Professional Documents
Culture Documents
- Dân chủ là giá trị chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, là lý
tưởng phấn đấu của các dân tộc. Dân chủ và bình đẳng là nguyên tắc hoạt
động của các tổ chức quốc tế
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thực hành dân chủ, bởi thực
chất của vấn đề dân chủ là thực hành dân chủ và đây là vấn đề khó nhất của
lĩnh vực dân chủ.
- Dân chủ cần được thực hành trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... trong đó dân chủ trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất vì
nó là biểu hiện tập trung của thiết chế dân chủ và hiệu quả hoạt động nhà
nước.
- Biện pháp cơ bản để thực hành dân chủ :
+ Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi mà trước hết là phải
mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng, làm cơ sở cho việc mở rộng dân chủ
ngoài xã hộ.
+ Xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực
thi quyền lực của dân
+ Xây dựng các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh, thật sự là tổ chức
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của nhà nước
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, nhà nước là một phạm trù lịch
sử. Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nhà nước luôn
mang bản chất giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp hay nhà nước chung
của tất cả giai cấp.
- Quan điểm Hồ Chí Minh:
+ Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp
công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước ta thể hiện:
Thứ nhất, Nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ
bản dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (tập trung dân chủ, Đảng
lãnh đạo, thống nhất quyền lực...)
Thứ ba, hoạt động tổ chức, quản lý của Nhà nước hướng đến mục tiêu
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thống nhất với tính
nhân dân, tính dân tộc. Đó là nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc. Nói nhà
nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, không phải là nhà nước “toàn
dân”, nhà nước phi giai cấp, mà là nói tới tính chất dân chủ nhân dân của nhà
nước. Nhà nước đó xét về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp công nhân,
nhưng xét về đại diện và bảo vệ lợi ích thì đó là “nhà nước của dân, do dân, vì
dân”, dựa trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề:
+ Về lý luận, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân tộc là thống
nhất, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân
dân lao động, vì vậy nhà nước của giai cấp công nhân cũng đồng thời là nhà
nước có tính dân tộc, “nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
+ Về thực tiễn, nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của toàn dân tộc với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng.
Nhà nước ta luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền
tảng và từ khi ra đời cho đến nay Nhà nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ
lịch sử với dân tộc là tổ chức, lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm thắng lợi, giải phóng hoàn toàn đất nước, giữ vững độc lập dân tộc, đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự phát triển tiến
bộ của thế giới..
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân
* Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam.
- Thứ nhất, thời kỳ từ 1911 trở về trước, tư tưởng xây dựng một nhà
nước trọng dân, thân dân, khoan dân, dựa vào dân của nền văn hóa chính trị
phương Đông đã được Hồ Chí Minh lĩnh hội và coi đó như hành trang trên
con đường tìm đường cứu nước
- Thứ hai, từ năm 1911 -1920, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu về
các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, cũng như các hình thức tổ chức nhà
nước của nó. Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhà nước của giai cấp tư sản:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp, tư
tưởng đề cao quyền lực tối cao của nhân dân trong cách mạng Mỹ, nhưng
nhận rõ hạn chế cơ bản của nhà nước tư sả – đó vẫn là nhà nước của giai cấp
bóc lột, vẫn áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Hồ Chí Minh khẳng định rằng
sau khi cách mạng thành công, phải thiết lập một chính quyền của số đông
người: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa
là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người”.
- Thứ ba, một bước tiến của Hồ Chí Minh là sau khi giác ngộ chủ nghĩa
Mác – Lênin là Người chọn kiểu nhà nước công nông binh (nhà nước xô viết)
là hình thức Nhà nước đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Trong Chính cương
vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập và dựng ra chính phủ công
nông binh” (T3,1)
- Thứ tư, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực
tiễn phong trào cách mạng Việt Nam (xô viết Nghệ Tĩnh) nhận thấy, nhà nước
xô viết không thích hợp lắm với Việt Nam và đi đến lựa chọn xây dựng một
nhà nước dân chủ nhân dân ở nước ta - Nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân
tộc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
* Quan niệm về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là
chủ trương xây dựng một nhà nước do Nnhân dân lao động làm chủ... Đây
cũng là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh
điển Mác - Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất để phân biệt nhà nước ta với
nhà nước trước đó.
- Nhà nước của dân:
+ Là nhà nước mà tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên,
bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh
vác một phần.
+ Dân là chủ nhà nước, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.... Quyền
bính của cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó.
+ Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) và bãi miễn người thay mặt mình vào
Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của
NN; giám sát hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra thông qua các thiết
chế dân chủ.
- Nhà nước do dân:
+ Nhà nước do dân lập ra - Dân cử ra các đại diện của mình tham gia
quản lý nhà nước và xã hội;
+ Nhà nước do dân xây dựng, ủng hộ và bảo vệ; nhà nước được dân
phê bình, giám sát, tạo điều kiện để nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải lắng nghe ý kiến nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân
có quyền bãi miễn các cơ quan nhà nước nếu tỏ ra không xứng đáng với tín
nhiệm của dân: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ" (T5, 60)
- Nhà nước vì dân:
+ Mọi hoạt động của nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc
phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi chonhân dân là mục tiêu cơ bản của nhà
nước ta.
+ Mọi công chức nhà nước từ Chủ tịch nước trở xuống đều là công bộc
(người phục vụ chung của xã hội) của dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết
sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (T4, 56).
+ Chính quyền các cấp phải chăm lo cho dân từ việc lớn đến việc nhỏ,
các cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân: Nếu để cho dân đói,
chính phủ có lỗi, nếu để cho dân giét, chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không
được học hành, chính phủ có lỗi... “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”
+ Cán bộ nhà nước là người phục vụ, đồng thời còn là người lãnh đạo,
người hướng dẫn của nhân dân, phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
* Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật (hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp
với đời sống xã hội)
+ Ra sức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân
+ Xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát hữu hiệu, đảm bảo cho pháp luật
thi hành nghiêm minh trong cán bộ và nhân dân
+ Tích cực nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa chính trị, làm cho người
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nghĩ, dám nói,
dám làm, dám phê bình các cơ quan nhà nước.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ đức tài với
những phẩm chất cơ bản:
Trung thành với cách mạng và tổ quốc; nhiệt tình, thành thạo công việc
hành chính, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ;
Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, liên hệ mật
thiết với nhân dân, tự phê binh và phê bình, có ý thức xây dựng nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
* Pháp quyền nhân nghĩa
- Với Hồ Chí Minh, pháp luật là vì con người, do con người vì vậy
trong xây dựng hệ thống pháp luật, cần phải đặc biệt chú trọng tính nhân văn,
đảm bảo việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với
công việc trên cơ sở có lý, có tình.
- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực đầy đủ các quyền con người,
chăm lo đến lợi ích của mọi người. Đó là quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc.
- Đó là quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đó là
quyền của các nhóm người như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số, tín ngưỡng
tôn giáo…
- Pháp quyền nhân nghĩa thể hiện pháp luật có tính nhân văn, khuyến
thiện, lấy mục đích giáo dục, cảm hoá, thức tỉnh con người làm căn bản.
- Đó là pháp luật vì con người, nghiêm minh nhưng khách quan, công
bằng và chống lại việc đối xử với con người một cách dã man.
1. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,
về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
2. Phân tích các sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Phân tích các luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam.
4. Thuyết trình mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh