Professional Documents
Culture Documents
KHNG Hong Tai Chinh Toan Cu 2008
KHNG Hong Tai Chinh Toan Cu 2008
Bước sang thế kỉ XXI, nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng, các nước phát
triển như Mỹ, Nhật, khu vực EU luôn đạt được sự gia tăng về GDP, GNP. Tốc độ tăng
trưởng luôn từ 2% - 3% một năm. Cùng với đó là sự tăng trưởng và phát triển của Trung
Quốc từ một nước không nằm trong bảng xếp hạng 10 nước phát triển trên thế giới thì chỉ
sau 6 năm đã dần trở thành cường quốc lớn thứ 4 trên thế giới, là một trong 4 con rồng
Châu Á mới của thế kỷ.
Tuy nhiên đi kèm với sự phát triển đó là nguy cơ, hiểm họa của cuộc khủng hoảng
tài chính cùng với đó là sự suy thoái tất yếu của chu kỳ phát triển kinh tế sau những năm
phát triển cực đại. Với những mầm mống khủng hoảng từ trước, năm 2007 đã đánh dấu
sự suy thoái, bắt đầu những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế thế giới. Chỉ trong
vòng một vài tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cả thế giới chứng kiến sự rung
chuyển của hệ thống tài chính Mỹ - nơi được xem như cường quốc hùng mạnh nhất thế
giới. Đây được xem như cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất xảy ra kể từ 80 năm trở lại
đây. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan, sự lây lan vẫn tiếp tục lan rộng và ảnh hưởng mạnh
mẽ ra toàn thế giới.
Chính vì thế, chúng em muốn tìn hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm
2008 với hy vọng có thể giúp mọi người hiểu hơn về cuộc khủng hoảng với diễn biến,
nguyên nhân và những tác động của nó đến nền kinh tế toàn cầu. Như thế, mỗi chúng ta
sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc khủng hoảng và từ đó, chúng ta có thể sẽ tìm ta được
những bài học cũng như những giải pháp để giúp cho nền kinh tế tránh được những rủi ro
mà cuộc khủng hoảng gây ra, đồng thời tìm ra những định hướng phù hợp giúp cho mỗi
quôc gia có thể tận dụng được những cơ hội của mình để tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức còn hạn chế cũng như kinh
nghiệm thực tế chưa nhiều, đề tài thảo luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn!
I. Giới thiệu tổng quan về đề tài.
1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ
khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ
mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của
mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế (Bách khoa toàn thư) là sự suy giảm của hoạt động
kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng
hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài
chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ
làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng
hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu
cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây
ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng
và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một
phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt
hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển
qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn
khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
Khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh
khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sụp đổ và phá sản dây chuyền
trong hệ thống tài chính.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
Các ngân hàng không hoàn trả được cá khoản tiền gửi của người gửi
tiền
Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng
không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng
Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định
2. Các loại khủng hoảng tài chính:
Khủng hoảng ngân hảng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ra khỏi
ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách
hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả
các khoản nợ. Sự rút tiền hàng loạt có thể sẽ dẫn đến sự phá sản của
ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ
phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan
rộng sé gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể
Các chuyên gia nhận định cuộc khủng hoảng Kinh tế ở Hoa Kỳ năm 2008 là
một cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc đại suy thoái cũng tại Hoa Kỳ từ
năm 1929 - 1930. Có thể nói cuộc khủng hoảng đã âm ỷ từ những năm 2000
với cuộc khủng hoảng Dot-com và vụ khủng bố 11/9/2001, làm cho nền kinh
tế Hoa kì suy yếu. Cuộc khủng hoảng đã có mầm mống từ nhiều năm về
trước, cụ thể như sau:
1.1Giai đoạn từ năm 2000 – 2007, những dấu hiệu cảnh báo cuộc
khủng hoảng
Bong bóng Dot-com 2000
Năm 1995, Microsoft giới thiệu hệ điều hành Window 95 với nhiều cải tiến
mang tính đột phá so các phiên bản trước. Sự cạnh tranh giữa các hãng phần mềm
chế tạo phần cứng máy tính, nhất là chế tạo bộ vi xử lí đã làm cho máy tính cá
nhân rẻ hơn. Hai yếu tố mở ra cơ hội sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân tại doanh
nghiệp và gia đình. Trình duyệt Internet của Netscape đã cho phép mọi người khai
thác, trao đổi thông tin qua mạng, mở ra kỉ nguyên của thương mại điện tử, khai
thác sức mạnh của hệ thống quản lý.
