Professional Documents
Culture Documents
KHOA HÀ NỘI
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỰC
PHẨM
====o0o====
BÁO CÁO
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM ĐẠI CƯƠNG
Lớp: KTTP-04
Hà Nội, 05/2021
Mục lục: Trang
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Tổng quan về phương pháp làm trong nước quả
1.1 Quy trình sản xuất nước quả đóng hộp
1.2 Vị trí, mục đích của quá trình làm trong nước quả
Chương 2: Các phương pháp làm trong nước quả
2.1 Phương pháp lọc thô
2.2 Phương pháp lắng
2.3 Phương pháp ly tâm
2.4 Xử lý bằng dòng điện một chiều
2.5 Làm trong bằng đất sét
2.6 Làm trong bằng enzyme
2.7 Làm trong bằng phương pháp hồ
2.8 Làm trong bằng phương pháp kết hơp giữa enzyme và gelatin
2.9 Làm trong bằng đun nóng tức thời
2.10 Xử lý bằng hóa chất
2.11 Làm trong bằng cách trộn với dịch quả khác
2.12 Làm trong bằng cách làm lạnh đông
2.13 Lọc tinh
Chương 3: Ổn định độ trong của nước quả
3.1 Mục đích, ý nghĩa
3.2 Các phương pháp
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Mở đầu:
Việt Nam là một đất nước có khí hậu nhiệt đới, đây là lợi thế đặc biệt để
phát triển ngành nông nghiệp với nhiều loại nông sản rau củ quả đa
dạng. Nhưng nếu chỉ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu nguyên liệu thô
thì giá thành rẻ, sản lượng lớn sẽ dẫn đến nông sản bị hư hỏng nếu
không tiêu thụ kịp thời. Do đó ngành công nghệ bảo quản và chế biến
rau củ quả chiếm một vị trí quan trọng trong công nghệ chế biến thực
phẩm, cụ thể là công nghệ chế biến nước quả đóng hộp. Nguyên liệu là
quả sau khi được lựa chọn, rửa, phân loại sẽ trải qua các quá trình chà,
ép, gia nhiệt, lọc cuối cùng là đóng hộp, thanh trùng. Sản phẩm nước
quả đóng hộp rất đa dạng, thời hạn sử dụng lâu dài, có giá trị kinh tế cao
hơn so với nguyên liệu thô và nhiều tiềm năng xuất khẩu.
Trong quy trình sản xuất nước quả đóng hộp, công đoạn làm trong nước
quả có vai trò rất quan trọng, quyết định nhiều đến chất lượng sản phẩm.
Tùy vào trạng thái và tính chất của sản phẩm mà có rất nhiều các
phương pháp làm trong khác nhau như làm trong bằng lắng, lọc, làm
trong bằng đất sét, enzyme,…, tuy nhiên mục đích chung của các
phương pháp này là loại bỏ cặn bã, các phần tử kích thước lớn không
mong muốn.
Bài báo cáo này tập trung tìm hiểu và trình bày về các phương pháp làm
trong nước quả để thấy được vai trò quan trọng và ảnh hưởng của quá
trình này đến chất lượng của sản phẩm nước quả.
Nội dung
Chương 1: Tổng quan về phương pháp làm trong nước quả
1.1 Quy trình sản xuất nước quả
Bài khí là quá trình loại bỏ không khí chứa oxy tồn tại trong đồ
hộp trước khi ghép kín. Đây là khâu công nghệ quan trọng
nhằm ngăn chặn quá trình oxy hóa, bảo đảm chất lượng sản
phẩm sau này.
Hộp đựng thực phẩm thường làm bằng sắt tây (sắt tráng thiếc 2
mặt). Tuy nhiên, ngay cả khi lớp Sn dày và kỹ thuật tráng thiếc
tốt vẫn có những kẽ hở nhỏ không được phủ thiếc trên bề mặt,
tổng diện tích các kẽ hở là 1mm/m diện tích tấm sắt tây.
Fe từ các kẽ hở sẽ tiếp xúc với sản phẩm, môi trường sản phẩm
là môi trường điện phân ( axit hữu cơ và muối) nên Fe va Sn
được coi là 2 điện cực nhúng vào dung dịch điện phân, tạo
thành cặp vi pin. Trong đó, Fe có điện thế cao hơn (0,44V)
thiếc (0,13V) nên Sn là anod, Fe là catod. Tại anod, khi Sn tan
vào dung dịch dưới dạng Sn+ (cation), ngay lập tức bị bao vây
bởi các phân tử nước (hydat hóa) rồi kết hợp với các chất khác
tạo thành hợp chất không tan. Điện tử e- được giải phóng ở
anod chạy về cực catod tạo ra dòng điện vi pin. Tại catod, e-
kết hợp vơi cation, chủ yêu là H+ có trong sản phẩm tạo thành
hydro nguyên tử rồi phân tử.
