You are on page 1of 33

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo luôn được xem là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển. Do vậy, bất kỳ một quốc gia nào trên
thế giới dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay đang phát triển
bao giờ cũng quan tâm đến giáo dục và đào tạo. Trong thời đại cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, “thông tin”
trở thành nguồn tài nguyên quan trọng của mọi quốc gia, việc “tin học hóa” tạo
nên những chuyển biến nhanh chóng về lượng cũng như về chất của nền kinh tế
thế giới, con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ
bản của sự phát triển. Đây là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp
đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế trong
xã hội đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm
của một quốc gia. Chính vì thế, quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo đóng vai
trò cực kỳ quan trọng hình thành nên hệ thống giáo dục của một quốc gia.
Thời gian qua, giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đã có nhiều bước phát
triển đáng tự hào. Chất lượng nền giáo dục và trình độ dân trí được nâng lên,
góp phần tích cực vào công cuộc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cũng với những thành
tựu đạt được, nền giáo dục nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, yếu
kém. Chất lượng và khâu quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo, việc đào tạo
nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu của đổi mới kinh
tế, xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng và Nhà nước ta cũng đã chủ trương
đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục – đào
tạo, đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục theo
hướng hiện đại cùng với đổi mới cơ chế quản lý.
Vì thế, để đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới tiếp tục đạt được những thành
tựu mong muốn, trước hết cần phải nắm vững và quán triệt các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Những quan điểm này đặt cơ sở cho việc định hướng để xác định và giải quyết
các nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong lĩnh vực đổi mới giáo dục của các cấp từ
trung ương đến địa phương. Mặt khác, thông qua sự cụ thể hóa, hiện thực hóa,
cá biệt hóa các vấn đề về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở
những địa phương khác nhau để làm cho nội dung những quan điểm trên được
phong phú hơn và sinh động hơn.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài “Quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà
nước về phát triển giáo dục tại trường tiểu học Mỹ Xuân” làm hướng nghiên
cứu tiểu luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tiểu luận làm rõ sự vận dụng những quan
điểm đó ở Trường Tiểu học Mỹ Xuân, đồng thời nêu ra một số định hướng và
giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm của
Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo tại trường Tiểu học Mỹ Xuân trong giai
đoạn hiện nay.
3. Giới hạn nghiên cứu
Về nội dung:
- Quan điểm quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách
pháp luật của nhà nước về phát triển giáo dục tại trường tiểu học Mỹ Xuân, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Tập trung vào Nghị quyết 29/NQ - TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Về không gian:
Nghiên cứu sự vận dụng quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tại trường
Tiểu học Mỹ Xuân.
Về thời gian:
- Tiểu luận nghiên cứu quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và
chính sách pháp luật của nhà nước về phát triển giáo dục tại trường tiểu học Mỹ
Xuân và sự vận dụng quan điểm đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp,
Phương pháp sưu tầm tài liệu
5. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu luận
gồm có 3 chương:
Chương 1. …..
Chương 2: …..
Chương 3: ……
NỘI DUNG

Chương 1: QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA


ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC TIỂU HỌC
1.1.Các khái niệm
- Khái niệm phát triển
Phát triển là sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của
một sự vật, hiện tượng nào đó trong Triết học Mác – Lenin.
Quá trình phát triển có thể diễn ra từ từ hoặc diễn ra nhanh chóng (hay
còn gọi là nhảy vọt) để sinh ra những sự vật, hiện tượng mới thay thế cho những
sự vật, hiện tượng cũ.
Sự phát triển là quá trình vận động, thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất. Chu kỳ này diễn ra theo hình xoắn ốc, nghĩa là đi hết một chu kỳ thì
quá trình phát triển sẽ quay lại mức ban đầu và tiếp tục vấn động để có sự thay
đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất (nhưng ở một cấp độ cao hơn chu kỳ ban
đầu).
-Khái niệm giáo dục
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là
một từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”. Có
nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để vươn
tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày
“Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh
hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người”. Định nghĩa này
nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố
dạy học, nhưng không đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của
việc đó.
Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà
cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng cá nhân con người không bao giờ
vượt qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức,
kinh nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội
lại đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt qua
được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo
dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra, ông John
Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn
tại chính trong quá trình truyền dạy ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John
Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục tiêu
cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Như vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá
nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi
là thế hệ trước, có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế
hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn
thiện hơn.Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài người mới hình
thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển
loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người
nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay trong
lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng phát
triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội đối
với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày càng mở
rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp không còn phù hợp mà đòi
hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo dục gián tiếp
theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên biệt ra đời và
ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội. Do đó, xã hội
ngày càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn và mang tính
chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã hội và do những
sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội. Vai trò của giáo
dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì không ai có thể phủ nhận về
nó.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát
triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là những
tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và tạo ra sự
phát triển cho xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “giáo dục”:
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới
ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý
thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. Ví dụ: Ảnh
hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà trường; ảnh
hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của sách vở, tạp chí;
ảnh hưởng của những tấm lòng nhân từ của người khác;…
– Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác
định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ
thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển toàn
diện nhân cách. Qua những môn học trên trường, lớp cũng như qua những hoạt
động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm quan,… được tổ
chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác động của giáo viên, của
nhà giáo dục.
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
người giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ
liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo dục
lao động.
– Ngoài ra, giáo dục còn được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục đạo đức. Sự ra đời và
phát triển của giáo dục gắn liền với cự ra đời và phát triển của xã hội. Một mặt,
giáo dục phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát triển
thêm một bước nào nếu như không có những điều kiện cần thiết cho giáo dục
tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội
thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng thuận lợi
do sự phát triển xã hội mang lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển của giáo dục
phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội.
Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia đang
không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế phát
triển mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được những
nguồn lực mới để phát triển nhanh, bền vững.
-Khái niệm giáo dục bậc tiểu học
Giáo dục học tiểu học (Primaiy Pedalogy) là một chuyên ngành của giáo
dục học nghiên cứu về tính quy luật tâm lý - giáo dục của quá trình đào tạo nhân
cách học sinh cấp tiểu học theo mục tiêu giáo dục.
Hệ thống lý luận giáo dục học tiểu học bao gồm lý luận giáo dục học tiểu
học đại cương và lý luận giáo dục học tiểu học của từng môn học cụ thể như
giáo dục học tiểu học môn Toán, giáo dục học tiểu học môn Tiếng việt, giáo dục
học tiểu học môn Mỹ thuật,... còn gọi là giáo học pháp bộ môn.
Giáo dục học tiểu học có tác dụng chi đạo về mặt lý luận cho việc thực
thi các tác động giáo dục và đào tạo trong nhà trường tiểu học. Lý luận và thực
hành về giáo dục học tiểu học có vai trò quan trọng trong công tác huấn nghiệp
cho sinh viên khoa tâm lý giáo dục và sinh viên khoa giáo dục tiểu học ở trường
sư phạm.
