You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINH

KHOA XÂY DỰNG VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN TRẦN THANH TRUNG

BỆNH TRUYỀN NHIỄM

NAM ĐỊNH, THÁNG 10 NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINH
KHOA XÂY DỰNG VÀ CÔNG NGHỆ

TIỂU LUẬN THAY THẾ KHI KẾT THÚC HỌC PHẦN

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BỆNH DỊCH TẢ THÚ NHAI LẠI


NHỎ VÀ DỊCH TẢ TRÂU BÒ, CÁCH CHẨN ĐOÁN VÀ
PHÒNG BỆNH

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN TRẦN THANH TRUNG

Khóa học: 2019 - 2022 Mã số sinh viên: 1243307022

Giảng viên hướng dẫn: THẠC SĨ BÙI NGỌC THÚY LINH

NAM ĐỊNH, THÁNG 10 NĂM 2021


MỤC LỤC

TRANG
Trang phụ bìa
MỤC LỤC ................................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... iii
Chương 1 MỞ ĐẦU.................................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề............................................................................................................................ 1
1.2. Mục đích và yêu cầu ........................................................................................................... 1
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN................................................................................... 3
2.1. Khái quát về bệnh Dịch tả trâu bò ..................................................................................... 3
2.1.1. Tình hình bệnh Dịch tả trâu bò trên thế giới và ở Việt Nam ........................................ 3
2.1.2. Căn bệnh........................................................................................................................... 3
2.1.3. Các loài thú mẫn cảm ...................................................................................................... 5
2.1.4. Truyền lây ........................................................................................................................ 5
2.1.5. Sinh bệnh học................................................................................................................... 5
2.1.6. Triệu chứng lâm sàng ...................................................................................................... 6
2.1.7. Bệnh tích: ......................................................................................................................... 7
2.1.7.1. Bệnh tích đại thể: .......................................................................................................... 7
2.1.7.2. Bệnh tích vi thể ............................................................................................................. 9
2.1.8. Chẩn đoán......................................................................................................................... 9
2.1.8.1. Phân lập vi-rút ............................................................................................................... 9
2.1.8.2. Phát hiện kháng nguyên vi-rút ................................................................................... 10
2.1.8.3. Phản ứng huyết thanh học (serological tests) phát hiện kháng thể.......................... 11
2.1.8.4. Chẩn đoán phân biệt ................................................................................................... 14
2.1.9. Kiểm soát bệnh .............................................................................................................. 14
2.1.10. Vắc-xin ......................................................................................................................... 14
2.1.10.1. Tiêu chuẩn giống vắc-xin: ....................................................................................... 14

i
2.1.10.2. Kiểm tra trong quá trình sản xuất: ........................................................................... 15
2.2. Bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ (Peste Des Petits Ruminants: PPR) ............................... 17
2.2.1. Căn bệnh......................................................................................................................... 17
2.2.2. Triệu chứng, bệnh tích:.................................................................................................. 17
2.2.3. Chẩn đoán....................................................................................................................... 19
2.2.4. Phòng bệnh:.................................................................................................................... 19
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ..................................................................................... 20
3.1. Kết luận.............................................................................................................................. 20
3.2. Đề nghị .............................................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 21

ii
DANH MỤC CÁC HÌNH

TRANG
Hình 2.1. Cấu trúc vi-rút gây bệnh Dịch tả trâu bò ........................................................... 4
Hình 2.2. Cơ chế sinh bệnh Dịch tả trâu bò ........................................................................ 5
Hình 2.3. Bệnh tích ở đầu, miệng và ruột của bệnh Dịch tả trâu bò............................... 8
Hình 2.4. Bệnh tích ở mắt, mũi, miệng và phổi của dê mắc bệnh Dịch tả thú
nhai lại nhỏ .............................................................................................................................. 18

iii
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh Dịch tả trâu bò và Dịch tả thú nhai lại nhỏ hiện nay đang là mối quan
tâm hàng đầu trong chăn nuôi gia súc, nhất là thú nhai lại, bởi bệnh lây lan rất
nhanh, tỷ lệ chết cao làm ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình. Hơn thế bệnh
còn là mối nguy cơ bùng phát dịch trên diện rộng gây ô nhiễm môi trường và sức
khoẻ cộng đồng.
Ảnh hưởng của bệnh Dịch tả trâu bò và Dịch tả thú nhai lại nhỏ đối với nền
chăn nuôi gia súc toàn cầu rất lớn, là một trong những bệnh gây tác hại lớn đến sự
phát triển của ngành chăn nuôi gia súc thế giới. Ngoài ra thiệt hại liên tục do dịch
bệnh này gây ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng cũng như chất lượng thực
phẩm cho người dân.
Để giảm bớt những tổn thất to lớn về kinh tế và ổn định chất lượng gà thì bước
đầu tiên cần thiết là phải loại trừ các yếu tố gây bệnh trâu bò và Dịch tả thú nhai lại
nhỏ ,việc kiểm soát có thể thực hiện bằng cách sử dụng vắc-xin.
Trước tình hình đó, được sự đồng ý của Khoa Xây dựng - Công nghệ, Trường
Đại Học Lương Thế Vinh, Chúng tôi thực hiện tiểu luận “Khái niệm chung về bệnh
Dịch tả thú nhai lại nhỏ và Dịch tả trâu bò, cách chẩn đoán và phòng bệnh”.
1.2. Mục đích và yêu cầu
Mục đích
Tìm hiểu về nội dung bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ và Dịch tả trâu bò nhằm
nâng cao sự hiểu biết về chẩn đoán, phòng bệnh gia súc.
Yêu cầu
- Giới thiệu sơ lược về bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ và Dịch tả trâu bò.
- Phương pháp chẩn đoán
- Phương pháp phòng bệnh.

