You are on page 1of 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học phần II. (MÃ HỌC PHẦN 862407)


CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

Bài 1
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH",
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Từ giữa thế kỷ XX, chiến lược “Diễn biến hòa bình” bắt đầu hình
thành. Ban đầu “Diễn biến hòa bình” được sử dụng như một biện pháp hỗ
trợ cho các chiến lược “ngăn chặn”, “phản ứng linh hoạt”... của chủ nghĩa
đế quốc để chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới.
Hiện nay, Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện
“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá quyết liệt các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Vì vậy chống chiến
lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẠT
ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm
"Diễn biến hoà bình" là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị
của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng
biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến
hành.1
Nội dung chính của chiến lược "Diễn biến hoà bình" là kẻ thù sử dụng
mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an
1
. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự
Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 303.

1
ninh..., để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Kích
động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp
dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc, khuyến
khích tư nhân hoá về kinh tế và đa nguyên về chính trị, làm mơ hồ giai cấp và
đấu tranh giai cấp trong nhân dân lao động. Đặc biệt, chúng coi trọng khích lệ
lối sống tư sản và từng bước làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng xã hội chủ nghĩa
ở một bộ phận sinh viên. Triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai
sót của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, tạo nên sức ép, từng bước chuyển hoá và thay đổi đường lối chính trị, chế
độ xã hội theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của chiến lược "Diễn biến hoà
bình"
Chiến lược "Diễn biến hoà bình" đã ra đời, phát triển cùng với sự điều
chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "Diễn
biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
 Giai đoạn từ 1945 - 1980, đây là giai đoạn manh nha hình thành
chiến lược "Diễn biến hoà bình" được bắt nguồn từ nước Mĩ. Tháng 3 năm
1947, chính quyền Truman trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Kennan đã bổ
sung, hình thành và công bố thực hiện chiến lược "ngăn chặn" chủ nghĩa cộng
sản. Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác
San, tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các
Đảng Cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản ở Tây Âu, hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Đến tháng 12 năm
1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ giành thắng lợi bằng hoà
bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã hội
chủ nghĩa. Từ những năm 60 đến 80 của thế kỉ XX, nhiều đời tổng thống kế
tiếp của Mĩ như Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho, đã coi trọng và thực hiện
chiến lược "Diễn biến hoà bình" để chống lại làn sóng cộng sản, lật đổ các
nước xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, từ sau thất bại ở Việt Nam, Mĩ đã từng bước
thay đổi chiến lược chuyển từ tiến công bằng sức mạnh quân sự là chính, sang

2
tiến công bằng "Diễn biến hoà bình" là chủ yếu. Từ vị trí là thủ đoạn kết hợp
với chiến lược "ngăn chặn", đã phát triển thành một chiến lược cơ bản, ngày
càng hoàn thiện để chống các nước cộng sản.
 Giai đoạn từ năm 1980 đến nay, chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù
địch từng bước hoàn thiện "Diễn biến hoà bình" và trở thành chiến lược chủ
yếu tiến công chống các nước xã hội chủ nghĩa. Do phát hiện thấy những sai
lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
cải tổ, cải cách, từ năm 1980 đến 1990, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đã sử dụng chiến lược "Diễn biến hoà bình" để tiến công nhằm làm suy
yếu, tiến tới lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.
Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược
"Diễn biến hoà bình" để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại. Các thế lực thù địch cho rằng, phải làm xói mòn tư tưởng, đạo đức và
niềm tin cộng sản của thế hệ trẻ để "tự diễn biến", tự suy yếu, dẫn đến sụp đổ,
tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước còn lại.
1.1.3. Bạo loạn lật đổ
Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản
động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài
tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ
chính quyền ở địa phương hay trung ương2.
Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang
hoặc bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang.
Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động gắn liền với chiến lược "Diễn biến hoà bình" để
xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch
thường kích động những phần tử quá khích, làm mất ổn định trật tự an toàn
xã hội ở một số khu vực và trong một thời gian nhất định (thường chỉ diễn
ra trong không gian hẹp và thời gian ngắn) tiến tới lật đổ chính quyền ở địa
phương hoặc nhà nước xã hội chủ nghĩa.

2
. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự
Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 63.

3
Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ
đến lớn. Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng
của đất nước, trọng điểm là những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn
hoá của Trung ương và địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu
vực, địa bàn mà cơ sở chính trị của địa phương yếu kém.
1.2. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẠT
ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.2.1. Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược "Diễn biến hoà bình" đối
với Việt Nam
Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một
trọng điểm trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" chống chủ nghĩa xã hội.
Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để
xâm lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng
nhưng cuối cùng đã bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đòn tấn
công bằng quân sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng đã
chuyển sang chiến lược mới như "bao vây cấm vận kinh tế", "cô lập về
ngoại giao" kết hợp với "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó
khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 - 1994 do hậu quả của chiến tranh để
lại và sự biến động chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực
thù địch càng ráo riết đẩy mạnh "Diễn biến hoà bình" đối với Việt Nam.
Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều
chỉnh thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ
"cấm vận kinh tế" và bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang
thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như: "dính líu", "ngầm", "sâu,
hiểm" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong
sử dụng chiến lược "Diễn biến hoà bình" đối với Việt Nam là thực hiện âm
mưu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái
nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế

4
quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch không từ bỏ bất kì thủ
đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết,
cụ thể:
Thủ đoạn về kinh tế. Chúng muốn chuyển hoá nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng
bước làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi dụng sự
giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để
đặt ra các điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hoá Việt
Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thủ đoạn về chính trị. Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế
độ "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập", "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã
hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần
tử phản động trong nước và ngoài nước, lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân
quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Tận
dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước ta, sẵn
sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Thủ đoạn về tư tưởng - văn hoá. Chúng thực hiện nhiều hoạt động
nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phá vỡ nền tảng
tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư sản vào
các tầng lớp nhân dân. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập
những sản phẩm văn hoá đồi trụy, lối sống phương Tây, để kích động lối sống
tư bản trong thanh niên từng bước làm phai mờ bản sắc văn hoá và giá trị văn
hoá của dân tộc Việt Nam.
Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc. Chúng lợi dụng những khó
khăn ở những vùng đồng bào dân tộc ít người, những tồn tại do lịch sử để lại,
trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào còn thấp và những khuyết điểm

5
trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của một bộ phận cán bộ để
kích động tư tưởng đòi li khai, tự quyết dân tộc.
Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để truyền
đạo trái phép nhằm thực hiện âm mưu tôn giáo hoá dân tộc, từng bước gây
mất ổn định xã hội và làm chệch hướng chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Các thế lực thù địch lợi
dụng xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện xâm nhập, tăng cường hoạt
động tình báo thu thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối với lực lượng
vũ trang. Đối với quân đội và công an, các thế lực thù địch chủ trương vô hiệu
hoá sự lãnh đạo của Đảng với luận điểm "phi chính trị hoá" làm cho các lực
lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu.
Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại. Các thế lực thù địch lợi dụng chủ
trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước trên thế giới để tuyên truyền và hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo của
chủ nghĩa tư bản. Hạn chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với
các nước lớn trên thế giới, tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào
Việt Nam. Đặc biệt, chúng rất coi trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị
giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, hạ thấp uy
tín của nước ta trên trường quốc tế.
1.2.2. Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt
Nam
Các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống
lưu vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất mãn trong
nước gây rối, làm mất ổn định xã hội ở một số vùng nhạy cảm như Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam bộ của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động
xảo quyệt để lôi kéo, mua chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu
tình chống lại chính quyền địa phương. Vùng Tây Bắc, chúng kích động
người H’Mông đòi thành lập khu tự trị riêng. Vùng Tây Nguyên, chúng ra sức
tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ thời cơ thuận lợi để tiến hành lật
đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo
loạn lật đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: Kích động sự bất
bình của quần chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho

6
lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế
cơ quan quyền lực của địa phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản
động tìm mọi cách để mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài
trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để tăng sức mạnh.
Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện
âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy
mô, địa điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lí trong đấu tranh chống
bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng
lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài.
1.3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG CHÂM
PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO
LOẠN LẬT ĐỔ CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA
1.3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của chiến lược "Diễn biến hoà bình" mà các thế lực thù địch
tiến hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta là phải làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược
"Diễn biến hoà bình" của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. Giữ vững ổn
định chính trị  xã hội của đất nước, tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ; bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá ; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích
quốc gia, dân tộc.
1.3.2. Nhiệm vụ
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định kiên quyết làm thất bại mọi âm
mưu và thủ đoạn "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ. Đây là nhiệm vụ cấp
bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng  an ninh hiện nay, đồng thời,
còn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Chủ động phát hiện âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, kịp thời tiến công
ngay từ đầu. Xử lí nhanh chóng, hiệu quả khi có bạo loạn xảy ra và luôn bảo
vệ tốt chính trị nội bộ.
1.3.3. Quan điểm chỉ đạo

7
 Đấu tranh chống "Diễn biến hoà bình" là một cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực.
Thực chất chiến lược "Diễn biến hoà bình" mà các thế lực thù địch sử
dụng để chống phá cách mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến
lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó là
nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và chuyển hoá theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do đó, cuộc đấu
tranh sẽ hết sức gay go, quyết liệt và lâu dài trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
 Chống "Diễn biến hoà bình" là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch sử
dụng trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" với nhiều đòn tấn công "mềm"
trên tất cả các lĩnh vực để chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, Đảng ta đã
xác định rõ nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là
toàn diện, coi trọng giữ vững an ninh kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng.
 Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả
hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu
tranh chống "Diễn biến hoà bình".
Các thế lực thù địch sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống phá công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đánh vào mọi tầng lớp nhân dân
lao động, mọi tổ chức chính trị  xã hội, mọi lĩnh vực. Do đó, phải phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
1.3.4. Phương châm tiến hành
Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững bên trong với chủ động ngăn chặn,
phòng ngừa và chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "Diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Do đó, mọi cấp, mọi ngành, mọi
người dân phải thấy rõ tính chất nham hiểm của chiến lược "Diễn biến hoà
bình". Từ đó, phải nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động tiến công làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của kẻ
thù nhằm chống phá cách mạng nước ta.