1.2.Vai trò của giáo dục bậc tiểu học
Theo Điều lệ Trường tiểu học: Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc
tiểu học, bậc học tiểu hoc, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Vì
thế, bậc học Giáo dục tiểu học cần phải đáp ứng yêu cầu về nội dung, phương
pháp giáo dục tiểu học. Cụ thể:
Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản và cần
thiết về tự nhiên, xã hội và con người. Học sinh cần có kỹ năng cơ bản về nghe,
nói, đọc, viết và tính toán, có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, có
hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.
Về phương pháp giáp dục, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng khả năng tự học và khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năn vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời đem lại hứng thú học tập cho học sinh.
Theo đó, nhà trường tiểu học có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và
các hoạt động giáo dục khác theo chương trình tiểu học do Bộ Giáo dục và đào
tạo ban hành.
1.3.Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp
luật của nhà nước về phát triển giáo dục tiểu học
1.3.1.Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển giáo
dục tiểu học
Giáo dục, đào tạo có vai trò quan trọng đối với quốc gia dân tộc, nhận
thức rõ vai trò của giáo dục, đào tạo đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, theo
mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta luôn
quan tâm chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực quan trọng này.
Đại hội XII của Đảng đã xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,
đào tạo; phát triển nguồn nhân lực là một trong những định hướng lớn đề hiện
thực hóa mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Quan điểm về giáo dục đào tạo trong văn kiện Đại hội XII
của Đảng là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng, được thể hiện ở
một số nội dung như sau:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
Đại hội XI của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát trong đó có nhiệm vụ
“Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực”. Đây
là quan điểm tổng quát, bao trùm của Đảng về giáo dục, đào tạo. Đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục, đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết,
từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính
sách, điều kiện bảo đảm thực hiện và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà
nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào tạo; đổi mới ở tất cả các
bậc học, ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của người
học.
Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
Nội dung quan điểm về phát triển nguồn nhân lực được thể hiện xuyên
suốt trong văn kiện đại hội XII của Đảng và được xác định là một trong sáu
nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội.
Lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,
đào tạo gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn
nhân lực chất lượng cao là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực quốc gia, là
nguồn nhân lực đáp ứng các tiêu chí về chất lượng cao và trình độ cao; đồng
thời là nguồn lực con người được đào tạo và sử dụng có chất lượng, hiệu quả
cao với tổng hợp các phẩm chất và nhân cách, năng lực và thể lực con người
Đại hội XII xác định: “ Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ”, “
Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu kinh tế- xã hội”. Trong đó tập trung cho giải
pháp đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường, trong sản xuất kinh doanh,
chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành. Phát triển hợp lý,
hiệu qủa trường công lập đối với giáo dục nghề nghiệp, và giáo dục đại học.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn khẳng định giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính
yếu, được quan tâm, ưu tiên đi trước một bước so với các chính sách phát triển
kinh tế- xã hội khác.
Kế thừa tư tưởng của các Đại hội Đảng và các nghị quyết về giáo dục đào
tạo trước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định :“Giáo dục đào tạo là quốc
sách hàng đầu”. Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Phát triển giáo dục đào tạo là
phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế- xã
hội phải được ưu tiên và quan tâm thật sự.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục
đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng lực của người học
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng
bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng
lực của người học”. Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI. Mục tiêu này thể hiện sự chuyển biến căn bản về chất
lượng, hiệu quả về giáo dục đào tạo, hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện
đại, nhân văn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo về tổ quốc thời kỳ mở
cửa hội nhập quốc tế.
Đổi mới những vấn đề cốt lõi, cấp thiết. Đổi mới chương trình, nội dung
giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, ngành
nghề. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học,hình thức phương pháp thi, kiểm
tra và đánh giá kết quả giáo dục đào tạo bảo đảm trung thực, khách quan.
Quan điểm này của Đảng thể hiện mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi
mới: Chuyển quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học, chú trọng dạy chữ, dạy người, dạy
nghề. Tập trung dạy cách học khuyến khích tự học, tạo cơ sở đề người học tự
cập nhật tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo dục đào tạo phải thấm
nhuần phương châm học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn.
Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Đây là một chủ trương lớn của Đảng, có vai trò quan trọng nhằm phát
huy nguồn lực con người. Bản chất xã hội học tập là môi trường giáo dục trong
đó mọi người đều có điều kiện, cơ hội học tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm
dẻo, linh hoạt, thích ứng với điều kiện học của từng người, từng tổ chức. Xã hội
học tập là một môi trường trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội
đều tự giác học tập, cả xã hội trở thành một trường học lớn.
Học tập suốt đời là quá trình học tập diễn ra trong suốt cuộc đời, dựa trên
4 trụ cột: học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để cùng nhau
chung sống.
Yêu cầu này đòi hỏi quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học gắn với quy hoach phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát
triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất
nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực. phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình
trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học.
Đổi mới căn bản công tác giáo dục, đào tạo
Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Đổi mới căn bản công tác
giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng cường quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất
lượng”
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng
cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy
vai trò của hội đồng nhà trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà
trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý
các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục và đào tạo
Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộp quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện
chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo cấp học và trình độ đào tạo”.
Có cơ chế tuyển sinh để tuyển chọn những người thực sự có phẩm chất,
năng lực vào ngành sư phạm. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng
cấp học và trình độ đào tạo. Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp
của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục, đào tạo
Giáo dục, đào tạo có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an
ninh, quốc phòng, là nguồn lực trí tuệ trong nguồn lực phát tiển của đất nước.
Phát triển giáo dục, đào tạo góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
hội nhập quốc tế, những nội dung, quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp phát triển giáo dục, đào tạo cần được tuyên truyền, tổ chức thực
hiện để nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đi vào cuộc sống.
1.3.2.Chính sách pháp luật của nhà nước về phát triển giáo dục tiểu
học
Nhà nước ta luôn bảo đảm cho mọi trẻ em được đối xử bình đẳng, có điều
kiện thuận lợi nhất để phát triển và được hưởng các quyền cơ bản của trẻ em.
Trong số các quyền của trẻ, quyền giáo dục là một trong những quyền nhận
được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng là một
quyền còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và đề xuất. Bài viết trên cơ sở
nghiên cứu các quy định hiện hành về quyền giáo dục của trẻ em, từ đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa quyền được giáo dục và đào tạo của
trẻ em ở Việt Nam.
Giáo dục là một lĩnh vực rộng lớn, bao quát từ những nội dung về mục
tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân, nội dung và
phương pháp giáo dục, chương trình giáo dục đến quyền và nghĩa vụ học tập
của công dân, nhiệm vụ và quyền của người học, quản lý nhà nước về giáo dục,
trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội… Quyền giáo dục, học tập là
quyền tối quan trọng thuộc nhóm quyền văn hóa trong các nhóm quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa.
Quyền được giáo dục (học tập) được ghi nhận từ rất sớm trong các công
ước quốc tế về quyền con người. Đầu tiên được đề cập trong khoản 1 Điều 26
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1984, trong đó nêu rõ: “Mọi
người đều có quyền được học tập. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở các
bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc”. Tiếp đó,
Điều 11 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế – xã hội và văn hóa năm 1966
quy định: “Các quốc gia hội viên ký kết Công ước này thừa nhận cho mọi người
quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách và
nhân phẩm, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn
bản…”. Cụ thể hóa quyền giáo dục của trẻ em, Công ước quyền trẻ em quy định
như sau: “Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em được học hành,
và để từng bước thực hiện quyền này trên cơ sở bình đẳng về cơ hội, phải: a.
Thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả
mọi người;…” (Điều 28 – 29 Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em).
Việt Nam, với tư cách là một nước thành viên tích cực tham gia và thực
hiện Công ước quyền trẻ em với phương châm, coi “giáo dục, đào tạo là quốc
sách hàng đầu”, từ đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp
luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến quyền được giáo dục của trẻ em, như
bản Hiến pháp đầu tiên: “Trẻ em được quyền săn sóc, giáo dưỡng” (Điều 14
Hiến pháp năm 1946), thực hiện “… nền sơ học cưỡng bách và không học
phí… Học sinh nghèo được Chính phủ giúp…” (Điều 15). Những nguyên tắc
hiến định mang đậm tinh thần vì trẻ em, tiếp tục được khẳng định và phát triển
trong các bản Hiến pháp sau này (năm 1959, 1980, 1992, 2013).
Từ quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam đã thể chế hóa quyền của
trẻ em trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, tạo thành một hệ
thống các văn bản pháp luật về quyền trẻ em nói chung và quyền học tập của trẻ
em nói riêng. Hiện nay, các quy định điều chỉnh quyền học tập của trẻ em được
quy định cụ thể tại Hiến pháp năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Giáo dục
năm 2019.
Để bảo đảm quyền bình đẳng và cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ khuyết
tật, chúng ta đã tham gia Công ước Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết
tật (UNCRPD), đồng thời, Luật Người khuyết tật năm 2010 và Luật Trẻ em
năm 2016 đều có những quy định nhằm bảo đảm sự chăm sóc và phúc lợi cho
người khuyết tật, bảo đảm quyền bình đẳng và cơ hội giáo dục đầy đủ cho mọi
công dân.
Pháp luật ở nước ta cũng quy định rõ nghiêm cấm hành vi cản trở việc
học tập của trẻ em. Các văn bản pháp luật luôn chú ý đến việc quy định các
chính sách để bảo vệ quyền đó, nhất là trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, nhà
trường, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Điều 69 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 nêu nghĩa vụ cha mẹ với con cái. Điều 99 Luật Trẻ em năm
2016 quy định: “2. Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm
bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hoàn thành chương trình giáo dục
phổ cập theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình
độ cao hơn”. Ngoài ra, còn có các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục
đào tạo, như tại Quyết định số 1210/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai
đoạn 2012 – 2015.
Như vậy, các văn bản pháp luật hiện hành đã tập trung vào nguyên tắc
bảo đảm quyền và phúc lợi của trẻ em với quan điểm ưu tiên, bình đẳng, không
phân biệt đối xử, chú trọng đến giáo dục, học tập. Bên cạnh pháp luật, một hệ
thống các thiết chế được thành lập để huy động các lực lượng, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cá nhân để bảo đảm quyền giáo
dục của trẻ em.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TẠI
TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ XUÂN, GIAI ĐOẠN 2016-2021
2.1.Khái quát về trường tiểu học Mỹ Xuân
Trường tiểu học Mỹ Xuân được xây dựng và hoạt động vào năm 2009.
năm học 2008 - 2009 Trường TH Mỹ Xuân có 30 lớp với 1037 HS. Ngay từ đầu
năm học, BGH Nhà trường đã xác định thế mạnh riêng của mình để thực hiện
các trọng tâm năm học của ngành, tổ chức phân công CB-GV công tác, dạy học
phù hợp với chuyên môn, sở trường. Nhờ vậy, đội ngũ GV của Trường có điều
kiện tiếp cận những đổi mới của ngành; theo thống kê, hiện Trường có 46 CB-
GV trong đó 22 GV có trình độ đạt chuẩn, 15 GV trên chuẩn. Nhà trường luôn
xác định xây dựng đào tạo bồi dưỡng CBGV là nhiệm vụ trọng yếu, chủ trương
nâng cao từng bước chất lượng đội ngũ bằng các biện pháp bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ… thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học theo các
chuyên đề với các nhóm, tổ chuyên môn, tổ chức hội giảng vào các ngày hoạt
động cao điểm như: 20/11, 26/3, 30/4… tạo điều kiện cho giáo viên tham gia dự
các hội nghị chuyên đề của ngành để nâng cao trình độ tay nghề.
Bên cạnh đó, Nhà trường phối hợp với cha mẹ HS, các đoàn thể trong và
ngoài trường để lập hồ sơ theo dõi, tổ chức huy động HS trong độ tuổi ra lớp.
Do đó, Nhà trường đã duy trì sĩ số đạt tỉ lệ 100%, 100% HS được huy động vào
lớp 1, đạt phổ cập TH với tỉ lệ cao… Thầy Phan Ngọc Lụa - Hiệu trưởng Nhà
trường, phấn khởi cho biết: “Năm học 2008 - 2009, nhờ xác định được hướng đi
đúng, kết hợp với nâng cao giáo dục toàn diện đã tạo ra những chuyển biến lớn
về chất lượng đào tạo. Theo thống kê, HS đạt hạnh kiểm chiếm 98,6%, HS khá
giỏi đạt 55,8%, đạt nhiều giải thưởng về VSCĐ, thi kể chuyện tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh… Đây là thành tích đáng biểu dương để Trường giữ vững
thành quả, phấn đấu đạt chuẩn quốc gia mức độ II, đóng góp một phần công sức
của mình vào sự nghiệp giáo dục chung của địa phương, của đất nước trong thời
kỳ mới”.
2.2. Thực trạng phát triển giáo dục tại trường tiểu học Mỹ Xuân
2.2.1.Về công tác lãnh đạo thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục
Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người đó thể
hiện các nỗ lực ảnh hưởng tới hoạt động của những người khác. Phong cách
lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo, là hệ thống các đấu hiệu đặc
trưng của hoạt và động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc
điểm nhân cách của họ.
Trên cơ sở 3 loại phong cách lãnh đạo cơ bản: phong cách lãnh đạo độc
đoán, phong cách lãnh đạo dân chủ và phong cách lãnh đạo tự do, căn cứ vào
cách Hiệu trưởng làm việc với cấp dưới trong quản lý chúng tôi có thể nhận
thấy rằng phong cách lãnh đạo của Hiệu trưởng Trường TH Mỹ Xuân trong thời
gian qua có phong cách lãnh đạo thuần dân chủ với mọi người, mọi tình huống
quản lý và mọi giai đoan phát triển của tập thể. Cụ thể như:
Hiệu trưởng có lối sống giản dị, hòa đồng, gần gũi với mọi người và biết
quan tâm đúng mức tới hoàn cảnh, nguyện vọng của mỗi giáo viên, nhất là giáo
viên nữ có con nhỏ, những giáo viên có tuổi cao, giáo viên có sức khỏe yếu và
tạo điều kiện cho những giáo viên đang theo học các lớp nâng cao trình độ.
