá ít nhất
1,5 tỷ USD với các mục tiêu sẽ hâm nóng lại thị trường tín dụng,
củng cố các ngân hàng và hỗ trợ tích cực cho những người sở hữu
nhà và các doanh nghiệp nhỏ; và đồng thời với việc triển khai này là
áp dụng các tiêu chuẩn mới và cao hơn về tính minh bạch cũng như
trách nhiệm giải trình.
3. Các nước khác

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 29


- Nhật Bản: thủ tướng Nhật Bản Taro Aso đã thông báo khoản cứu trợ cả
gói trị giá 27 nghìn tỷ yên (275 triệu đôla) trong đó có việc tăng cường
hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ.
- Liên Minh Châu Âu: đưa ra dự thảo cho chương trình cả gói kích thích
kinh tế trong vòng 2 năm. Gói này sẽ chiếm ít nhất 1% tổng thu nhập của
khối, tương đương khoảng 130 tỷ EURO (170 tỷ USD).
- Trung Quốc: công bố gói giải pháp kinh tế trị giá 586 tỷ USD nhằm
ngăn chặn tác động của khủng hoảng tài chính. Khoản tiền 586 tỷ USD
được dành cho 10 lĩnh vực, trong đó có cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội từ
nay đến năm 2010, tiêu dùng của người dân, đặc biệt là nhà ở giá rẻ, y
tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và tái thiết các vùng bị thiên tai, như khu
vực bị động đất tại tỉnh Tứ Xuyên. Một phần của gói kích thích cũng
được dành cho khu vực tư nhân.
- Hàn Quốc: chính phủ Hàn Quốc công bố khoản cứu trợ trị giá 100 tỷ
USD trong thời hạn 3 năm để hỗ trợ cho tất cả các khoản nợ nước ngoài
do các tổ chức tài chính trong nước đang phải gánh chịu; đồng thời là
khoản hỗ trợ 30 tỷ USD bơm vào các ngân hàng nhằm tăng tính thanh
khoản.
Ngoài ra, trong khu vực Đông Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản xem
xét đóng góp dự trữ ngoại hối trong một quỹ chung trị giá 80 tỷ USD
nhằm đối phó với khủng hoảng.
- Anh: chính phủ Anh đã công bố một kế hoạch trị giá 50 tỷ Bảng (88 tỷ
USD) để cứu trợ 8 trong số các ngân hàng và tổ chức tài chính lớn nhất
nước này. Đổi lại, chính phủ sẽ nhận được cổ phiếu của các tổ chức này.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 30