Ngày 09/08/1995, công ty Netscape thực hiện phát hành cổ phiếu ra lần đầu,
ngay trong ngày hôm đó, giá cổ phiếu của Netscape đã tăng từ 28 lên 71 USD.
Hiện tượng này đã kéo theo hàng loạt các công ty máy tính phát hành cổ phiếu và
niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Cơn sốt đầu tư vào các cổ phiếu của ngành công nghệ thông tin kéo dài từ năm
1995-2000 làm cho chứng khoán tăng điểm mạnh. Cho dù các công ty hoạt động
không có lãi nhưng giá cổ phiếu vẫn tăng mạnh không còn phản ánh đúng giá trị
thực của công ty. Bong bóng chứng khoán xuất hiện, bong bóng lớn và vỡ năm
2000 dẫn tới việc hàng loạt công ty công nghệ thông tin bị phá sản, mở đầu thời kì
suy thoái kinh tế đầu thập niên 2000 của Hoa kỳ.
Năm 2001- 2004, FED thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm cứu nền
kinh tế thoát khỏi suy thoái, sử dụng biện pháp hỗ trợ đầu tư và kích thích tiêu
dùng. Cụ thể là việc giảm lãi xuất từ 6,25% năm 2001 xuống còn 1,75% năm
2003 và duy trì ở mức 1% giữa năm 2003 tới giữa năm 2004. Điều này là động
lực cho sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng. Ngân hàng dễ
dàng cung cấp tín dụng cho khách hàng, hệ quả là việc đi vay ồ ạt nhằm mục đích
đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Giá cả ở các bang Arizona,
California, Florida, Hawaii… tăng lên trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở
Mĩ bắt đầu.
Năm 2005: có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12%
mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở phát triển đến mức cực đại và bùng
nổ. Từ quý IV đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Khi đó
tổng giá trị tích lũy các khoản tín dụng nhà ở lên 600 tỷ USD. Nhiều người vay
tiền không có khả năng trả nợ dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Giá nhà xuống
khiến cho tài sản tịch biên không bù đắp được các khoản ngân hàng cho vay,
nhiều ngân hàng rơi vào khó khăn.
Năm 2006: thị trường BĐS tiếp tục suy giảm. Giá giảm mạnh dẫn tới 1 lượng
nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 8 giảm 40% so
năm trước.
1.2Giai đoạn 2007: các tổ chức tín dụng thứ cấp bị phá sản.
Ngay khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005. Kinh tế Mỹ bắt đầu tăng
trưởng chậm lại. Tuy nhiên bong bóng nhà ở dẫn tới các khoản vay không trả
nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Đến năm
2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan tín dụng nhà ở ở
Mỹ bị phá sản.
Ngày 05/02/2007, công ty đứng thứ 15 về cho vay dưới chuẩn nhiều nhất
ở Hoa Kỳ - Mortage Lenders Network USA đã tuyên bố phá sản (tổng dư nợ
lên tới 3,3 tỷ USD, quý III, 2006).
Ngày 02/04/2007, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất nước Mỹ , New
Century Financial tuyên bố phá sản.
Quỹ bảo hiểm lớn nhất trị giá 8 tỷ USD của Goldman Sach- Global
Alpha- thông báo lỗ 26% trong năm 2007. Đồng thời Citigroup cũng thông báo
lỗ 700 triệu USD trong hoạt động tín dụng tháng 7, tháng 8/2007.