8
- Chủ động, kiên quyết, khôn khéo xử lí tình huống và giải quyết hậu quả
khi có bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo
loạn. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao giờ cũng chủ động chống
phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước làm suy yếu từ bên trong
và khi có thời cơ tiến hành lật đổ chế độ xã hội. Thực tế chứng minh, chủ động
tấn công sẽ tạo thuận lợi giành thắng lợi trong chiến tranh nói chung và trong
phòng chống chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với
nước ta nói riêng.
- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
chống phá của kẻ thù đối với Việt Nam. Trên thực tế, kẻ thù thường cấu kết
lực lượng phản động ở ngoài nước với những phần tử cực đoan, chống đối ở
trong nước bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và thâm hiểm. Do vậy, phải thường
xuyên coi trọng xây dựng tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội,
xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt. Chú trọng tuyên truyền
giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân lao động hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn cơ
bản trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" mà kẻ thù sử dụng để chống phá sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
1.4. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1.4.1. Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về
kinh tế
Muốn ngăn chặn, đấu tranh đạt hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ
đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với
nước ta thì phải giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng
vững mạnh về mọi mặt. Tệ quan liêu, tham nhũng được kẻ thù lợi dụng để
khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động nhân dân lao động đứng lên biểu tình
chống lại chính quyền địa phương, chống Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn
định xã hội. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã
hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ

9
tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và thúc đẩy yếu tố bên
trong của đất nước luôn ổn định.
1.4.2. Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, nắm chắc mọi diễn biến không để bị động và bất ngờ
Chủ động nắm địch, phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu. Do vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người
dân Việt Nam, mọi tổ chức chính trị  xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu,
thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của kẻ thù chống phá cách
mạng Việt Nam. Cần phải đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất
cảnh giác cách mạng trong một bộ phận nhân dân, sinh viên trước âm mưu,
thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" của kẻ thù chống
phá nước ta hiện nay. Mỗi người dân Việt Nam phải có tri thức, có bản lĩnh
chính trị, có phương pháp xem xét phát hiện và báo cáo kịp thời thủ đoạn
chống phá của kẻ thù cho cơ quan chức năng xử lí, không để bất ngờ.

1.4.3. Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân


Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực
có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ và
các thế lực thù địch lợi dụng sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và
Đông Âu, lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố, tấn công quyết liệt vào độc
lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa
trong đó có nước ta. Vì vậy, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng,
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các thành quả cách mạng.
Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân
dân phải mang tính toàn diện, nhưng tập trung vào : Giáo dục tình yêu quê
hương, đất nước; tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
chống phá đất nước ta; quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới; tinh thần sẵn sàng xả thân

10
vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh... hình thức giáo dục phải đa dạng,
phù hợp với từng đối tượng.
1.4.4. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh về mọi mặt
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ xã
hội luôn ổn định, phát triển. Do vậy, phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh; theo quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân
dân, mọi thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất
nước; đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, người đang công tác và người đã
nghỉ hưu, người trong nước và người đang sinh sống ở nước ngoài.
Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của
đảng viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, nền nếp hoạt động của các tổ chức quần chúng... Duy trì nghiêm kỉ luật
của Đảng ở các cấp, xử lí kịp thời những đảng viên, tổ chức đảng có khuyết
điểm, khen thưởng kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng
thực hiện tốt đường lối, chủ trương, Điều lệ Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
1.4.5. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương vững
mạnh
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở
tất cả các làng, bản, phường, xã, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương,
cơ sở. Phải chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất
lượng nhưng lấy chất lượng là chính.
Ở mỗi địa phương, phải chú trọng kết hợp phát động phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Quần
chúng là nền tảng, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Vì vậy, quần chúng cũng là đối tượng để kẻ thù lợi dụng,
mua chuộc nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến
hoà bình", bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng nước ta.

11
1.4.6. Xây dựng, luyện tập các phương án, các tình huống chống
"Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của địch
Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược
"Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu
quả.
Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, xử trí theo nguyên tắc nhanh gọn -
kiên quyết - linh hoạt - đúng đối tượng - không để lan rộng, kéo dài. Từ đó,
xây dựng đầy đủ luyện tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương,
từng đơn vị, từng cấp, từng ngành. Hoạt động xử lí bạo loạn phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, các ngành, quân đội và công
an làm tham mưu.
1.4.7. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực
lượng sản xuất và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
đồng thời, là điều kiện để tăng năng suất lao động của xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động, để tạo nên sức mạnh của thế
trận "lòng dân".
Những giải pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một
chỉnh thể thống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong
chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống
phá cách mạng Việt Nam hiện nay. Vì vậy trong quá trình tổ chức thực hiện
nhiệm vụ này không nên coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một giải pháp nào.
KẾT LUẬN
Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, đồng thời cũng là một đối
tượng mà các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá nhằm làm suy thoái về đạo
đức, lối sống và phai nhạt niềm tin, lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mỗi
người phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân tốt, cống hiến
cho đất nước, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát
hiện và góp phần đấu tranh, ngăn ngừa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù trong chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ.

12
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá các nước xã hội chủ nghĩa
như thế nào?
3. Chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống phá đối với Việt nam hiện nay?
4. Những giải pháp cơ bản phòng, chống "Diễn biến hoà bình", bạo
loạn lật đổ ? Liên hệ với vai trò, trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong
phòng, chống "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ?

Bài 2
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC,
TÔN GIÁO VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Dân tộc và Tôn giáo là hai vấn đề có tính đặc trưng trong lịch sử tiến
hóa của loài người, nó có quy luật hình thành, phát triển và vận động riêng
song hành với sự ra đời các quốc gia, nhà nước và các thể chế chính trị. Do
vậy cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, lợi dụng vấn đề nhân quyền tác động vào các cộng đồng dân
tộc thiểu số, các tôn giáo nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây
bất ổn định chính trị, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của nhiều
quốc gia và nước ta… Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập vấn đề Dân tộc và
Tôn giáo… có một ý nghĩa chiến lược trong cuộc đấu tranh phòng chống
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay nói chung và trên lĩnh vực Dân tộc
và Tôn giáo nói riêng.
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC
2.1.1. Một số vấn đề chung về dân tộc

13
- Khái niệm: Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch
sử, tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia,
kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc
và tên gọi của dân tộc3. Khái niệm được hiểu:
+ Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ
đẻ) để giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc điểm
sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.
+ Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một
cộng đồng chính trị – xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên
một lãnh thổ chung, như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa...
- Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới:
Hiện nay, trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế
toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn
biến phức tạp, khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: trên thế giới, hoà bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc. Toàn
cầu hoá và các vấn đề toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hoá. Đồng thời
các dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, chống can thiệp áp
đặt và cường quyền.
Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất
phức tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn,
xung đột dân tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở
khắp các quốc gia, các khu vực, các châu lục trên thế giới... Đúng như Đảng
ta nhận định: "Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng,
diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia,
tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ,
khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở
nhiều khu vực."4. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đã gây nên những hậu quả

3
. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự
Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 300.
4
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2016, tr..

14
nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường cho các quốc gia, đe
doạ hoà bình, an ninh khu vực và thế giới.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác  Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh về dân tộc
và giải quyết vấn đề dân tộc:
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân
tộc.
+ Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các
dân tộc diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân
tộc và quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải
quyết.
Thực chất của vấn đề dân tộc là sự va chạm, mâu thuẫn lợi ích giữa các
dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong
quan hệ quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
+ Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Bởi do dân số và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều nhau; do sự khác biệt về lợi ích;
do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn,
dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi
chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống trị, kích
động chia rẽ của các thế lực phản động đối với các dân tộc.
Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc gắn kết chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Giải quyết vấn đề dân tộc
vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I. Lênin.
Đó là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự
quyết, liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc.
+ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn,
nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
nhau trên mọi lĩnh vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân
tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xoá bỏ mọi
hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp
luật hoá và thực hiện trên thực tế. Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực

15
hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân
tộc.
+ Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của
mỗi dân tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của
dân tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền
tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù
hợp với lợi ích chính đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc
lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các
dân tộc trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các
dân tộc, các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để
giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh
bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân
tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân
tộc.
Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn
cách mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
quan điểm dân tộc đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta
giải phóng dân tộc ; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân
tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và
cách mạng; đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng
quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và
giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra
con đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo
nhân dân xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc : bình đẳng,

16
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no,
hạnh phúc. Người rất quan tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt,
kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Người quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án, vạch trần mọi âm mưu thủ
đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của dân
tộc Việt Nam.
2.1.2. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm chính sách
dân tộc của Đảng Nhà nước ta hiện nay
- Khái quát đặc điểm các dân tộc ở nước ta hiện nay:
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc cùng sinh
sống. Các dân tộc ở Việt Nam có đặc trưng sau:
+ Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó xây dựng
quốc gia dân tộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các
dân tộc ở Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do
yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ dân tộc
ta đã phải sớm đoàn kết thống nhất. Các dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội
nguồn, chịu ảnh hưởng chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh
dân tộc, chung lợi ích cơ bản - quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết thống
nhất đã trở thành giá trị tinh thần truyền thống quý báu của dân tộc, là sức
mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước.
+ Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa
bàn rộng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu
số nào cư trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc
khác. Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân số như : Cao
Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...
+ Các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển
không đều. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999, nước ta có 54 dân tộc,
trong đó dân tộc Kinh có 65,9 triệu người, chiếm 86,2% dân số cả nước, 53
dân tộc thiểu số có 10,5 triệu người chiếm 13,8% dân số cả nước. Dân số của
các dân tộc thiểu số cũng chênh lệch nhau. Có hai dân tộc có số dân từ 1 triệu
trở lên, có 10 dân tộc có số dân từ 100 ngàn người đến dưới 1 triệu người ; 20

17
dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người ; 16 dân tộc có số dân từ 1 ngàn người
đến dưới 10 ngàn người; 5 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người là: Sila,
Pupéo, Rơmăm, Ơđu, và Brâu.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều nhau. Có
dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối khá như dân tộc
Kinh, Hoa, Tày, Mường, Thái..., nhưng cũng có dân tộc trình độ phát triển thấp,
đời sống còn nhiều khó khăn như một số dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây
Nguyên...
+ Mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hoá riêng, góp phần
làm nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của văn hoá Việt Nam. Các dân
tộc đều có sắc thái văn hoá về nhà cửa, ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa
dạng, phong phú của văn hoá Việt Nam. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm
chung thống nhất về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của
văn hoá các dân tộc ở Việt Nam.
- Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán:
"Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ,
gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam"5. Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tập trung:
Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các
dân tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kì
thị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã
hội, chống phá cách mạng; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÔN GIÁO

5
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 16.