Trong công việc, Hiệu trưởng luôn đề cao và phát huy vai trò của các tổ
trưởng chuyên môn, giáo viên nòng cốt, phát huy được khả năng sáng tạo của
giáo viên và nhân viên, sẵn sàng giao việc và tin tưởng ở sự thành công của mỗi
người.
Trong công tác, Hiệu trưởng quản lý “theo kế hoạch và phân định rõ trách
nhiệm từng bộ phận quản lý và báo cáo”.
Với phong cách lãnh đạo này, Hiệu trưởng đã khai thác tối đa các nguồn
lực của tập thể và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người thực hiện tốt nhiệm vụ
được phân công.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển của tập thể sư phạm ở mức độ thấp, các
thành viên chưa tự giác cao trong thực hiện nhiệm vụ và chưa có sự đoàn kết,
hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ chung giữa các thành viên.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát, nhắc nhở, đôn đốc việc thực
hiện nhiệm vụ của các bộ phận mà mình phân công của Hiệu trưởng thực hiện
chưa sâu sát do lực lượng kiểm tra chưa đồng bộ, và do bản thân Hiệu trưởng đi
công tác và đi học nhiều nên chưa nắm bất kịp thời các tình hình thực tế ở nhà
trường. Trong nhiều trường hợp Hiệu trưởng thiếu tính quyết đoán.
2.2.2.Về tổ chức dạy và học
Những năm học bắt đầu thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông bắt đầu từ lớp 1. Tất cả giáo viên được tham gia tập huấn, bồi dưỡng
chuyên môn về dạy học theo chương trình mới một cách kĩ lưỡng. Nhưng khi
vào thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn lúng túng nhất là khâu đổi mới
phương pháp dạy học, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phương pháp dạy học
truyền thống, giáo viên chỉ lo tập trung vào phần việc của mình, cứ lo sợ dạy
không hết bài, học sinh không biết, không nắm và tiếp thu được bài,… cứ như
thế là vào tiết học giáo viên thao thao giảng bài, đọc cho học sinh chép những
nội dung cần ghi nhớ, cần biết yêu cầu các em về học thuộc lòng, có những giáo
viên nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, dưới sự hướng dẫn, nêu vấn đề của người dạy, người học động não,
tự tìm cách giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức
mới vào thực tiễn.
Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học là việc sử dụng thiết bị dạy
học, đồ dùng dạy học. Thế nhưng không ít giáo viên còn chưa sử dụng, chưa
khai thác triệt để thiết bị, đồ dùng vào các tiết dạy mà chỉ dạy chay hoặc sử
dụng khi có người dự giờ, khi sử dụng lại có những giáo viên sử dụng vụng về,
lúng túng, rồi khai thác một cách qua loa, máy móc làm cho tiết học trở nên rời
rạc, khô chán không phát huy được tính tích cực, sự hứng thú học tập của học
sinh. Không có thiết bị để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy, giáo viên chưa thoát li được
sách giáo viên, sách tham khảo, mà còn có những giáo viên coi sách giáo viên
như một pháp lệnh, không được xê dịch hay sửa đổi. Chép nguyên mục tiêu và
các hoạt động trong sách mà không cần biết bài dạy đó có phù hợp với học sinh
của mình không mà không bỏ thời gian ra nghiên cứu nội dung bài học sách
giáo khoa, liên hệ từng đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch dạy học cho
từng môn học, hay thiết kế bài dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh trong
lớp. Không nghiên cứu nội dung sách giáo khoa để xác định mảng kiến thức
trọng tâm của bài, liên hệ sự tiếp thu của học sinh rồi lựa chon phương pháp dạy
học để phát huy tích cực sự vận động suy nghĩ của từng đối tượng học sinh
tránh nhàm chán ở học sinh. Vì trong lớp học có tới ba, bốn khả năng tiếp thu
và khả năng nhận thức cụ thể như: học sinh Hoàn thành tốt, học sinh Hoàn
thành, học sinh Chưa hoàn thành và học sinh có năng lực. Ngoài ra trong quá
trình lập kế hoạch bài dạy do không nghiên cứu kĩ lưỡng nội dung bài nên việc
chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy học không có hoặc không phù hợp, thậm
chí có nêu ở chuẩn bị trong kế hoạch mà qua hết một tiết dạy không thấy giáo
viên sử dụng ở hoạt động nào (chổ nào).
2.2.3.Về nâng cao hiệu quả giáo dục
- Nội dung SGK tuy có phong phú nhưng còn quá nặng nề đối với học
sinh.
- Việc sự dụng CNTT trong giảng dạy đôi khi còn mang tính hình thức,
đối phó thậm chí bị lạm dụng.
- Một bộ phận giáo viên còn thiếu trách nhiệm đối với học sinh, đặc biệt
là trong việc đầu tư soạn giảng và giáo dục đạo đức học sinh.
- Công tác phối hợp giữa các bộ phận trong nhà trường chưa thực sự đồng
bộ nên chưa phát huy hết tác dụng của tập thể sư phạm.
- Tỉ lệ học sinh yếu kém tuy có cải thiện nhưng vẫn còn ở mức khá cao.
Một bộ phận không nhỏ học sinh còn thiếu ý thức trong học tập. Ngoài ra việc
giáo dục con cái của các gia đình còn lỏng lẻo.
- Chưa thực hiện tốt việc phân luồng học sinh chưa được quan tâm đúng
mức.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học tuy có cải thiện nhưng chưa
đáp ứng nhu cầu của giáo viên và học sinh.
- Các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương chưa có chính sách
đãi ngộ đối với giáo viên. Từ đó, một bộ phận giáo viên không tha thiết với
nghề, phải tìm việc làm thêm, không tập trung đầu tư cho giảng dạy.
2.2.4.Về bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Năng lực của giáo viên còn hạn chế biểu hiện cụ thể là năng lực chuyên
môn và kỹ năng về phát triển chương trình. Một số giáo viên còn làm theo cách
cũ, thói quen cũ ngại thay đổi, chưa đầu tư thời gian, công sức trí tuệ cho việc
phát triển chương trình. Do hạn chế về năng lực chuyên môn nên còn ngại đổi
mới phương pháp dạy, hình thức tổ chức dạy học, ít tổ chức các hoạt động ngoại
khóa, tổ chức các hoạt động giáo dục cho các học sinh; trong các giờ thực hành
ít thực hiện mà chuyển sang nội dung ôn tập; học sinh ít được trải nghiệm sáng
tạo với những giáo viên có năng lực hạn chế.