Một khoản tài chính trị giá 200 tỷ Bảng cũng sẽ được Ngân hàng trung
ương Ang sẵn sàng cung cấp cho hệ thống ngân hàng trong trường hợp
cần thiết phải tăng khả năng thanh toán bằng tiền mặt.
Một công ty đặc biệt cũng sẽ được thành lập để cung ứng 250 tỷ Bảng
đảm bảo các khoản vay cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Kế hoạch này đã được đưa ra sau khi cổ phiếu cổ phiếu của các ngân
hàng Anh đổ dồn trong phiên giao dịch ngày 7/10 và Phòng Thương Mại
Anh cảnh báo nền kinh tế nước này đã thực sự rơi vào suy thoái. Từ
ngày 7/10, Chính phủ Anh cũng tăng mức đảm bảo cho các tài khoản tiết
kiệm từ 35000 bảng (62000 USD) lên 50000 Bảng.
- Tây Ban Nha: thủ tướng Tây Ban Nha Jose Luis Rodriguez Zapatero
hôm thứ ba (7/10), đã tăng mức đảm bảo tiền gửi tại các ngân hàng lên
100000 EURO (136000 USD) từ mức 20000 EURO trước đó
Thủ tướng Zapatero khẳng định với các ngân hàng hàng đầu nước này
rằng, chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp khẩn cấp nhằm tăng mức bảo
đảm tiền gửi để củng cố niềm tin trong hệ thống tài chính.
Tây Ban Nha cũng đã kêu gọi các quốc gia Châu Âu nên hành động
chung để giải quyết những vấn đề của cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới hiện nay.
- Tại Mỹ La tinh: Ác-hen-ti-na trở thành nước đầu tiên có các động thái
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Tổng thống nước này Cristina Kirchner
đã đề xuất giảm thuế và tăng đầu tư, nhằm giúp hạn chế tác động của
khủng hoảng tài chính toàn cầu tời nền kinh tế. Tổng thống cũng công bố
quyết định bơm hơn 21 tỷ USD cho đầu tư hạ tầng của nước này.
Ngoài ra, các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng chuẩn bị phương án cứu trợ
cho chính phủ một số nước nếu có nhu cầu. Quỹ tiền tệ quốc tế ÌM thông
báo chuẩn bị một khoản trị giá 200 tỷ USD nhằm sẵn sàng cứu trợ các
nền kinh tế gặp khủng hoảng. Ukraine. Hungary và Iceland là những
nước đầu tiên nhận cứu trợ của IMF. Ngân hàng thế giới thông qua Ngân
hàng tái thiết phát triển quốc tế thuộc nhóm Ngân hàng thế giới năm
trước đã cho vay 13,5 tỷ USD cho các nước có thu nhập trung bình;
trong bối cảnh khủng hoảng, Ngân hàng này thông báo có khả năng tăng
gấp đôi số vốn cho vay trên. Tập đoàn tài chính Quốc tế (IFC) trực thuộc
WB cũng đang xem xét thành lập một quỹ đặc biệt để đầu tư và tái cấp
vốn cho ngân hàng vừa và nhỏ tại các nước nghèo nếu chính phủ các
nước không đủ khả năng hỗ trợ. Dự kiến IFC đóng góp khoảng 1 tỷ USD

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 31


và gây vốn thêm khoảng 2 tỷ USD từ các định chế tài chính quốc tế,
ngân hàng thương mại, cơ quan tài chính của các chính phủ và nhà đầu
tư khác.

6. Tình hình Việt Nam giai đoạn đó


1. Tác động tiêu cực

Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam?
Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước. Xét trên khía cạnh đầu tư,
khi đó , Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà
đầu tư lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào  
Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai
đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, trong quan hệ về ngắn
hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại,
quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể. Do đó Việt
Nam hầu như không chịu tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.Về
tác động gián tiếp, điều này cũng là lợi thế của Việt Nam, cho thấy nền kinh tế
Việt Nam là một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ.

 Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
năm 2008 (6,18%) thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu
kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%. Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
2009, GDP tăng trưởng chậm hơn so với năm 2008 do tác động mạnh và
chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt của cuộc suy thoái kinh tế kinh tế tòan cầu .
 Chỉ số giá tiêu dùng: Năm 2008, lạm phát ở Việt Nam tăng mạnh so với
năm 2007. Điều đó khiến giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao
và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm
trước.
 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng: Hoạt động
thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động so với năm 2007 do giá cả
hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm đáng kể, sản
phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại
trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%, trong khi đó năm 2007 tăng
14,4% so với năm 2006).
 Du lịch: Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách
du lịch vào Việt Nam  rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 32


cao cấp. Một số nước có lượng khách đến nước ta giảm là: Hàn Quốc 449,2
nghìn lượt người, giảm 5,5%; Nhật Bản 393 nghìn lượt người, giảm 6,1%;
Đài Loan 303,5 nghìn lượt người, giảm 4,9%.
 Đối với Bất động sản: Chỉ có  FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng,
resort cao cấp là có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực
đầu tư này không phải là điều đáng quan ngại
 Thị trường tiền tệ: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với
Việt Nam có lẽ không đáng kể. Điều này do các nhà đầu tư Mỹ (gián tiếp,
trực tiếp) đã vào Việt Nam nên khi nền kinh tế bị rung rinh thì vốn ở chính
quốc ít đi và do đó có thể họ sẽ xem lại việc rút vốn về để giải quyết vấn đề
trong nước. Còn nếu chúng ta vẫn làm ăn hiệu quả thì họ vẫn để phát triển:
 Biến động tỷ giá USD/VND: Năm 2008, biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần
nới rộng, 2 lần được tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân
hàng, những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.