18
2.2.1. Khái niệm tôn giáo
- Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản
ánh hiện thực khách quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp
với tâm lí, hành vi của con người6. Theo Từ điển tiếng Việt thì tôn giáo là “hệ
thống những quan niệm, tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và
ngững hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy”7
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu
tố: Hệ thống giáo lí tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ
giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.
- Phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là những hiện
tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với
lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp
đến đời sống vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một
hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời
sống tinh thần xã hội.
2.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Có nguồn gốc từ các yếu tố kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lí.
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực
trước tự nhiên. Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên
có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.
Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai
cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.
Lênin đã viết: "Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống
bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới
bên kia"8. Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và xã hội
; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,... vẫn còn
diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận
thức hạn hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận
6
. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự
Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 984.
7
. Tudientv.com
8
. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 12, NXB Tiến bộ, Mátxcơva 1979, tr. 169170.

19
của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra
các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình của nhận thức, con người
có thể nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng xa lạ với hiện thực khách
quan.
- Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu,
sợ hãi, buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm
chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết
ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại
các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo
nảy sinh.
- Tính chất của tôn giáo. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác,
tôn giáo có tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị.
+ Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh
và phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn tại
rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và
tư duy.
+ Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của
quần chúng bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo).
Tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân
cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tôn
giáo.
+ Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp. Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp
bức bóc lột và mê hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và
đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội
khác nhau lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
2.2.3. Tình hình tôn giáo trên thế giới và quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Tình hình tôn giáo trên thế giới
Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế
giới có tới 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn 1
triệu tín đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo (bao
gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2 tỉ tín

20
đồ, chiếm 33% dân số thế giới; Hồi giáo: 1,3 tỉ tín đồ, chiếm 22% dân số thế
giới; Ấn Độ giáo: 900 triệu tín đồ, chiếm 15% dân số thế giới và Phật giáo:
360 triệu, chiếm 6% dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn đã có
4,2 tỉ người tin theo, chiếm 76% dân số thế giới.
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động,
diễn ra theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh
hưởng ra toàn cầu; các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hoá, bình dân hoá,
mềm hoá các giới luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc
gia dân tộc; các tôn giáo cũng tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các
chức năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hoá, tích cực tham gia các hoạt
động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi
động và không kém phần phức tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với
xu hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hoá, thần bí hoá giáo chủ đang nổi lên;
đồng thời, nhiều "hiện tượng tôn giáo lạ" ra đời, trong đó có không ít tổ chức
tôn giáo là một trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc
gay gắt trên thế giới hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
tiếp tục lợi dụng tôn giáo để chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc
độc lập.
Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao
lưu giữa các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đã giúp
cho việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác hữu
nghị, hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh
bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt
Nam; góp phần đào tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù
địch cũng lợi dụng sự mở rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào
tôn giáo trong và ngoài nước chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình
phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,

21
chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện
các vấn đề có tính nguyên tắc sau:
+ Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng
khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn
gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải
quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh
vực nhằm xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công,
nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng mệnh lệnh hành chính
cưỡng chế để tuyên chiến, xoá bỏ tôn giáo.
+ Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội
dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là: bất kì ai cũng được tự do theo tôn
giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ
đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt
tín ngưỡng tôn giáo đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo
hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và
cá nhân đều phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do
không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng
tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm
cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật.
+ Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn
giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy,

22
khi xem xét, đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần
phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn
cứng nhắc. Những hoạt động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt
động ích nước lợi dân được khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược
lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo pháp luật.
+ Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng
trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn
giáo chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị
của tôn giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác
nhau hoặc giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng
của tôn giáo.
Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân,
mặt khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế
lực lợi dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải
quyết vấn đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
quần chúng nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo ; phát huy tinh thần
yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo ; kiên quyết vạch trần và
xử lí kịp thời theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống
phá cách mạng.
2.2.4. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay
- Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo các tôn
giáo. Hiện nay, ở nước ta có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành,
Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo với số tín đồ lên tới hơn 20 triệu.
Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát
triển tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo
hội đều tăng cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường
quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây
dựng mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi.

23
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng
chống đối, cực đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các
hoạt động tôn giáo xen lẫn với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt
động làm mất trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá
cách mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề "dân chủ", "nhân quyền" với cái gọi
là "tự do tôn giáo" để chia rẽ tôn giáo, dân tộc ; tài trợ, xúi giục các phần tử
xấu trong các tôn giáo truyền đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những
hoạt động trái pháp luật, gây mất ổn định chính trị.
- Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,
Đảng ta khẳng định: tôn giáo còn tồn tại lâu dài, còn là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân ; tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức tích cực
phù hợp với xã hội mới; đồng bào tôn giáo là một bộ phận quan trọng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ngưỡng của
quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách
mạng.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
sống "tốt đời, đẹp đạo", góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo. Về chính sách tôn giáo, Đảng ta khẳng định : "Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn
giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo

24
pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển
kinh tế  xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn
giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm
quyền tự do tôn giáo của nhân dân"9.
2.3. ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.3.1. Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của
các thế lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược
"Diễn biến hoà bình" chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính
trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn
giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức
ép về quân sự.
Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng
yếu mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc
lợi dụng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hoá chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam; xoá vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội,
thực hiện âm mưu "không đánh mà thắng".
Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số
với dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào
theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại
chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân
tộc, các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng

9
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr. 122123.

25
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hoá sự quản lí của Nhà nước
đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất
là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà
nước ta, nên chúng thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để
các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước,
chuyển hoá chế độ chính trị ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các
tôn giáo như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề
Ga, Nhà nước Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận
Chămpa để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam.
2.4.2. Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho
người ta tin và làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài "nhân quyền", "dân
chủ", "tự do"; những vấn đề lịch sử để lại ; những đặc điểm văn hoá, tâm lí
của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo; những khó khăn trong đời sống vật
chất, tinh thần của các dân tộc, các tôn giáo; những thiếu sót trong thực hiện
chính sách kinh tế  xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước
ta để chống phá cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở
các dạng sau :
 Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là
quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi
dụng những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để
gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
 Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động
tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ
lương - giáo và giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
 Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế xã hội; mua chuộc,
lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt

26
biên trái phép, gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để
vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân
quyền để cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam.
 Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức
phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng
phản động trong các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá
cách mạng Việt Nam như: truyền đạo trái phép để "tôn giáo hoá" các vùng
dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính
quyền. Điển hình là các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004, việc
truyền đạo Tin Lành trái phép vào các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây
Nguyên.
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu
thủ đoạn đó của chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc
hoàn toàn vào chúng, mà chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng
ngăn chặn, sự chủ động tiến công của chúng ta.
2.4.3. Giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
Để vô hiệu hoá sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các
thế lực thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng
cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Hiện nay, cần tập trung vào những giải pháp cơ bản, cụ thể sau:
 Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc,
tôn giáo của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn
dân. Đây là giải pháp đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận
thức, tư tưởng của cả hệ thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng
bào các dân tộc, tôn giáo về các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt

27
chính sách dân tộc, tôn giáo, vô hiệu hoá được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo của các thế lực thù địch.
Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp.
Hiện nay cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát
triển kinh tế  xã hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho
đồng bào các dân tộc, các tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật của nhà nước, khơi dậy lòng tự tôn tự hào dân tộc, truyền
thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục để đồng bào hiểu rõ âm mưu
thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch, để đồng bào đề cao
cảnh giác không bị chúng lừa gạt lôi kéo lợi dụng. Vận động đồng bào các
dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực hiện đúng chính
sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo.
 Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan
trọng nhằm nâng cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn
nham hiểm của kẻ thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở
rộng, đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của mặt
trận và các đoàn thể nhân dân. Kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc.
Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt
chính sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp
đỡ nhau giữa các dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giáo,
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm
dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề
quan trọng để vô hiệu hoá sự chống phá của kẻ thù.
 Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các
dân tộc, các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét

28
đến cùng có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời
sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào
Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù
nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt
Nam.
Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu
tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân tộc, vùng tôn giáo tạo mọi
điều kiện giúp đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xoá đói
giảm nghèo nâng cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ bản sắc văn hoá các dân tộc.
Khắc phục sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các
tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết các
dân tộc, các tôn giáo phải bằng những hành động thiết thực cụ thể như: ưu
tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất.
 Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người
có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù
địch. Tích cực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn
giáo. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ
cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí và cán bộ chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là
người dân tộc thiểu số, người có tôn giáo. Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có
rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công
tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương châm: chân thành, tích cực,
thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc
thù từng dân tộc, từng tôn giáo.
 Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi
âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù
địch; kịp thời giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ
mặt phản động của kẻ thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng
thời, vận động, bảo vệ đồng bào các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch
mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn xảo trá của chúng. Phát huy vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này.

29
Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề
dân tộc, tôn giáo. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành
động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đồng bào gây bạo
loạn. Khi xuất hiện điểm nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết
kịp thời, không để lan rộng, không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm
minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan cố chống phá cách mạng.
Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động những người nhẹ dạ, cả tin nghe
theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng
với những người lầm lỗi đã ăn năn hối cải, phục thiện.

KẾT LUẬN
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi dân tộc có những
đặc trưng riêng về văn hóa, tâm lý, ý thức tộc người, có trình độ phát triển
không đều nhau; mỗi tôn giáo có hệ thống giáo lý và tổ chức giáo luật khác
nhau nhưng đều là bộ phận trong khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Để
chống phá cách mạng Việt Nam, phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc, các thế lực thù địch tiến hành những âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc
nhằm chia rẽ đồng bào thuộc các tộc người, các tôn giáo khác nhau, kích động
sự chi rẽ kỳ thị dân tộc, tôn giáo, xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc tôn
giáo của Đảng, gây rối loạn an ninh chính trị. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải
hết sức nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại
những âm mưu thâm độc của kẻ thù nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề dân tộc và tôn
giáo?
3. Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?
4. Những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?

