You are on page 1of 28

Chương 5

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC


VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN TOÀN KẾT DÂN TỘC.

1. Khái niệm, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách
mạng.
a. Khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vị trí của vấn đề đại đoàn kết trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập có đến 839 bài Hồ Chí Minh đề
cập đến vấn đề đại đoàn kết (chiếm tỷ lệ 43,6%). Trong các bài đó, Bác đã
1809 lần nhắc đến cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”, có bài, cụm từ này được
nhắc đến 16 lần (Sửa đổi lề lối làm việc), trong Diễn văn kỷ niệm ngày Quốc
khánh 2/9/1957, Người nhắc đến 19 lần... Điều này chứng tỏ vấn đề tập hợp,
tổ chức lực lượng, đoàn kết, đại đoàn kết là một vấn đề hết sức nổi bật, trọng
tâm trong suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh.
- Khái niệm đoàn kết, nhìn chung, được sử dụng tương đối thống nhất
trong các tài liệu ở trong nước và trên thế giới. Đoàn kết được hiểu là sự
thống nhất ý chí, hành động của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm thực
hiện một mục tiêu xác định.
- Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù có ngoại
diên rất rộng bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều quan hệ trên - dưới, trong -
ngoài..., ta có thể tiếp cận phạm trù đại đoàn kết từ nhiều góc độ:
+ Về cơ cấu xã hội: đoàn kết các giới, các ngành nghề, các thành phần
xã hội, các lứa tuổi...
+ Về địa bàn: đoàn kết nông thôn - thành thị, miền ngược - miền xuôi,
trong nước - ngoài nước.. .
+ Về phạm vi: đoàn kết trong gia đình, tập thể, cộng đồng, xã hội, khu
vực - quốc tế.. .
Có thể nhận định khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh: đại đoàn kết là một
hệ thống các luận điểm, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để
giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Có thể diễn đạt gọn hơn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tư
tưởng xây dựng, củng cố, tăng cường, mở rộng lực lượng cách mạng trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
- Trên cơ sở quan điểm đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đi sâu lý giải hàng
loạt các vấn đề lý luận như vì sao phải đoàn kết, làm thế nào để đoàn kết, điều
kiện thực hiện đoàn kết thành công...
+ Phải thực hiện đoàn kết vì đoàn kết là sức mạnh, là lực lượng và hơn
thế, đoàn kết còn là nhu cầu nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân dân.
+ Để xây dựng thành công khối đại đoàn kết cần phải tìm ra điểm
tương đồng, thống nhất và dùng điểm tương đồng thống nhất để chế ngự sự
khác biệt.
+ Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết là phải phân biệt rõ bạn và thù,
phải làm tăng bầu bạn, bớt kẻ thù.
Với quan điểm đoàn kết là “sức mạnh, là “lực lượng, là nhu cầu sống
của mỗi người, Hồ Chí Minh đã nâng vấn đề đại đoàn kết trở thành một vấn
đề chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cách
mạng. Người chỉ rõ: Đoàn kết càng chặt chẽ, càng rộng khắp thì thành công
càng to lớn. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công”.

b. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng.
- Đoàn kết là chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị, cũng không đơn
thuần là một phương pháp tập hợp lực lượng, mà mục tiêu của cách mạng còn
là đoàn kết,
+ Đoàn kết là chiến lược cách mạng vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã có nhiều phong
trào nổ ra, song đều thất bại, một trong những nguyên nhân gây ra sự thất bại
là do chưa tập hợp, đoàn kết, chưa tạo được sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời xác định xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng tham gia, lực
lượng đó phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mới phát huy được sức mạnh
tổng hợp toàn dân tộc.
Thứ ba, mỗi một giai đoạn có nhiệm vụ khác nhau, song giai đoạn nào
của cách mạng cũng cần phải đoàn kết.
Thứ tư, đoàn kết là điểm mẹ, điểm mẹ có thành công, các điểm khác
mới thành công
Chính vì những lý do đó, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết
dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình
đấu tranh cách mạng.
+ Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là
để thực hiện đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh giải quyết các nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam. Nhiều lần Người nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh
của chúng ta” (T7, tr.392), “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta”
(T7, tr.397), “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (T11, tr.22),
và “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt” (T11, tr.154)…
- Đoàn kết là nhân tố đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam
Khẳng định vai trò của việc thực hiện khối đoàn kết dân tộc trong cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh,
nhân dân ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Đoàn kết trong Mặt trân Liên Việt, nhân dân ta đã
kháng chiến thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng
miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc” (T10, tr.604)
* Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam.
- Đoàn kết là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Trong buổi ra mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ
Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm
trong 8 chữ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” (T6, tr.
183).
- Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng
là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng, là nhiệm vụ của toàn dân
tộc
+ Bởi cách mạng muốn thành công phải có thực lực, thực lực đó chính
là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên
truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám, và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ
tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là
đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản
thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết,
Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà” (T11,
tr.130)
+ Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và tinh thần hợp tác. Đảng cộng sản phải có
nhiệm vụ thức tỉnh, chuyển các nhu cầu tự phát thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thực được tổ chức trong khối đoàn kết tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong cuộc đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ của công cuộc giải phóng.

2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

a. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao
gồm toàn thể nhân dân (Trong một số bài viết, HCM còn nói đến chủ thể cụ
thể là các dân tộc, các tôn giáo, những người đứng đầu các tôn giáo, và chủ
thể của đoàn kết cũng là vấn đề đoàn kết nội bộ Đảng).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm DÂN có nội hàm rất rộng:
+ Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những người cùng chung một
nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất, Người thường
gọi nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”.
+ Dân là các tầng lớp, các thế hệ, các giới tính, các đoàn thể. Đó là toàn
thể chiến sĩ trong quân đội, toàn thể công nhân trong công xưởng, toàn thể
nhân viên trong cơ quan, … rồi đến toàn thể nông dân.
+ Dân là những người có chung một cội nguồn. Tất cả đều sinh ra trong
cùng “một bọc”, là “con Lạc cháu Hồng”, là “con Rồng cháu Tiên”, “đều là
con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”.
+ Dân là tất cả những ai thừa nhận mình là “con dân nước Việt”. Đó là
toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả những người
Việt Nam ở nước ngoài, “không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”, chỉ trừ bọn tay sai cho đế quốc thực dân, bọn Việt gian, bọn
phản bội lại lợi ích của Tổ quốc, đi ngược lại con đường độc lập tự do và chủ
nghĩa xã hội.
“Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn
kết lại, bầu ra chính phủ của mình”. Vì vậy, “chúng ta sống chết có nhau,
sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau” (T4, 217). Với việc mở rộng nội
hàm quan niệm về Dân của Hồ Chí Minh đã tạo nên sự thuyết phục mạnh mẽ,
tập hợp lực lượng tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng.
b. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức
làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm trên chính là ở chỗ
công nhân và nông dân là hai lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất ở
nước ta. Tầng lớp trí thức Việt Nam cũng rất yêu nước, trung thành với dân
tộc và Tổ quốc cùng chịu cảnh mất nước, cùng có một nguyện vọng chung là
độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
+ Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh công,
nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, thể hiện mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc và giai cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một
mặt nào. Tuyệt đôi hóa vai trò của công nông và trí thức hạ thấp vai trò của
Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi; ngược lại hạ thấp
vai trò của liên minh công nông và trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên
tắc, vô chính phủ. Thực tiễn chỉ ra rằng Mặt trận càng rộng rãi bao nhiêu thì
sức mạnh của liên minh công nông và trí thức càng to lớn bấy nhiêu và ngược
lại khi liên minh công nông và trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt
trận càng vững chắc, càng có sức mạnh.
- Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận bình đẳng,
mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc
Để làm tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng phải phấn đấu xứng
đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện xứng đáng cho lợi ích
của dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, hướng dẫn
cả dân tộc đấu tranh vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của các tầng lớp nhân dân
lao động. Mặt khác, Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh
công nông và trí thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác
trong xã hội.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai
cấp, tầng lớp cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
- Một là, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của
dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt
quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành
giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người
Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn
sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa,
làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
- Hai là, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người.
+ Xã hội luôn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp do lịch sử để lại,
nếu không có lòng khoan dung độ lượng đối với con người thì không thể khép
lại quá khứ, hướng đến tương lai. Cần phải khoan dung độ lượng thì mới xóa
bỏ được thành kiến, định kiến, chân thành đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan dung rộng lớn
trước tính đa dạng của con người.
Hồ Chí Minh nhìn con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong
quan hệ xã hội, trong tính cách, khát vọng, phẩm chất và khả năng... Theo
Người mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người đều có ưu điểm, khuyết
điểm, mặt tốt, mặt xấu, mặt được, mặt chưa được... nhưng tấm lòng của
Người bao dung tất cả.
Người từng viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa
được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút
nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn,
cũng như cái chén cái đĩa cạn” (T5, 644).
Với độ lượng sâu như biển rộng, Hồ Chí Minh đã tập hợp quanh mình
và phát huy tác dụng của cả những vị vốn là đại thần của Nam triều cũ, dung
nạp cả cựu hoàng Bảo Đaị, kẻ đã từng kết án tử hình Người.
Đối với những cán bộ, đảng viên có lỗi, Người mong muốn và tạo điều
kiện sửa chữa lỗi lầm, Người nâng niu mặt tốt, mặt thiện trong con người, lấy
đó làm biện pháp giúp đỡ con người.
- Ba là, phải có niềm tin vào nhân dân, tin vào con người.
+ Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, theo Hồ Chí Minh cần phải tin dân,
yêu dân và dựa vào dân, sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên
tắc tối cao. Theo Người: DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức
mạnh của khối đại đoàn kết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
+ Tin dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là sự
kế thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống của dân tộc: “Nước lấy dân
làm gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; Người rất tâm đắc với
câu nói của nhân dân Quảng Bình thời chống Mỹ: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” (T12, 212); đồng thời là sự quán
triệt sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp
của của quần chúng”(T10, 197). Người nhấn mạnh: “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”(T8, 276). “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền,
xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(T5, 410). Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin
dân, dựa vào nhân dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên
tắc tối cao chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Người.

4. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.


a. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp,
từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với yêu cầu
của từng giai đoạn cách mạng: “công hội”, “nông hội”, “Phật giáo cứu quốc”,
“Công giáo yêu nước”…Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Tuỳ tình hình cụ thể, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống
nhất phù hợp với tình hình cách mạng, mặc dù tên gọi khác nhau: “Hội phản đế
đồng minh (1930), “Mặt trận dân chủ” (1936), “Mặt trận Việt Minh” (1941),
“Mặt trận Liên Việt” (1946) “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam” (1960), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (1955, 1976)- song thực chất chỉ
là một: Đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi
quy tụ tất cả các đảng phái, giai cấp tầng lớp, cá nhân yêu nước phấn đấu vì
mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân
dân.

b. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt trận Dân tộc
thống nhất
Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận phải được xây dựng trên cơ sở các
nguyên tắc sau:
- Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng của khối liên minh
công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất phải xây dựng trên nền tảng liên minh
công nông: Hồ Chí Minh viết “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc
là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất” (T10, tr.18). Hồ Chí Minh giải thích: “Vì họ là người sản xuất tất
cả mọi tài phú làm làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức
bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của
mọi tầng lớp khác”. (T8, tr.214)
+ Mặt trận dân tộc thống nhất chỉ được củng cố và phát triển khi được
Đảng lãnh đạo. Phải đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng đảng, làm cho
Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh; Đảng phải thực sự là đảng của trí tuệ,
dân chủ, cách mạng, thống nhất. Người xác định Đảng lãnh đạo Mặt trận,
nhưng Đảng không thể lãnh đạo Mặt trận bằng mệnh lệnh, mà phải dùng
phương pháp giáo dục, vận động, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân
thành để đối xử, cảm hoá, khơi dậy tính tự giác, tự nguyện.
- Hai là, Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Ngay từ 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã
khẳng định chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số
phận. Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh
xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, trong đó độc lập,
tự do và hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc bất di bất dịch, là mẫu số
chung để quy tụ tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào trong Mặt trận.
- Ba là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm
bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả các vấn đề của Mặt trận
đều phải được đem ra để tất cả các thành viên bàn bạc công khai để đi đến nhất
trí. Đảng là người lãnh đạo Mặt trận nhưng cũng là một thành viên của Mặt
trận, do vậy tất cả mọi chủ trương chính sách của Đảng phải được trình bày
trước Mặt trận để các thành viên khác cùng bàn bạc dân chủ để tìm kiếm các
giải pháp tích cực và thống nhất hành động.
Để thực hiện nguyên tắc này, Đảng cần đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp và dân tộc, lợi ích chung và
lợi ích riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, song phải đặt lợi ích chung lên
trên hết, trước hết.
- Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tập hợp của nhiều giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái…nên bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành
viên của Mặt trận vẫn có nhiều điểm khác nhau, cần phải bàn bạc, hiệp thương
dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác nhau, cục bộ, nhân lên những nhân tố
tích cực, những nhân tố chung, đi đến thống nhất đoàn kết.
- Năm là, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận Dân tộc
thống nhất, vừa là linh hồn là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Với tư cách là thành viên mặt trận, Đảng phải tôn trọng các thành viên
khác trong mặt trận, tôn trọng nguyên tắc hoạt động của mặt trận, nhất là
nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Với tư cách là người lãnh đạo mặt trận,
Đảng phải có tầm nhìn xa, trông rộng, phải “vừa đạo đức, vừa văn minh”. Để
làm tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng không chỉ phấn đấu xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn phải là đại diện xứng đáng
cho dân tộc.
5. Phương pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng.
+ Mục đích tuyên truyền: để người dân hiểu, tin và đi theo Đảng, từ đó
tham gia vào trận tuyến cách mạng.
+ Nội dung tuyên truyền giáo dục phải phản ánh đúng quyền lợi cơ bản
nhất của dân tộc, phù hợp với tâm lí nguyện vọng của các giai cấp tầng lớp
trong xã hội, chỉ rõ lợi ích chung, lợi ích riêng của từng giai cấp, tầng lớp
(công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, đồng bào dân tộc ít người,
đồng bào tôn giáo, quan lại, nhân sĩ yêu nước, những người bị ép buộc lầm
đường lạc lối…).