1
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN

Nội dung chính của tiểu luận tập trung giải quyết vấn đề trọng tâm: “Khái niệm
chung về bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ và Dịch tả trâu bò, cách chẩn đoán và phòng
bệnh”. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các vấn đề theo thứ tự của tiểu luận:
2.1. Khái quát về bệnh Dịch tả trâu bò
2.1.1. Tình hình bệnh Dịch tả trâu bò trên thế giới và ở Việt Nam
Bệnh Dịch tả trâu bò là bệnh cấp tính gây chết với tỷ lệ cao trên trâu, bò (tỷ lệ
chết 80 - 90% đối với thú mẫn cảm).
Vào thế kỷ 18 và 19, nhiều ổ dịch lớn Dịch tả trâu bò đã gây chết hàng triệu
con trâu bò ở châu Au. Vào những năm 1930, trừ một phần Thổ Nhĩ Kỳ, châu Au
không còn bệnh và từ đó đến nay chỉ có những ổ lẻ tẻ xảy ra. Tuy nhiên bệnh vẫn
tiếp tục tồn tại ở châu Á nhất là ở An Độ, Bangladesh, Nepal. Năm 1982 - 1983
thấy có bệnh ở vùng Trung Đông. Bệnh đưa vào châu Phi từ đầu thể kỷ 19 và gây
các trận đại dịch trong các năm từ 1889 - 1897. Đến nay châu Phi vẫn còn bệnh,
mặc dù có các kế hoạch tiêm phòng liên quốc gia trong các năm từ 1962-1975,
nhưng vẫn còn dịch xảy ra thường xuyên trong vùng này (Scott,1985). Ở Việt Nam
từ những năm 1960 đã không còn thấy bệnh xuất hiện.
2.1.2. Căn bệnh
Vi-rút gây bệnh Dịch tả trâu bò thuộc họ Paramyxoviridae, giống
Morbillivirus. Các loài khác trong giống Morbillivirus là vi-rút sởi (measles), bệnh
chó non (distemper) và vi-rút bệnh Dịch tả dê cừu (PPR: peste des petits ruminants)
có liên hệ nhau về kháng nguyên. Các Morbillivirus có hình dạng thay đổi, có lớp
vỏ envelop, kích thước thay đổi 150 - 300 nm và chứa một chuỗi RNA không phân
đoạn. Bộ gen này mã hóa cho 6 loại protein cấu trúc và một protein không cấu trúc.
Các protein cấu trúc của vi-rút gồm có protein của nucleocapsid (gọi tắt là N) bao
3
quanh chuỗi RNA, một phân tử polymerase lớn (L), một phân tử polymerase nhỏ
(P), protein của matrix (M) liên kết với envelop và hai glycoprotein của envelop: H
(hemagglutinin) và F (Fusion). Gen P cho thấy đồng nhất giữa các loài trong giống
Morbillivirus (Barrett và Underwood, 1985).

Hình 2.1. Cấu trúc vi-rút gây bệnh Dịch tả trâu bò


(Nguồn Center for Food Security and Public Health Iowa State University - 2004)

Chỉ có một serotyp duy nhất và vi-rút Dịch tả trâu bò có thể phân biệt với vi-
rút PPR bằng phản ứng trung hòa chéo. Hiện nay không thể phân biệt 2 bệnh bằng
huyết thanh của thú khỏi bệnh. Tuy nhiên chúng có thể phân biệt bằng cách so sánh
các protein trên polyacrylamide do protein N có trọng lượng phân tử khác nhau
(Diallo và ctv, 1987). Ngoài ra có thể phân biệt 2 vi-rút bằng cách cho lai chéo với
các đoạn mồi c.DNA (Diallo và ctv, 1989).
Vi-rút mẫn cảm với các dung môi hòa tan lipid, tương đối mẫn cảm với nhiệt
và không bền ở pH thấp. Nó cũng dễ bị diệt khi phơi ra ánh sáng và bị diệt khi ẩm
độ tương đối ở khoảng 40-60% RH. Độc lực mất đi khi ở trong glycerol hoặc nước,

4
ngược lại bền ở dung dịch 0,85% NaCl và nhiệt độ thấp. Magnesium sulphat làm
gia tăng tính chịu nhiệt của vi-rút.
2.1.3. Các loài thú mẫn cảm
Bệnh Dịch tả trâu bò có thể gây ra trên các thú thuộc bộ Artiodactyla (Scott,
1964), đặc biệt là họ Bovidae, Suidae và Cervidae (Plowright, 1968). Trong số đó
thì trâu bò, trâu caffer (Syncerus caffer) và con yak là mẫn cảm nhất. Bệnh xảy ra
trên dê, cừu cũng như ở heo được thấy ở Ấn Độ. Ngoài ra bệnh có thể gặp ở lạc đà
(nhẹ). Một số loài động vật hoang dã cũng mắc bệnh; Taurotragus oryx (bò rừng),
Kudu (Tragelaphus imberis), hươu cao cổ (Giraffa camelopardis) và heo rừng (
Phacochoerus aethiopicus).
2.1.4. Truyền lây
Bệnh có thể lây do trực tiếp tiếp xúc giữa thú bệnh và thú mẫn cảm, do hít
phải các hạt aerosol có vi-rút hoặc ăn phải các chất tiết. Những trường hợp lây lan
do tiếp xúc gián tiếp thì hiếm hơn, qua chất độn chuồng hoặc nước. Các dòng vi-rút
thì khác nhau về độc lực và khả năng gây bệnh tùy theo loài gia súc.
2.1.5. Sinh bệnh học
Cảm nhiễm qua đường hô hấp trên với các vi-rút nhân lên đầu tiên ở hạch hạnh
nhân và hạch lâm ba gần đó (Plowright, 1968), vi-rút xâm nhập vào máu chủ yếu trên
đại thực bào để đến các mô lâm ba và màng niêm của đường tiêu hóa và hô hấp.