 Biến động lãi suất huy động và lãi suất cho vay: Bắt đầu từ tháng
5/2008, nhiều ngân hàng đồng loạt đẩy mức huy động tiền gửi lên tới
trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp tới 20%/năm. Từ cuối tháng
7/2008, lãi suất trên thị trường bắt đầu giảm. Lãi suất huy động VND
giảm từ 19%/năm xuống quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa
từ 21%/năm về còn 12,75%/năm (từ 29/01/2009, lãi suất cho vay
VND: 10,5%/năm).
 Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng: Năm 2007, đa số ngân hàng
khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 33


Năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu
thực tế hoặc mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%.
 Hoạt động của các ngân hàng: lợi nhuận của nhiều ngân hàng thương
mại năm 2008 không đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục tiêu đã được điều
chỉnh. Chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn thanh khoản trong nửa
đầu năm 2008 là nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng buộc phải hạn
chế tín dụng.
 Đối với ngành ngân hàng : hoạt động của hầu hết các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam chủ yếu là cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp có độ
phân tán rủi ro cao và ít có sự liên thông đầu tư tới các ngân hàng đầu tư lớn
của Mỹ cũng nhưng các nước khác trên thế giới. Do đó, khi khủng hoảng tài
chính Mỹ 2008 diễn ra thì ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không
đáng kể. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà
đầu tư ví dụ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác
“xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình
để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống. Chủ yếu các tác động gián tiếp do các
dòng vốn thông qua thị trường chứng khoán hay hệ thống đầu tư và qua một
số ngân hàng liên kết tiếp vốn.
 Đối với hoạt động Đầu tư: Khi đó, Mỹ là một trong số các nước đầu tư
hàng đầu vào Việt Nam. Các chuyên gia đều nhân định cuộc khủng hoảng
tài chính Mỹ 2008 sẽ chỉ gây ra những tác động nhỏ, gián tiếp đến dòng vốn
đầu tư vào Việt Nam. Ảnh hưởng nhỏ được các chuyên gia lý giải bằng
nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do đồng tiền của Việt Nam chưa có
tính chuyển đổi. Có nguyên nhân do lượng tiền đầu tư của Việt Nam vào thị
trường tài chính Mỹ không đáng kể. Có nguyên nhân do các chỉ số kinh tế
vĩ mô của Việt Nam trong thồi điểm năm 2008 đang chuyển biến tích cực,
từ lạm phát, nhập siêu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng trưởng nông
nghiệp, công nghiệp, thu ngân sách...
 Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vốn cao
và thường mang tính dài hạn nên không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc
khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ nhưng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) thì có thể
có chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó. Các nhà đầu tư chính ở Việt
Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo
của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc
khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập
niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 34
gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel
tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu
tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình
độ cao cần thiết… Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2008
tiếp tục đạt kết quả cao. tổng vốn đăng ký 64,1 tỷ USD gấp gần 3 lần
năm 2007. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt
11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Nhưng, tỷ lệ vốn thực
hiện so với vốn đăng ký năm 2008 giảm so với năm 2007. Tỷ lệ vốn
thực hiện so với vốn đăng ký năm 2008 chỉ đạt 17,9%, trong khi đó
tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký FDI năm 2007 đạt 37,6%.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu sẽ khiến cho
việc thu hút vốn FDI đăng ký và vốn thực hiện FDI gặp nhiều khó
khăn trong thời gian tới khi các chính quốc rút vốn về nước để tháo
gỡ khó khăn cho công ty mẹ. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không phải là một
ngoại lệ : trong ba tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỉ USD
đầu tư nước ngoài, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi
nguồn vốn FDI cam kết đạt 6 tỉ USD, tương đương 60% số vốn của
cùng kỳ năm 2008. Thực tế, nguồn vốn FDI đăng ký sụt giảm ngay từ
tháng 1, chỉ đạt 185 triệu USD. Sang tháng 2, tổng vốn tăng mạnh do
có 3 dự án lớn được cấp phép tại Bà Rịa - Vũng Tàu, và một dự án
tăng vốn từ 300 triệu USD lên 4,1 tỉ USD. Các dự án khác tăng vốn
rất ít, và trong 3 tháng, chỉ có 34 lượt dự án xin tăng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 35