30
Bài 3
PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật
về môi trường diễn biến rất phức tạp, phổ biến trên nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội. Tội phạm môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên,
biến đổi khí hậu, chất lượng môi trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Trên
một số địa bàn, lĩnh vực, hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường gây hậu quả đặc biệt nghiêm trong làm phức tạp tình hình an ninh
trật tự, an toàn xã hội gây bức xúc trong xã hội.
3.1 VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG
3.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về môi trường
- Vi phạm pháp luật: Là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Như vậy, vi phạm pháp luật là một hiện tượng nguy hiểm,
tác động tiêu cực và làm mất ổn định xã hội. Tính nguy hiểm thể hiện ở chỗ
nó xâm hại tới lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, xã hội.
- Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Theo Từ điển tiếng Việt thì
môi trường là “ toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người
hay một sinh vật tồn tại” còn môi trường sinh thái được hiểu là “toàn bộ các
điều kiện vô cơ và hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh hưởng đến đời sống của xã
hội loài người”10. Trong phạm vi nghiên cứu của bài này chúng ta chỉ nghiên
cứu những hành vi vi phạm pháp luật trong bảo vệ môi trường sinh thái, địa
bàn mà con người và xã hội tồn tại, phát triển. Môi trường sống đó được pháp
luật bảo vệ nhằm bảo đảm cho con người và xã hội sống hài hòa với tự nhiên.
Từ đó ta có thể quan niệm: Vi phạm pháp luật môi trường là hành vi trái với
pháp luật về bảo vệ môi trường, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do chủ thể có năng

10
. http://tudientv.com/

31
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các lĩnh vực môi trường được
pháp luật bảo vệ.
Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua cho thấy, Việt Nam
đã mở ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh hiệu quả về phát triển
kinh tế xã hội. Việt Nam cũng đối diện với vấn đề môi trường bị ô nhiễm,
nguồn. Các khu công nghiệp, làng nghề, khu đô thị được hình thành nhanh
chóng làm cho nguồn rác thải công nghiệp cũng như rác thải sinh hoạt đưa
vào môi trường ngày càng nhiều, gây ô nhiễm không khí, đất, nước. Hầu hết
các khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý môi trường tập trung hoặc có
nhưng hoạt động chỉ mang tính chất đối phó; việc các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất xả nước thải trực tiếp ra sông, biển là khá phổ biến. Tình trạng nhập
khẩu trái phép chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu
sản xuất trong nước, kể cả thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến
nước ta thành bãi thải công nghiệp. Tình trạng săn bắt, buôn bán động vật
hoang dã, quý hiếm xảy ra hết sức nghiêm trọng, làm giảm tính đa dạng sinh
học; số vụ ngộ độc thực phẩm, ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật tăng nhanh
làm cho tình hình tội phạm về môi trường và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường ở Việt Nam ngày càng gia tăng, không những ảnh hưởng tới tính
mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại nghiêm
trọng đối với môi trường nói chung.
3.1.2 Các vi phạm pháp luật về môi trường
- Các hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường
Các hành vi vi phạm các quy định về kế hoạch bảo vệ môi trường, đánh
giá tác động môi trường và đề án bảo vệ môi trường; Các hành vi gây ô nhiễm
môi trường; Các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải; Các hành
vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ (sau đây gọi chung là cơ sở) và khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu kinh doanh dịch vụ tập trung (sau đây
gọi chung là khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung); Các hành vi vi
phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu máy
móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,

32
phế liệu, chế phẩm sinh học; nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; hoạt
động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản; Các hành vi vi phạm các quy
định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi
trường; Các hành vi vi phạm hành chính về đa dạng sinh học bao gồm: Bảo
tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn và phát triển bền
vững các loài sinh vật và bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền;
Các hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, xử phạt
vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm quy định khác về bảo vệ môi
trường. Các hành vi vi phạm hành chính có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi
trường mà không quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy định tại các
Nghị định khác của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý nhà nước có liên quan để xử phạt.
- Các hành vi vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi trường
Gây ô nhiễm môi trường; Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại; Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường; Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê
điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông; Tội
đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm cho người; Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật,
thực vật; Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản; Tội hủy hoại rừng; Tội vi phạm
quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; Tội vi phạm các
quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên; Tội nhập khẩu, phát tán các loài
ngoại lai xâm hại.
3.1.3. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt
Nam
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về môi trường có những
diễn biến phức tạp. Trên thế giới đã biểu hiện rõ hiện tượng dịch chuyển ô
nhiễm xuyên biên giới từ các nước phát triển sang các nước đang và kém
phát triển, thông qua các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ, xuất
nhập khẩu... Thậm chí, một số nước còn sử dụng tội phạm môi trường như
một công cụ để tấn công phá hoại nền kinh tế nước khác. Các sự cố môi
trường nghiêm trọng thời gian qua trên thế giới như tràn dầu trên vịnh

33
Mexico, vỡ bể chứa bùn đỏ tại Hungari,... đặt ra nhiệm vụ càng quan trọng
cho công tác cảnh báo, phòng ngừa vi phạm pháp luật về môi trường.
Ở trong nước, vi phạm pháp luật môi trường diễn ra trong nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế của đất nước, xâm
phạm trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân như gây ô nhiễm nguồn nước, không
khí, lo lắng về thực phẩm kém an toàn... tại một số địa phương đã trở thành mầm
mống mất an ninh trật tự. Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường nổi lên ở
một số lĩnh vực sau:
Trong sản xuất công nghiệp, lợi dụng chủ trương mở cửa, chính sách
thu hút vốn đầu tư của Nhà nước cùng với những sơ hở về pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài
nước đã đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh, nhưng không chú trọng việc
xây dựng các hệ thống xử lý chất thải, nhất là các nhà máy, cơ sở sản xuất
trong các khu công nghiệp đang trong giai đoạn hoàn thiện và các cơ sở nằm
trên lưu vực sông. Đáng lo ngại là các doanh nghiệp tuy có hệ thống xử lý
chất thải, nhưng luôn cố tình vi phạm, thủ đoạn tinh vi, lén lút để xả thải ra
môi trường như xây dựng hệ thống bí mật, phức tạp, được nguỵ trang bằng hệ
thống đạt tiêu chuẩn nên rất khó phát hiện, điển hình vụ Công ty Vedan Việt
Nam, Công ty Tungkuang, Công ty TNHH Miwon, Công ty thuộc da Hào
Dương, Công ty giấy Việt Trì, Fomosa Hà tĩnh….
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, tình trạng nhập khẩu trái phép
chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, thiết
bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi rác thải công
nghiệp, với thủ đoạn như “tạm nhập, tái xuất”, khi bị phát hiện thì khai là “gửi
nhầm hàng” và xin được chuyển trả lại… Một số doanh nghiệp lợi dụng cơ
chế kiểm hoá xác suất, thậm chí móc nối với một số tổ chức kiểm định, giám
định để có kết luận hàng hoá đạt tiêu chuẩn về môi trường, câu kết với nhân
viên hải quan để lấy mẫu trong các lô hàng đảm bảm yêu cầu chất lượng đã
được chuẩn bị sẵn, từ đó dễ dàng được thông quan nhập rác vào nước ta.
Nghiêm trọng hơn cả là hành vi nhập rác thải sinh hoạt, các loại chất dioxin,
thực phẩm kém chất lượng, bột xương bò điên, kể cả chất có phóng xạ, các
thiết bị công nghệ lạc hậu sản xuất từ những năm 60 của thế kỷ trước.

34
Trong hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ đa dạng sinh
học, trong nhiều năm qua, nạn chặt phá rừng ở nước ta vẫn đang diễn ra rất bức
xúc, đặc biệt là tình trạng chặt phá các khu rừng nguyên sinh, khu bảo tồn thiên
nhiên, rừng phòng hộ… với thủ đoạn lợi dụng chính sách chuyển đổi “rừng
nghèo”, xây dựng thuỷ điện, phát quang biên giới để khai thác rừng bừa bãi, kèm
theo tình trạng chống người thi hành công vụ gây phức tạp tình hình an ninh trật
tự ở nhiều địa phương. Tại các khu vực khai thác khoáng sản, do sử dụng hoá
chất như thuỷ ngân, kim loại nặng, nên nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu bị ô
nhiễm, không có biện pháp hoàn nguyên môi trường, chống xói mòn, rửa trôi,
làm ảnh hưởng hệ sinh thái, gây phong hoá biến rừng thành đất trống đồi núi
trọc, tiềm ẩn nguy cơ lũ quét cao.
Tình trạng săn bắn, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, quý
hiếm diễn ra công khai ở nhiều nơi. Qua một số vụ việc do lực lượng cảnh
sát môi trường điều tra, khám phá cho thấy vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
này tiếp diễn phức tạp, nhất là buôn bán các loài động vật quý hiếm có lợi
nhuận cao như hổ, tê tê. Các đường dây mua bán, vận chuyển động vật
hoang dã qua biên giới thủ đoạn tinh vi, che giấu bằng nhiều hình thức nhằm
đối phó với cơ quan chức năng. Việt Nam đang là nước trung chuyển các
loại ĐVHD và sản phẩm từ ĐVHD cho nước thứ ba
Trong sản xuất làng nghề, với trên 2700 làng nghề trong cả nước,
nhưng hầu hết do quy mô sản xuất nhỏ lẻ ở hộ gia đình, trình độ sản xuất thủ
công theo kinh nghiệm, công nghệ sản xuất thô sơ, không quan tâm đến vấn
đề xử lý chất thải, dẫn đến tình trạng môi trường tại các làng nghề rất đáng
báo động. Chất thải từ hoạt động sản xuất của các làng nghề nhìn chung
không được xử lý mà xả trực tiếp ra mương, ao, hồ, ruộng lúa,… Các chất
thải độc hại khó phân huỷ tại các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề thuộc
da, dệt nhuộm và tái chế kim loại, đã làm cho các chỉ tiêu BOD, COD, SS đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường và sức khoẻ của nhân dân. 
Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm: Tình hình nhập khẩu thực
phẩm không đạt tiêu chuẩn trong thời gian qua có dấu hiệu lắng xuống nhờ sự
vào cuộc quyết liệt của công an và các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, hoạt