Hình 2.2. Cơ chế sinh bệnh Dịch tả trâu bò

5
Thời kỳ ủ bệnh kéo dài từ 2 đến 9 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng sốt.
Giai đoạn tiền chứng khoảng 2-5 ngày.
Vi-rút được bài xuất trong các chất tiết, đỉnh cao sinh sản của vi-rút nằm trong
khoảng thời gian sốt của thời kỳ tiền chứng nhưng kéo dài đến sau khi xuất hiện các
bệnh tích loét. Hàm lượng vi-rút giảm xuống khi kháng thể được tạo ra và viremia
ngưng trước khi vi-rút biến mất khỏi mô bào vào ngày 14 sau khi bắt đầu sốt. Ở một
số dòng vi-rút, viremia có thể xảy ra từ 4-6 ngày mà không thể hiện các bệnh tích
(độc lực thấp).
2.1.6. Triệu chứng lâm sàng
Các triệu chứng của bệnh trên trâu bò và các ký chủ tự nhiên khác thường
giống nhau nhưng mức trầm trọng thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào chủng vi-rút và
sức đề kháng của thú (tự nhiên hay tiếp thu).
Bệnh có thể ở thể quá cấp, cấp, bán cấp hoặc mãn tính (Plowright, 1968).
Thể bệnh cấp tính điển hình có thể chia làm 4 giai đoạn hay thời kỳ: Ủ bệnh,
tiền chứng, giai đoạn niêm mạc (giai đoạn loét) và hồi phục.
Thời kỳ ủ bệnh: 2 - 9 ngày.
Thời kỳ tiền chứng: Có đặc điểm là xuất hiện sốt thình lình, tăng dần đến đỉnh
cao vào ngày thứ 2 hoặc thứ 3 kể từ lúc bắt đầu sốt. Triệu chứng còn có uể oải hoặc
nằm một chỗ, mất tính thèm ăn và giảm sản xuất sữa (bò cái). Các niêm mạc bị
sung huyết, gương mũi khô và bắt đầu có chất tiết lỏng chảy ra ở mắt và mũi. Nhịp
tim đập không đều (tachycardia), tần số hô hấp tăng, ngừng nhai lại và táo bón.
Thời kỳ này kéo dài khoảng 3 ngày và các bệnh tích xuất hiện 2 - 5 ngày sau khi bắt
đầu sốt.
Thời kỳ niêm mạc (loét): Các bệnh tích đầu tiên là các đốm hoại tử nhỏ cùng
xuất huyết các mao mạch trên bề mặt niêm mạc miệng, đặc biệt ở nướu răng hàm
dưới và đầu các gai thịt trong miệng. Hoại tử có thể lan đến môi, nướu răng hàm
trên, khẩu cái cứng và mặt bụng của lưỡi. Bệnh tích tương tự cũng thấy ở niêm mạc
mũi, âm hộ và bao quy đầu có thể sớm hơn ở miệng. Các bệnh tích có thể hợp lại

6
tạo thành các mảng hoại tử có mùi rất khó ngửi. Nước bọt cũng tiết rất nhiều và
trong giai đoạn này các chất tiết ở mắt và mũi ngày càng nhiều và giống như có mủ.
Thú trong giai đoạn này rất mệt mỏi và thở khó khăn, nhưng ít khi có viêm
phổi. Tiêu chảy thường xuất hiện giữa ngày thứ 4 và ngày thứ 7 trong giai đoạn sốt
và 1-2 ngày sau khi xuất hiện các vết loét. Đầu tiên thú đi phân rất lỏng, sau đó đi
kiết và có thể có các mảnh niêm mạc ruột. Thú mất nước nhanh chóng nên rất yếu
ớt, nằm một chỗ và chết trong vòng 6-12 ngày kể từ khi có sốt. Tỷ lệ chết bệnh hơn
90% khi thú mẫn cảm tiếp xúc với chủng vi-rút cường độc.
Thể bệnh nhẹ (bán cấp) có thể gặp trên thú có miễn dịch phần nào hoặc mắc
bệnh do chủng vi-rút ít độc sẽ có các triệu chứng chung nhẹ hơn và bệnh tích loét ở
niêm mạc ít lan tràn hơn. Sốt có thể hơi giảm vào giữa giai đoạn loét và sau 1-2
ngày có thể trở lại thân nhiệt bình thường. Lúc bấy giờ tiêu chảy ngừng, bệnh tích ở
miệng giảm nhanh. Ngoài ra cũng có những trường hợp chỉ thấy tiêu chảy thoáng
qua. Nhưng dù ở thể bệnh nào thì cũng có thể phát hiện kháng nguyên vi-rút trong
chất tiết mắt (Anderson, 1990).
Thời kỳ hồi phục:
Các bệnh tích trong miệng có thể lành sau khi xuất hiện 3-5 ngày. Tiêu chảy
có thể kéo dài lâu hơn. Sự bình phục hoàn toàn ở thể cấp tính cần khoảng 4 tuần lễ
phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh và chế độ dinh dưỡng.
2.1.7. Bệnh tích:
2.1.7.1. Bệnh tích đại thể:
Bệnh tích kinh điển cho thấy quầy thịt mất nước. Gầy ốm, dính đất và hôi thối.
Mũi và má có các chất dịch đặc như mủ, mí mắt sụp và kết mạc sung huyết. Trong
xoang miệng, thường có sự tróc rất nhiều biểu bì bị hoại tử, phân biệt rất rõ với
vùng niêm mạc không bệnh tích. Các bệnh tích thường lan rộng đến khẩu cái mềm
và có thể đến hầu và phần trên thực quản. Dạ cỏ, tổ ong, lá sách thường không bị
ảnh hưởng mặc dù đôi khi thấy các đốm hoại tử ở các gai của dạ cỏ. Dạ cỏ bị nặng
nhất, đặc biệt vùng hạ vị, cho thấy sung huyết nặng, xuất huyết lấm tấm và phù
thũng ở lớp dưới màng niêm. Hoại tử ở lớp thượng bì tạo cho niêm mạc có màu

7
xám đen. Ruột non thường không bệnh tích ngoại trừ các biến đổi rơ nét ở các nốt
Peyer bị hoại tử nang lympho và tróc ra tạo các bệnh tích tròn sung huyết hoặc xám
đen lại. Ở ruột già, các biến đổi gặp ở van hồi-manh và dọc theo các nếp gấp ở niêm
mạc manh tràng, trực tràng, ruột già. Các nếp này có vẻ rất sung huyết trong các
trường hợp chết cấp tính hoặc chuyển sang màu đen sạm trong các trường hợp bệnh
kéo dài hơn, một số nơi gọi là các vạch như ngựa vằn. Các mụn loét cũng có thể gặp
ở đường sinh dục hoặc tiết niệu.

Hình 2.3. Bệnh tích ở đầu, miệng và ruột của bệnh Dịch tả trâu bò
(Nguồn Center for Food Security and Public Health Iowa State University - 2004)

8
2.1.7.2. Bệnh tích vi thể
Vi-rút có khuynh hướng thích các tế bào lympho tạo ra các nốt hoại tử ở các
trung tâm mầm và sự xuất hiện các tế bào khổng lồ có nhiều nhân (hợp bào) vào
khoảng 8 ngày sau khi cảm nhiễm. Các thể bao hàm trong tế bào chất và trong nhân
tế bào đã được mô tả (Plowright, 1968). Các biểu bì vẩy, nhất là ở phần trên đường
tiêu hóa cho thấy tạo thành hợp bào, cùng các biến đổi thoái hóa, tiếp đó hoại tử và
tróc ra để tạo thành các nốt loét.
2.1.8. Chẩn đoán
Xác định căn bệnh trong phòng thí nghiệm chủ yếu dựa trên sự chứng tỏ
kháng nguyên kết tủa hiện diện ở lách, hạch lâm ba hoặc chất tiết ở mắt, mũi trên
con vật bệnh thể cấp tính. Đồng thời có thể phân lập vi-rút. Còn có thể chẩn đoán
bằng cách phát hiện kháng thể đặc hiệu từ thú đã bị bệnh (Scott và ctv, 1986).
2.1.8.1. Phân lập vi-rút
Phân lập vi-rút Dịch tả trâu bò từ máu cần chú ư dùng các chất kháng đông
như heparin (10 UI/ml) hoặc EDTA (0,5 mg/ml). Mẫu còn có thể gồm hạch (hạch
trước vai hoặc hạch ruột), lách. Bệnh phẩm được bảo quản trong nước đá khi vận
chuyển nhưng không nên dùng glycerol vì làm bất hoạt vi-rút.
Các kháng nguyên kết tủa có thể có trong chất tiết ở mắt thú bệnh trong giai
đoạn tiền chứng hoặc loét. Chúng được lấy bằng cách dùng que bông quét vào giữa
2 mí mắt. Huyết thanh vạch vô trùng có thể được lấy mẫu từ các thú đã được đánh
số trong giai đoạn cấp tính của bệnh và lần sau vào lúc 2 tuần sau khi giảm bệnh.
Các mẫu huyết thanh bắt cặp được dùng để kiểm tra sự gia tăng lượng kháng thể
trung hòa.
Máu kháng đông được ly tâm 2.500 vòng/phút trong 10 phút để tạo ra một lớp
đệm ở giữa phần huyết tương và hồng cầu. Nó được lấy ra một cách vô trùng rồi
trộn với 20 ml nước muối sinh lư và được ly tâm lại như trong phương pháp rửa để
tách mọi kháng thể trung hòa xuất hiện sớm trong huyết tương. Các tế bào còn lại
được pha thành huyễn dịch và cho 2 ml vào mỗi ống tế bào thận bê hoặc tế bào
Vero. Các ống nghiệm có tế bào này được kiểm tra định kỳ dưới kính hiển vi để

9
phát hiện tác động gây bệnh tích tế bào như tế bào bị tròn, co lại với các cầu nối tế
bào chất bị kéo dài ra, hoặc tạo tế bào khổng lồ. Phân lập vi-rút có thể xác định nhờ
chứng tỏ kháng nguyên gây kết tủa (precipitin) trong mảnh xác tế bào hoặc bằng
miễn dịch men (immunoperoxidase) tạo màu, hoặc phản ứng trung hòa với kháng
huyết thanh đặc hiệu.
Người ta có thể dùng huyễn dịch 10% (w/v) của hạch lâm ba hoặc lách để
phân lập vi-rút thay vì như ở trên, bằng cách dầm mô hạch lâm ba trong môi trường
không có huyết thanh.
2.1.8.2. Phát hiện kháng nguyên vi-rút
Test miễn dịch khuếch tán (AGID) có thể thực hiện trên các đĩa Petri nhựa
hoặc trên các phiến lame. Bề mặt phải được phủ một lớp agar dầy độ 4 mm (dung
dịch lỏng 1% agar hoặc agarose). Các lỗ thường được sắp xếp kiểu lục giác với 6 lỗ
chung quanh và 1 lỗ ở giữa. Trên phiến kính, các lỗ có đường kính 3 mm và cách
nhau 2 mm. Trên đĩa Petri, đường kính có thể 4 mm và khoảng cách giữa các lỗ độ
3 mm. Các lỗ càng để gần nhau thì thời gian cần cho phản ứng càng ngắn. Tốt nhất
thực hiện ở 4oC hoặc nhiệt độ môi trường thấp. Dùng một pipette Pasteur, huyết
thanh tối miễn dịch chống Dịch tả trâu bò (chế từ thỏ) được cho vào lỗ ở trung tâm.
Tương tự đối chứng kháng nguyên dương thu nhận từ môi trường tế bào nuôi cấy
vi-rút Dịch tả trâu bò hoặc từ hạch lympho màng treo ruột (của thú bị gây bệnh
bằng vi-rút) cho vào các lỗ chung quanh: 1, 3 và 5. Kháng nguyên đối chứng âm
được cho vào lỗ số 4. Kháng nguyên cần chẩn đoán dùng cho phản ứng này có thể
lấy từ dịch ở mặt cắt lách hoặc hạch lâm ba. Nếu không có chất dịch trên, có thể lấy
một mẫu bệnh phẩm nhỏ (hạch, lách) nghiền với cát và một ít nước muối sinh lư.
Dịch tiết ở mắt được lấy trực tiếp nhờ một que bông. Các mẫu bệnh phẩm được cho
vào lỗ số 2 và 6. Đánh giá kết quả sau 2 giờ sẽ thấy xuất hiện các đường kết tủa. Kết
quả chỉ được công nhận khi có đường kết tủa xảy ra tương ứng với kháng nguyên
đối chứng dương.
Test miễn dịch điện di đối lưu ( CIE )có thể cho kết quả dương tính cao hơn
một chút so với AGID. Phản ứng thực hiện trên các phiến lame phủ một lớp agar