Những nạn nhân đáng kể đầu tiên đều liên quan trực tiếp tới hoạt động
cho vay dưới chuẩn như Northern Rock và Countrywide Financial vào hau
tháng 8 và 9/2007. Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, vào tháng
9/2007, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp
bất động sản, đã phải cầu cứu NHTW Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền
khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này. Trước đó,
Countrywide Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho vay thế chấp địa ốc của
Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại Countrywide
Financial với giá 4 tỷ USD. Tiếp đến, vào ngày 17/2/2008, Northern Rock
chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiên Northern Rock và Countrywide Financial
là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng
như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị chính phủ tiếp quản của các định chế tài
chính.
1.3 Giai đoạn đỉnh điểm (2008) – Sự sụp đổ của các ngân hàng lớn
Năm 2008 là giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính với sự
đổ vỡ của hàng loạt các ngân hàng lớn và lâu đời, cùng việc mất niềm tin mạnh
mẽ của người dân vào nền kinh tế đã làm cho kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng
khủng hoảng nhất trong lịch sử kể từ cuộc đại suy thoái năm 1930. Chính phủ
Mỹ buộc phải vào cuộc với một loạt các chiến dịch cứu trợ khẩn cấp.
Ngày 11/7/2008, Indy Mac – ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Ủy
ban giám sát tiết kiệm của nước này (OTS) đóng cửa và chuyển giao lại cho tập
đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC).
Ngày 7/9/2008, Chính phủ Mỹ chi 200 tỷ USD để tiếp quản Fannie Mae
và Freddie Mac thông qua mua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này
không bị phá sản. Fannie Mae và Freddie Mac là 2 hãng cho vay thế chấp lớn
nhất Mỹ, bảo lãnh cho số bất động sản trị giá 5000 tỷ USD trên khắp nước Mỹ,
chiếm 50% thị trường. Sự kiên này nổ ra đã gây nên cơn địa chấn tài chính thực
sự.
Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tư tài chính
Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD. Cuộc sát nhập này sẽ cho ra đời tập đoàn tài
chính hùng mạnh nhất trên thế giới trong bối cảnh kinh tế Mỹ có nhiều khó
khăn.
Ngày 15/9/2008, sau khi nỗ lực huy động vốn bị thất bại do chính phủ
Mỹ từ chối bảo lãnh, Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư hàng đầu trên thế giới
với 158 năm lịch sử và trên 26000 nhân viên, tuyên bố phá sản. Tổng số tiền nợ
của Lehman Brothers lên tới 768 tỉ USD (bao gồm 614 tỷ USD nợ ngân hàng
và 155 Tỷ USD nợ trái phiếu). Giá trị tài sản xác định trên giấy tờ là 639 tỷ
USD bao gồm nhiều tài sản mà giá trị thực tế có thể thấp hơn nhiều giá trị sổ
sách. Sự phá sản của Lehman Brothers và những sự kiện diễn ra trước đó đánh
dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính mà theo đánh giá của nhiều
chuyên giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại suy thoái kinh tế năm 1930 của thế kỉ
trước.
Ngày 26/9, ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhất
Mỹ được Chính phủ tiếp quản và sau đó được bản lại cho JP Morgan Chase &
Co với giá 1,9 tỷ USD. Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn
nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD.
Tháng 9 và 10/2008 cũng trở thành giai đoạn đen tối với Wall Street khi chỉ số
Dow Jone sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Kể từ
giai đoạn này, biến động tại Wall Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục
cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá.
Xen giữa những sự kiên trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiên các cơn
sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt
là giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 USD
một ounce vào ngày 17/3. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực
sự tai nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát
từ đó cũng xảy ra lan tràn tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào
tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân cho hiện
tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và
Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn kinh tế. giá loại nhiên liệu này chỉ còn
khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100 USD, tương ứng gần 70%, so với giá
trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến
NHTW Mỹ, Anh , Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng
loạt để khơi thông dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất,
từ đó lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở các điều
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 Page 8
chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và
cho vay.
Ngày 29/09/2008, gói giải pháp cứu trợ thị trường tài chính trị giá 700 tỷ
USD bị Quốc hội bác bổ do các ý kiến trái chiều của các Đảng, sự kiện này
khiến Dow Jones có mức sụt giảm lớn nhất lịch sử, gần 778 điểm và phố Wall
mất 1200 tỷ USD.