35
động buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ gia súc, gia cầm không qua kiểm dịch
theo đường tiểu ngạch vẫn diễn ra phức tạp, nhất là từ khu vực biên giới phía
Bắc. Các hoạt động buôn bán, vận chuyển sản phẩm gia súc như da, mỡ,...
diễn ra nhỏ lẻ, gây khó khăn cho công tác kiểm soát. Dịch bệnh có dấu hiệu
bùng phát trở lại, nhất là dịch lợn tai xanh, nhân dân một số địa phương tại Hà
Nội, Hải Dương không xử lý gia súc chết do bệnh gây ô nhiễm, thậm chí có
nơi còn bán ra thị trường, gây nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực phẩm.
Vấn đề quản lý, xử lý chất thải nguy hại đang bị buông lỏng, mặc dù có
trên 60 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, nhưng phần lớn trong số
đó chưa được đầu tư thỏa đáng, công nghệ xử lý lạc hậu nên đã góp phần vào
việc gây ô nhiễm môi trường. Thâm chí có doanh nghiệp còn chôn hàng ngàn
tấn chất thải nguy hại xuống dưới lòng đất nhằm giảm chi phí xử lý.
Trong những năm tới, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường dự báo vẫn còn nhiều diễn biến mới, phức tạp, chưa thể giải quyết một
sớm một chiều. Do hệ thống pháp luật đang từng bước sửa đổi, bổ sung hoàn
thiện, lực lượng chuyên trách làm công tác quản lý cũng như thực hiện chức
năng phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường cũng đang từng
bước củng cố năng lực để thực thi pháp luật, nên các đối tượng vẫn sẽ khai thác
triệt để những kẽ hở này để vi phạm, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp; kinh doanh nhập khẩu; khai thác tài nguyên, khoáng sản; lĩnh vực quản
lý, xây dựng đô thị sẽ có những diễn biến phức tạp mới. Vi phạm pháp luật môi
trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất; vấn đề xử lý chất thải công
nghiệp vẫn còn nhức nhối và khó kiểm soát; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm,
quản lý môi trường trong lĩnh vực y tế, trong lĩnh vực quản lý thuốc bảo vệ thực
vật, vẫn đặt ra cho các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên trách phòng chống tội
phạm môi trường những thách thức mới. Vì lợi nhuận, tội phạm và các doanh
nghiệp thiếu đạo đức vẫn sẽ móc nối với các nhân viên nhà nước biến chất, hám
lợi, cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài để nhập khẩu rác, phế thải, thiết
bị máy móc cũ vào Việt Nam... Các doanh nghiệp nước ngoài do áp lực về môi
trường ở nước họ, sẵn sàng đầu tư các công nghệ lạc hậu vào Việt Nam nhằm
trốn phí môi trường, thủ đoạn ngày một tinh vi hơn. Tình hình khai thác tài
nguyên, khoáng sản bừa bãi thiếu kiểm soát, tiếp nhận đầu tư một số lĩnh vực

36
giải trí như sân Golf gây ô nhiễm môi trường, phá hoại đa dạng sinh học dẫn đến
các nguy cơ sự cố môi trường. Nếu không có chính sách quản lý tốt, tình hình vi
phạm pháp luật môi trường ở các khu chế xuất, khu công nghiệp sẽ dẫn đến
phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Do áp lực về yêu cầu tăng trưởng
kinh tế, áp lực về công ăn việc làm, về đối ngoại, về an sinh xã hội nên việc xử
lý các vi phạm pháp luật về môi trường vẫn là bài toán nan giải. Việc tổ chức
phát hiện vi phạm không khó, nhưng việc xử lý sai phạm, đặc biệt là các doanh
nghiệp lớn, có yếu tố nước ngoài, số lượng lao động đông lại rất khó khăn.
Trước tình hình đó lực lượng Công an nhân dân xác định những nhiệm vụ và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về môi trường trong thời gian tới như sau:
3.2. GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
3.2.1. Những khó khăn trong đấu tranh phòng, chống vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường
Bên cạnh những thuận lợi có được, công tác đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn có những khó khăn sau đây:
- Việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm về môi trường
ngày một khó khăn hơn. Nguyên nhân do phương thức, thủ đoạn của loại tội
phạm này ngày một tinh vi hơn, có sự đối phó với các cơ quan chức năng, đòi
hỏi lực lượng Công an nhân dân phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp
nghiệp vụ, huy động lực lượng và phương tiện, tổ chức theo dõi thời gian dài.
Một khó khăn khác trong công tác điều tra, xử lý là nhiều vi phạm có yếu tố
nước ngoài, trong một số vụ việc khi xử lý phải cân nhắc vì yếu tố ngoại giao,
giải quyết bài toán “phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - công ăn việc làm
của người lao động”. Nhiều nơi, nhiều lúc việc xử lý còn gặp cản trở, áp lực
từ phía các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ...
- Việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường chưa có sự đồng đều,
thống nhất và chưa thực sự nghiêm minh, có nguyên nhân là do quan điểm xử
lý giữa các địa phương, một số bộ, ngành chưa thống nhất. Nhiều nơi do ưu
tiên phát triển kinh tế nên kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt,
không quan tâm đến việc thẩm định, đánh giá ảnh hưởng của các dự án đối

37
với môi trường, nhất là các dự án thuộc lĩnh vực trọng điểm hoặc khi xử lý
đối với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung
nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế tài chưa đủ mạnh để răn
đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng “lách luật”. Lực lượng Cảnh sát môi
trường mới thành lập mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kinh nghiệm còn có
phần hạn chế.
3.2.2. Giải pháp đối với cơ quan, tổ chức trong phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
a) Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật
- Đối với cơ quan công an
Tiếp tục tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước và các kế hoạch, chỉ thị của Bộ Công an về công tác bảo vệ
môi trường, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về
môi trường, làm cho mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân hiểu sâu sắc và
nhận thức rõ nhiệm vụ công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Rà soát kỹ các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của lực lượng
Cảnh sát môi trường để tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội bổ sung, hoàn
thiện theo hướng tăng thẩm quyền điều tra tố tụng và xử lý vi phạm hành
chính cho lực lượng Cảnh sát môi trường.
Triển khai các kế hoạch, biện pháp nghiệp vụ CAND nhằm nhanh
chóng phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm về môi trường. Kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức Cảnh sát
phòng, chống tội phạm về môi trường các cấp. Làm tốt công tác tuyển dụng,
đào tạo huấn luyện, phân công bố trí cán bộ Cảnh sát môi trường. Đồng thời
phối hợp với lực lượng Cảnh sát các nước có kinh nghiệm để tổ chức phòng
ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm môi trường.
Đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm về môi trường. Vì quần chúng nhân dân là tai mắt của
lực lượng cảnh sát môi trường trong việc phát hiện các tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

38
Phòng, chống tội phạm về môi trường là lĩnh vực nghiệp vụ mới của
lực lượng Công an nhân dân. Chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường thường khó phát hiện, thu thập, bảo quản. Hành vi
xâm hại đến môi trường lại diễn ra trong một thời gian dài, đến khi bị phát
hiện thì nó đã gây ra hậu quả lớn và trên diện rộng cho xã hội. Vì vậy, để đấu
tranh có hiệu quả đối với tội phạm về môi trường cần phải nâng cao năng lực
chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ điều tra. Bên cạnh
đó, cán bộ điều tra phải thực hiện nhiệm vụ với tinh thần tích cực, khẩn
trương, kiên quyết và thận trọng trong công tác điều tra các tội phạm về môi
trường.
Cần trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại trong công tác
phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của
lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đó là các thiết bị đo kiểm; thu, bảo quản và vận
chuyển mẫu; phân tích môi trường về đất, nước, khí, chất rắn, phóng xạ…
Việc quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật này phải đảm bảo yêu cầu
về kiểm định, đo lường chất lượng của Nhà nước và theo đúng quy định,
hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và
cá nhân trong quá trình hoạt động, sản xuất, kinh doanh và dịch vụ khi có yêu
cầu của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành việc giám
sát, phát hiện, xử lý đối với các hành vi vi phạm được phát hiện bằng các
phương tiện, thiết bị kỹ thuật về môi trường và có quyền khiếu nại theo quy
định của pháp luật. Nghiêm cấm các hành vi cản trở, hạn chế hoặc vô hiệu
hóa tính năng kỹ thuật của các phương tiện, thiết bị kỹ thuật về môi trường.
Trong công tác phối kết hợp với các lực lượng, cần phối hợp với cơ
quan tài nguyên môi trường và các cơ quan chức năng khác có liên quan để
trao đổi thông tin nắm bắt tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
cũng như việc phát hiện tội phạm về môi trường; xây dựng quy chế phối hợp
liên ngành trên cơ sở đó Cơ quan điều tra cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án,
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về các tội
phạm về môi trường để đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Đối với Viện kiểm sát nhân dân

39
Viện kiểm sát nhân dân với chức năng là cơ quan kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố. Nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống các tội phạm về môi trường, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường thực
hiện tốt vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, để
đẩy mạnh việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các tội phạm về môi
trường, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh về các tội phạm về
môi trường không những có tác dụng đảm bảo trừng trị và giáo dục người
phạm tội, mà còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung đối với những người
có nguy cơ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, đồng
thời làm cho những người đã phạm tội này không còn điều kiện dễ dàng tiếp
tục thực hiện tội phạm.
- Đối với Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân có vị trí trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm
trong các hoạt động cải cách tư pháp, nhiệm vụ chủ yếu của Tòa án là phải
nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai và bỏ lọt tội phạm, việc áp dụng
pháp luật đúng đắn trong công tác xét xử các vụ án về tội phạm về môi trường
là một vấn đề quan trọng. Từ việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật sẽ phát huy tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa người phạm tội. Thông
qua tổng kết thực tiễn xét xử từ đó chỉ ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh
loại tội phạm này để kiến nghị các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp
khắc phục những thiếu sót trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật.
b) Đối với cơ quan hành chính các cấp
- Quan tâm kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường, nhất là ở cấp cơ sở để bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật và Nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có cơ chế và quy định trách nhiệm phối hợp,
phân công, phân cấp hợp lý nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
và vi phạm pháp luật về môi trường giữa các ngành, các cấp với lực lượng
Công an nhân dân.