10
1% dầy 2 mm (hoặc agarose 0,025% trong đệm veronal-acetat pH 8,6). Các lỗ được
chia thành từng cặp bởi các đường cắt cách chúng độ 6 mm, phía bên trái là anod
cho kháng huyết thanh chống Dịch tả trâu bò, phía bên catod cho vào đầy mẫu bệnh
phẩm hoặc kháng nguyên đối chứng dương, kháng nguyên đối chứng âm. Mẫu
được cho chạy điện 40-60 phút với dòng điện không đổi 10 mA/phiến kính, sau đó
đánh giá kết quả kết tủa.
Nhiều phương pháp khác nhau cũng có thể ứng dụng để tìm kháng nguyên vi-
rút Dịch tả trâu bò, trong đó biện pháp phổ biến nhất hiện nay là test
immunoperoxidase trực tiếp và gián tiếp.
Cẩn thận đối với các trường hợp khó thấy triệu chứng lâm sàng hoặc các test
phát hiện kháng nguyên của group (nhóm) không rơ ràng phân biệt giữa Dịch tả
trâu bò và Dịch tả dê cừu khi chúng đều gây bệnh cho cừu và dê. Người ta có thể
dùng các đoạn mồi (probe) cDNA đặc hiệu cho RNA thông tin của protein capsid ở
mỗi vi-rút.
2.1.8.3. Phản ứng huyết thanh học (serological tests) phát hiện kháng thể
* Trung hòa vi-rút (VN):
Phản ứng trung hòa vi-rút được thực hiện trên môi trường tế bào thận bê hoặc
Vero, nuôi trong các ống được xoay tròn. Huyết thanh làm bất hoạt được pha loăng
1:2 hoặc 1:10 và trộn với một huyễn dịch vi-rút tiêu chuẩn chứa khoảng 103
TCID50/ml. Hỗn hợp vi-rút và huyết thanh với thể tích bằng nhau được giữ qua
đêm ở 4oC. Sau đó chuyển hỗn hợp vào mỗi ống nghiệm (5 ống, mỗi ống cho vào
0,2ml), cho thêm vào mỗi ống 1 ml huyễn dịch tế bào (2 x105/ml). các ống được đặt
nghiêng 3 ngày ở 37oC. Những ống nào có vi-rút phát triển (gây bệnh tích tế bào )
sẽ bị loại. Môi trường sẽ được thay mới và các tube cho quay tròn để rồi quan sát
đánh giá kết quả vào ngày thứ 7. Để tính toán, lượng vi-rút dùng trong phản ứng
được coi như thích hợp nếu nằm trong khoảng 101,8 - 102,9 TCID50/ống. Các độ
pha loãng của huyết thanh được coi như loãng gấp đôi sau khi trộn với dịch vi-rút.
Bất cứ mức kháng thể nào được phát hiện, ngay cả ở 1:2 cũng được coi là dương

11
tính. Tuy nhiên, để đánh giá miễn dịch sau khi tiêm vắc-xin thì độ pha loăng 1:8
được coi như mức khởi đầu.
Phản ứng trung hòa vi-rút trong các vỉ nhỏ cũng được thực hiện. Các vỉ có lỗ
đáy bằng chứa tế bào nuôi cấy (98 lỗ giếng, huyết thanh được pha loăng 1:2 theo
dãy giảm dần với micropipette (25 µl / lỗ). Sau đó cho thêm 25 µl huyễn dịch vi-rút
Dịch tả trâu bò với nồng độ 100 TCID50/lỗ. U qua đêm ở 4oC, cho thêm 100µl tế
bào thận bê hoặc Vero với lượng 1x103,6/ml cho mỗi lỗ. Các vỉ nhựa được dán
băng keo, ủ ở 37oC và được đánh giá kết quả qua kính hiển vi sau 7 ngày trở lên.
Tiêu chuẩn của mức chấp nhận cũng tương tự đã trên.
Test này có thể dùng kiểm tra huyết thanh của trâu bò sau khi chủng vắc-xin.
Tuy nhiên, không dùng để chẩn đoán huyết thanh dê, cừu do sự hiện diện của các
tác nhân gây cản trở vi-rút không đặc hiệu trong huyết thanh.
* Phản ứng ELISA gián tiếp
Để kiểm tra đại trà các huyết thanh trâu bò sau tiêm phòng vắc-xin, người ta
đã phát minh test ELISA gián tiếp với pha rắn. Kháng nguyên được chế từ các tế
bào nhiễm chủng vi-rút vắc-xin RBOK nuôi trong môi trường không có serum và có
thể được dùng pha loãng với nước muối đệm phosphat (PBS) thành huyễn dịch
1:100. Sự gắn xảy ra ở 37oC trong 60 phút dùng một máy lắc quay tròn, kế đó rửa
và làm khô. Các mẫu huyết thanh (cần kiểm tra ) được pha loãng theo dãy 1:2 với
lượng 60 µl bằng cách pha 15 µl serum với 45 µl dung dịch đệm (dùng loại mới
pha), trong đó chứa 100 µl Tween 20 (0,1%) và 5 gr sữa không kem (bột) cho mỗi
100 ml PBS. Bước pha loãng này có thể thực hiện trong các lỗ giếng. Vỉ nhựa trên
được ủ tiếp ở 37oC trong 60 phút rồi rửa đi. Kháng thể kết hợp (bám) được phát
hiện bằng kháng kháng thể IgG bò chế từ thỏ có gắn enzym peroxidase được pha
sẵn ở nồng độ khoảng 1:10 000, tiếp đó là rửa rồi thêm OPD (orthophenyl diamine)
làm cơ chất. Phản ứng được cho ngừng bằng cách cho thêm acid sulfuric hoặc
trichloroacetic acid và đo với máy đọc ELISA ở bước sóng 492 nm.
* ELISA cạnh tranh

