You are on page 1of 2

Đề: Anh chị hãy phân tích bài thơ Tự tình II để làm rõ ý thức về con người cá nhân trong

thơ Hồ Xuân Hương


Bài làm
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ Nôm tả cảnh ngụ tình sâu sắc cùng ý tứ chân
thành nhằm giải bày tâm sự lòng mình. Sự nghiệp sáng tác của bà hiện còn khoảng 40 bài thơ nôm. Bên cạnh đó, nữ sĩ
còn có tập thơ “Lưu Hương Kí” gồm 24 bài thơ chữ hán và 26 bài thơ chữ nôm. Hồn thơ Xuân Hương trào phúng mà trữ
tình mang đậm chất văn học dân gian. Bà thường viết về đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến chuyên quyền để
nói lên tiếng nói thương cảm cho số phận đớn đau của họ. Qua đó còn là sự khẳng định và đề cao vẻ đẹp phẩm chất, tâm
hồn và khát khao mong được hạnh phúc của phận nữ nhi đương thời. Nổi bật hơn cả là tính “con người cá nhân” trong
thơ ca của Hồ Xuân Hương. Điều đó được thể hiện rõ qua bài thơ “Tự tình II” – một thi phẩm nằm trong chùm thơ “Tự
tình”.
Trước hết, ta phải hiểu được “con người cá nhân” là gì? Con người cá nhân trong văn học là sự phản ánh cái “tôi” của
người cầm bút, là sự giải bày, diễn tả thế giới nội tâm của tác giả. Hay nói một cách khác “con người cá nhân” là sự tự
khắc họa tư tưởng, tâm tư, tình cảm thông qua tác phẩm mà họ chấp bút. Và “con người cá nhân” trong thơ Hồ Xuân
Hương được thể hiện một cách sâu sắc, mạnh mẽ, đầy cá tính. “Con người cá nhân” như một lẽ tự nhiên đã trở thành
hình tượng điển hình trong các tác phẩm thơ nôm của bà. Đặc biệt là thi phẩm “Tự tình II”
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
…….
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Vậy “con người cá nhân” thể hiện ở đâu trong “Tự tình II”? Đầu tiên, ta thấy được con người cá nhân của Xuân
Hương qua thông qua nội dung của thi phẩm mà mở đầu là hai dòng thơ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Hai từ “đêm khuya” gợi lên trong tâm trí người đọc một khung cảnh vắng vẻ, yên tĩnh. Đó cũng là khoảng thời gian để
con người ta đối mặt với những nổi trăn trở, suy tư ẩn sâu bên trong. Giữa bốn bề “văng vẳng trống canh dồn” hiu quạnh
nổi bật lên một dáng hình cô đơn của người phụ nữ. Tiếng trống ấy như ngày một hối hả, gấp gáp vọng đến như quãng
thời gian không ngần ngại cuốn đi cả tuổi xuân, nhan sắc của một kiếp “hồng nhan”. Chỉ bấy nhiêu nhưng cõi lòng của
họ đã vỡ vụn. Ấy vậy mà tình duyên lại chẳng đi đến đâu như làm tăng thêm nổi đau cho trái tim vốn đã đầy thương tổn.
Khiến cho con người dù đối diện với chính bản thân mình nhưng lại cảm thấy “trơ” đi. “Trơ” không chỉ đơn thuần là trơ
trọi với “nước non”, với thế giới tự nhiên bao la rộng lớn khôn cùng mà còn ẩn chứa bên trong nổi đau không nguôi
ngoai về một tình duyên lận đận.Sự kết hợp giữ nghệ thuật đối lập cùng với đảo ngữ ở câu thơ thứ hai đã làm bật lên nổi
cô đơn, trống vắng trước vũ trụ và bề gan thách đố số phận của nhân vật trữ tình,hay đúng hơn là của người nữ sĩ tài
ba.Hai câu đề đã thể hiện sâu sắc “con người cá nhân” của Hồ Xuân Hương.Đó là một Xuân Hương cô đơn,tủi hổ,bẽ
bàng trước cuộc đời
Hai câu thơ đầu như một tiếng thở dài ngao ngán, cũng từ ấy mà ý nguyện muốn thoát khỏi nỗi sầu muộn dấy lên
nhưng rồi lại nhanh chóng rơi vào bế tắc. Dường như cái khắc nghiệt của cuộc sống chưa thôi buông tha cho thân phận
bé nhỏ của người phụ nữ khiến họ đành mượn rượu để quên đi. Tính “con người cá nhân” lại một lần nữa bộc lộ qua hai
câu thơ tiếp:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Nàng mượn rượu để giải tỏa lòng mình, để nhanh chóng chìm vào cơn say rồi quên đi bao phiền muộn bủa vây.
Nhưng liệu chén rượu ấy có giúp người phân ưu? Hay chỉ khiến người “say lại tỉnh”, trở thành một vòng lẩn quẩn khiến
nỗi buồn thêm sầu nặng. Chính lúc ấy, người lại càng thấm thía hơn nỗi cay đắng của cuộc đời. “Vầng trăng” luôn xuất