40
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài
nguyên và môi trường; xây dựng và ban hành quy định pháp luật về phí bảo
vệ môi trường, về giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp
luật về môi trường gây ra. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính và các nghị định có liên quan trong lĩnh vực môi trường để tạo sự
đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, trong đó bổ sung đầy đủ các thẩm quyền cho Cảnh sát môi trường
và các lực lượng thanh tra chuyên ngành có liên quan
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của mọi công dân trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và
vi phạm pháp luật về môi trường. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền,
phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật, các thông tin về môi trường và
phát triển bền vững cho mọi người, đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên; đưa
nội dung giáo dục về bảo vệ môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của
hệ thống giáo dục quốc dân. Tạo thành dư luận xã hội lên án nghiêm khắc đối
với các hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường đi đôi với việc
áp dụng các chế tài, xử phạt nghiêm khắc có tác dụng răn đe, ngăn ngừa vi
phạm.
- Trong điều kiện hiện nay để đảm bảo hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế,
an sinh xã hội và phát triển bền vững, bảo vệ môi trường nên đề nghị Chính
phủ có nghị quyết giao cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội, các
địa phương tự đề ra giải pháp xử lý ô nhiễm ở đơn vị, doanh nghiệp, địa
phương mình trong một thời gian nhất định, có sự giám sát của cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Sau thời gian đó, nếu còn vi phạm thì sẽ
điều tra, xử lý theo tình tiết tăng nặng.
- Tăng cường công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra công khai, kết hợp
với điều tra xử lý bằng các biện pháp nghiệp vụ công an đối với các cơ sở, địa
bàn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ
trì, phối hợp với Bộ Công an rà soát, lập danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng để tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục có kế hoạch xử lý triệt để trong giai đoạn tiếp theo (từ nay đến 2025).

41
Quan tâm chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế
chủ đạo thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Ưu tiên kinh phí nhằm tăng cường năng lực cho lực lượng Cảnh sát
phòng, chống tội phạm về môi trường theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 27/NQ-
CP ngày 12/6/2019 của Chính phủ, trong kinh phí sự nghiệp môi trường hàng
năm theo Luật Bảo vệ môi trường, cần bổ sung mục chi cho công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường. Bổ sung
ngân sách để đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị chuyên dùng và
biên chế cho Bộ Công an để tăng cường cho lực lượng Cảnh sát PCTP về môi
trường đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
 - Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong
phòng, chống tội phạm về môi trường; trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ
thuật hiện đại và kinh phí phục vụ công tác phòng, chống tội phạm về môi
trường.
- Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực
tội phạm về môi trường. Nhà nước ta đang tham gia tích cực vào việc giải
quyết các vấn đề mang tính toàn cầu. Quan điểm tăng cường giao lưu, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm cần được quán triệt
sâu sắc trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Hệ thống pháp luật hình sự nói
chung và pháp luật về tội phạm môi trường nói riêng cần phải hài hòa với các
chuẩn mực quốc tế, đồng thời nội luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc tham gia, tăng cường hợp tác, giao lưu về pháp luật và thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế góp phần tăng cường quan hệ hợp tác với các
nước trên thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình
hội nhập quốc tế của nước ta, đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở
giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bên cạnh đó, việc tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết,
chuẩn mực trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc sẽ tham gia
nhằm làm cho các quy định pháp luật trong nước phù hợp với luật pháp quốc
tế, đảm bảo cho việc thực hiện các cam kết quốc tế thì chúng ta cũng cần phải
khẩn trương ban hành Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Ký kết,

42
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong đó quy định rõ quy trình, cơ chế
chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật Việt
Nam và quy định điều kiện, thủ tục thi hành điều ước quốc tế tại Việt Nam.
Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường. Bảo vệ
môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu. Do đó, Nhà nước cần có những
chính sách phù hợp để đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm về môi trường. Ví dụ như: Tham gia
các diễn đàn, hội thảo, hội nghị về môi trường để thảo luận, trao đổi kinh
nghiệm cũng như đúc rút các bài học về bảo vệ môi trường; tranh thủ các
nguồn tài trợ quốc tế. Đặc biệt là của “Quỹ Môi trường toàn cầu” nhằm huy
động và tiếp nhận cho vay vốn phục vụ mục đích phòng, chống tội phạm về
môi trường./.
3.2.3. Trách nhiệm của sinh viên đối với phòng, chống vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường
- Có trách nhiệm tuân thủ các chính sách, pháp luật về bảo vệ môi
trường; bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và vệ sinh nhà ở,
công sở, trường học và công trình công cộng;
- Phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đấu tranh với những hành vi lợi dung sự cố môi trường để gây rối, mất trật tự trị
an.
- Tham gia, hưởng ứng và vận động người khác tham gia các phong
trào về bảo vệ môi trường do Nhà trường và các đoàn thể quần chúng phát
động.
- Tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân địa phương cũng
như nơi cư trú cháp hành nghiêm về pháp luật bảo vệ môi trường cũng như
giữ dìn vệ sinh nơi cư trú.
KẾT LUẬN
Trong những năm tới, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường dự báo vẫn còn nhiều diễn biến mới, phức tạp, chưa thể giải quyết một
sớm một chiều. Vi phạm pháp luật môi trường trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất; vấn đề xử lý chất thải công nghiệp vẫn còn nhức nhối và khó
kiểm soát; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý môi trường trong lĩnh

43
vực y tế, trong lĩnh vực quản lý thuốc bảo vệ thực vật, vẫn đặt ra cho các cơ
quan quản lý, cơ quan chuyên trách phòng chống tội phạm môi trường những
thách thức mới. Là sinh viên cần gương mẫu chấp hành và đề cao trách nhiệm
trong tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành nghiêm pháp luật về bảo vệ
môi trường, góp phần bảo vệ môi trường sống của con người và xã hội loài
người.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là gì? Trình bày các vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?
2. Nêu thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam?
Là sinh viên cần làm gì để góp phần hạn chế vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường?

Bài 4
PHÒNG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT
TỰ,
AN TOÀN GIAO THÔNG
Hoạt động giao thông vận tải có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, phản ánh trình độ phát triển xã hội thể hiện ở mức độ đáp
ứng những nhu cầu kinh tế, văn hóa, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp
dân cư. Trong đó, giao thông đường bộ đóng vai trò rất quan trọng xét trên tất
cả mọi phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhưng giao
thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng luôn tiềm ẩn những
nguồn nguy hiểm hay phát sinh những rủi ro, bất lợi cho xã hội như: Ùn tắc
giao thông, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông. Do vậy, phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là nội dung quan trọng
góp phần bảo đảm an toàn tính mạng cũng như tài sản của con người và xã
hội.
4.1. VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO
THÔNG

44
4.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông
- Vi phạm pháp luật: Là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Như vậy, vi phạm pháp luật là một hiện tượng nguy hiểm,
tác động tiêu cực và làm mất ổn định xã hội. Tính nguy hiểm thể hiện ở chỗ
nó xâm hại tới lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, xã hội.
- Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái giao thông ổn định, được điều
chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội được
thừa nhận, nhờ đó hoạt động giao thông được thông suốt, nhanh chóng, thuận
lợi, người và phương tiện tham gia giao thông được an toàn, giảm thiểu nguy
cơ tai nạn và các hành vi xâm hại khác.
Như vậy, vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là
hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện, xâm hại các hoạt động, các quan hệ trong lĩnh vực giao thông được
pháp luật bảo vệ.
Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của công tác bảo
đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, các lực lượng, tổ chức và cá nhân, trong đó Công an nhân dân giữ
vai trò nòng cốt, để chủ động bảo vệ, thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố cấu
thành trật tự, an toàn giao thông đường bộ, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn
giao thông; kịp thời phát hiện và xử lý nhanh chóng, hiệu quả các yếu tố làm
mất an toàn giao thông, không để giao thông vận tải bị cản trở, đình trệ; khắc
phục, làm giảm thiệt hại do tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông gây ra cho
người, phương tiện, hàng hóa, góp phần củng cố hiệu lực quản lý Nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường.
Quản lý Nhà nước về trật tự, an toàn giao thông là toàn bộ hoạt động có
tổ chức, có định hướng, mang tính quyền lực của Nhà nước trong quá trình
quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện các quy định về trật tự, an toàn giao
thông, thiết lập, duy trì trật tự, an toàn giao thông, xây dựng văn hóa giao

45
thông, bảo đảm giao thông đường bộ thông suốt, an toàn nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
4.1.2. Các vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt là Chỉ thị số 18-CT/TW ngày
04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông với mục tiêu phấn đấu
hàng năm kiềm chế, làm giảm từ 5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa và giảm ùn tắc giao thông đường bộ. Thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, để tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông. Quốc hội đã ban hành Luật giao thông
đường bộ năm 2008 được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008; có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 và thay
thế Luật giao thông đường bộ năm 2001. Từ năm 2011 đến năm 2016, Quốc
hội cũng đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến lĩnh vực này như: Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014;
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giao thông đường thủy nội địa năm 2014; Bộ luật hình sự năm 2015;
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012...
Để triển khai thi hành các luật, nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã
ban hành 17 nghị định; Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành 35 thông tư; 07
Thông tư liên tịch liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tiêu biểu
như: Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
và đường sắt; Nghị định số 24/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
và biện pháp thi hành một số điều của Luật giao thông đường thủy nội địa và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giao thông đường thủy nội địa.
Các quy định của pháp luật đã đề cập cụ thể các vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thường gặp là:
a) Vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông

46
Tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính thì “Vi phạm hành
chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Từ cách hiểu đó ta có thể
quan niệm: Vi phạm hành chính trong bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là
hành vi trái pháp luật, do cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành
chính thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến hoạt động bảo đảm trật
tự, an toàn giao thông và theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm
hành chính.
Với cách hiểu này, thì cá nhân hoặc tổ chức khi tham gia giao thông vi
phạm các luật sau: Luật giao thông đường bộ năm 2008; Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014; Bộ luật
Hàng hải Việt Nam năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
giao thông đường thủy nội địa năm 2014…Các Nghị định của Chính phủ các
Thông tư, Thông tư liên tịch liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông. Đồng thời, khi cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong bảo đảm trật
tự, an toàn giao thông thì người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
vi phạm đó theo quy định của pháp luật. Đối với lĩnh vực giao thông đường
bộ, đường sắt đang thực hiện theo Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính
phủ, với các hành vi cơ bản thường gặt trong tham gia giao thông đường bộ
như sau:
- Các hành vi vi phạm phổ biến trong trật tự an toàn giao thông đường
bộ và mức xử phạt đối với người điều khiển phương tiện giao thông bằng ô
tô.
+ Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo, vạch kẻ đường.
Mức xử phạt 200.000 - 400.000 đồng
+ Chở người trên buồng lái quá số lượng quy định. Mức xử phạt
400.000 - 600.000 đồng
+ Không thắt dây an toàn khi điều khiển xe. Mức xử phạt 800.000 - 01 triệu
đồng