2.3. Kết quả đạt được từ trong quá trình phát triển từ 2016 đến 2021
- Đội ngũ CBGV đủ về số lượng, tương đối đảm bảo về chất lượng. Hầu
hết các thầy, cô giáo nhiệt tình và tâm huyết với nghề. Tập thể sư phạm của
trường luôn đoàn kết, chấp hành tốt qui chế của ngành, nội qui, nề nếp, kỷ luật
của trường. Có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức nhà giáo, tự giác trong công
việc, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt công việc được giao
- Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc học tập và giảng dạy: Đủ số phòng
học và chỗ ngồi cho số học sinh trong nhà trường. Các trang thiết bị đã được
cung cấp tương đối đủ theo quy định những đồ dùng và thiết bị giảng dạy tối
thiểu của ngành.
Học sinh đi học đều tỷ lệ chuyên cần cao, trong quá trình học tập chịu
khó rèn luyện tu dưỡng. thực hiện tốt các quy định của nhà trường trong học tập
và tu dưỡng.
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của hội đồng thi đua khen
thưởng các cấp.
Hiệu trưởng nhà trường nhà người có chuyên môn vững vàng, có năng
lực thực chất, là cán bộ quản lý nhiều năm nên có kinh nghiệm trong công quản
lý nhà trường. Đặc biệt là người say chuyên môn vì vậy khi bắt tay vào việc
thực hiện phát triển chương trình nhà trường Hiệu trưởng là người đi đầu và
triển khai thực hiện ở bộ môn của mình.
CBQL đã nhận thức được vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của công tác
phát triển chương trình giáo dục nhà trường trong toàn bộ công tác quản lý của
nhà trường, biết rõ những nội dung quản lý hoạt động tác phát triển chương
trình giáo dục nhà trường, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận rất nhỏ giáo viên
chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò, mục tiêu của phát triển chương trình
giáo dục nhà trường.
Việc rà soát, lập kế hoạch giáo dục mới và triển khai thực hiện chương
trình đã được tiến hành thường xuyên, công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế
hoạch và đánh giá kết quả thực hiện của HT có nhiều ưu điểm và phù hợp với
mục tiêu giáo dục chung của Bộ GDĐT hiện nay. Bên cạnh đó, ở từng nội dung
quản lý hoạt động phát triển chương trình cho học sinh, HT đã chỉ đạo về nội
dung, phương pháp và hình thức GD tương đối phù hợp, có nhiều nội dung thực
sự đem lại hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.
Đa số cán giáo viên có trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng
(qua tuyển chọn trước khi vào dạy tại trường).
2.4.Đánh giá thực trạng phát triển tại……
2.4.1.Khó khăn
- Năng lực chuyên môn của một số giáo viên còn hạn chế về kiến thức và
nghiệp vụ sư phạm trước yêu cầu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông
hiện nay.
- Chất lượng mũi nhọn đã có song tỷ lệ học sinh đạt học sinh giỏi cấp
huyện chưa có giải cao.
- Cơ sở vật chất còn thiếu một số phòng chức năng ở trung tâm, phòng
học ở trung tâm, đồ dùng, thiết bị phục vụ cho chương trình dạy học theo mô
hình VNEN cấp phát chậm nên cũng ảnh tới việc tổ chức giáo dục của trường.
2.4.2.Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan:
- Là năm đầu thực hiện chương trình lớp 1 công nghệ, mô hình trường
học mới VNEN nên công tác quản lý, giảng dạy, đáng giá học sinh còn gặp
nhiều khó khăn.
- Địa bàn trường không tập trung nên phần nào ảnh hưởng cho việc tổ
chức các hoạt động phong trào của nhà trường.
- Tài liệu phục vụ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi còn thiếu.
b. Nguyên nhân chủ quan:
- Công tác chỉ đạo của BGH đôi lúc chưa thật khoa học.
- Một số giáo viên dạy lâu năm, quá quen với lối dạy áp đặt nên việc tiếp
thu chương trình, SGK và phương pháp dạy học đổi mới còn hạn chế.
- Chất lượng sinh hoạt của tổ khối chuyên môn chưa chú ý đến việc bồi
dưỡng theo chuyên đề nên hiệu quả chưa cao.
- Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi chưa có chiều sâu từ công tác chỉ
đạo đến việc lên lớp bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên.
- Phụ huynh ít có điều kiện quan tâm, chăm lo tới việc học tập của học
sinh khi ở nhà.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI TIẾN, PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC TIỂU HỌC TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ XUÂN, GIAI ĐOẠN
2021-2025
3.1.Mục tiêu, yêu cầu của giải pháp phát triển giáo dục
3.1.1.Mục tiêu của giải pháp phát triển giáo dục
Mục tiêu chung của hệ thống giáo dục phổ thông là giúp người học phát
triển toàn diện cả về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, sự năng động, sáng tạo, bước đầu hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, tạo bước đệm cho học sinh tiếp tục học lên các cấp học cao hơn hoặc
đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Theo Luật giáo dục, mục tiêu của ngành giáo dục tiểu học là giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng và lâu dài về các
mặt Đức – Trí – Thể – Mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh học tiếp cấp trung
học cơ sở.

Bậc học tiểu học cũng có một mục tiêu khác là xây dựng bậc học lành
mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển bền vững và cơ bản đạt trình độ tiên
tiến.
Bậc học tiểu học giúp tất cả học sinh biết đọc, biết viết và biết tính toán
với các con số ở mức căn bản, thiết lập những hiểu biết căn bản về khoa học,
toán học, địa lý, lịch sử và khoa học xã hội.
3.1.2.Các yêu cầu của giải pháp phát triển giáo dục
Đòi hỏi tất cả các hoạt động giáo dục đều phải được thực hiện theo mục
đích của quá trình dạy học nhằm hướng đến mục đích của giáo dục nói chung.
Nhà quản lý khi đưa ra các biện pháp phải bắt đầu từ việc xác định nội dung
chương trình, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động... đều phải
hướng đến mục đích, mục tiêu giáo dục của cấp học, vừa phù hợp với nội dung,
với mục tiêu chung, vừa phải phù hợp với trình độ giáo dục của học sinh. Các
biện pháp được đề xuất là công cụ giúp Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Tổ
trưởng, Nhóm trưởng chuyên môn quản lý tốt hoạt động giáo dục của nhà
trường. Thực hiện tốt các biện pháp đề xuất, mang lại hiệu quả thiết thực trong
việc nâng cao quản lý hoạt động Phát triển chương trình giáo dục mới trong nhà
trường.
3.2.Một số giải pháp cải tiến, phát triển giáo dục tại …. giai đoạn
2021- 2025
3.2.1.Cải tiến phương pháp dạy học, đánh giá, xếp loại học sinh
Nhà trường đưa ra các phương án phát triển chương trình
* Phương án phát triển chương trình khung của nhà trường: Gồm các số
tiết bắt buộc cho từng môn và từng hoạt động giáo dục, số tiết cho các môn học
tự chọn, giao quyền chủ động cho các tổ chuyên môn và giáo viên họp bàn và
thống nhất phương án bố trí phân phối chương trình cho từng môn học bắt buộc
và các môn học tự chọn, các hoạt động giáo dục sao cho phù hợp với đối tượng
học sinh và điều kiện cụ thể của nhà trường, nhằm phát triển năng lực của học
sinh. Sau đó ở các số tiết có điều chỉnh tăng lên GV phải tìm nguồn tài liệu
chính thống đảm bảo kiến thức chuẩn, chính xác cung cấp cho học sinh.