hiện như chứng nhân của bao cuộc tình lãng mạn, trọn kiếp bên nhau như dáng vẻ tròn trịa của nó. Nhưng cớ sao hiện
lên dưới cái nhìn của nữ sĩ lại là “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”? Hay đây là báo hiệu cho một cuộc tình sẽ mãi
dở dang. Đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm tay? Và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm lòng này
thêm xót. Người khao khát và mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ, bi
kịch có bao giờ buông tha cho những người phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang trái trong xã hội phong kiến
đương thời. Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan ra khắp không gian bốn bề. Hai câu thực đã lột tả nỗi xót xa của Hồ
Xuân Hương trước duyên phận dở dang, lỡ làng và đồng thời cũng là một trong những biểu hiện của “con người cá
nhân” trong thi phẩm này.
“Con người cá nhân” chưa dừng lại ở đó mà còn được bộc lộ ở hai câu luận. Ở đây ta bắt gặp một Xuân Hương đầy cá
tính, mạnh mẽ trong khát vọng phản kháng số phận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hồn
Câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt với sức mạnh “xiên ngang” cả
lớp đất dày vươn lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trước mắt.
Thái độ phản ứng mạnh mẽ trước duyên tình lận đận thể hiện qua giọng thơ ngang ngạnh phản kháng và cả nỗi ấm ức.
Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt. Ta thấy được tác dụng
của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này. Dường như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình
ảnh thiên nhiên ấy. “Rêu” và “đá” bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nữ thi sĩ cũng
vậy. Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hi vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng
bằng nghị lực bà vẫn cố gắng gượng mong chờ để vượt qua và đi đến bến bờ bình yên của riêng mình. Hai câu thơ là ẩn
dụ khát vọng rất lớn không chỉ của riêng Hồ Xuân Hương mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về
một cuộc đời hạnh phúc hơn. Dâng tràn trong họ là tất cả hi vọng, mong chờ bằng cả niềm tin dù bao nghịch cảnh. Từ
đây mà người đọc thấy được cá tính mạnh mẽ cùng bản lĩnh của Hồ Xuân Hương trong chính tác phẩm của bà.
Nhưng thực tại đâu bao giờ như ta mong muốn. Vòng xoáy của cuộc đời lại tiếp tục kéo người rơi vào bế tắc khiến cho
nữ thi sĩ dù đầy bản lĩnh nhưng vẫn phải chấp nhận buông xuôi bao ý niệm. Điều đó lại được thể hiện ở hai câu kết khép
lại lời tự tình:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán”. Mùa xuân có đi rồi cũng đến ngày sẽ quay về với thiên
nhiên, nhưng còn tình duyên thì bao giờ mới trở lại với trái tim chung tình đang chịu nỗi đau đến cùng cực. Tuổi xuân
người phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ
quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng. Tình duyên ấy chỉ một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong
người là “tí con con”. Dẫu luôn ghét cay đắng thân phận lẻ mọn, vậy mà trớ trêu thay nữ sĩ lại phải chịu cảnh chung
chồng.
Bằng sự khéo léo trong việc sử dụng ngôn ngữ mang đậm chất dân gian, giàu sức biểu cảm, bài thơ “Tự tình II”
chứa đựng muôn vàn sắc thái tình cảm của Hồ Xuân Hương: ngậm ngùi, ai oán, bực dọc, tủi hổ, phiền muộn có lúc phản
kháng dữ dội nhưng rồi lại chán chường, thất vọng. Tiếng thơ táo bạo chân thành đi từ nghịch cảnh để nói hộ tâm tư, nỗi
lòng và thể hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao kiếp hồng nhan trong xã hội phong kiến bấy giờ. “Con
người cá nhân” trong ngòi bút đã góp phần làm nên chủ nghĩa nhân văn trong các tác phẩm của Hồ Xuân Hương. Đưa sự
nghiệp của bà trở thành bất hủ trong lòng người đọc thế hệ sau này.

You might also like