 Đối với Thị trường chứng khoán : Những loại chứng khoán mà hiện
nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của
Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động
tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Còn hoạt động của TTCK vẫn do các
yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta quy định. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến nguồn vốn đầu tư
vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ
chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài.
Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam
cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của
thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua.
Các chỉ số giảm mạnh : Kết thúc năm 2008, chỉ số VN-Index và
HNX-Index cùng giảm gần 70% so với đầu năm
 Nguồn kiều hối về Việt Nam: Nguồn kiều hối về Việt Nam năm 2008 đạt 8
tỷ USD, tăng 45,5% so với năm 2007 (5,5 tỷ USD). Theo thẩm định của
giới chuyên gia, thì tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong 2009,
theo những con đường khác nhau giao động từ 6 đến 6,8 tỉ đô la . Lượng
kiều hối trong năm 2009 bị giảm là điều không thể tránh khỏi, một phần do
nạn thất nghiệp tại những quốc gia có cộng đồng người Việt sinh sống , thu
nhập của nhiều người sẽ giảm.
 Đối với lĩnh vực xuất khẩu
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở
lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Nhưng đồng thời phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang
Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những
mặt hàng này gặp khó khăn.Tình hình là năm 2008 xuất khẩu chỉ đạt
khoảng 64 tỷ đô la, xuất khẩu không chỉ giảm về số đơn đặt hàng mà cả về
giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Nhiều nhà doanh nghiệp trong nước đã gặp
khó khăn do thị trường hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư.
- Đối với hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu
Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản
phẩm dầu thô chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001-2006 sau
đó giảm dần đó là do sự cạn kiệt trong khi thăm dò và mua các mỏ dầu mới
của các nước khác không mấy tiến triển, Khi nền kinh tế Mỹ khủng hoảng
đã khiến cho giá dầu thô sụt giảm mạnh tác động đến nguồn thu từ dầu mỏ
Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị trường nhưng chịu ảnh hưởng

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 36


về giá. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 là 5tyr USD giảm 40.1% tương
đương 3.35 tỷ USD trong đó giảm do giá giảm 4.83 tỷ USD và tăng do
lượng khoảng 1.48 tỷ USD
- Đối với hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày
càng khốc liệt bởi các hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, kim ngạch
xuất khẩu một số mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam đã bị suy giảm.
Những tác động này bắt đầu bộc lộ tử tháng 9/2008, xuất khẩu bị chững lại,
giá trị đều giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch là 1.45 tỷ USD
giảm 11% so với tháng 8/2008
- Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến
Năm 2008 hoạt động xuất khẩu không theo quy luật những tháng đầu xuất
khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng
7 và 8 đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những tháng
cuối năm. Năm 2008 Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ USD trong
đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản,
45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng
nông , lâm thủy sản.
 Tình trạng tăng trưởng kinh tế