* Phương án phát triển chương trình các nhóm ngành: gồm nhóm
Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, các môn học cơ bản như Toán,
Ngữ văn, Ngoại ngữ, và các môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Đạo đức -
Công dân; Giáo dục thể chất, lĩnh vực Công nghệ -Tin học. Trong mỗi nhóm
ngành các giáo viên có quyền thiết kế các chủ đề liên môn và các chủ đề dành
cho địa phương.
* Phương án phát triển chương trình bài học: trên cơ sở phân tích nhu
cầu, căn cứ mục tiêu chung của môn học và mục tiêu chi tiết của bài học, từ đó
giáo viên xác định nội dung trong từng bài học để truyền tải tới học sinh, trong
bài học ấy cần thêm những nội dung kiến thức nào, tích hợp những kiến thức
môn học nào có liên quan. Từ đó tổ chức tài liệu dạy học (SGK, các loại sách
tham khảo, tranh ảnh, hiện vật, băng hình, băng tiếng, các trang web học tập
liên quan…).
3.2.2.Cải tiến, kiện toàn giáo trình, tài liệu học thêm
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch tự kiểm tra của Hiệu trưởng trong năm
học phải có nội dung kiểm tra, đánh giá việc phát triển chương trình nhà trường
trong từng tháng của năm học.
Hàng tháng trong cuộc họp cơ quan đầu tháng Hiệu trưởng thường xuyên
quán triệt tới đội ngũ cán bộ quản lý (gồm các PHT, tổ trưởng chuyên môn) việc
học tập nắm vững quy chế kiểm tra, giám sát GV và HS theo các văn bản hướng
dẫn về công tác thanh tra, kiểm tra của Bộ GDĐT. Mỗi cán bộ quản lý đều phải
nắm vững các yêu cầu cơ bản trong kiểm tra, khi kiểm tra phải dựa trên cơ sở
của điều kiện thực tế hoạt động dạy và học của nhà trường.
Thường xuyên đổi mới kiểm tra, giám sát các hoạt động phát triển
chương trình nhà trường hướng tới xác định kết quả giảng dạy và học tập HS
cần đạt được mà nhà trường và xã hội mong đợi. Ngoài nội dung kiểm tra kiến
thức theo kiểu truyền thống, còn phải dành một phần kiểm tra sự vận dụng kiến
thức vào cuộc sống, HS được làm ở ngoài giờ, ngoài lớp học, được thảo luận
nhóm, chia sẻ với thầy cô, bạn bè những vướng mắc, khó khăn.
Kiểm tra việc thực hiện phát triển chương trình của giáo viên của GV
được xác định trong kế hoạch giảng dạy bộ môn, trong kế hoạch bài giảng, sổ
ghi chép sinh hoạt chuyên môn và dự giờ thăm lớp của giáo viên; có biện pháp
chấn chỉnh kịp thời với những trường hợp sai quy chế.
Khi kiểm tra đánh giá về phát triển chương trình môn học và hoạt động
giáo dục cần căn cứ vào các tiêu chí sau: (1) Tính trình tự, (2) Tính gắn kết (3)
Tính phù hợp, (4) Tính cân đối, (5) Tính cập nhật, (6) tính hiệu quả. Trong các
tiêu chí trên tính hiệu quả được xem là tính quan trọng nhất, bao gồm cả 5 tiêu
chí đứng trước nó. Tính hiệu quả của chương trình giáo dục, chương trình môn
học đạt được khi học sinh học được cái mà chúng ta muốn họ học được dựa trên
cơ sở: truyền thống môn học, kỳ vọng của xã hội, phù hợp với mong muốn của
người học và phù hợp với mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, đất nước.
Hướng dẫn cho GV những quy định của trường về kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của HS như: thống nhất quản lý các đề kiểm tra thường xuyên và
định kỳ; quy định về kiểm tra theo đề chung trong một khối lớp; quy định về
kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm khách quan; quy định về thời gian chấm,
trả bài cho HS; quy định về việc quản lý điểm.
HT giao việc kiểm tra, giám sát cho tổ chuyên môn nhằm phát huy sự chủ
động, sáng tạo của tổ trưởng trong việc kiểm tra các các hoạt động phát triển
chương trình ở trường PTDTNT THPT tỉnh Tuyên Quang
Đảm bảo sự đồng bộ trong đổi mới các thành tố của quá trình dạy học,
đặc biệt giữa phương pháp giảng dạy và các hình thức kiểm tra. Khuyến khích
mọi sự sáng tạo của cán bộ quản lý giáo dục, GV trong việc đảm bảo giá trị và
độ tin cậy của việc đánh giá.
Hiệu trưởng ra quyết định thành lập tổ kiểm tra, thực hiện quy chế
chuyên môn và việc phát triển chương trình nhà trường và tiến hành kiểm tra
các nội dung theo kế hoạch tự kiểm tra đã xây dựng.
Kiểm tra lại kết quả kiểm tra của các tổ chuyên môn, nhóm bộ môn đã
báo cáo Hiệu trưởng sau kiểm tra.
Kiểm tra việc thực hiện các hoạt động phát triển chương trình của
giáoviên thông qua hồ sơ của giáo viên, kế hoạch giáo dục mới của nhà trường
mà Hiệu trưởng đã phê duyệt. Kiểm tra việc sinh hoạt chuyên môn của tổ
chuyên môn thông qua hồ sơ của Tổ chuyên môn và hồ sơ giáo viên, dự giờ của
các giáo viên từ đó có thấy được việc đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá từ đó có nhận xét, đánh giá chính xác về thực hiện
phát triển chương trình của đơn vị.
Thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh, xử lý kịp thời những tồn tại, hạn
chế xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch.
3.2.3.Nâng cấp, cải tiến trang thiết bị phục vụ dạy và học
Cho các tổ chuyên môn rà soát các thiết bị dạy học của từng bộ môn, lạp
danh mục thiết bị dạy học theo PPCT mới vừa được xây dựng, từ đó lập danh
sách đề xuất mua bổ sung các thiết bị, đồ dung của các môn học, và thiết bị, hóa
chất còn thiếu dựa trên định mức số lớp, số HS/lớp. Tổ, nhóm chuyên môn đề
xuất phải thật sát, và thiết thực, có danh mục thay thế, có danh mục bổ sung,
trong đó có danh mục thiết bị, hóa chất ưu tiên mua trước và có danh mục mua
bổ sung sau. Danh mục tài liệu tham khảo cần mua bổ sung. Vào thư viện nhà
trường.
Các tổ nhóm chuyên môn khảo sát giá là lập dự trù kinh phí gửi lên nhà
trường.
Nhà trường họp xét duyệt kinh phí tổng thể của nhà trường. Căn cứ qui
định tài chính hiện hành tìm nguồn, huy động nguồn lực để trang cấp bổ sung
cho hợp lý đặc biệt chú trọng cách huy động nguồn lực.