Ngày 03/10/2008, Trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp lâu dài ,hạ viện
Hoa Kỳ thông qua gói giải pháp 700 tỷ USD sau khi đã có nhiều điểu chỉnh.
Cùng với đó, FED quyết định cắt giảm lãi suất từ 2% xuống 1,5% nhằm hạn
chế sự suy thoái của nền kinh tế.
Kế hoạch này thực chất là việc Chính phủ nước này vay tiền từ thị trường
tài chính thế giới. Họ hy vọng có thể trả được những khoản vay này một khi thị
trường nhà đất ổn định trở lại.
Ngày 05/11/2008, Barack Obama đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ, với đường
lối kinh tế được thế giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Hoa Kỳ và toàn
cầu.
Bước vào quy IV, cuộc khủng hoảng được đẩy lên một nấc thang mới.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chỉ tiêu của người dân. Hệ
quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỉ lệ thất nghiệp
tại nhiều quốc gia tăng cao, chỉ tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất
xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors(GM), và Chryslẻ phá sản. Kể từ đầu
năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính
ảnh hưởng nghiêm trọng. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của
Mỹ tụt xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi tệ hơn
do khủng hoảng tài chính, ba đại gia trên đang phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngừng
hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân
nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, “vay nóng”
14 tỷ USD, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho việc mua nợ xấu
nhà băng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời, đủ
để hai hãng “sống sót” đến hết quy I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm giải
quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó sẽ được chuyển giao cho
Chính phủ mới của tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các nhà kinh
tế, nếu các công ty được coi là biểu tượng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá
sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại
Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.
Ngày 23/11/2008, ba cơ quan quản lý tài chính quan trọng của Mỹ đồng
thuận đưa ra gói giải pháp trị giá 20 tỷ USD và bảo lãnh toàn bộ nợ của
Citigroup, nhằm kéo tập đoàn có ảnh hưởng toàn cầu khỏi nguy cơ sụp đổ.
Ngày 25/11/2008, cục dự trữ liên bang Mỹ chi 600 Tỷ USD trong đó 500
tỷ được dùng để mua lại các khoản cầm cố chứng khoán của Fannie Mac và
Freddie Mac và cả Ginnie Mac và 100 tỷ USD để mua lại các khoản lỗ của
Fannie, Freddie và Federal Home Loan Banks.
Ngày 01/12/2008, cục nghiên cứu kinh tế quốc gia Hoa Kỳ tuyên bố nước
Mỹ lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 và được Chính phủ Hoa Kỳ chính thức
thừa nhận. Hiệu ứng “domino” bắt đầu từ sự sụp đổ của hàng loạt các tổ chức
tài chính lớn và lâu đời kéo theo sự sụp đổ cả hệ thống ngân hàng. Năm 2008
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế, Mỹ và EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa tháng
12/2008 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard Madoff thực hiện bị phanh
phui. Lợi dụng ảnh hưởng và uy tín của Madoff tại Wall Street, quỹ đầu tư của
Madoff, hoạt động theo mô hình Ponzi, đã thu hút được hơn 50 tỷ USD từ các
nhà đầu tư, trong đó có nhiều ngân hàng lớn tại Châu Âu. Nhiểu khách hàng
của Madoff đang đối mặt với nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Vụ scandal trên
hiện vẫn chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống
giám sát tài chính Mỹ cũng như sự dính líu của quan chức tại Washington tới
Madoff.
1.2 Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường
chứng khoán ngày càng sâu rộng là sự khủng hoảng niềm tin của người
dân Mỹ đối với đội ngũ lãnh đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài
chính tưởng chừng như được thông qua khi hầu hết các lãnh đạo chính
trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại không được Hạ viện thông qua.
Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu cực với kết quả này khi
các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế hoạch giải
cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiếu lại chưa chắc
rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không thì trong
bất cứ trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt
trong tình trạng thị trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải
Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi
kinh tế thế giới xấu đi
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người
dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ
thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người
Thị trường tiền tệ: Khi khủng hoảng tài chính nổ ra, các đồng vốn trên
trường tiền tệ thế giới bị ảnh hưởng đáng kể do các nhà đầu tư đều giảm
hoặc tái cơ cấu lại dòng vốn đầu tư. Dòng vốn quốc tế có giai đoạn tăng
trưởng âm khi Lehman Brothers bị sụp đổ. Quý III/2008 đến hết quý
I/2009 là thời kỳ suy giảm mạnh nhất của dòng vốn quốc tế, cũng là giai
đoạn khủng hoảng sâu nhất. Bên cạnh đó, dòng vốn trong hệ thống ngân
hàng cũng trở thành dòng vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khừng
hoảng tài chính, đặc biệt là ở các nước phát triển. Quy mô hoạt động cho
vay qua biên giới trong hệ thống ngân hàng toàn cầu giảm sút mạnh mẽ
trong suốt cuộc khủng hoảng. Giá trị của các khoản nợ phải đòi ở nước
ngoài của các ngân hàng đã giảm từ 59% GDP vào cuối năm 2007 xuống
còn 51% vào tháng 12 năm 2009. Tại các nước phát triển dòng vốn qua
ngân hàng vẫn tiếp tục giảm trong thời kỳ phục hồi (cuối năm 2009) còn
ở các nước đang phát triển dòng vốn này hầu như không tăng mà chỉ có
sự tăng trưởng mạnh mẽ trở lại của dòng vốn phi ngân hàng.
Thị trường chứng khoán: Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới suy
giảm mạnh. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các
đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho
các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn
cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một
số nước buộc họ phải xin trợ giúp của IMF. Bong bóng thị trường chúng
khoán tự giải quyết bằng cách xuống giá chứng khoán nghiêm trọng.
Trong năm 2008, thị trường chứng khoán toàn cầu mất khoảng 17000 tỷ
USD trong đó thị trường chứng khoán các nước mới nổi giảm 54,72%,
thị trường các nước phát triển giảm 42,72%.
Như vậy, theo ước tính của IMF tháng 4/2009, tổng các khoản ghi giảm
giá tài sản của hệ thống các tổ chức tài chính trên toàn cầu lên tới 4,1
nghìn tỷ USD. Tổng giá trị vốn hoá của thị trường của 500 ngân hàng
đứng đầu thế giới đã giảm tới 20% trong năm 2009. Từ tháng 8/2007 đến
12/2/2009, có khoảng 325000 người bị mất việc làm tại các ngân hàng,
các công ty bảo hiểm và các quý đầu tư trên toàn cầu, trong đó có
130000 người (chiếm 40%) bị mất việc kể từ tháng 10/2008 đến tháng
2/2009. Ở Mỹ, tổng cộng trong 3 năm từ 2008 đến 2010, tổng số ngân
hàng phá sản đã lên tới 322 ngân hàng với tổng tài sản là trên 633 tỷ
USD, tương đương với khoảng 4% GDP năm 2009.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam?
Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước. Xét trên khía cạnh đầu tư,
khi đó , Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà
đầu tư lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào
Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai
đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, trong quan hệ về ngắn
hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại,
quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể. Do đó Việt
Nam hầu như không chịu tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.Về
tác động gián tiếp, điều này cũng là lợi thế của Việt Nam, cho thấy nền kinh tế
Việt Nam là một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
năm 2008 (6,18%) thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu
kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%. Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
2009, GDP tăng trưởng chậm hơn so với năm 2008 do tác động mạnh và
chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt của cuộc suy thoái kinh tế kinh tế tòan cầu .
Chỉ số giá tiêu dùng: Năm 2008, lạm phát ở Việt Nam tăng mạnh so với
năm 2007. Điều đó khiến giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao
và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm
trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng: Hoạt động
thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động so với năm 2007 do giá cả
hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm đáng kể, sản
phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại
trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%, trong khi đó năm 2007 tăng
14,4% so với năm 2006).