+ Phương pháp tuyên truyền: phải ngắn gọn, dễ hiểu “nói ai cũng hiểu
được, hiểu được thì nhớ được, nhớ được thì làm được”
+ Hình thức tuyên truyền: phải sử dụng có hiệu quả các hình thức tuyên
truyền, giáo dục, vận động quần chúng
+ Cán bộ tuyên truyền: phải là tấm gương sáng về đạo đức, đoàn kết,
mẫu mực từ lời nói đến việc làm. Người nói, cán bộ tuyên truyền phải có “óc
nghĩ, mắt thấy, chân đi, tai nghe, miệng nói, tay làm”
- Phương pháp tổ chức.
+Phương pháp tổ chức: Đó là phương pháp xây dựng, kiện toàn, không
ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng, từ Đảng, Nhà nước đến các
đoàn thể quần chúng. Sự thống nhất và bền vững của hệ thống chính trị cách
mạng, theo Hồ Chí Minh, chính là nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh
của đại đoàn kết dân tộc.
Đảng Cộng sản phải được xây dựng thật sự trong sạch, vững mạnh, trí
tuệ, cách mạng và thống nhất. Đảng Cộng sản phải là Đảng trí tuệ, đại diện
cao nhất cho trí tuệ dân tộc, đủ sức nhận thức, nắm bắt những nhu cầu khách
quan của lịch sử dân tộc; có năng lực tiếp thu, vận dụng trào lưu tư tưởng tiên
tiến nhất của thời đại – chủ nghĩa Mác – Lênin và tri thức nhân loại, kết hợp
với tổng kết, phát triển kinh nghiệm của các dân tộc để đề ra đường lối đúng
đắn, dẫn dắt cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng khác. Đảng Cộng sản
phải là Đảng cách mạng, tức là phải theo đuổi đến cùng, phấn đấu đến cùng
cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Đảng phải kiên quyết và triệt để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
cách mạng, không dao động, nửa vời; đảng viên phải dám xả thân vì lý tưởng
của Đảng. Đảng phải thống nhất trong tư tưởng, hành động, từ trên xuống
dưới. Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật tự giác, phải xây dựng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí xây
dựng Đảng; các đảng viên phải yêu thương nhau, phải giữ gìn sự đoàn kết
trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Chỉ có một Đảng như thế
làm hạt nhân lãnh đạo mới có thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã
hội, mỗi chủ trương, chính sách, việc làm của Nhà nước đều tác động trực
tiếp đến đời sống, lợi ích và tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn và chăm lo xây dựng một nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân. Người giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
phải trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân, suốt đời làm đày tớ, công bộc cho
dân. Chỉ có như vậy Nhà nước mới thực sự là công cụ của Đảng, là tổ chức
đại diện cho quyền lực của nhân dân, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ.
Các đoàn thể quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất – đó
chính là cái vỏ vật chất của khối đại đoàn kết. Mặt trận dân tộc thống nhất
càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết càng
mạnh mẽ, bền vững bấy nhiêu. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các đoàn thể
quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân
dân.
- Phương pháp xử lý đồng bộ các mối quan hệ nhằm thực hiện thêm
bạn, bớt thù.
Thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp luôn phân định thành
ba trận tuyến: cách mạng một bên, phản cách mạng một bên và ở giữa là một
lực lượng trung gian, đối tượng lôi kéo, tranh thủ của hai lực lượng đối lập.
Thành, bại trong cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng đối địch không chỉ phụ
thuộc vào thực lực mỗi bên mà còn phụ thuộc một phần rất lớn vào yếu tố:
bên nào tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng trung gian. Phương pháp
đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học mối tương
quan ba chiều: lực lượng cách mạng, lực lượng trung gian, lực lượng phản
cách mạng đó, nhằm mục tiêu mở rộng đến mức tối đa trận tuyến cách mạng,
tạo thế áp đảo của cách mạng đối với phản cách mạng để giành thắng lợi.
+ Với lực lượng cách mạng: phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
khai thác, phát huy sự thống nhất, tương đồng, hạn chế, khắc phục, tiến tới
xóa bỏ dần những khác biệt trong mục tiêu, lợi ích. Sự đoàn kết, thống nhất
của lực lượng cách mạng chính là điều kiện tiên quyết giúp cho việc thu hút,
tập hợp các lực lượng trung gian vào trận tuyến cách mạng, cô lập các lực
lượng thù địch.
+ Với lực lượng trung gian (các tầng lớp trên, trí thức thượng lưu, nhân
sĩ, hoàng tộc, quan lại,…), phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là xóa bỏ
mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước,
chân thành hợp tác và trọng dụng.