Quý I năm 2008 với mục tiêu tăng trưởng GDP 9% nhưng đã giảm còn 6,5%; biên độ
giá của các mặt hàng dao động mạnh, lãi suất ngân hàng liên tục thay đổi, giá dầu
giảm ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua,… tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta
năm 2008 đã chậm lại, còn 6,2% so với 8,5% năm 2007. Đây là mức tăng trưởng thấp
nhất kể từ năm 2000; hơn nữa tăng trưởng quí IV/2008 chỉ đạt 5,7% so với 6,5% của
ba quí đầu năm 2008.. Đặc biệt, trong khi tăng trưởng của khu vực công nghiệp-xây
dựng sụt giảm đáng kể (6,1% so với 10,2% năm 2007), thì khu vực nông-lâm-thủy sản
lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007 (4,1% so với 3,8%), thể hiện ý nghĩa to
lớn của khu vực này trong phát triển đất nước cũng như trong giải quyết các vấn đề xã
hội trong tình hình khó khăn.

Bảng 1: Tăng trưởng GDP, 2004-08 (%)


  2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18
Nông-lâm-thủy sản 4,36 4,02 3,69 3,76 4,07

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 37


Công nghiệp-xây dựng 10,22 10,69 10,38 10,22 6,11
Dịch vụ 7,26 8,48 8,29 8,85 7,18
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18
Nông-lâm-thủy sản 0,92 0,82 0,72 0,70 0,73
Công nghiệp-xây dựng 3,93 4,21 4,17 4,19 2,54
Dịch vụ 2,94 3,42 3,34 3,57 2,90

Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương (Viện NCQLKTTƯ).
2. Tác động tiêu cực

Mặc dù, hhủng hoảng tài chính Mỹ tạo cho nền kinh tế Việt Nam không ít những thách
thức, nhưng trong những thách thức đó chúng ta cũng tìm thấy cho riêng mình những cơ
hội để phát triển hơn cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, nhìn vào thực tế của cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu thấy
những tia sang cho đầu tư nội địa gia tăng. Chúng ta sẽ chú trọng đầu tư trong nước nhờ
vào nguồn vốn trong dân chưa được khai thác hết.
Thứ hai, khi mà xuất khẩu giảm mạnh do khủng hoảng cũng là cơ hôi để chúng ta đa
dạng hóa thị trường cơ cấu lại định hướng thị trường và các mặt hàng xuất khẩu.
Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam còn khá nhỏ so với thế giới, nền thực chất ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế tới Việt Nam không quá gay gắt, thị trường Việt Nam được
đánh giá cao về mức an toàn và ổn định. Nên đầu tư vào thị trường Việt Nam là một giải
pháp khôn khéo cho các nhà đầu tư. Tận dụng cơ hội này, chúng ta có thể thu hút được
sự đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước.
Thứ tư, Việt Nam là “người mới đến” trong cuộc chơi tư do hóa thương mại lại đang
trong quá trình hội nhật và chuyển đổi kinh tế. Vì vậy trong cuộc khủng hoảng này Việt
Nam có thê học cách ứng xử với khủng hoảng, rút ra bài học kinh nghiệm cho nền kinh
tế còn non trẻ như Việt Nam.

 Trước tình hình đó, nước ta cũng đã có những hành động nhất định:
- Cắt giảm lãi suất cơ bản còn 7%/năm
- Giảm tỉ lệ tiền gởi dự trữ bắt buộc
- Thực hiện các giải pháp kích cầu như: Hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn
hạn đối với khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân phục vụ sản xuất,
kinh doanh từ 01/02 đến 31/12/09 theo quyết định 131 của Thủ tướng