Du lịch: Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách
du lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách
Biến động lãi suất huy động và lãi suất cho vay: Bắt đầu từ tháng
5/2008, nhiều ngân hàng đồng loạt đẩy mức huy động tiền gửi lên tới
trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp tới 20%/năm. Từ cuối tháng
7/2008, lãi suất trên thị trường bắt đầu giảm. Lãi suất huy động VND
giảm từ 19%/năm xuống quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa
từ 21%/năm về còn 12,75%/năm (từ 29/01/2009, lãi suất cho vay
VND: 10,5%/năm).
Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng: Năm 2007, đa số ngân hàng
khối quốc doanh chỉ trên dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%.
Quý I năm 2008 với mục tiêu tăng trưởng GDP 9% nhưng đã giảm còn 6,5%; biên độ
giá của các mặt hàng dao động mạnh, lãi suất ngân hàng liên tục thay đổi, giá dầu
giảm ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua,… tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta
năm 2008 đã chậm lại, còn 6,2% so với 8,5% năm 2007. Đây là mức tăng trưởng thấp
nhất kể từ năm 2000; hơn nữa tăng trưởng quí IV/2008 chỉ đạt 5,7% so với 6,5% của
ba quí đầu năm 2008.. Đặc biệt, trong khi tăng trưởng của khu vực công nghiệp-xây
dựng sụt giảm đáng kể (6,1% so với 10,2% năm 2007), thì khu vực nông-lâm-thủy sản
lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007 (4,1% so với 3,8%), thể hiện ý nghĩa to
lớn của khu vực này trong phát triển đất nước cũng như trong giải quyết các vấn đề xã
hội trong tình hình khó khăn.
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương (Viện NCQLKTTƯ).
2. Tác động tiêu cực
Mặc dù, hhủng hoảng tài chính Mỹ tạo cho nền kinh tế Việt Nam không ít những thách
thức, nhưng trong những thách thức đó chúng ta cũng tìm thấy cho riêng mình những cơ
hội để phát triển hơn cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, nhìn vào thực tế của cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu thấy
những tia sang cho đầu tư nội địa gia tăng. Chúng ta sẽ chú trọng đầu tư trong nước nhờ
vào nguồn vốn trong dân chưa được khai thác hết.
Thứ hai, khi mà xuất khẩu giảm mạnh do khủng hoảng cũng là cơ hôi để chúng ta đa
dạng hóa thị trường cơ cấu lại định hướng thị trường và các mặt hàng xuất khẩu.
Thứ ba, nền kinh tế Việt Nam còn khá nhỏ so với thế giới, nền thực chất ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế tới Việt Nam không quá gay gắt, thị trường Việt Nam được
đánh giá cao về mức an toàn và ổn định. Nên đầu tư vào thị trường Việt Nam là một giải
pháp khôn khéo cho các nhà đầu tư. Tận dụng cơ hội này, chúng ta có thể thu hút được
sự đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước.
Thứ tư, Việt Nam là “người mới đến” trong cuộc chơi tư do hóa thương mại lại đang
trong quá trình hội nhật và chuyển đổi kinh tế. Vì vậy trong cuộc khủng hoảng này Việt
Nam có thê học cách ứng xử với khủng hoảng, rút ra bài học kinh nghiệm cho nền kinh
tế còn non trẻ như Việt Nam.
Trước tình hình đó, nước ta cũng đã có những hành động nhất định:
- Cắt giảm lãi suất cơ bản còn 7%/năm
- Giảm tỉ lệ tiền gởi dự trữ bắt buộc
- Thực hiện các giải pháp kích cầu như: Hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn
hạn đối với khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân phục vụ sản xuất,
kinh doanh từ 01/02 đến 31/12/09 theo quyết định 131 của Thủ tướng
Mặc dù đến cuối năm 2009 nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa khắc phục được hậu quả
nặng nề của cuộc khủng hoảng này để lại. Vì vậy, trong giai đoạn tới nước ta cần
thực hiện các giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cũng như
tăng trưởng kinh tế.