12
Phản ứng ELISA cạnh tranh dựa trên sự tranh gắn vào kháng nguyên Dịch tả
trâu bò (gắn sẵn trên pha rắn giữa kháng thể đơn dòng đặc hiệu Dịch tả trâu bò và
kháng thể trong mẫu huyết thanh cần kiểm tra. Sự có mặt kháng thể chống vi-rút
Dịch tả trâu bò trong mẫu huyết thanh sẽ phong bế sự kết hợp kháng nguyên với
kháng thể đơn dòng, gây ra sự giảm tạo màu sau khi thêm conjugate có gắn enzym
và cơ chất. Vì đây là test thực hiện trên pha rắn, các bước rửa phải thực hiện sau
mỗi bước để bảo đảm loại ra các chất không phản ứng.
Kháng nguyên cho phản ứng ELISA được chuẩn bị từ môi trường nuôi cấy tế
bào thận bê (Madin Darby) nuôi cấy vi-rút vắc-xin Kabete“O” (nhược độc). Kháng
nguyên được sản xuất bằng cách cho kết tủa với ammonium sulfate hoặc bằng cách
phối hợp xử lư bằng siêu âm và ly tâm. Kháng thể đơn dòng chuyên biệt cho Dịch
tả trâu bò (không cho phản ứng với vi-rút Dịch tả dê cừu (PPR). Đệm PBS pH 7,6
dùng pha kháng nguyên và các thuốc thử khác được thêm vào 0,1% (v/v) chất tẩy
Tween 20 và 0,3% (v/v) huyết thanh bò khỏe mạnh (đệm dùng phong bế). Các thể
tích 50 µl được dùng thống nhất nhau và các giai đoạn được ủ ở 37oC 1 giờ trên
máy lắc xoay tròn.
Các vỉ được phủ kháng nguyên ở nồng độ thích hợp đã định trước (thường là
1:100) trong PBS, và sau khi ủ các vỉ được rửa 3 lần trong PBS pha loãng 1:5 (dung
dịch rửa) để loại bỏ các kháng nguyên không gắn vào vỉ. Huyết thanh cần chẩn
đoán được cho vào bằng cách pha loãng 10 µl serum nguyên với 40 µl dung dịch
đệm. Các đối chứng dương tính rơ, dương tính yếu và âm tính của huyết thanh cũng
được cho vào các vỉ. Sau đó cho thêm 50 µl kháng thể đơn dòng ở độ pha loãng
định trước (thường là 1:100) trong dung dịch đệm. Sau đó là ủ và rửa, người ta lại
cho thêm vào 50 µl conjugate kháng Ig chuột chế từ thỏ gắn peroxidase ở nồng độ
định trước (thường là 1:100). Sau khi ủ lần chót, các vỉ được rửa và 50 µl cơ chất /
chất hiện màu (H2O2/ orthophenylene diamine) được cho vào và phản ứng được để
xảy ra trong 10 phút. Màu tạo ra được ngưng khi cho thêm acid sulfuric 1M và kết
quả được đọc ở máy đọc ELISA có độ dài sóng 492 nm. Một đối chứng kháng thể
đơn dòng gồm kháng nguyên, kháng thể đơn dòng và enzym conjugate khi không

13
có mặt huyết thanh của mẫu được thực hiện trên mỗi vỉ và được dùng để tính toán
tỷ lệ cản trở đối với mỗi serum (PI: Percentage Inhibition). Nếu huyết thanh của
mẫu cho giá trị PI > 50% (50% giảm mật độ màu), được coi là dương tính .
Thử nghiệm này đã thay thế phần lớn phản ứng ELISA gián tiếp và phản ứng
trung hòa vi-rút trong việc kiểm tra huyết thanh sau khi tổ chức tiêm phòng Dịch tả
trâu bò.
2.1.8.4. Chẩn đoán phân biệt
Trên trâu bò, không thể phân biệt bệnh Dịch tả trâu bò với bệnh BVD (bovine
viral diarrhoea). Ở cừu và dê, bệnh Dịch tả dê cừu (PPR: peste des petits ruminants)
cũng giống hệt bệnh Dịch tả trâu bò. Đặc biệt bệnh thể nhẹ chỉ có tiêu chảy thì khó
phân biệt với các bệnh đường ruột khác.
2.1.9. Kiểm soát bệnh
Bệnh Dịch tả trâu bò lan tràn khá chậm ở các nước có dịch (endemic), chủ yếu
gây bệnh ở thú non. Biện pháp kiểm soát bệnh là tiêm phòng hàng năm cho tất cả
thú non. Những nước muốn loại trừ bệnh Dịch tả trâu bò thì cần tiêm phòng cho
toàn bộ trâu, bò, dê, cừu trong vòng 3-5 năm. Ơ các nước kế bên các vùng có dịch
hoặc khi nhập khẩu thú từ các vùng có dịch thì cần phối hợp kiểm dịch và tiêm
phòng.
2.1.10. Vắc-xin
Các thú mẫn cảm có thể được gây miễn dịch tốt nhờ vắc-xin sống giảm độc. Ở
nhiều giai đoạn khác nhau, vi-rút đã được giảm độc trên thỏ, dê, và tế bào nuôi cấy.
Miễn dịch tạo ra thường kéo dài một thời gian lâu. Vắc-xin Dịch tả trâu bò nuôi cấy
tế bào (TCRV) đã được sản xuất ở Đông Phi châu với sự giảm độc của dòng vi-rút
cường độc Kabete “O”. Nó có nhiều ưu điểm hơn loại thỏ hóa hoặc dê hóa và là loại
vắc-xin Dịch tả trâu bò duy nhất được OIE chỉ định. Nó cũng được dùng phòng
bệnh ở sở thú và trên trâu, bò, dê, cừu.
2.1.10.1. Tiêu chuẩn giống vắc-xin:
a. Đặc điểm:

14
Các chủng dùng phải có nguồn gốc rõ ràng và qua quá trình giảm độc được
nuôi cấy trên tế bào cho thấy an toàn và tạo miễn dịch ít ra 5 năm trên trâu bò.
Ngoài ra nó phải chứng tỏ không trở lại tính cường độc khi tiêm truyền ít ra 5 đời
liên tiếp trên trâu bò (bản động vật) cũng như không làm lây lan bịnh. Hiện chỉ có
chủng Kabete O (RBOK: rinderpest bovine old kabete) là đạt các yêu cầu trên.
b. Nuôi cấy:
Chủng vắc-xin được hình thành sau 90-120 đời cấy truyền, được bảo quản ở
nhiệt độ thấp hơn –20oC và trong tình trạng đông khô. Vi-rút thường được nuôi trên
tế bào thận của phôi bê hoặc bê rất non. Tế bào thận không nên dùng nhân quá 10
đời kể từ dòng đầu tiên.
c. Tính ổn định của chủng làm vắc-xin:
Thuần khiết, không có nhiễm vi-rút khác hoặc nhiễm vi khuẩn, nấm hay
Mycoplasma.
An toàn, không gây ảnh hưởng bất thường trên thú mẫn cảm.
Hiệu quả, gây miễn dịch tốt trên thú mẫn cảm.
2.1.10.2. Sản xuất vắc-xin:
Các lô vắc-xin riêng biệt được điều chế bằng cách gây nhiễm tế bào nuôi cấy
và sau thời gian nuôi cấy thích hợp, thu hoạch lớp môi trường bên trên vì chúng
chứa một số lớn vi-rút giải phóng ra. Để bảo quản được lâu và phân phối, dịch trên
được trộn thêm chất bảo quản gồm 5% lactalbumin, 10% sucrose rồi cho đông khô.
Vi-rút có thể phát triển trên tế bào thận sơ cấp từ bê hoặc phôi bê.
2.1.10.2. Kiểm tra trong quá trình sản xuất:
Kiểm tra tế bào: Các tế bào sơ cấp hoặc thứ cấp phải lấy từ các bê hoặc phôi
bê có vẻ khỏe mạnh và phải giữ hình dạng bình thường trong khi nuôi cấy và không
bị nhiễm các vi-rút khác như vi-rút gây tiêu chảy bò (BVDV). Trong khi sản xuất
vắc-xin thì các môi trường đối chứng không cấy vi-rút phải giữ ở cùng một điều
kiện như các tế bào đang nuôi cấy vi-rút. Thường xuyên phải kiểm tra qua kính hiển
vi. Sau khi thu hoạch vi-rút, môi trường đối chứng được rửa để lấy đi huyết thanh
bò đực (ox serum) và thế vào đó huyết thanh bò đực mới và được ủ tiếp 10 ngày.

