You are on page 1of 27

Chương 4

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢNVIỆT NAM


VÀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN
DÂN

I . TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là đội tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân và là nhân tố quyết định đối với quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
* Vai trò của Đảng về mặt lý luận, theo Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ:
- Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều chính đảng,
nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổi ra ở khắp nơi, song đều thất
bại, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một chính đảng có bản chất cách mạng
triệt để, thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn. Sự ra đời của Đảng đáp ứng
yêu cầu của lịch sử là vạch ra được đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường
cho dân tộc
- Khi có Đảng, để cách mạng thành công Đảng tập hợp, tổ chức, giáo
dục, lãnh đạo quần chúng tham gia cách mạng:
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh đó chỉ có
được khi quần chúng nhân dân được tổ chức lại, và có một đường lối lãnh đạo
đúng đắn. Vì vậy yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một
chính cách mạng chân chính.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì?’’ và Người khẳng định cách mạng “Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tôc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy
‘’ (T2, 267 - 268)
+ Sự ra đời, tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của cách mạng Việt Nam vừa phù hợp với quy luật vận động, phát
triển của xã hội Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là đội
ngũ tiên phong là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của cả nhân dân, có khả
năng lôi kéo, tập hợp các tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng.
- Sau khi cách mạng thành công, vẫn cần có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Bởi vì:
+ Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong
nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.
+ Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng
vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động
đến thắng lợi cuối cùng” (tập 8, tr.273-274, 2011)
* Vai trò của Đảng trong thực tiễn, theo Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ:
- Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, ngoài ra Đảng không có mục đích nào
khác.
- Sứ mệnh của Đảng ta là trên cơ sở đường lối đúng đắn và sự tiên
phong gương mẫu của đảng viên trong hành động thực tế, Đảng đã thu phục,
đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân; định hướng các nguồn lực của dân
tộc tạo thành sức mạnh tổng hợp đủ khả năng giải quyết các nhiệm vụ do lịch
sử đặt ra.
- Trước những sai lầm, Đảng đều phát hiện sớm và kịp thời sửa chữa
với một thái độ kiên quyết nhất. Nhờ vậy, Đảng đã trở thành nhân tố quyết
định hàng đầu mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp lí luận Chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam.
- Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin khái quát quy luật hình
thành và phát triển các Đảng Cộng sản là do sự kết hợp phong trào công nhân
với lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh phát hiện ra quy luật đặc thù sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vẫn tuân theo quy luật phổ biến sự
hình thành Đảng Cộng sản trên thế giới đồng thời có thêm một yếu tố đặc thù
là phong trào yêu nước
- Cơ sở khách quan dẫn đến quy luật đặc thù sự hình thành Đảng Cộng
sản Việt Nam:
+ Giai cấp công nhân Việt Nam mới được hình thành (chủ yếu sau
chiến tranh thế gới lần thứ nhất), số lượng ít (Hồ Chí Minh ước đoán chưa
vượt quá 2% dân số), lại chủ yếu là công nhân nông nghiệp. Phong trào công
nhân đã bước đầu được hình thành nhưng thực lực chưa đủ mạnh để có thể
độc lập dẫn dắt phong trào đấu tranh của dân tộc
+ Yêu nước là cái trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam là yếu tố
có trước và là một phong trào thực sự to lớn, thúc đẩy phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhất là khi giai cấp công nhân mới ra đời
+ Phong trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc; quyền lợi giai cấp công nhân và quyền lợi của toàn thể
dân tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước trên lập trường
giai cấp công nhân, và chỉ có kết hợp với phong trào yêu nước của dân tộc,
giai cấp công nhân mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
+ Phong trào công nhân và phong trào yêu nước đều có yêu cầu khách
quan là kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Ở Việt Nam phong trào yêu nước của tầng lớp trí thức phát triển rất
sôi nổi và chính bộ phận trí thức yêu nước tiên tiến là những người đầu tiên
tiếp thu được Chủ nghĩa Mác - Lênin và họ đã ra sức hoạt động thúc đẩy sự
kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đẫn đến sự xuất hiện những tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam
và trên cở sở đó thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa quán triệt một cách sâu sắc học thuyết Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng
Cộng sản, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nó có ý nghĩa quan
trọng đối với cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng có ý nghĩa to lớn đối với
các nước có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là đảng của
giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân (Chủ nghĩa Mác -
Lênin chưa đặt ra vấn đề Đảng Cộng sản có phải là đảng của dân tộc hay