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 38


Chính Phủ và thong tư 02 của NHNN, giảm thuế V.A.T, giảm thuế
TNDN…
- Thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn thông qua Ngân
hàng phát triển VN theo thông tư 14 của bộ Tài Chính.
- Về đối ngoại:
• Phải theo dõi thật sát và đáng giá thật kĩ biến chuyể hàng ngày
trên thế giới, nhất là những nước có lien hệ kinh tế nhiều với nước
ta như: Mỹ, Nhật, Hàn, Trung Quốc và các nước ASEAN…
• Tìm biện pháp cải thiện quan hệ đối với Trung Quốc vì:
 TQ là thị trường rất lớn, lại ở sát Việt Nam, nhập khẩu năm
2007 của TQ gần 1000 tỷ USD.
 Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ồ ạt vào Việt Nam
gây sự mất thăng bằng trầm trọng trong cán cân ngoại thương
của ta. Nỗ lực thay thế hàng nhập khẩu TQ tại thị trường nội
địa và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường TQ sẽ góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô và tăng năng lực cạnh tranh của hàng công
nghiệp VN trên thị trường thế giới.
- Về đối nội:
• Ưu tiên giải quyết vấn đề thất nghiệp. Nhân dịp này phải lành
mạnh hóa, ngân hàng mà từ trước đến nay vẫn là khu vực yếu
nhất trong nền kinh tế nước ta. Cụ thể là cần có đội ngũ chuyên
gia kinh tế tài chính giỏi và phải biết lắng nghe họ.
• việc kích cầu hiện nay không nên chỉ giải quyết sự suy thoái trước
mắt mà nên được định hướng vào việc tăng cung cho giai đoạn
tới, phải tăng năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh khi kinh tế
thế giới hồi phục và cả trong dài hạn.
• Chỉ đầu tư công ở những điểm yếu thật sự trong kết cấu tầng kinh
tế. Chẳng hạn: quốc lộ 1 cần được mở rroongj và nâng cấp ngay,
nhất là ở khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung, mở
them các con đường xương cá nối các thôn làng với quốc lộ 1.
• Tín dụng ưu đãi nên ưu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa – là
nơi tạo ra nhiều công ăn việc làm nhưng lại gặp khó khăn trong
việc tiếp cận vốn.
• Tập trung xây dựng nhà ở giá rẻ cho người có thu nhập thấp, nhất
là tại các vùng phụ cận với khu công nghiệp. Đầu tư theo hướng

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 39


này vừa có tác dụng an sinh xã hội, vừa tạo điều kiện cải thiện thị
trường lao động, ổn định sản xuất cho giai đoạn tới.
• Đầu tư cải thiện hạ tầng giáo dục, nhất là bậc tiểu học ở vùng sâu,
vùng xa. Đầu tư theo hướng này có tầm quan trọng trong dài hạn.

Mặc dù đến cuối năm 2009 nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa khắc phục được hậu quả
nặng nề của cuộc khủng hoảng này để lại. Vì vậy, trong giai đoạn tới nước ta cần
thực hiện các giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cũng như
tăng trưởng kinh tế.

7. Bài học và giải pháp rút ra đối với các quốc gia

Bài học thứ 1: hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước phòng thủ
đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào

Bài học này cho chúng ta thấy sự quan trọng của các công cụ giám sát tài chính và
việc quan tâm đến việc xây dựng tốt những nền tảng cơ bản cho phát triển hệ
thống và thị trường tài chính như khuôn khổ pháp lý về giám sát và tổ chức giám
sát tài chính, việc phát triển các định chế đầu tư dài hạn, định mức tín
nhiệm….Một nền kinh tế càng có độ mở bao nhiêu thì việc giám sát thị trường và
các tổ chức tài chính càng phải chặt chẽ bấy nhiêu vì nền kinh tế càng mở càng
đồng nghĩa với việc nguy cơ doanh nghiệp thất bại càng cao kèm theo đó là nguy
cơ rủi ro tín dụng. Ngoài ra thì để có thể giám sát tốt hay việc định mức tín nhiệm
hiệu quả giữa các cơ quan giám sát tài chính. Hiện tại, thông tin minh bạch và sự
phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát chính là đặc biệt quan
trọng.