7. Bài học và giải pháp rút ra đối với các quốc gia
Bài học thứ 1: hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước phòng thủ
đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào
Bài học này cho chúng ta thấy sự quan trọng của các công cụ giám sát tài chính và
việc quan tâm đến việc xây dựng tốt những nền tảng cơ bản cho phát triển hệ
thống và thị trường tài chính như khuôn khổ pháp lý về giám sát và tổ chức giám
sát tài chính, việc phát triển các định chế đầu tư dài hạn, định mức tín
nhiệm….Một nền kinh tế càng có độ mở bao nhiêu thì việc giám sát thị trường và
các tổ chức tài chính càng phải chặt chẽ bấy nhiêu vì nền kinh tế càng mở càng
đồng nghĩa với việc nguy cơ doanh nghiệp thất bại càng cao kèm theo đó là nguy
cơ rủi ro tín dụng. Ngoài ra thì để có thể giám sát tốt hay việc định mức tín nhiệm
hiệu quả giữa các cơ quan giám sát tài chính. Hiện tại, thông tin minh bạch và sự
phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát chính là đặc biệt quan
trọng.
Bài học thứ 2: là bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng
Bởi vì nhiều khi sự đổ vỡ của ngân hàng bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá
của dân chúng. Bài học này liên quan đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát
là bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cần phát huy tốt vai trò của mình
để tạo được niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham
gia ngăn chặn xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây truyền.
Công chúng tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng, tài chính nếu họ nhận thức
được rằng có một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ giám sát thường xuyên tổ
chức tín dụng mà họ gửi tiền chứ không chỉ thực hiện việc chi trả tiền gửi cho họ
Bài học thứ 3: cho vay dưới chuẩn nhưng thiếu cơ chế kiểm soát là một con dao
hai lưỡi
Như đã phân tích trong phần trên thì hoạt động cho vay dưới chuẩn của các ngân
hàng và các tổ chức tài chính được chính phủ Mỹ cho phép và khuyến khích. Đó là
việc để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp có điểu kiện sở hữu nhà ở. Khi thị
trường bất động sản hoạt động hiệu quả giá nhà tăng thì họ có thể bán nhà và kiếm
được chênh lệch. Có cơ hội mua nhà mới phù hợp túi tiền và có thêm thu nhập. Bù
lại các ngân hàng và các tổ chức tài chính được hưởng mức lãi suất cho vay cao
hơn để bù rủi ro. Một cơ chế cho vay lỏng lẻo và thiếu kiểm soát khi chính phủ chỉ
dựa vào việc tạo ra lợi ích tạo lập nhà ở cho người có thu nhập thấp mà không tính
toán tới khả năng trả nợ của họ khi thị trường bất động sản đi xuống những người
thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều kiện trả nợ lại đem căn nhà
mua bằng tiền đi vay thế chấp để trả nợ.
Bài học thứ 4: chứng khoán hóa các tài sản thế chấp là một cơ chế tạo lập nguồn
vốn khổng lồ nhưng mong manh
Trong khi hệ thống kiểm soát không kịp thời nên đã tạo lập ra nguồn vốn khổng lồ
nhưng thực chất rất mong manh. Cụ thể để hỗ trợ cho vay lập nhà ở, chính phủ Mỹ
còn cho lập Fannie Mac và Freddie Mac. Hoạt động chính là mua lại những món
nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp “dưới
chuẩn” của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu
tái thế chấp” bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân
hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài
chính thông dụng để có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ
Bài học thứ 5: Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất và thúc đẩy
nhanh chóng các đổ vỡ kinh tế khi nó sảy ra
Mua bán khống ở mức độ vừa phải có kiểm soát sẽ là chất xúc tác tạo nên sự kích
thích cho kinh tế phát triển. Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất,
gây nên những đổ vỡ kinh tế to lớn khi nó xảy ra
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt các chính sách về an ninh
xã hội. Cải tổ nền kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế,phát triển nền kinh tế theo hướng
định hướng xuất khẩu, giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng thương mại và xuất
siêu. Đổi mới nền tài chính-tiền tệ quốc gia, áp dụng chính sách tiền tệ phù hợp
( có lúc thắt chặt và có lúc nới lỏng chính sách tiền tệ tùy theo tình hình thực tiễn)
áp dụng tỷ giá ngoại hối linh hoạt, tăng dự trữ ngoại tệ mạnh. Đa dạng hóa thị
trường xuất-nhập khẩu, không nên tập trung nguồn lực quá lớn vào một vài thị
trường để đề xuất sự biến động bất trắc có thể xảy ra.