không)
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Thứ nhất, Hồ Chí Minh phải xây dựng một Đảng Cộng sản vững
mạnh trong điều kiện một nước thuộc địa lạc hậu, nơi mà giai cấp công nhân
còn rất non trẻ và nhỏ bé
+ Với Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết là Đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, trước sau như
một.
- Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chiến đấu và là tổ chức
cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin – hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động.
+ Đảng Cộng sản được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dựa
trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
+ Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.
+ Thứ hai, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Do lợi ích
của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động, của cả dân tộc
Việt Nam chỉ có thể được đảm bảo khi toàn thể dân tộc đoàn kết dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc. Như vậy, cần phải xây dựng một Đảng Cộng sản vừa là Đảng của
giai cấp vừa là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Tại Đại hội lần
thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và của nhân dân lao động và dân tộc là một. Chính vì Đảng lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho
nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam“ (T6, 175)
Như vậy, cần phải xây dựng một Đảng Cộng sản vừa là Đảng của giai
cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Đây là
luận điểm sáng tạo giúp cho Hồ Chí Minh xây dựng thành công một Đảng
Cộng sản vững mạnh cho dù giai cấp công nhân rất nhỏ bé và non trẻ.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh:
+ Về lý luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân là thống nhất,
lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân
dân lao động, vì vậy, Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng
của nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc
+ Về thực tiễn, nếu Đảng Cộng sản chỉ là Đảng của giai cấp công nhân
thì cơ sở xã hội của Đảng sẽ hạn chế, Đảng không thể quy tụ được toàn bộ
những người ưu tu nhất, giác ngộ cách mạng nhất trong dân tộc, ngược lại nếu
Đảng Cộng sản vừa là Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân
lao động và cả dân tộc thì cơ sở xã hội của Đảng sẽ rộng mở, Đảng sẽ được
các tầng lớp nhân dân coi như Đảng của chính mình, nhân dân sẽ bảo vệ
Đảng, ủng hộ và tham gia xây dựng Đảng, Đảng sẽ lớn mạnh không ngừng
- Ý nghĩa: luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng có ý nghĩa
to lớn. Về lý luận, đó là một luận điểm mới, sáng tạo về xây dựng Đảng, góp
phần bổ xung, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác –
Lênin
- Về mặt thực tiễn, nó có ý nghĩa chỉ đạo quá trình xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhờ đó Đảng đã lớn mạnh không ngừng và dẫn dắt cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền
- Đảng cầm quyền là Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành
công giành được chính quyền và trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
- Đảng cầm quyền nhưng bản chất, mục đích, lý tưởng của Đảng vẫn
không thay đổi.
- Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền cách mạng.
Vị trí của Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, của dân
tộc. Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh dân tộc.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Hồ Chí Minh căn dặn: ‘’Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật
sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong
sạch, phải xưng đáng là người lãnh đạo là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân’’ (T12, 510)
+ Với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải có trí tuệ, tầm nhìn xa,
trông rộng, có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, thể hiện vai trò
tiên phong cả về lý luận và hành động thực tiễn, biết giáo dục, thuyết phục
quần chúng nhân dân.
+ Với tư cách là người đầy tớ (người phục vụ), Đảng phải tận tâm, tận
lực phục vụ nhân dân, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân
+ Theo Hồ Chí Minh làm lãnh đạo và làm đầy tớ thống nhất với nhau
theo tinh thần “lãnh đạo tốt là đầy tớ tốt”
- Đảng cầm quyền, nhưng dân là chủ, dân làm chủ, điều đó đòi hỏi
Đảng phải làm tốt những yêu cầu sau:
+ Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối liên hệ máu thịt với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân
+ Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, cán bộ công chức Nhà nước là công bộc của nhân dân
+ Đảng phải tôn trong và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải
tích cực nâng cao dân trí vì nó gắn liền với việc thực hành dân chủ và là cơ sở
của Đảng trí
+ Đảng phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng không
được theo đuôi quần chúng (quần chúng nhân dân gồm nhiều bộ phận: tích
cực, trung gian, lừng khừng, lạc hậu, chậm tiến và có lúc không được tổ chức,
hành động tự phát, bị kích động, lợi dụng...)
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch vững mạnh
a. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mới
- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
khi viết và nói về vấn đề này, người ta thường sử dụng các cụm từ “việc
chính’’, “việc cần kíp’’, “việc phải làm ngay’’, “trước tiên’’, “trước hết’’...
- Hồ Chí Minh quan niệm những khuyết điểm, thiếu sót trong Đảng là
việc bình thường. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế mà