47
+ Chở người trên xe không thắt dây an toàn khi xe đang chạy. Mức xử
phạt 800.000 đồng - 01 triệu đồng
+ Bấm còi, rú ga liên tục, sử dụng đèn chiếu xa trong khu dân cư (trừ
xe ưu tiên). Mức xử phạt 800.000 đồng - 01 triệu đồng
+ Dùng tay sử dụng điện thoại di động khi đang lái xe. Mức xử phạt 01
- 02 triệu đồng
+ Lái xe không đủ điều kiện để thu phí tự động không dừng đi vào làn
đường dành riêng thu phí theo hình thức tự động không dừng tại các trạm thu
phí. Mức xử phạt 01 - 02 triệu đồng
+ Vượt đèn đỏ, đèn vàng. Mức xử phạt 03 - 05 triệu đồng (tước Bằng
01 - 03 tháng).
+ Không chấp hành hiệu lệnh của CSGT. Mức xử phạt 03 - 05 triệu
đồng (tước Bằng 01 - 03 tháng).
+ Chạy quá tốc độ từ 05 - 10km. Mức xử phạt 800.000 - 01 triệu đồng
+ Chạy quá tốc độ từ 10 - 20km. Mức xử phạt 03 - 05 triệu đồng. (tước
Bằng 01 - 03 tháng)
+ Chạy quá tốc độ từ 20 - 35km. Mức xử phạt 06 - 08 triệu đồng (tước
Bằng từ 02 - 04 tháng)
+ Chạy quá tốc độ từ 35km trở lên. Mức xử phạt 10 - 12 triệu đồng.
(tước Bằng từ 02 - 04 tháng
+ Nồng độ cồn chưa vượt quá 50 mg/100 ml máu hoặc 0,25 mg/1l khí
thở; Mức xử phạt 06 - 08 triệu đồng (tước Bằng từ 10 - 12 tháng)
+ Nồng độ cồn vượt quá 50 mgđến 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá 0,25
mg đến 0,4 mg/1l khí thở. Mức xử phạt 16 - 18 triệu đồng (tước Bằng 16 - 18
tháng).
+ Nồng độ cồn vượt quá 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá 0,4 mg/1 l
khí thở. Mức xử phạt 30 - 40 triệu đồng. (tước Bằng 22 - 24 tháng)
- Các hành vi vi phạm phổ biến trong trật tự an toàn giao thông đường bộ
và mức xử phạt đối với người điều khiển phương tiện giao thông bằng mô tô, xe
gắn máy.
+ Không xi nhan khi chuyển làn. Mức xử phạt 100.000 - 200.000 đồng

48
+ Không xi nhan khi chuyển hướng. Mức xử phạt 400.000 - 600.000
đồng
+ Chở theo 02 người. Mức xử phạt 200.000 - 300.000 đồng
+ Chở theo 03 người. Mức xử phạt 400.000 - 600.000 đồng (tước Bằng
từ 01 - 03 tháng).
+ Không xi nhan, còi khi vượt trước. Mức xử phạt 100.000 - 200.000
đồng
+ Dùng điện thoại, thiết bị âm thanh (trừ thiết bị trợ thính) Mức xử phạt
600.000 - 01 triệu đồng (tước Bằng từ 01 - 03 tháng)
+ Vượt đèn đỏ. Mức xử phạt 600.000 - 01 triệu đồng (tước Bằng từ 01 - 03
tháng).
+ Sai làn. Mức xử phạt 400.000 - 600.000 đồng
+ Đi ngược chiều. Mức xử phạt 01 - 02 triệu đồng
+ Đi vào đường cấm. Mức xử phạt 400.000 - 600.000 đồng
+ Không gương chiếu hậu. Mức xử phạt 100.000 - 200.000 đồng
+ Không mang Bằng. Mức xử phạt 100.000 - 200.000 đồng
+ Không có Bằng. Mức xử phạt 800.000 đồng - 1.2 triệu đồng
+ Không mang đăng ký xe. Mức xử phạt 100.000 - 200.000 đồng
+ Không có đăng ký xe. Mức xử phạt 300.000 - 400.000 đồng
+ Không có hoặc không mang bảo hiểm. Mức xử phạt 100.000 - 200.000
đồng
+ Không đội mũ bảo hiểm. Mức xử phạt 200.000 - 300.000 đồng
+ Vượt phải. Mức xử phạt 400.000 - 600.000 đồng
+ Dừng, đỗ không đúng nơi quy định. Mức xử phạt 200.000 - 300.000
đồng
+ Có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 mg/100 ml máu hoặc dưới
0.25 mg/1 lít khí thở. Mức xử phạt 02 - 03 triệu đồng (tước Bằng từ 10 - 12
tháng)
+ Nồng độ cồn vượt quá 50 mg đến 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá
0.25 đến 0.4 mg/1 lít khí thở. Mức xử phạt 04 - 05 triệu đồng (tước Bằng từ 16 -
18 tháng)

49
+ Nồng độ cồn vượt quá 80 mg/100 ml máu hoặc vượt quá 0.4 mg/1 lít
khí thở. Mức xử phạt 06 - 08 triệu đồng (tước Bằng từ 22 - 24 tháng).
+ Chạy quá tốc độ quy định từ 05 đến dưới 10 km/h. Mức xử phạt
200.000 - 300.000 đồng.
+ Chạy quá tốc độ quy định từ 10 đến 20 km/h. Mức xử phạt 600.000
đồng - 01 triệu đồng.
+ Chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h. Mức xử phạt 04 - 05 triệu
đồng (tước Bằng từ 02 - 04 tháng).
b) Tội phạm trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông
Tội phạm trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến lĩnh
vực trật tự, an toàn giao thông mà theo quy định của Bộ luật Hình sự thì các
hành vi đó phải bị xử lý hình sự.
Các tội xâm phạm an toàn giao thông là các tội quy định đối với người
(có năng lực hành vi dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên, ngoại trừ trường hợp quy
định tại khoản 4 Điều 265 và khoản 4 Điều 266, người phạm tội có thể từ đủ
14 tuổi trở lên) có những hành vi vô ý gây nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thuỷ hoặc đường hàng không. Các tội xâm phạm an toàn giao thông được quy
định tại Mục 1 Chương XXI Bộ luật Hình sự bao gồm 25 Điều được chia
thành năm nhóm:
- Nhóm các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường bộ (có 7 tội
thuộc nhóm này) bao gồm từ Điều 260 đến Điều 266.
Các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông là các tội phạm quy định
đối với người (có năng lực trách nhiệm dân sự, từ đủ 16 tuổi trở lên, ngoại trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 265 và khoản 4 Điều 266, người phạm
tội có thể từ đủ 14 tuổi trở lên) có những hành vi vô ý gây nguy hiểm cho xã
hội, xâm phạm đến những quy định của pháp luật về an toàn giao thông
đường bộ. Hành vi của người phạm tội thuộc nhóm này phải gây ra thiệt hại
và thiệt hại được định lượng trong điều luật thì mới bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (trừ Điều 265): Làm chết người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại

50
cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ
tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài
sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng (riêng với tội đua xe trái
phép quy định tại Điều 266 thì, thiệt hại được quy định là: Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%; Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng.).
- Nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường sắt (có 5 tội thuộc
nhóm tội này): bao gồm từ Điều 267 đến Điều 271.
Nhóm các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường sắt là các tội
quy định đối với người (có năng lực trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở
lên) có những hành vi vô ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những
quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường sắt. Hành vi của người
phạm tội thuộc nhóm này phải gây ra thiệt hại và thiệt hại được định lượng
trong điều luật thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự: Làm chết người; Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61%
đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
- Nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường thủy (có 6 tội
thuộc nhóm này): bao gồm từ Điều 272 đến Điều 276 và Điều 284.
Nhóm các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường thuỷ, đường
hàng hải là các tội quy định đối với người (có năng lực trách nhiệm dân sự và
từ đủ 16 tuổi trở lên) có những hành vi vô ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm
phạm đến những quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường thuỷ,
đường hàng hải. Hành vi của người phạm tội thuộc nhóm này phải gây ra thiệt
hại và thiệt hại được định lượng trong điều luật thì mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự (trừ Điều 284): Làm chết người; Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ

51
tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài
sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
- Nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường không (có 4 tội
thuộc nhóm này): bao gồm từ Điều 277 đến Điều 280.
Nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường không là các tội quy
định đối với người (có năng lực trách nhiệm dân sự, từ đủ 16 tuổi trở lên) có
những hành vi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định
cảu pháp luật về an toàn giao thông đường không.
- Nhóm các tội xâm phạm các công trình giao thông, chiếm đoạn tàu
bay, tàu biển, vi phạm các quy định về hàng không, hàng hải của Việt Nam
(có 4 tội thuộc nhóm này): bao gồm từ Điều 281, 282, 283 và 284.
Nhóm các tội phạm này là các tội quy định đối với người (có năng lực
trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên, đối với các tội quy định tại Điều
282 và 283 người phạm tội có thể là người nước ngoài) có những hành vi cố ý
gây nguy hiểm, xâm phạm những quy định pháp luật về hàng hải, hàng
không, quản lý các công trình giao thông, quyền sở hữu tàu bay, tàu biển.
4.2. GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TRẬT TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG
4.2.1. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông
An toàn giao thông hiện nay là một trong những vấn đề được xã hội
quan tâm sâu sắc. Đó là vì tình hình tai nạn giao thông trên thế giới đã và đang
ngày càng trở nên nghiêm trọng với việc gia tăng các ca tử vong và thương tích
do mất an toàn giao thông. Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế,
mức sống của người dân được nâng cao đã thúc đẩy số lượng phương tiện cơ
giới đường bộ, đặc biệt là mô tô, xe gắn máy gia tăng một cách nhanh chóng.
Trong khi đó, kết cấu hạ tầng giao thông vận tải trong những năm qua đã phát
triển nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, ý thức chấp hành Luật Giao thông
đường bộ của mọi người chưa nghiêm, tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn
của địa phương còn xảy ra nhiều, mà nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông là
do ý thức chấp hành luật Giao thông đường bộ của mọi người còn hạn chế. Học
sinh, sinh viên có thể là nạn nhân hoặc bản thân các em gây tai nạn cho người