Huy động nguồn lực từ nội tại bên trong của nhà trường: Nâng cao nhận
thức về vai trò của công tác xã hội hóa giáo dục, về trách nhiệm huy động
nguồn lực cho mỗi thành viên của nhà trường để thực hiện hoạt động phát triển
chương trình giáo dục trong nhà trường.Việc huy động được quán triệt tới từng
thành viên, tạo ra sự đồng thuận và cùng phối hợp trong nhà trường. Nâng cao
vai trò của chủ thể quản lý trong công tác huy động các nguồn lực. Xây dựng
chiến lược huy động nguồn lực như một bộ phận của chiến lược phát triển nhà
trường, chiến lược này sẽ là kim chỉ nam cho mọi kế hoạch hoạt động trong
nhiều năm, tạo sự chủ động và nâng cao nhận thức cho các bộ phận và cá nhân
trong trường.
Tập hợp các nhân tố bên trong tạo nên hoạt động của trường, tổ chuyên
môn, giáo viên, các tổ chức bên trong như Công đoàn, Đoàn thanh niên, hội
CMHS… Với các nhân tố bên trong có thể kiểm soát được và có thể chủ động
tạo ra hoặc thay đổi theo hướng có lợi cho việc thực hiện phát triển chương
trình của nhà trường.
Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực: Sắp xếp, tổ chức bộ máy gọn
nhẹ, đồng bộ nhân lực với hệ thống tổ chức thông tin khoa học.Tiết kiệm các
khoản chi về dịch vụ công cộng như (Điện, nước, điện thoại, tiếp khách…); vật
tư văn phòng như (văn phòng phẩm…) Chi phí hội họp (cắt giảm các cuộc họp,
Hội nghị không cần thiết); tránh lãng phí trong chi phí thuê mướn như:
Hiệu trưởng huy động toàn thể CBVC và cùng tham gia lao động vào các công
việc cần thiết của nhà trường để không phải mất tiền thuê nhân công.
Quản lý các nguồn lực công khai, minh bạch như: về tài chính, hằng năm
nhà trường đều xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, thông báo rộng rãi đến toàn
thể viên chức, thông qua cuộc họp lấy ý kiến dân chủ bàn bạc, thống nhất biểu
quyết mới đưa vào thực hiện; hàng kỳ công khai, minh bạch trước tập thể
CBVC trong nhà trường, có sự kiểm tra, giám sát của Công đoàn và Ban Thanh
tra nhân dân về các khoản tài chính chi cho các hoạt động phát triển chương
trình nhà trường. Các loại quỹ huy động từ cha mẹ học sinh tự nguyện đóng góp
đều công khai trước các cuộc họp CMHS toàn trường; mọi chủ trương đều công
khai đến toàn thể giáo viên chủ nhiệm, mọi thành viên trong nhà trường được
biết, được bàn bạc, được làm... nhằm quy tụ sức mạnh tổng hợp của tập thể.
Đây là yếu tố quan trọng để các nhà tài trợ, các đối tác, các bậc CMHS tin
tưởng khi họ tham gia đóng góp cho hoạt động giáo dục của nhà trường. Sự
minh bạch còn góp phần củng cố sự đoàn kết trong nhà trường, làm cho mọi
người cùng tham gia tích cực vào công tác huy động nguồn lực.
Mở rộng hoạt động cho các Đoàn thể trong nhà trường: Ban đại diện
CMHS thường xuyên quan tâm chăm lo về CSVC, tinh thần cho thầy và trò đẩy
mạnh phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt" đặc biệt các hoạt động phát triển
chương trình ở nhà trường.
Huy động nguồn lực từ bên ngoài nhà trường: Tăng cường mối quan hệ,
tham gia các hoạt động với các bên liên quan: chính quyền địa phương (UBND
Phường nơi trường đóng, các doanh nghiệp trên địa bàn, cha mẹ học sinh, các tổ
chức trong cộng đồng…) để tổ chức có hiệu quả các hoạt động phát triển
chương trình nhà trường.
Mời các đơn vị kết nghĩa (công an, Bộ đội, …) các nghệ nhân, những
người lao động tiêu biểu ở địa phương, tham dự các cuộc Hội thảo, sơ kết, tổng
kết về phát triển chương trình nhà trường để huy động sự ủng hộ, đóng góp của
các tổ chức này về phát triển chương trình nhà trường một cách có hiệu quả.
Nhà trường họp xét duyệt kinh phí từng bộ môn, từng việc theo đề nghị
của các tổ chuyên môn, và duyệt kinh phí tổng thể của nhà trường. Căn cứ qui
định tài chính hiện hành tìm nguồn, huy động nguồn lực để trang cấp bổ sung
cho hợp lý, đảm bảo hiệu quả.
Căn cứ vào nguồn kinh phí mà nhà trường đã huy động được từ bên trong
và ngoài nhà trường, Hiệu trưởng quyết định mua sắm bổ sung, tu sửa cơ sở vật
chất của đơn vị cho phù hợp với thực tế và với từng môn học và các hoạt động
giáo dục trong quá trình thực hiện phát triển chương trình nhà trường.
3.2.4.Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Hiệu trưởng cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực
xây dựng kế hoạch dạy học, xây dựng chủ đề liên môn, có khả năng sử dụng
hình thức dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp với đối tượng học
sinh đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số và điều kiện cụ thể của nhà trường cho
cán bộ, giáo viên nhà trường.
Đối với các Phó Hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán
các bộ môn: là người có nhiệm vụ nắm chắc quy trình, cách thức thực hiện phát
triển chương trình; từ đó về triển khai tới các giáo viên thuộc tổ chuyên môn,
nhóm chuyên môn do mình phụ trách, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở giáo viên
nghiêm túc thực hiện quy trình, cách thức, các hoạt động và sản phẩm của từng
hoạt động trong phát triển chương trình đạt hiệu quả.
Đối với GV bộ môn: Người thực hiện phát triển chương trình các môn
học và các hoạt động giáo dục trong phát triển chương trình nhà trường. đây là
thành tố quan trọng quyết định sự thành công của việc phát triển chương trình
hay không. Ngoài các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ đã được học và tích lũy
trong quá trình dạy học nhiều năm song họ phải được bổ sung, trang bị những
kiến thức về cách rà soát chương trình hiện hành của nhà trường, tìm và loại bỏ
những nội dung kiến thức lạc hậu, trùng lặp ở các bộ môn hoặc có tính hàn lâm
quá khó đối với học sinh; khả năng cấu trúc sắp xếp lại chương trình. Cách xây
dựng chủ đề liên môn; biết cách sử dụng các phương pháp dạy học tích cực có
hiệu quả trong quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục mới; đổi mới phương pháp
kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực người học.
Vậy để nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục học sinh khi thực hiện
phát triển chương trình các bộ môn thì GV bộ môn không chỉ cần có trình độ
chuyên môn vững để tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp dạy học
truyền thống, phương pháp dạy học tích cực mà GV bộ môn cần có kĩ năng tổ
chức các hoạt động ngoại khóa theo môn học; có khả năng sử dụng công nghệ
thông tin để bài giảng sinh động hơn đặc biệt là phải có năng lực dạy học tích
hợp, liên môn…
Đối với GV là cán bộ đoàn chuyên trách: đa số là những GV trẻ, chưa có
nhiều kinh nghiệm cũng như khả năng tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể
với qui mô toàn trường, chưa tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận
trong trường để thực hiện các hoạt động. Do đó cần thiết phải có kế hoạch bồi
dưỡng cho lực lượng này để phát huy được tính tích cực, nhạy bén, sáng tạo
trong công tác tổ chức các HĐGD nói chung.