Trong qúa trình xảy ra dòng điện, điện áp thay đổi khi in Sn+
bao vây cực âm và H+ bao vây cực dương, cường độ dòng điện
giảm dần đến khi bằng 0, hiện tượng này gọi là hiện tượng
phân cực. Khi đó quá trình ăn mòn điện hóa cũng ngừng, hiện
tượng phân cực có thể giảm hoặc mất đi khi trong sản phẩm có
chất giải phóng phân cực, chính là oxy. Oxy đến cực Fe kết hợp
với H+ tạo thành nước giải phóng cực Fe, vì vậy e- lại đến kết
hợp với H+ và dòng điện vi pin lại được phục hồi.
Hiện tượng vi pin lặp đi lặp lại, làm cho lượng ion Sn và ion Fe
trong sản phẩm ngày càng tăng, có thể vượt mức cho phép và
dẫn đến hiện tường thủng hộp do sắt bị ăn mòn. Khi đó vi sinh
vật sẽ xâm nhập và làm hỏng sản phẩm. Mặt khác, lớp tráng
thiếng bên trong bị bong từng mảng tạo điều kiện cho sắt tiếp
xúc trực tiếp với chất oxy hóa mạnh, làm cho quá trình han gỉ
hộp sắt trở nên trầm trọng
Vì vậy, việc loại bỏ oxy ra khỏi hộp sản phẩm là vô cùng cần
thiết vì nó ngăn ngừa hiện tượng vi pin và ăn mòn điện hóa.
Nói cách khác, bài khí có vai trò rất quan trọng trong giữ chất
lượng của thực phẩm trong quá trình bảo quản và lưu thông
trên thị trường.
Sự có mặt của không khí trong hộp sẽ gây áp suất nội tại trong
hộp khi thanh trùng. Áp suất này phụ thuộc vào nhiệt độ rót
hộp và thanh trùng, độ đầy của sản phẩm, sự tăng thể tích của
bao bì và sản phẩm.
Áp suất trong hộp sau khi được ghép kín được biểu thị như sau:
P’n + P’B=1 (1)
Trong đó P’n là áp suất hơi (at)
P’B là áp suất không khí (at)
Khi thanh trùng, nhiệt độ tăng nên áp suất tăng:
P’’n + P’’B=Pc (2)
Trong đó: P’’n là áp suất hơi nước tương ứng với nhiệt độ
thanh trùng (at)
P’’B là áp suất không khí tương ứng với nhiệt độ thanh trùng
(at)
Pc là tổng áp suất trong hộp
Khi lấy (2) trừ (1) ta có:
Pc – 1 = (P’’n – P’n) + (P’’B-P’B)
Pc – 1 = Pdư trong hộp khi thanh trùng
Nếu ta cho V1 và V2 là thể tích khoảng trống trong hộp trước
và sau khi thanh trùng, T1, T2 là nhiệt độ không khí ở hai điều
kiện trên, theo định luật khí lý tưởng ta sẽ có:
P’N.V1 = R. T1
P’’B. V2=R.T2
Biểu diễn P’’B theo P’B ta sẽ có:
P’’B=P’B.T2V1/T1V2 (4)
Thay (4) vào (3) thu được:
Pc-1=(P’’n-P’n) + P’B(T2V1/T1V2-1) (5)
Hay K=P’B(T2V1/T1V2-1) (6)
Biểu thức (5) cho thấy sự chênh lệch áp suất khi thanh trùng (P
dư) được xác định bằng hiểu của áp suất hơi nước trong và
trước khi thanh trùng và đại lượng K.
Đối với hộp sắt, do hệ số nở của sắt tốt nên K gần bằng 0, do
đó Pc-1 = P’’n-P’n.
Đối với lọ thủy tinh, K là đại lượng đáng kể vì thể tích lọ hầu
như không tăng khi thanh trùng, trong đó không khí đóng vai
trò quan trọng trong việc làm tăng áp suất của lọ. Vì vậy, loại
bỏ không khí trong hộp là cần thiết.