là một công việc thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Đảng.
(Người quan niệm, Đảng là một bộ phận của xã hội, những thiếu sót
khuyết điểm của xã hội đều ít nhiều thể hiện trong Đảng, hơn nữa những thiếu
sót trong Đảng còn là những thiếu sót của những người đi tiên phong khai
phá)
- Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu thường xuyên, vừa cấp bách
vừa lâu dài, bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của các giai đoạn cách
mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Trong các trường hợp sau đây thì chỉnh đốn Đảng mang tính cấp
bách: + Khi Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm hoặc gặp khó khăn (giúp cán bộ,
đảng viên củng cố lập trường, quan điểm, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan
giao động).
+ Khi cách mạng trên đà thắng lợi (giúp xây dựng những quan điểm tư
tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngùa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và
bệnh “kiêu ngạo cộng sản’’, công thần, địa vị.)
+ Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới có tính bước ngoặt. (giúp
Đảng nâng cao tầm
lãnh đạo cả về chính trị, chuyên môn đảm bảo cho Đảng có được những
phẩm chất và năng lực lãnh đạo mới... đảm bảo cho Đảng luôn giữ được vai
trò tiên phong)
- Mục đích đổi mới, chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng luôn trong sạch,
giữ vững vai trò tiên phong của giai cấp, của dân tộc đồng thời là cơ hội để
mỗi cán bộ đảng viên tăng cường tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng lý tưởng,
phẩm chất đạo đức cách mạng hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó.
(Hồ Chí Minh:“Để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ
xứng đáng là người đày tớ của nhân dân’’ (T7, 200), ‘’Để làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn trách nhiệm Đảng giao
phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân’’- nếu buông lỏng công tác
chỉnh đốn Đảng thì rất rễ làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa
biến chất)
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng đứng trước nguy cơ của chủ
nghĩa quan liêu xa rời quần chúng vì vậy, việc đổi mới chỉnh đốn Đảng càng
có ý nghĩa quan trọng và càng cần phải tiến hành thường xuyên. Việc đổi mới
chỉnh đốn Đảng càng có ý nghĩa quan trọng và càng cân phải tiến hành
thường xuyên bởi quyền lực có tính hai mặt: quyền lực nếu được sử dụng
đúng đắn có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới;
ngược lại nếu bị thoái hóa biến chất thì sẽ có tác hại ghê ghớm thậm chí có
thể làm sụp đổ cả chế độ xã hội. Để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ biến chất
quyền lực thì cần phải thường xuyên Chỉnh đốn, đổi mới Đảng.
(Quy trình chỉnh đốn Đảng là phải làm từ cán bộ trước rồi mới chỉnh
đốn chi bộ, chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức, phải làm
từng bước, có trọng tâm, kế hoạch phải rõ ràng chu đáo.)
b. Đảng là đạo đức, là văn minh
* Một đảng văn minh:
- Một Đảng văn minh là đảng được xây dựng dựa trên tư tưởng, lý luận
khoa học, nhân văn cao đẹp.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng thì phải có đảng, đảng phải có
chủ nghĩa “làm cốt” – nền tảng tư tưởng, để thống nhất tư tưởng, ý chí và
hành động của toàn Đảng, để có cơ sở lý luận khoa học xây dựng đường lối,
chủ trương chính sách đúng đắn trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt vì
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là học thuyết
chân chính nhất, cách mạng nhất trong thời đại hiện nay. Chủ nghĩa Mác -
Lênin còn là học thuyết khoa học để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. (Trong
cuốn đường cách mệnh, Người viết: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy”,“Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam’’ và Người khẳng định:“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin’’ (T2, 268)
- Khi khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Toàn Đảng phải ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin. Việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với
đối tượng và thiết thực.
+ Khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải sáng tạo, tránh giáo điều,
đồng thời cũng phải tránh xa rời các nguyên tắc của hủ nghĩa Mác - Lênin,
đấu tranh chống các khuynh hướng cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và
các tư tưởng phản động khác.
+ Đảng cần chú ý tổng kết kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản các
nước anh em và thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm phong phú thêm kho
tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải kiên quyết đấu tranh bảo
vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Một Đảng chân chính phải có đạo đức cách mạng
+ Một Đảng chân chính phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức không chỉ
tạo nên uy tín, sức mạnh cho Đảng mà còn giúp cho Đảng có đủ tư cách lãnh
đạo nân dân.
+ Đạo đức cách mạng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân –
đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến
đấu
+ Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ dẩng viên là một nội dung
quan trọng của công tác xây dựng Đảng, bởi Đảng cũng phải lấy Đức làm gốc
và bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch vững mạnh. Người nói “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
(T.12, 557)
+ Đảng cũng phải lấy Đức làm gốc để bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch
vững mạnh làm tròn vai trò tiên phong đối với giai cấp và dân tộc