+ Đối với các thế lực thù địch, phương pháp Hồ Chí Minh là chủ động,
kiên quyết tiến công tiêu diệt trên cơ sở phân hóa, cô lập chúng đến mức cao
độ; chăm chú theo dõi, khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, lôi kéo, tranh
thủ những lực lượng nào còn có thể tranh thủ được, hòa hoãn tạm thời với
những lực lượng, bộ phận có thể hòa hoãn được, thu hẹp và cô lập lực lượng
thù địch nguy hiểm, trực tiếp nhất. Đối với các thế lực thù địch ngoan cố,
phản động nhất, phương pháp Hồ Chí Minh là kiên quyết, không ngừng thế
tiến công. Đó là phương pháp cách mạng triệt để, phân biệt rạch ròi giữa các
lực lượng hiếu chiến đi xâm lược với nhân dân lao động ở các nước đi xâm
lược, để từ đó đoàn kết với họ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết quốc tế
a) Bối cảnh thời đại
Thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động chính trị là thời đại đang
diễn ra những bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử loài người về các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học, công nghệ:
+ Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự
do cạnh tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền, nghĩa là giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc. Sự hình thành chủ nghĩa đế quốc với hệ thống thuộc địa của chúng
đã làm nảy sinh mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc với các dân tộc thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với
sự thức tỉnh của Châu Á là nét nổi bật của tình hình thế giới đầu thế kỷ XIX.
+ Thắng lợi của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
năm 1917 và sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở đầu
cho thời đại mới – thười đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, tạo ra mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt thời đại là
mâu thuẫn giữa hệ thống chủ nghĩa xã hội với tư bản chủ nghĩa. Chính sự ra
đời của nhà nước Xô viết và sau đó Quốc tế Cộng sản ra đời đã tạo điều kiện
cho phong trào cách mạng thế giới phát triển, trong đó có phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông, mở ra sự chuyển hướng
của cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản.
+ Sự phát triển không đều của Chủ nghĩa tư bản đã làm sâu sắc thêm
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, gây ra cuộc chiến tranh nhằm
phân chia lại thị trường, tiêu biểu là hai cuộc Chiến tranh thế giới (1914-1918
và 1939-1945). Gánh nặng của hai cuộc chiến tranh đè nặng lên số phận của
nhân dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa, thúc đẩy phong trào cách
mạng của các nước. Nếu chiến tranh thế giới thứ nhất làm xuất hiện một Nhà
nước Xô viết thì Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm xuất hiện thêm một loạt
các nhà nước Xã hội chủ nghĩa hình thành nên hệ thống các nước Xã hội chủ
nghĩa, thành trì của phong trào cách mạng vô sản, chỗ dựa vững chắc của
phong trào giải phóng dân tộc.
+ Chủ nghĩa tư bản phát triển, sự bóc lột tư bản tăng lên, cùng gánh
nặng của các cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh thế giới… làm cho mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở chính quốc và thuộc địa cũng
tăng lên. Các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản châu Âu liên tiếp
nổ ra và bị đàn áp khốc liệt.
Mặt khác, sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản, sự hình thành thị trường
thế giới, đã làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, phá vỡ tình trạng biệt lập
giữa các quốc gia ở thế kỷ XIX. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản
đã có đóng góp to lớn vào sự tăng cường đoàn kết, gắn bó giữa phong trào
cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
+ Cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, loài người cũng đã chứng
kiến sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ,
đưa tới những thay đổi có tính cách mạng về năng lượng, vật liệu, về giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, về công nghệ sinh học… Lực lượng sản xuất
phát triển tới một trình độ cao chưa từng thấy, làm cho nền sản xuất thế giới
ngày càng được quốc tế hóa cao và trở thành một thị trường có tính thống
nhất rộng lớn.
b) Sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Khi ra đi tìm đường cứu nước,
Hồ Chí Minh mang theo nhận thức và niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân tộc.
Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí đấu tranh
anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực tự cường… tuy chưa
sớm có thể trả lời được câu hỏi lớn, nhưng Người cũng nhận thấy: không thể
đánh thắng được kẻ thù mới bằng con đường cũ, cách làm cũ trong một thế
giới mới. Người quyết định phải đi ra nước ngoài “xem nước Pháp và các
nước khác”, tức là tìm hiểu thế giới, tìm hiểu kẻ thù ngay chính trong sào
huyệt của chúng, để từ đó tìm ra con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng
dân tộc, giải phóng đồng bào.
- Nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại, của việc
đoàn kết quốc tế được hình thành từng bước, từ cảm tính đến lý tính, thông
qua hoạt động thực tiễn và tổng kết thành lý luận:
+ Ra đi tìm đường cứu nước từ tư cách là một người lao động, hòa
mình vào môi trường hoạt động của giai cấp công nhân, Nguyễn Ái Quốc đã
chứng kiến cuộc sống lầm than, khổ cực của nhân dân các nước thuộc địa, đã
phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức “…dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người
bị bóc lột”1. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành nhận thức: muốn giải phóng
dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác, cùng chung cảnh
1
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 1, tr.266 (12 tập)
ngộ. Từ đó, Người đã kêu gọi: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no,
những người bị áp bức, bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống
bọn áp bức”2.