15
Chúng phải được kiểm tra thường xuyên qua kính hiển vi để phát hiện bất cứ biến
đổi bệnh tích tế bào nào. Đồng thời, cũng phải kiểm tra các vi-rút BVD có thể
nhiễm vào tế bào nuôi cấy không gây bệnh tích tế bào bằng kỹ thuật miễn dịch
huỳnh quang hoặc IP (immuno-peroxidase). Các thành phần huyết thanh dùng nuôi
tế bào phải được chứng tỏ không có các tác nhân gây trung hòa vi-rút trước khi
được sử dụng.
Kiểm tra vi-rút: Định lượng vi-rút phải thực hiện với giống vắc-xin bằng
cách pha loãng theo cơ số 10 (10, 100, 1000, ...) trong 1 vỉ nhỏ hoặc hệ thống ống
nghiệm xoay tròn, mỗi nồng độ cần 10 lỗ. Cũng cần định lượng tương tự đối với
thành phẩm. Vi-rút không nên nuôi quá 10 ngày. Dịch chứa vi-rút thu được cho ly
tâm với tốc độ thấp để loại cặn (làm trong) trước khi trộn với chất bảo quản làm
lạnh. Nó phải được giữ không quá 5 ngày ở 4oC nhưng có thể lâu nếu đông lạnh ở
-20oC đến -60oC . Thành phẩm phải thử nghiệm không nhiễm vi khuẩn, nấm và
Mycoplasma.
Kiểm nghiệm vắc-xin (Batch control):
Mẫu phải được lấy cho mỗi đợt sản xuất, được kiểm tra các chỉ tiêu sau đây:
- Vô trùng (sterility), an toàn.
Vắc-xin lấy từ 5 lọ (lấy ngẫu nhiên) được trộn lại và dùng để chích vào 1 bò
đực mẫn cảm với số lượng 100 liều tiêm và 1 con với 1/10 liều tiêm thông thường.
Các thú này được nhốt chung với 1 con bò đực chưa tiêm phòng trong vòng 3 tuần
lễ. Hàng ngày phải đo thân nhiệt và theo dơi triệu chứng lâm sàng. Sau giai đoạn
này, con vật được kiểm tra kháng thể bằng phản ứng trung hòa và công thử thách
với 1 chủng vi-rút Dịch tả trâu bò có thể gây sốt. Vắc-xin được coi như an toàn và
hiệu quả nếu nó không gây triệu chứng nào bất thường, nếu cả 2 thú được chủng
vắc-xin đều được bảo hộ và không thấy có sự truyền lây vi-rút. Mỗi một lô vắc-xin
phải được thử tính không gây bệnh trên tiểu gia súc.
- Khả năng gây miễn dịch:
Quan hệ chặt chẽ giữa khả năng gây miễn dịch và tính xâm nhiễm tế bào cho
thấy có thể dùng cái sau để đánh giá cái trước. 3 thử nghiệm gây bệnh trên tế bào

16
dùng loại tế bào nuôi cấy có nguồn gốc từ 3 thận bê hoặc thận phôi bê khác nhau.
Trường hợp đầu tiên dùng đánh giá tính an toàn, trường hợp thứ 2 và thứ 3 được
dùng để ước lượng, mỗi cái được lấy từ 3 container thành phẩm. Tính nhạy cảm của
tế bào dùng sản xuất phải được đo lường bằng cách dùng các chế phẩm chuẩn hóa.
Chuẩn độ sau cùng là trung bình hình học MG của 3 ước lượng trên, mỗi cái dùng
hệ thống pha loãng 1:10 và 10 lặp lại ở mỗi nồng độ pha loãng.
- Độ dài miễn dịch:
Các kết quả cho thấy miễn dịch kéo dài sau khi tiêm vắc-xin cho trâu bò đã hết
ảnh hưởng của miễn dịch từ mẹ (qua sữa đầu).
- Tính ổn định:
Vắc-xin rất ổn định trong trạng thái đông khô và có thể bảo quản trên 4 năm ở nhiệt
độ 4oC hoặc -10oC nếu giữ cẩn thận. Các mẫu đại diện có thể được kiểm tra xem độ ẩm
còn lại và tính ổn định ở 37oC. Sau khi phục hồi, huyễn dịch vi-rút rất mau thoái hóa nên
thời gian sử dụng trong hiện trường không được quá 1 ngày làm việc.
2.2. Bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ (Peste Des Petits Ruminants: PPR)
2.2.1. Căn bệnh
Bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ mặc dù được coi như loại tương tự Dịch tả trâu
bò là bệnh đường tiêu hóa-hô hấp hoặc có loét miệng và tiêu hóa, hô hấp, bệnh
truyền nhiễm cấp tính gây ra bởi 1 Morbillivirus thuộc họ Paramyxoviridae. Bệnh
tác động đến thú nhai lại nhỏ như cừu, đặc biệt loài dê. Nó cũng có thể gây bệnh
cho loài nai đuôi trắng ở châu Mỹ. Bệnh còn có ở châu Phi, các nước Ả Rập và
vùng Trung Đông.
2.2.2. Triệu chứng, bệnh tích:
Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 - 5 ngày nhưng có thể thay đổi từ 3 - 10 ngày. Con
vật sốt cao 41oC trong 3 - 5 ngày. Các chất tiết từ mũi và mắt ban đầu trong sau lầy
nhầy như có mủ, nếu thú không chết thì triệu chứng này kéo dài đến 14 ngày.
Trong vòng 4 ngày đầu của giai đoạn sốt, miệng bị sung huyết và có nhiều
mụn mọc bên trong xoang miệng và chảy nhiều nước bọt. Các bệnh tích trên có thể

17
chuyển thành hoại tử. Giai đoạn kế tiếp là tiêu chảy có lẫn máu và rất lỏng. Ngoài ra
còn có các triệu chứng viêm phổi, ho, âm ran và thở bụng.
Tỷ lệ mắc bệnh có thể đến 100% và trong các ổ dịch nặng có thể chết 100%.
Trong thể bệnh nhẹ, tỷ lệ chết ở khoảng 50%. Chẩn đoán nghi ngờ bệnh thường dựa
trên triệu chứng nhưng nếu vùng đó cũng có bệnh Dịch tả trâu bò thì cần thiết phải
xác định bệnh ở phòng thí nghiệm. Có tình trạng tăng bạch cầu sau giai đoạn bạch
cầu giảm. Tiêu chảy có thể không nguy hiểm nếu được bổ sung chất điện giải như
Na và Kali.