c. Những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng


- Xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính trị,
xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính
trị, bảo vệ chính trị trong đó xây dựng đường lối chính trị đúng đắn là vấn đề
sinh tử đối với ự tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng có thể phạm phải sai
lầm, khuyết điểm, nhưng tuyệt đối không được sai lầm về đường lối chính trị.
- Xây dựng Đảng về tổ chức phải tuân theo các nguyên tắc của một
chính đảng vô sản kiểu mới theo tư tưởng của Lênin:
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản và quan
trọng nhất của Đảng. nhằm làm cho “Đảng tuy đông người nhưng tiến hành
chỉ như một người’’. Với Hồ Chí Minh, tập trung có nghĩa là thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phục tùng vô điều kiện
nghị quyết của Đảng. Dân chủ nghĩa là mọi người được tự do trình bày ý kiến
của mình, tranh luận với các ý kiến của người khác. Nhưng phải tránh dân
chủ hình thức, dân chủ quá trớn hoặc tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc
đoán.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cần phải có tập thể lãnh đạo vì,
theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi cũng không thấy và cũng không thể
xem xét tất cả các mặt của vấn đề, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người
thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt khác, góp kinh nghiệm và sự xem xét của
nhiều người thì thấy rõ tất cả các mặt của vấn đề. Hồ Chí Minh kết luận:
“Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan.
Kết quả là hỏng việc’’ (T5, 504)
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau. Cần
phải có cá nhân phụ trách vì sau khi đã bàn bạc kỹ rồi thì cần phải giao cho
một hoặc một số ít người phụ trách, tránh tình trạng đùn đẩy và kết quả là
không ai làm. Để tránh họp hành tràn lan, Hồ Chí Minh yêu cầu đối với
những việc bình thường một người cũng có thể giải quyết đúng, thì người phụ
trách cần phải tự quyết định. (Hồ Chí Minh thường sử dụng 2 câu thành ngũ:
“Khôn bày hơn khôn độc’’, “Nhiều sãi không ai đóng của chùa’’ để nói về
vấn đề này)
+ Phê bình và tự phê bình: Phải thực hiện nguyên tắc này vì “mọi
người đều có thiện - ác ở trong lòng’’, “không ai tránh khỏi khuyết điểm’’,
nên “Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình’’
Người viết: “Mỗi người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng’’
Mục đích của phê và tự phê bình là để tăng cường tình đoàn kết trong
Đảng và giúp nhau cùng tến bộ. Thái độ phê và tự phê bình phải thành khẩn,
trung thực, kiên quyết và có văn hóa.
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ ý
thức kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong đó kỷ luật nghiêm minh thuộc về tổ
chức Đảng, kỷ luật tự giác thuộc về đảng viên. Đảng viên không chỉ chấp
hành nghiêm minh và tự giác kỷ luật của Đảng mà còn phải gương mẫu chấp
hành kỷ luật của nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể nhân dân.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng: đây là nguyên tắc Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng bởi vì đoàn kết thống nhất trong Đảng là cội nguồn sức mạnh
của Đảng đồng thời là cơ sở xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và trực tiếp là đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng. Hồ
Chí Minh yêu cầu toàn Đảng phải ra sức giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”, Đảng phải thực hành dân chủ
rộng rãi trong nội bộ Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình và tu
dưỡng đạo đức cách mạng là cách tốt nhất để tăng cường sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng.
d. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
+ Theo Hồ Chí Minh cán bộ là dây truyền của bộ máy, là cầu nối trung
gian giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, mọi việc thành hay bại là do cán bộ
tốt hay kém. Cán bộ phải có đủ đức, tài trong đó đức là gốc. Công tác cán bộ
là công tác “gốc” của Đảng.
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
Người coi cán bộ là “Cái gốc của mọi công việc’’, ‘’Muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém’’
+ Nội dung của công tác cán bộ bao hàm: tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; Đánh giá đúng cán bộ; sử dung, bố trí đúng cán bộ (dụng nhân
như dụng mộc); thực hiện đầy đủ chính sách đối với cán bộ.
Tuy nhiên, các cán bộ của Đảng khi cầm quyền thường dễ dẫn đến hiện
tượng lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham ô, hối lộ hách dịch, ức hiếp quần
chúng, khiến nhân dân oán ghét. Vì vậy, trước lúc đi xa Hồ Chí Minh căn
dặn:
+ Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ:
1. Có đạo đức cách mạng.
2. Tuyệt đối trung thành với Đảng.
3. Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi.
4. Luôn học hỏi cả về lý luận MLN lẫn nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
5. Có tác phong công tác tốt, chống chủ quan, quan liêu, đại khái, ham
chuộng hình thức phô trương, không chịu xuống địa phương
+ Công tác cán bộ cần:
1. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ.
2. Phải khéo dùng cán bộ. Người dạy: “Chúng ta phải nhớ rằng: người
đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, ta phải dùng chõ hay của người và giúp
người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to,
nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được’’.
3. Biết kết hợp dùng cán bộ trẻ với cán bộ già.
4. Phải chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài, có gan cất nhắc cán bộ.
5. Phải chống bệnh địa phương, cục bộ phe phái, cánh hẩu, họ hàng
trong chính sách cán bộ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1 Nhà nước dân chủ