Khảo sát các nước tư bản đế quốc, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy chúng
đã không đơn độc mà còn phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc đàn áp các
cuộc nổi dậy ở các nước thuộc địa; mặt khác chúng tuyển mộ những người
lính từ thuộc địa để đưa sang đàn áp các cuộc đấu tranh của chính quốc. Từ
đó, Người chỉ ra: chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động, là kẻ thù
chính của nhân dân lao động ở chính quốc và thuộc địa. Muốn đánh thắng
chúng, phải thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa các nước thuộc địa với
nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở các nước chính quốc; nếu tách
riêng ra mỗi lực lượng thì không thể nào thắng lợi được.
Đây là điểm khác biệt giữa Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước đầu thế
kỷ XIX, do không nhận thức được đặc điểm mới của thời đại, hay nói cách
khác, do chưa nhận thức rõ về kẻ thù nên cũng chưa thấy được bạn đồng
minh.
+ Sau khi tiếp cận với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, Hồ Chí Minh nhận thấy ở đó “một
ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách
mạng mà Người đã hằng nung nấu”3.
Trong Luận cương, Lenin yêu cầu phải làm cho vô sản và quần chúng
lao động ở tất cả các nước gần gũi nhau, muốn thế các Đảng Cộng sản, nhất là
các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa có thuộc địa, đều phải giúp
đỡ các phong trào giải phóng dân tộc bằng mọi hình thức, phải giáo dục về
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản, chủ
nghĩa vị kỷ dân tộc trong giai cấp vô sản và nhân dân các nước đang đấu tranh
giành độc lập.
2
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 1, tr.452
3
Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông
Tin lý luận, Hà Nội, 1991, tr.45
Tư tưởng của Lenin đã đưa Nguyễn Ái Quốc tới bước chuyển lịch sử:
từ người yêu nước thành người cộng sản, đã nâng cao nhận thức của Người về
sức mạnh thời đại và đoàn kết quốc tế: đó là sức mạnh của giai cấp vô sản,
cách mạng vô sản và Đảng tiên phong của nó, là lý luận và phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lenin, kinh nghiệm của cách mạng
Tháng Mười Nga. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp
giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản là phải xây
dựng được khối liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với
lao động thuộc địa, nhằm cùng một lượt tấn công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai
đầu.
Với nhận thức này, Hồ Chí Minh bắt đầu đi vào tổ chức và hoạt động.
Người viết nhiều bài trên tờ bào Le Paria để truyền bá tư tưởng này trong vô
sản và lao động cả ở chính quốc lẫn thuộc địa. Người đã tranh thủ diễn đàn tại
Đại hội của Đảng Xã hội Pháp, Đảng Cộng sản Pháp để “thức tỉnh”những
người anh em phương tây về nhiệm vụ giúp đỡ một cách tích cực nhất phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; phải coi “cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Từ tuyên truyền đến tổ chức, Người bắt tay vào thành lập Hội Liên
hiệp thuộc địa ở Pháp, xuất bản cơ quan ngôn luận của nó là tờ báo Le Paria.
Sau khi về Quảng Châu, Người tích cực tham gia vào việc thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức, sát cánh chiến đấu và bên cạnh những người cộng
sản và nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”. Sau khi thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã tham gia thành lập một số Đảng anh
em ở các nước Đông Nam Á, và Châu Á.
+ Dần dần cùng với sự phát triển của lịch sử, nhận thức của Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành, tồn tại và phát triển hệ
thống Xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh
thời đại, chi phối sự phát triển của xã hội loài người trong nửa cuối thế kỷ
XX. Các nước Xã hội chủ nghĩa đã có vai trò và tác dụng to lớn trong việc
ủng hộ và giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân thế giới. vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa đã góp phần
làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, cũng tức là góp phần tích cực vào việc bảo vệ
các nước Xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh thời
đại là phải biết huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc.
Cũng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành nhân tố của sức mạnh
thời đại. Người luôn nhắc nhở sức mạnh đó chưa từng có, cho nên thanh niên
phải ra sức học tập để chiếm lĩnh được những đỉnh cao của khoa học, tận
dụng sức mạnh mới của thời đại để nhân lên sức mạnh dân tộc.
Tóm lại, từ khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác – Lenin từ người yêu nước trở
thành người cộng sản, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng
vô sản, thì Hồ Chí Minh ngày càng nhận thức được tầm quan trọng và nội
dung của đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
nâng nó lên thành một trong những bài học bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
2. Những nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế
2.1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng trong nước
Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ
thù.
- Sức mạnh dân tộc:
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất
lẫn tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự
cường, tự lực dân tộc, sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh
anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó, đã giúp cho dân tộc ta
vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt
vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách
mạng, Người vẫn bộc lộ niềm tin, niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu
sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Tuy nhiên, Người cũng đặt ra vấn đề: sức mạnh của truyền thống dân
tộc luôn được diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau, nhưng đều không đi
đến thắng lợi? Đây là yếu tố thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước.