Hình 2.4. Bệnh tích ở mắt, mũi, miệng và phổi của dê mắc bệnh Dịch tả thú
nhai lại nhỏ
(Nguồn Center for Food Security and Public Health Iowa State University - 2004)
18
Khi khám tử, bệnh tích tương tự ở Dịch tả trâu bò. Các nốt loét có thể gặp ở
miệng cho đến đoạn nối tổ ong-dạ cỏ. Các vệt xuất huyết điển hình ở ruột già giống
như sọc của con ngựa vằn, đặc biệt ở đoạn manh-kết tràng. Các hạch lâm ba sưng
lớn, lách có thể có nốt hoại tử, viêm phổi-phế quản.
2.2.3. Chẩn đoán
Lấy mẫu bệnh phẩm đúng cách, kịp thời là điều quan trọng để phân lập vi-rút.
Bệnh phẩm nên lấy trong giai đoạn cấp tính khi triệu chứng lâm sàng vẫn còn rõ
ràng. Các que bông vô trùng có thể dùng lấy chất tiết ở mắt, chất tiết mũi, niêm mạc
miệng, niêm mạc trực tràng. Mẫu máu (dùng chất chống đông) cũng được lấy.
Chẩn đoán nhanh để phát hiện kháng nguyên vi-rút có thể làm là miễn dịch
điện di đối lưu (CIE: counter immunoelectrophoresis), miễn dịch khuếch tán trên
thạch (AGID), miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IIF: Indirect Immunofluorescence)
với kháng huyết thanh chuẩn. Cũng có thể làm phản ứng kết hợp bổ thể và ELISA.
Cần phân biệt Dịch tả dê cừu với bệnh Dịch tả trâu bò, bệnh lưỡi xanh, bệnh
lỡ mồm long móng và một số bệnh gây sốt khác.
Phản ứng huyết thanh học tìm kháng thể:
Có thể thực hiện các phản ứng CIE, ELISA, AGID, IIF, VN và phản ứng ngăn
trở ngưng kết hồng cầu đối với vi-rút sởi. Cần chú ư là kháng thể chống Dịch tả trâu
bò không kết tủa với kháng nguyên Dịch tả dê cừu.
2.2.4. Phòng bệnh:
Có thể dùng vắc-xin phòng bệnh Dịch tả trâu bò dựa trên bản chất có quan hệ
kháng nguyên giữa 2 vi-rút trên. Một loại vắc-xin riêng cho Dịch tả dê cừu cũng đã
được sản xuất.

19
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

3.1. Kết luận


Qua tiểu luận tôi cũng ghi nhận một số kiến thức về bệnh Dịch tả trâu bò và
Dịch tả thú nhai lại nhỏ. Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính Bệnh dịch tả trâu bò là
bệnh cấp tính gây chết với tỷ lệ cao trên trâu, bò (tỷ lệ chết 80-90% đối với thú mẫn
cảm), cũng như bệnh Dịch tả thú nhai lại nhỏ là bệnh cấp tính do virút ở thú nhai lại
nhỏ, có đặc điểm là sốt, xuất dịch đường mắt mũi, viêm miệng, tiêu chảy và viêm
phổi với hơi thở có mùi hôi. Động vật nhiễm bệnh thể hiện các dấu hiệu lâm sàng
giống như các dấu hiệu ở bệnh dịch tả trâu bò.
Việc nghiên cứu tìm hiểu nội dung tiểu luận về bệnh Dịch tả trâu bò và Dịch
tả thú nhai lại nhỏ giúp tôi nắm vững thêm kiến thức của học phần Bệnh truyền
nhiễm, nhất là về các nội dung sơ lược về bệnh, cơ chế sinh bệnh, chẩn đoán và việc
tìm hiểu một số vắc-xin phòng bệnh giúp tôi biết được thêm kiến thức chuyên môn
về lĩnh vực này chăn nuôi và phòng chống dịch bệnh trên gia súc.
Qua đó tôi nhận thấy học phần Bệnh truyền nhiễm là một học phần quan
trọng, nhằm trang bị cho sinh viên một kiến thức toàn diện để chăn nuôi gia súc có
sản lượng cao và chất lượng tốt. Môn Bệnh truyền nhiễm có nhiệm vụ trang bị cho
học viên những kiến thức toàn diện về kiến thức phòng chống dịch bệnh nói chung
và kiến thức chuyên sâu: Cơ chế sinh bệnh, chẩn đoán và việc tìm hiểu một số vắc-
xin phòng bệnh làm cơ sở cho việc tìm hiểu và điều trị bệnh thực tế.
3.2. Đề nghị
- Sinh viên trường cần được tăng thêm thời gian học để có thể nắm nhiều hơn
về kiến thức chuyên ngành bệnh truyền nhiễm, đây là một lĩnh vực rất quan trọng
trong lĩnh vực chăn nuôi thú y.
- Trường cần tạo điều kiện thêm cho sinh viên được tham quan các trang trại,
cơ sở chăn nuôi gia súc giúp học viên có thêm kinh nghiệm về chăn nuôi phòng
chống dịch bệnh.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Anh Phụng. Giáo trình bệnh truyền nhiễm gia súc. Trường Đại học Nông
Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Trương Đình Bảo. Bài giảng Dịch tả heo trâu bò. Bộ môn Truyền nhiễm Thú y
cộng đồng, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
3. <http://www.anova.com.vn/contents/article.asp?id=284&detail=16&ucat=44>
4. < http://www.google.com www.fao.org/docrep/005/ac802e/ac802e06.htm>

21

You might also like