a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ


* Khái quát chung về dân chủ
- Dân chủ là vấn đề phức tạp và ngày nay được tiếp cận trên nhiều
phương diện khác nhau:
+ Dân chủ là quyền lực và ý chí của nhân dân thông qua các thiết chế
dân chủ của nhà nước và xã hội
+ Dân chủ là chế độ nhà nước – chế độ dân chủ
+ Dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt động của các tổ chức chính trị xã
hội
+ Dân chủ là thành quả của đấu tranh giai cấp, đấu tranh và tiến bộ xã
hội
+ Dân chủ là nguyên tắc quan hệ giữa các công dân trên cơ sở tôn trọng
lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật
- Dân chủ và tự do là hai khái niệm gắn liên với nhau, cái này có trong
cái kia. Tự do là khát vọng bẩm sinh của con người; nhưng dc thì phải được
dạy, được thực hành mới dần có được. Muốn “phát triển tự do cho mỗi người
để đảm bảo tự do cho mọi người” thì phải có phương tiện (cơ chế, thể chế…)
thực hiện các quyền tự do ấy chính là dân chủ.
- Dân chủ thể hiện:
+ Đảm bảo quyền của con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó quan trọng nhất là thực hiện
dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
+ Xây dựng phương thức tổ chức xã hội trên tinh thần: “Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân”, “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, hệ thống chính trị
là do “dân cử ra”, “dân tổ chức nên”.

* Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ:


- Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người, và mục tiêu của cách
mạng là phải giành lấy dân chủ cho nhân dân
- Chủ nghĩa xã hội là chế độ dân chủ, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Đó là xã hội mà dân là chủ, dân làm chủ. Dân là chủ - Nhân dân phải
giữ địa vị cao nhất của xã hội và của quyền lực nhà nước; trong xã hội; dân
làm chủ, mọi quyền hành lực lượng đều ở dân. (Dân muốn là chủ phải hiểu
biết về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phải chịu khó học hỏi để có kiến thức
tham gia làm chủ, phải dũng cảm cùng với Đảng và Nhà nước đấu tranh
chống những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.)
Trong bài báo Dân vận, viết năm 1949, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.. .
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (T 5, 698)