Đổi mới nội dung bồi dưỡng theo hướng thiết thực. Xây dựng nội dung
bồi dưỡng chung và những nội dung bồi dưỡng gắn với từng đối tượng cụ thể:
GV là tổ trường chuyên môn và GV cốt cán bộ môn, GV bộ môn, GV là cán bộ
Đoàn chuyên trách.
Hình thức bồi dưỡng: Trường mời chuyên gia về các huyện để bồi dưỡng
theo nhóm chuyên môn, liên môn, giúp giảm chi phí và huy động được tối đa
GV được bồi dưỡng.
Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về phát triển chương trình nhà
trường, tổ chức HĐGD trong phạm trường, cụm trường để trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm.
Chỉ đạo tổ chuyên môn tăng cường bồi dưỡng GV. Mỗi GV cũng chủ
động tự bồi dưỡng để không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn mà còn nâng cao
kĩ năng tổ chức các HĐGD cho học sinh. Nâng cao ý thức, tinh thần trách
nhiệm của đội ngũ GV trong nhà trường đối với phát triển chương trình môn
học và HĐGD cho học sinh.
Định kỳ hằng tháng, học kỳ, kết thúc năm học, các tổ chuyên môn, đều tổ
chức họp, thảo luận, nhận xét, rút kinh nghiệm về phát triển chương trình các
môn học, tìm ra cách làm mới và những việc, nội dung cần điều chỉnh để tiến
hành cho những đợt tiếp theo có hiệu quả.
3.2.5.Các phát triển, cải tiến khác
* Xây dựng kế hoạch Hội thảo, xác định mục tiêu, cách tiên hành và nội
dung của hội thảo. Nội dung gồm:
Phát triển chương trình khung về chương trình nhà trường
Phát triển chương trình nhóm ngành
Phát triển chương trình môn học
Phát triển chương trình bài học
Vấn đề tổ chức dạy học để phát triển chương trình
Vấn đề kiểm tra đánh giá.
Vấn đề các điều kiện thực hiện chương trình.
Vấn đề năng lực giáo viên đáp ứng với phát triển chương trình.
*Sau đó tiến hành Hội thảo.
Xin ý kiến chuyên gia từ đó cùng phân tích và đưa ra các kết luận.
Sau khi hội thảo sẽ tổ chức hội nghị cán bộ lãnh đạo của nhà trường (gồm
Hiệu trường, Phó Hiệu trưởng, Tổ Trưởng chuyên môn, Tổ phó chuyên môn,
Giáo viên cốt cán các bộ môn) để lựa chọn phương án, quyết định khung
chương trình của nhà trường, chương trình của từng môn học. Quyết định
phương án để tổ chức dạy học, các phướng án để kiểm tra, đánh giá.
Quyết định phương án kiểm tra giám sát việc phát triển chương trình nhà
trường và các tiêu chuẩn tiêu chí đánh giá.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Quan điểm của Đảng, Nhà nước là đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ
thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học
giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng
lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu cầu phát triển
của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù
hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân
tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng
phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được
bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và
được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển
bền vững và phồn vinh.
2. Kiến nghị
2.1. Với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tạo điều kiện cho cán bộ quản lý, giáo viên nhà trường được trực tiếp
tham gia các hội thảo, tập huấn về thí điểm phát triển chương giáo dục nhà
trường do Bộ GDĐT tổ chức.
Ưu tiên bố trí kinh phí từ các chương trình, dự án, đề án để hỗ trợ tăng
cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục hỗ trợ thực hiện kế hoạch giáo dục.
Xây dựng tài liệu hướng dẫn giáo dục di sản và tổ chức cuộc thi xây dựng
kế hoạch bài giảng (giáo án) theo phương pháp dạy học tích cực để giáo viên có
cơ hội học hỏi các giáo viên khác trên toàn quốc.
Đề nghị xem xét nâng định mức số tiết chủ nhiệm lớp đối với GVCN của
trường tiểu học Mỹ Xuân vì GVCN phải dành rất nhiều thời gian cho việc quản
lý, chăm sóc và GD học sinh trong và ngoài giờ lên lớp.
Đề nghị giảm định mức giờ lên lớp cho giáo viên để giáo viên có điều
kiện đầu tư thời gian cho nghiên cứu nội dung chương trình và tổ chức dạy học.
2.2. Với trường Tiểu học Mỹ Xuân
a) Đối với Hiệu trưởng
Hiệu trưởng cần phải tăng cường tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng
lực lãnh đạo, quản lý. Tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các trường
đã thực hiện phát triển chương trình giáo dục nhà trường trong và ngoài tỉnh.
Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực
tế của nhà trường, phát huy tối đa năng lực của đội ngũ CBQL, GV và NV phục
vụ mục tiêu chiến lược của nhà trường, trong đó có việc phát triển chương trình
giáo dục nhà trường.
Tích cực, chủ động tham mưu trực tiếp với chính quyền địa phương và
Sở GD&ĐT các vấn đề về phát triển chương trình để tìm ra giải pháp tháo gỡ
kịp thời các khó khăn, vướng mắc, trong quá trình thực hiện và tích lũy kinh
nghiệm để chuẩn bị tâm thế cho việc thay sách giáo khoa sau năm 2015.
b) Đối với GV
Tích cực tự học, tự bồi dưỡng để đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ
chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT, trong đó có thiết lập kế hoạch
giáo dục mới, đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá.
Tranh thủ thời gian để bố trí tự học Tin học và Ngoại ngữ, học và rèn
luyện khả năng giao tiếp bằng tiếng DTTS, tích cực nghiên cứu văn hóa, phong
tục tập quán của các DTTS để có biện pháp giáo dục học sinh và thuyết phục
CMHS một cách hiệu quả; áp dụng vào công tác để nâng cao chất lượng giảng
dạy và giáo dục học sinh.
Tích cực tham mưu cho lãnh đạo nhà trường các vấn đề về phát triển
chương trình nhà trường trong bối cảnh thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục hiện nay
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ trường tiểu học.
2. Luật giáo dục sửa đổi
3. Chỉ thị 40/ 2008/CT-BGD&ĐT ngày 22/7/2008 của BGD&ĐT về việc
phát động phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” trong các trường phổ thông giai đoạn: 2008 – 2013.
4. Sở GD&ĐT Hà Nội giáo trình bồi dưỡng Hiệu trưởng trường Tiểu học,
nhà xuất bản Hà Nội năm 2006.
5. Tài liệu hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2012 – 2013 về giáo dục Mầm
Non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp của
nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Thái Duy Tuyên, giáo dục hiện đại, nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội.

You might also like