Hướng đi, phương thức đi của Hồ Chí Minh khác với các bậc tiền bối:
không sang Phương Đông mà sang phương Tây, đi tìm hiểu kẻ thù rồi mới
quay về giải phóng cho dân tộc. Người ra đi bằng hai bàn tay trắng. Chính từ
quá trình đó, Hồ Chí Minh mới tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn cho
Việt Nam.
- Sức mạnh quốc tế:
Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân
lao động các nước chính quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; Phong trào Xã
hội chủ nghĩa; Phong trào vì Hòa bình, độc lập dân tộc, Dân chủ và tiến bộ xã
hội; Phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương... Những phong trào
này nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức
mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh
sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử thế giới và tiến trình chính trị
quốc tế sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga. Cụ thể:
+ Sức mạnh của các dân tộc bị áp bức, của giai cấp vô sản thế giới.
Chính quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nhận thấy các nước
tư sản luôn nêu ra các văn minh khai hóa các nước thuộc địa, nhưng tại các
nước đó, nhân dân vẫn cực khổ, có sự phân biệt rất lớn về chủng tộc, giai cấp.
Hồ Chí Minh nhìn thấy tính chất 2 mặt của xã hội các nước tư bản văn minh
như vậy và cho rằng trên đời này chỉ có 2 giống người: áp bức và bị áp bức.
Hồ Chí Minh còn nhận thấy: phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa,
phong trào vô sản đều đấu tranh mạnh mẽ, nhưng tất cả các phong trào này
đều thất bại. Người nhận thấy: chủ nghĩa thực dân chuyển sang chủ nghĩa đế
quốc, đi xâm lược thuộc địa, tiến hành khai thác thuộc địa mạnh mẽ, trong
quá trình đó chủ nghĩa thực dân vẫn tiếp tục bóc lột nhân dân chính quốc.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi; để tiêu diệt con đỉa đó phải
cắt cả hai vòi đó. Người nhận thấy sức mạnh rất lớn của hai lực lượng này.
+ Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lenin và hệ thống các nước Xã hội
chủ nghĩa. Bởi, thực tiễn phong trào đấu tranh trong nước đã diễn ra mạnh
mẽ, nhưng đều thất bại, đặc biệt khi Người đọc Luận Cương, Người nhận
thấy mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phương pháp đấu tranh, trang bị
cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận trong việc đánh giá chân
xác các lực lượng cách mạng.
Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, hệ thống các nước Xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, Người nhận thức đây là sự hiện thực hóa chủ nghĩa Mác
– Lenin, đây là những phong trào cách mạng triệt để nhất đem lại chính quyền
cho nhân dân.
+ Sức mạnh của phong trào yêu chuộng hòa bình trên thế giới, sức
mạnh khoa học kỹ thuật
Dù trên thế giới có hai loại người, nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy cả ở
các nước chính quốc cũng còn có nhân dân các nước đó, Người còn thấy sức
mạnh khoa học kỹ thuật. Nếu như loài người biết tranh thủ sức mạnh của
khoa học kỹ thuật sẽ tạo đà cho dân tộc phát triển.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh
tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết quốc tế là nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho
cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết
quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức
mạnh tổng hợp cho chiến thắng trước kẻ thù.
+ Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công, xu hướng liên minh giữa các quốc gia được hình
thành. Hồ Chí Minh đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới. Hồ Chí Minh nhận thấy cách mạng Việt Nam cần có sự giúp đỡ của
Quốc tế cộng sản và cách mạng các nước, đồng thời nếu cách mạng Việt Nam
thành công sẽ quay trở lại giúp đỡ cách mạng vô sản thế giới. Từ đó, Hồ Chí
Minh nhận thấy cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản
thế giới. Trên cơ sở này, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ sự giúp đỡ của cách
mạng thế, nhưng đồng thời chủ động tác động vào cách mạng thế giới
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng.
- Đoàn kết quốc tế không chỉ vì sự thắng lợi của cách mạng mỗi nước
mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
tiến bộ xã hội, và xã hội chủ nghĩa.
+ Đoàn kết quốc tế giúp các nước hoàn thành được sự nghiệp cách mạng
của mỗi nước. Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để
chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa
quốc tế vô sản trong sáng. Trong đó: “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ
gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế
là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước để gìn giữ hòa bình thế
giới, chống chính sách xâm lược, và chính sách chiến tranh của đế quốc… giữ
gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta… Đó là lập trường
quốc tế cách mạng” (Tập 7, tr.227-228, 2011)
+ Nhưng, đồng thời hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng
là góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời
đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc mình
mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích
sống còn của dân tộc mình, mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại đó
là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Để làm được điều đó phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc
vị kỷ, chống lại chủ nghĩa sô vanh, và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2.2. Các lực lượng và hình thức đoàn kết
a) Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong Tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ trên thế
giới trước hết là phong trào chống chiến trah của nhân dân các nước xâm lược
Việt Nam.
- Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế giới là lực lượng nòng
cốt của đoàn kết quốc tế.
Đó là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau này
là các nước Xã hội chủ nghĩa; là Quốc tế III và sau này là Cục thông tin quốc
tế. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt của đoàn kết
quốc tế, theo Hồ Chí Minh có những lý do sau đây:
+ Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc
tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ có sự đoàn
kết, nhất trí, đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động thế giới theo tinh thần
“bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể thắng được những âm mưu
thâm độc của chủ nghĩa thực dân.
+ Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng
Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai trò
của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa.
Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ nên trái tim Người cùng nhịp
đập với nổi thống khổ của các dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình. Từ
sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị của
các nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng tộc,… nhằm làm
suy yếu sức mạnh của các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc hiểu biết
lẫn nhau, xích lại gần và bằng mọi cách phải làm cho “đội tiên phong của lao
động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”.
- Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình,
dân chủ, tự do và công lý
Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu tranh cho hoà
bình, độc lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy
lương tri của loài người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức
quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên hành tinh đối với
cuộc cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược.
Bởi vậy, mà Người chủ trương chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ
không phải chống người Pháp, người Mỹ nói chung.
b) Hình thức đoàn kết quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách
mạng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập
các mặt trận, Người luôn tìm thấy đồng minh ngay trong kẻ thù của mình. Sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh so với các bậc đoàn kết; các cụ thường chủ yếu đến
những nước đồng văn; đồng chủng; đồng âu. Hay Chủ nghĩa Mác – Lenin
(phong trào cộng sản; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc) Hồ Chí Minh
nhìn thấy trong các lực lượng đều có lực lượng đoàn kết. Đế quốc với nhân
dân yêu chuộng hòa bình.
- Đối với phong trào giải phóng dân tộc: Chủ trương thành lập một liên
minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa 3 nước Đông Dương.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc,
Người quyết định thành lập mặt trận riêng biệt, Mặt trận độc lập đồng minh,
cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc
lập đồng minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã
chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, phối hợp, giúp
đỡ nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
- Đối với phong trào công nhân, cộng sản quốc tế: xây dựng khối liên
minh hữu nghị, hợp tác, tương trợ với các nước. Người chăm lo củng cố mối
quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí,
vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá
lâu đời với Việt Nam.
- Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình:
+ Thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu
tranh giành độc lập
+ Từ những năm 1920, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa
tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân
tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự kiện này, Người đã góp phần đặt cơ
sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
+ Trong những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt
động ngoại giao không mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân
chủ và các lực lượng đồng minh chống phát xít, đoàn kết với nhân dân tiến bộ
ở các nước trên thế giới, kể cả ở Mỹ và Pháp, hình thành Mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
2.3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, dứt khoát giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng
thời phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực
tiễn của mỗi nước, mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm
của những người cùng chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc
phục tư tưởng “sô vanh”, nước lớn, áp đặt, hoặc dung các giải pháp về kinh
tế, chính trị, … để gây sức ép với nhau. Có tình còn đòi hỏi trong mọi vấn đề
phải chờ đợi nhau để cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Tôn
trọng lợi ích của mỗi dân tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không phương hại đến
lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng
to lớn trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình
đoàn kết trong nhân dân lao động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ
độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí Minh là quyền trời cho, là
“lẽ phải không ai chối cải được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ đấu
tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn cho các dân tộc khác trên
thế giới.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước khác, Hồ
Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân
tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những
nguyên tắc đó. Người cũng khẳng định nhất quán chính sách ngoại giao của
Việt Nam là: “làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với
một ai”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ hoà bình trong công lý.
+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống
chiến tranh xâm lược là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó
phải là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ”. Người khẳng định: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam thì
chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để
giữ gìn hoà bình”, “thái độ của Việt Nam đối với những nước Á châu là thái
độ anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”
+ Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và lòng khao khát hoà bình
của nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân tiến bộ trên
thế giới. Bởi vậy, trong hai cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự
đồng tình, ủng hộ to lớn của rất nhiều lực lượng yêu chuộng hoà bình, nhờ
vậy chúng ta đã làm nên những chiến thắng vẻ vang, lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu, còn nguồn lực ngoại sinh
chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh luôn nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính”, “muốn người khác giúp mình thì trước hết tự mình phải giúp lấy mình
đã”. Người còn chỉ rõ “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập”.
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là
cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
- Vì vậy, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn.
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính nhờ thực hiện
chính sách ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh này mà chúng ta đã nhận
được nhiều sự ủng hộ quý báu của rất nhiều nước và tổ chức trên thế giới.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? Liên hệ
với tình hình thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam hiện nay.
2. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? Liên hệ với
công tác đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Thuyết trình việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
4. Phân tích vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh?
Liên hệ với tình hình thực tiễn hiện nay.
5. Phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Liên hệ với tình hình thực tiễn hiện nay

You might also like