- Dân chủ là giá trị chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, là lý
tưởng phấn đấu của các dân tộc. Dân chủ và bình đẳng là nguyên tắc hoạt
động của các tổ chức quốc tế
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thực hành dân chủ, bởi thực
chất của vấn đề dân chủ là thực hành dân chủ và đây là vấn đề khó nhất của
lĩnh vực dân chủ.
- Dân chủ cần được thực hành trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... trong đó dân chủ trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất vì
nó là biểu hiện tập trung của thiết chế dân chủ và hiệu quả hoạt động nhà
nước.
- Biện pháp cơ bản để thực hành dân chủ :
+ Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi mà trước hết là phải
mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng, làm cơ sở cho việc mở rộng dân chủ
ngoài xã hộ.
+ Xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực
thi quyền lực của dân
+ Xây dựng các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh, thật sự là tổ chức
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của nhà nước
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, nhà nước là một phạm trù lịch
sử. Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nhà nước luôn
mang bản chất giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp hay nhà nước chung
của tất cả giai cấp.
- Quan điểm Hồ Chí Minh:
+ Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp
công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước ta thể hiện:
Thứ nhất, Nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ
bản dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (tập trung dân chủ, Đảng
lãnh đạo, thống nhất quyền lực...)
Thứ ba, hoạt động tổ chức, quản lý của Nhà nước hướng đến mục tiêu
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thống nhất với tính
nhân dân, tính dân tộc. Đó là nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc. Nói nhà
nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, không phải là nhà nước “toàn
dân”, nhà nước phi giai cấp, mà là nói tới tính chất dân chủ nhân dân của nhà
nước. Nhà nước đó xét về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp công nhân,
nhưng xét về đại diện và bảo vệ lợi ích thì đó là “nhà nước của dân, do dân, vì
dân”, dựa trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề:
+ Về lý luận, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân tộc là thống
nhất, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân
dân lao động, vì vậy nhà nước của giai cấp công nhân cũng đồng thời là nhà
nước có tính dân tộc, “nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
+ Về thực tiễn, nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của toàn dân tộc với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng.
Nhà nước ta luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền
tảng và từ khi ra đời cho đến nay Nhà nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ
lịch sử với dân tộc là tổ chức, lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm thắng lợi, giải phóng hoàn toàn đất nước, giữ vững độc lập dân tộc, đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự phát triển tiến
bộ của thế giới..
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân
* Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam.
- Thứ nhất, thời kỳ từ 1911 trở về trước, tư tưởng xây dựng một nhà
nước trọng dân, thân dân, khoan dân, dựa vào dân của nền văn hóa chính trị
phương Đông đã được Hồ Chí Minh lĩnh hội và coi đó như hành trang trên
con đường tìm đường cứu nước
- Thứ hai, từ năm 1911 -1920, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu về
các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, cũng như các hình thức tổ chức nhà
nước của nó. Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhà nước của giai cấp tư sản:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp, tư
tưởng đề cao quyền lực tối cao của nhân dân trong cách mạng Mỹ, nhưng
nhận rõ hạn chế cơ bản của nhà nước tư sả – đó vẫn là nhà nước của giai cấp
bóc lột, vẫn áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Hồ Chí Minh khẳng định rằng
sau khi cách mạng thành công, phải thiết lập một chính quyền của số đông
người: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa
là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người”.
- Thứ ba, một bước tiến của Hồ Chí Minh là sau khi giác ngộ chủ nghĩa
Mác – Lênin là Người chọn kiểu nhà nước công nông binh (nhà nước xô viết)
là hình thức Nhà nước đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Trong Chính cương
vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập và dựng ra chính phủ công
nông binh” (T3,1)
- Thứ tư, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực
tiễn phong trào cách mạng Việt Nam (xô viết Nghệ Tĩnh) nhận thấy, nhà nước
xô viết không thích hợp lắm với Việt Nam và đi đến lựa chọn xây dựng một
nhà nước dân chủ nhân dân ở nước ta - Nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân
tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
* Quan niệm về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là
chủ trương xây dựng một nhà nước do Nnhân dân lao động làm chủ... Đây
cũng là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh
điển Mác - Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất để phân biệt nhà nước ta với
nhà nước trước đó.
- Nhà nước của dân:
+ Là nhà nước mà tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên,
bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh
vác một phần.
+ Dân là chủ nhà nước, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.... Quyền
bính của cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó.
+ Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) và bãi miễn người thay mặt mình vào
Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của
NN; giám sát hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra thông qua các thiết
chế dân chủ.
- Nhà nước do dân:
+ Nhà nước do dân lập ra - Dân cử ra các đại diện của mình tham gia
quản lý nhà nước và xã hội;
+ Nhà nước do dân xây dựng, ủng hộ và bảo vệ; nhà nước được dân
phê bình, giám sát, tạo điều kiện để nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải lắng nghe ý kiến nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân
có quyền bãi miễn các cơ quan nhà nước nếu tỏ ra không xứng đáng với tín
nhiệm của dân: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ" (T5, 60)
- Nhà nước vì dân:
+ Mọi hoạt động của nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc
phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi chonhân dân là mục tiêu cơ bản của nhà
nước ta.
+ Mọi công chức nhà nước từ Chủ tịch nước trở xuống đều là công bộc
(người phục vụ chung của xã hội) của dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (T4, 56).
+ Chính quyền các cấp phải chăm lo cho dân từ việc lớn đến việc nhỏ,
các cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân: Nếu để cho dân đói,
chính phủ có lỗi, nếu để cho dân giét, chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không
được học hành, chính phủ có lỗi... “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”
+ Cán bộ nhà nước là người phục vụ, đồng thời còn là người lãnh đạo,
người hướng dẫn của nhân dân, phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền

* Xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp


- Nhà nước hợp hiến là nhà nước do nhân dân lập ra, nhà nước có hiến
pháp và hệ thống pháp luật, hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật.
- Ngay sau khi cách mạng thành công, cần sớm tiến hành tổng tuyển cử
để lập ra nhà nước hợp hiến, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực
nhà nước.
- Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng pháp luật và
yêu cầu tất cả các cơ quan, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành
đúng luật pháp.