Bài học thứ 2: là bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng

Bởi vì nhiều khi sự đổ vỡ của ngân hàng bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá
của dân chúng. Bài học này liên quan đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát
là bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cần phát huy tốt vai trò của mình
để tạo được niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham
gia ngăn chặn xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây truyền.

Công chúng tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng, tài chính nếu họ nhận thức
được rằng có một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ giám sát thường xuyên tổ
chức tín dụng mà họ gửi tiền chứ không chỉ thực hiện việc chi trả tiền gửi cho họ

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 40


kho tổ chức đó bị đổ vỡ. Điều quan trọng hơn, niềm tin đó góp phần ổn định về
chính trị, xã hội thậm chí kể cả trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.

Bài học thứ 3: cho vay dưới chuẩn nhưng thiếu cơ chế kiểm soát là một con dao
hai lưỡi

Như đã phân tích trong phần trên thì hoạt động cho vay dưới chuẩn của các ngân
hàng và các tổ chức tài chính được chính phủ Mỹ cho phép và khuyến khích. Đó là
việc để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp có điểu kiện sở hữu nhà ở. Khi thị
trường bất động sản hoạt động hiệu quả giá nhà tăng thì họ có thể bán nhà và kiếm
được chênh lệch. Có cơ hội mua nhà mới phù hợp túi tiền và có thêm thu nhập. Bù
lại các ngân hàng và các tổ chức tài chính được hưởng mức lãi suất cho vay cao
hơn để bù rủi ro. Một cơ chế cho vay lỏng lẻo và thiếu kiểm soát khi chính phủ chỉ
dựa vào việc tạo ra lợi ích tạo lập nhà ở cho người có thu nhập thấp mà không tính
toán tới khả năng trả nợ của họ khi thị trường bất động sản đi xuống những người
thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều kiện trả nợ lại đem căn nhà
mua bằng tiền đi vay thế chấp để trả nợ.

Bài học thứ 4: chứng khoán hóa các tài sản thế chấp là một cơ chế tạo lập nguồn
vốn khổng lồ nhưng mong manh

Trong khi hệ thống kiểm soát không kịp thời nên đã tạo lập ra nguồn vốn khổng lồ
nhưng thực chất rất mong manh. Cụ thể để hỗ trợ cho vay lập nhà ở, chính phủ Mỹ
còn cho lập Fannie Mac và Freddie Mac. Hoạt động chính là mua lại những món
nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp “dưới
chuẩn” của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu
tái thế chấp” bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân
hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài
chính thông dụng để có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ

Bài học thứ 5: Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất và thúc đẩy
nhanh chóng các đổ vỡ kinh tế khi nó sảy ra

Mua bán khống ở mức độ vừa phải có kiểm soát sẽ là chất xúc tác tạo nên sự kích
thích cho kinh tế phát triển. Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất,
gây nên những đổ vỡ kinh tế to lớn khi nó xảy ra

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 41


Bài học thứ 6: Nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn
trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hay bột phát, nhất là khủng
hoảng tài chính

Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt các chính sách về an ninh
xã hội. Cải tổ nền kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế,phát triển nền kinh tế theo hướng
định hướng xuất khẩu, giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng thương mại và xuất
siêu. Đổi mới nền tài chính-tiền tệ quốc gia, áp dụng chính sách tiền tệ phù hợp
( có lúc thắt chặt và có lúc nới lỏng chính sách tiền tệ tùy theo tình hình thực tiễn)
áp dụng tỷ giá ngoại hối linh hoạt, tăng dự trữ ngoại tệ mạnh. Đa dạng hóa thị
trường xuất-nhập khẩu, không nên tập trung nguồn lực quá lớn vào một vài thị
trường để đề xuất sự biến động bất trắc có thể xảy ra.