Sau đây là một số giải pháp nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế:
- Thắt chặt chế độ tiền tệ: đây là biện pháp được dùng đầu tiên và chính yếu
trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Các ngân
hàng cho vay quá nhiều dẫn đến tình trạng thiếu lượng vốn cần thiết để duy trì hoạt
động hay nói cách khác là thiếu tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Ngân
hàng thể hiện sức khoe của nền kinh tế, khi nó ốm yếu có nghĩa là nền kinh tế đang
lâm nguy.
- Tiết kiệm chi tiêu: Trong lúc khó khăn, tiết kiệm được coi là quốc sách. Tại sao
mỗi khi khó khăn con người mới nghĩ đến tiết kiệm như một giải pháp chứ không phải
là một thói quen? Nếu mọi người đừng tiêu sài hoang phí và sử dụng tiền khồn phải là
cảu mình đầu tư nhằm sinh lời ảo thì có lẽ đã không xảy ra khủng hoảng kinh tế. khi
khủng hoảng con người mới nhận thấy rõ nhất giá trị thực cảu nền kinh tế, giá trị thực
tài sản của mình và bắt đầu biết quý trọng, tiết kiệm những đồng tiền mồ hôi nước mắt
khi chi tiêu.
- Cơ cấu lại danh mục đầu tư: Hơn lúc nào hết, trong thời kỷ khủng hoảng, nền
kinh tế suy thoái, các nhà đầu tư và tổ chức càng cần phải xem xét lại danh mục đầu
tư, duy trì những khoản đầu tư mang lại hiệu quả cao, và cắt giảm một số khoản
không cần thiết. Điều quan trọng là nhà đầu tư cần phải biết đâu là danh mục cần loại
bỏ và đâu là danh mục cần giữ lại, để đầu tư sao cho hiệu quả và hợp lý, tránh ít nhất
những thiệt hại có thể xảy ra. Thông thường, các nhà đầu tư sẽ chuyển đổi từ những
- Công bố các gói kích thích kinh tế tăng trưởng: Đây là một phương thức không
thể thiếu trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Điều khác
biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung
tiền đề để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất
cũng như tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như
đất đai, chứng khoán.
- Cùng đoàn kết hợp tác chống khủng hoảng kinh tế: Hơn lúc nào hết, các quốc
gia và tổ chức cần phải chung tay để vượt qua khủng và suy thoái. Các tổ chức như
G20, Asem,.. đã họp bàn với nhau để cùng tìm ra phương hướng, dự báo và cách thức
hỗ trợ lẫn nhau. Lý do chính khiến các nước phải cùng nhau thảo luận là vì quan hệ
chính trị và ảnh hưởng qua lại ràng buộc giữa các nền kinh tế. Trong thời đại toàn cầu
hóa, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khoán… của các nước liên kết với nhau khá
chặt chẽ và sâu rộng.
Như vậy, khủng hoảng tài chính có thể coi như là một tất yếu trong một chu kỳ
kinh tế. Tuy nhiên mỗi một cuộc khủng hoảng lại có những nét đặc thù riêng. Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra với nhiều nguyên nhân tiềm ẩn rất lâu trước
đó đã làm rung chuyển cả nền kinh tế thế giới, gây ra rất nhiều tác động tiêu cực đến
mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển và
toàn cầu hóa như hiện nay thì sự tác động của nó có một sức lan tỏa mạnh mẽ hơn
bao giờ hết. Với những nguyên nhân, diễn biến cũng như các tác động của cuộc
khủng hoảng đã nêu ở trên, chúng ta có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn, và
quan trọng hơn là chúng ta có thể rút ra những bài học để hạn chế các tiêu cực, cũng
như tìm ra các chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn để nền kinh tế phát
triền ổn định hơn của mỗi quốc gia nói riêng và của kinh tế toàn cầu nói riêng.