* Nhà nước thượng tôn pháp luật


- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, phải làm cho pháp luật có
hiệu lực mạnh mẽ trong thực tế đời sống xã hội, các cơ quan, công chức nhà
nước phải gương mẫu chấp hành đúng luật pháp.
- Hồ Chí Minh cho rằng soạn thảo pháp luật đã khó, song khó hơn là
đưa nó vào cuộc sống để mọi người cùng hiểu đúng, làm đúng. (Hồ Chí Minh
là tầm gương mẫu mực của việc chấp hành pháp luật như việc chấp hành nghị
quyết của Quốc tế cộng sản, nghị quyết của BCH TW Đảng Cộng sản Đông
Dương tháng 10/ 1930, việc Hồ Chí Minh phát động phong trào hũ gạo cứu
đói năm 1945, việc Hồ Chí Minh bỏ thuốc lá khi bộ chính trị yêu cầu (tháng
3/1965), việc Hồ Chí Minh đòi tiền nhuận bút khi một tờ báo quên trả...Với
Hồ Chí Minh đã là quy định chung, là luật pháp, thì mọi người, mọi cấp đều
phải chấp hành.
- Nhà nước phải quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp
luật có hiệu lực mạnh mẽ trong thực tế đời sống XH, trong các cơ quan NN và
ND.
- Dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau. Không có dân chủ ngoài
pháp luật, mọi quyền dân chủ phải được thể chế hóa thành pháp luật, bảo đảm
bằng pháp luật.
Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở thừa nhận và bảo vệ quyền
con người, trước hết là quyền tự do dân chủ.
Người viết: "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân
đưa cách mạngtiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất
lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội" (T9, 592). "Chế độ nào cũng
có chuyên chính. Vấn đề là chuyên chính với ai?...Như cái hòm đựng của cải
thì phải có khóa. Nhà thì phải có cửa...dân chủ là của quý báu nhất của nhân
dân, chuyên chính là cái khóa, cải cửa để đề phòng kẻ phá hoại...Thế thì dân
chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ" (T8, 279)

* Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật (hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp
với đời sống xã hội)
+ Ra sức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân
+ Xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát hữu hiệu, đảm bảo cho pháp luật
thi hành nghiêm minh trong cán bộ và nhân dân
+ Tích cực nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa chính trị, làm cho người
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nghĩ, dám nói,
dám làm, dám phê bình các cơ quan nhà nước.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ đức tài với
những phẩm chất cơ bản:
Trung thành với cách mạng và tổ quốc; nhiệt tình, thành thạo công việc
hành chính, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ;
Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, liên hệ mật
thiết với nhân dân, tự phê binh và phê bình, có ý thức xây dựng nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
* Pháp quyền nhân nghĩa
- Với Hồ Chí Minh, pháp luật là vì con người, do con người vì vậy
trong xây dựng hệ thống pháp luật, cần phải đặc biệt chú trọng tính nhân văn,
đảm bảo việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với
công việc trên cơ sở có lý, có tình.
- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực đầy đủ các quyền con người,
chăm lo đến lợi ích của mọi người. Đó là quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc.
- Đó là quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đó là
quyền của các nhóm người như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số, tín ngưỡng
tôn giáo…
- Pháp quyền nhân nghĩa thể hiện pháp luật có tính nhân văn, khuyến
thiện, lấy mục đích giáo dục, cảm hoá, thức tỉnh con người làm căn bản.
- Đó là pháp luật vì con người, nghiêm minh nhưng khách quan, công
bằng và chống lại việc đối xử với con người một cách dã man.

c. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh

* Kiểm soát quyền lực nhà nước


- Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu vì xu hướng tha hóa quyền
lực là khuyết tật bẩm sinh của bộ máy nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là do dân ủy thác, nhưng phải làm sao để dân ủy
quyền nhưng không mất quyền. Vì vậy, quyền lực phải được kiểm soát.
- Về phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, theo Hồ Chí Minh
trước hết cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng cộng sản.
+ Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp và dân tộc, là Đảng
cầm quyền nên có quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước
thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của nhà nước và công chức
nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước còn dựa trên cách thức tổ chức và
phương thức vận hành của nhà nước (kiểm soát bên trong ).
+ Phải có cơ chế huy động sự kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước
(kiểm soát bên ngoài)
* Phòng chống tiêu cực trong nhà nước
- Hồ Chí Minh là người phát hiện rất sớm những vấn đề tiêu cực trong
quá trình xây dựng nhà nước mới. Phải chống đặc quyền, đặc lợi và các tiêu
cực khác, giữ cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Chỉ một tháng sau khi giành được độc lập, trong thủ gửi ủy ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (10/1945), Người chỉ ra 6 căn bệnh: trái phép,
cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo: "Trái phép: ..có lúc vì tư thù, tư
oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.
Cậy thế: cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước để ngang tàng, muốn
sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu ra
mình là để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân.
Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức, “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô
cậu ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải
chịu?.
Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu, không tài năng gì cũng kéo
vào chức này chức nọ, người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy
ra ngoài. Quên rằng việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp
nhân dân nhân nhượng, hòa thuận với nhau.
Kiêu ngạo: tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi, coi
khinh ND, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên.” (T4, 57, 58)
- Bộ máy nhà nước từ trung ương đến làng xã không sợ sai lầm, mà
phải biết nhận ra sai và hết sức sửa chữa. Hồ Chí Mnh viết: “Không sợ sai
lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không
phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm
tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu
không tự sửa chữa thì chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân
tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những
chữ “công bình, chính trực” vào lòng” (T4, 58)
- Phải kiên quyết chống lại tệ đặc quyền, đặc lợi, lợi dụng, lạm dụng
quyền lực để sách nhiễu nhân dân; bệnh tham ô, lãng phí, quan liệu được Hồ
Chí Minh coi như kẻ “giặc nội xâm” phải kiên quyết chống như đánh giặc
trên mặt trận nhằm tránh nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được.
Người chỉ rõ: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng
là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến, ...Nó làm hỏng tinh thần trong
sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta
là cần, kiệm, liêm, chính...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật
thám" (T6, 490); trong thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu "Phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất lỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp gì". Người đã
nhiều lần phê phán: "Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ, rồi ngang tàng
phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân.
Quên rằng dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế
với dân: (T4, 57)
- Để chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, phương pháp luận của Hồ
Chí Minh là quy tất cả các quan hệ phức tạp của XH thành mối quan hệ với
mình, với công việc, và với người.
+ Với mình phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải tự mình xử
lý chính mình.
+ Với người khác phải biết thương yêu, quý trọng, nhất là phải tin
tưởng vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân;
+ Với công việc phải tận tụy, làm đến nơi đến chốn.
- Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh hai nội dung sau:
+ Tăng cường pháp luật: hoàn thiện pháp luật, xử lý mọi sai phạm một
cách nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Điều này phù hợp với
yêu cấu khách quan của NN mới, và là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn: nước ta
kinh tế tiểu nông, người dân chỉ quen sống theo luật tục mà chưa quen sống
theo pháp luật.
+ Tăng cường pháp luật phải đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
đức (Thực chất là kết hợp đức trị với pháp trị - Nét đặc sắc trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam)
Bởi đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ
sung cho nhau; nước ta có truyền thống đức trị, nhân dân rất coi trọng đạo
đức, nhất là đạo đức của người cầm quyền; kết hợp đức trị với pháp trị là một
truyền thống trong đường lối trị nước ở phương Đông cần được kế thừa, phát
huy.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng
- Khẳng định Tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận trong công tác xây
dựng Đảng nhằm giúp Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng và
giúp Đảng ta tổ chức thực hiện tốt chủ trương chính sách đó trong thực tiễn.
- Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tổ chức thực hiện chỉnh đốn
Đảng nhằm giúp Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh giữ vững vai trò tiên
phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước mới có ý
nghĩa rất lớn đối với việc xây dụng nhà nước ta hiện nay. Việc vận dụng tư
tưởng của Người về vấn đề này có thể được xem xét dưới nhiều khía cạnh khac
nhau. Sinh viên có thể khai thác kỹ hơn một số gợi ý sau:
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước do nhân
dân lao động là chủ, làm chủ.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước pháp
quyền thống nhất.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường pháp luật phải đi đôi
với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô lãng phí, quan liêu
trong xây dựng nhà nước
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề kiểm soát quyền lực trong
xây dựng nhà nước...

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Phân tích các sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

3. Phân tích các luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam.
4. Thuyết trình mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh

You might also like