Sau đây là một số giải pháp nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế:

- Thắt chặt chế độ tiền tệ: đây là biện pháp được dùng đầu tiên và chính yếu
trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Các ngân
hàng cho vay quá nhiều dẫn đến tình trạng thiếu lượng vốn cần thiết để duy trì hoạt
động hay nói cách khác là thiếu tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Ngân
hàng thể hiện sức khoe của nền kinh tế, khi nó ốm yếu có nghĩa là nền kinh tế đang
lâm nguy.

- Tiết kiệm chi tiêu: Trong lúc khó khăn, tiết kiệm được coi là quốc sách. Tại sao
mỗi khi khó khăn con người mới nghĩ đến tiết kiệm như một giải pháp chứ không phải
là một thói quen? Nếu mọi người đừng tiêu sài hoang phí và sử dụng tiền khồn phải là
cảu mình đầu tư nhằm sinh lời ảo thì có lẽ đã không xảy ra khủng hoảng kinh tế. khi
khủng hoảng con người mới nhận thấy rõ nhất giá trị thực cảu nền kinh tế, giá trị thực
tài sản của mình và bắt đầu biết quý trọng, tiết kiệm những đồng tiền mồ hôi nước mắt
khi chi tiêu.

- Cơ cấu lại danh mục đầu tư: Hơn lúc nào hết, trong thời kỷ khủng hoảng, nền
kinh tế suy thoái, các nhà đầu tư và tổ chức càng cần phải xem xét lại danh mục đầu
tư, duy trì những khoản đầu tư mang lại hiệu quả cao, và cắt giảm một số khoản
không cần thiết. Điều quan trọng là nhà đầu tư cần phải biết đâu là danh mục cần loại
bỏ và đâu là danh mục cần giữ lại, để đầu tư sao cho hiệu quả và hợp lý, tránh ít nhất
những thiệt hại có thể xảy ra. Thông thường, các nhà đầu tư sẽ chuyển đổi từ những

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 42


danh mục đầu tư đã phát triển nóng như bất động sản, chứng khoán sang những khoản
mục an toàn hơn là vàng, đola, trái phiếu Chính phủ và tiết kiệm.

- Công bố các gói kích thích kinh tế tăng trưởng: Đây là một phương thức không
thể thiếu trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Điều khác
biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung
tiền đề để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất
cũng như tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như
đất đai, chứng khoán.

- Cùng đoàn kết hợp tác chống khủng hoảng kinh tế: Hơn lúc nào hết, các quốc
gia và tổ chức cần phải chung tay để vượt qua khủng và suy thoái. Các tổ chức như
G20, Asem,.. đã họp bàn với nhau để cùng tìm ra phương hướng, dự báo và cách thức
hỗ trợ lẫn nhau. Lý do chính khiến các nước phải cùng nhau thảo luận là vì quan hệ
chính trị và ảnh hưởng qua lại ràng buộc giữa các nền kinh tế. Trong thời đại toàn cầu
hóa, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khoán… của các nước liên kết với nhau khá
chặt chẽ và sâu rộng.

Như vậy, khủng hoảng tài chính có thể coi như là một tất yếu trong một chu kỳ
kinh tế. Tuy nhiên mỗi một cuộc khủng hoảng lại có những nét đặc thù riêng. Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra với nhiều nguyên nhân tiềm ẩn rất lâu trước
đó đã làm rung chuyển cả nền kinh tế thế giới, gây ra rất nhiều tác động tiêu cực đến
mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển và
toàn cầu hóa như hiện nay thì sự tác động của nó có một sức lan tỏa mạnh mẽ hơn
bao giờ hết. Với những nguyên nhân, diễn biến cũng như các tác động của cuộc
khủng hoảng đã nêu ở trên, chúng ta có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn, và
quan trọng hơn là chúng ta có thể rút ra những bài học để hạn chế các tiêu cực, cũng
như tìm ra các chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn để nền kinh tế phát
triền ổn định hơn của mỗi quốc gia nói riêng và của kinh tế toàn cầu nói riêng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 43

You might also like