52
khác.Vì vậy, “Tai nạn giao thông đã trở thành mối hiểm họa của mọi người”.
Từ đó dẫn đến gia tăng những vấn đề giao thông phức tạp như tai nạn giao
thông và ùn tắc giao thông, Mặt khác, mức độ hiểu biết và ý thức chấp hành
các yêu cầu về an toàn giao thông của người tham gia giao thông và của cộng
đồng còn thấp. Công tác quản lý về an toàn giao thông tuy đã được cải thiện rõ
rệt nhưng vẫn còn những bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu.
4.2.2. Giải pháp đối với cơ quan, tổ chức trong phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
- Chủ động, tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, trực tiếp là Ủy
ban An toàn giao thông các cấp tăng cường lãnh đạo, quản lý, điều hành và
huy động các ngành, đoàn thể và nhân dân tích cực tham gia bảo đảm trật tự,
an toàn giao thông; quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm được nêu
trong Chỉ thị 18 - CT/TW ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng,
đó là “Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và khắc phục ùn tắc giao
thông phải được xác định là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy
Đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của
nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự,
an toàn giao thông của các ngành chức năng và chính quyền các cấp”. Xác
định rõ việc chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông là một tiêu chí
đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, cơ quan, đơn vị, đoàn thể, cán bộ,
Đảng viên, công chức, viên chức, hội viên, là một tiêu chuẩn đánh giá đạo
đức cuối năm của học sinh, sinh viên.
- Chủ động phối hợp với các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông, vận động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng tham gia bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông át động mạnh mẽ, sâu rộng phong trào “Toàn dân tham gia
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông”, gắn và thực hiện có hiệu quả phong trào
“Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Chú ý biểu dương gương người tốt, việc
tốt, đi đôi với phê phán, lên án các hành vi vi phạm, coi thường kỷ cương,
pháp luật về an toàn giao thông. Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
đưa nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông vào

53
sinh hoạt định kỳ của chi bộ Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội; gắn
việc xây dựng “văn hóa giao thông” vào nội dung cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Kết hợp với các cơ sở
giáo dục tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy pháp
luật về trật tự, an toàn giao thông trong trường học. Tăng cường sự phối hợp
giữa gia đình, nhà trường và các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong việc
giáo dục, nhắc nhở học sinh, sinh viên tự giác chấp hành các quy định về trật
tự, an toàn giao thông. Trong xây dựng phong trào “Toàn dân tham gia bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông”, lực lượng CSGT Công an cấp huyện phối
hợp với Công an cấp xã, phường, thị trấn tích cực hướng dẫn chính quyền,
các ngành, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở và dưới cơ sở xây dựng,
triển khai các mô hình tự quản của quần chúng bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông ở khu vực dân cư, cổng cơ quan, trường học, nhân rộng các mô hình
tiêu biểu.
- Tích cực nghiên cứu, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật hiệu quả, đa dạng, thiết thực, phù hợp với từng đối
tượng, địa bàn, cần tập trung vào các đối tượng học sinh, thiếu niên, thanh
niên; người sử dụng mô tô, xe máy, người điều khiển xe thô sơ, người lái ô tô,
phương tiện đường thủy; cán bộ công nhân viên chức ở các cơ quan, xí
nghiệp, nhân dân sống ven hành lang giao thông. Trước sự phát triển mạnh
mẽ của mạng Internet, nhất là các trang mạng xã hội hiện nay, cần nghiên
cứu, tăng cường hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo đảm trật
tự, an toàn giao thông trên mạng xã hội.
- Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất bổ
sung, sửa đổi, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông phù hợp với tình hình mới. Đẩy mạnh tiến độ cải cách hành chính trong
lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông theo thẩm quyền của lực lượng CSGT, tạo
điều kiện thông thoáng, phục vụ nhu cầu hợp pháp của nhân dân, nhất là trong
đăng ký, cấp phép, quản lý phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy nội
địa.

54
- Không ngừng nâng cao chất lượng công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý
vi phạm, tổ chức hướng dẫn giao thông, nhất là trên các tuyến đường cao tốc,
các tuyến quốc lộ trọng điểm, các tuyến giao thông nội đô Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh, qua đó, lồng ghép giáo dục, phổ biến nội dung pháp luật cho người
tham gia giao thông. Trong xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông, cán bộ,
chiến sĩ CSGT phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực xử lý vi phạm
đúng pháp luật, kết hợp với việc kiên trì vận động, thuyết phục, hướng dẫn,
giải thích, lấy vận động, thuyết phục, giải thích, hướng dẫn là chính.
- Cấp ủy, thủ trưởng Công an và đơn vị CSGT các cấp tăng cường công
tác quản lý, giáo dục cán bộ, chiến sĩ; phòng chống suy thoái tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, khắc phục tình trạng mãi lộ, nhũng nhiễu,
gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân, vi phạm điều lệnh quy trình, kỷ luật công
tác và các biểu hiện tiêu cực khác trong công tác, sinh hoạt. Tích cực tổ chức
thực hiện các cuộc vận động xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh, nhất
là cuộc vận động “CAND chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống vì
nhân dân phục vụ”, xây dựng văn hóa ứng xử trong lực lượng CSGT theo
khẩu hiệu hành động “Chủ động - Kỷ cương - Trách nhiệm - Hiệu quả”./.
4.2.3. Trách nhiệm của sinh viên trong phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
Chúng ta được may mắn được sống trong một xã hội hòa bình, được sự
quan tâm chăm sóc giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội; được học
những kiến thức cần thiết để đảm bảo an toàn giao thông từ khi còn là học
sinh tiểu học; và thực tế đã chứng minh, tìm hiểu về luật an toàn giao thông
và nghiêm chỉnh chấp hành luật khi tham gia giao thông là điều vô cùng quan
trọng. Để tham gia tích cực vào phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông mỗi sinh cần:
- Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội
dung cơ bản nhất của pháp luật vê bảo đảm trật tự, an toàn giao thông. Tuyên
truyền phổ biến các nội dung đó cho mọi người.
- Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của nhà trường
trong lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.

55
- Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa vi phạm pháp luật về
giao thông, tham gia vào các tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra,
kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong khu vực trường, lớp.
- Phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh trong bảo đảm an
toàn giao thông... trình báo các cấp coe thẩm quyền nhằm hạn chế các vi
phạm trong sinh viên, nhất là các hành vi có thể dẫn đến tội phạm.
- Khi có vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông xảy ra trong khu
vực trường, lớp cần phát hiện và cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin
có liên quan đến vụ việc, người vi phạm; tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi
người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an theo khả năng của
mình.
KẾT LUẬN
Tai nạn giao thông vẫn đang là hiểm họa của mỗi quốc gia, dân tộc trên
toàn thế giới, là nguyên nhân dẫn đến thương vong cho loài người. Chính vì
vậy thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông
không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà còn là
trách nhiệm của mỗi dân tộc, mỗi người với sự trường tồn, phát triển nhân
loại. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông là
quá trình hoạt động có mục đích của cơ quan, đơn vị, tổ chức, gia đình và cá
nhân làm cho các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao
thông được thực hiện trong thực tế cuộc sống nhằm mục đích đảm bảo trật tự
an toàn xã hội. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông cho thấy, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này đã đạt được
những kết quả nhất định góp phần kiềm chế, giảm thiểu vi phạm giao thông.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là gì? Trình
bày các vi phạm hành chính và vi phạm hình sự về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông?
2. Giải pháp phòng, chống và trách nhiệm sinh viên trong phòng, chống
vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông?

56
Bài 5
PHÒNG CHỐNG MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM XÂM HẠI
DANH DỰ, NHÂN PHẨM NGƯỜI KHÁC
Phòng, chống các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm của con người là
một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặt
ra cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Do
đó, để thực hiện tốt việc phòng ngừa tội xâm phạm xâm hại danh dự, nhân
phẩm của con người, các chủ thể phòng ngừa tội phạm này cần thực hiện
đồng bộ, tổng hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp phòng ngừa xã
hội và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.
5.1. TỘI PHẠM VÀ TỘI XÂM HẠI DANH DỰ, NHÂN PHẨM
NGƯỜI KHÁC
5.1.1. Tội phạm
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
đã đưa ra khái niệm tội phạm như sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự”. Cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm 04 yếu tố sau:
- Mặt khách quan của tội phạm: Là những biểu hiện của tội phạm diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách
quan của tội phạm gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội: tính trái pháp
luật của hành vi; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả của tội phạm; ngoài ra còn có các dâu hiệu khác nhau như:

57
phương tiện, công cụ, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm, thực hiện
tội phạm.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Là những diễn biến tâm lý bên trong của
tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể
nào cũng đều phải được thực hiện bởi hành vi có lỗi.
- Khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những
quan hệ đó là: quan hệ về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân. . . những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
- Chủ thể của tội phạm: Là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự.
5.1.2. Các hành vi xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác
Mỗi người trong xã hội có thể có những giá trị danh dự, nhân phẩm
giống hoặc khác nhau, tuy nhiên những giá trị nhân thân này đều được bảo vệ
một cách bình đẳng bởi nhiều công cụ khác nhau, đặc biệt là pháp luật hình
sự. Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Mọi hành vi xâm hại danh dự,
nhân phẩm của con người đều bị trừng trị nghiêm khắc.
Danh dự, nhân phẩm của con người là những yếu tố về tinh thần, bao
gồm phẩm giá, giá trị, sự tôn trọng, tình cảm yêu mến của những người xung
quanh, của xã hội đối với người đó. Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm
của con người là làm cho người đó bị xúc phạm, tổn thương về tinh thần và
xấu hổ đối với những người xung quanh, người trong gia đình, tập thể, trong
nhân dân, trong xã hội tùy thuộc vào vị thế, vai trò và nhiệm vụ, tuổi tác của
người đó và mức độ của hành vi phạm tội.

58
Xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người được thể hiện ở
những hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm của con người. Đa số hành vi nguy hiểm được thực hiện
bằng hành động cụ thể, thường thể hiện bằng cách: Dùng hành động làm tổn
hại đến đến thể chất và tinh thần của người khác và dùng những lời lẽ hoặc
hành động có tính chất thóa mạ, khinh bỉ để làm nhục người khác hoặc gán
một sự kiện xấu xa cho người khác làm cho xã hội đánh giá sai hoặc hình
dung sai về người đó. Sự đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào việc người
đưa ra những tin tức đó vô tình hay cố ý, tiêu chuẩn để đánh giá những sự
việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những nguyên tắc đạo đức xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của những tin tức đưa ra có thể
khác nhau tùy theo nhân thân của người bị hại.
5.1.3. Một số loại tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác
Theo quy định pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay, các tội xâm phạm
DDNP của con người gồm:
- Các tội xâm phạm tình dục: Tội hiếp dâm; Tội cưỡng dâm; Tội dâm
ô với người dưới 16 tuổi; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội sử dụng người dưới
16 tuổi vào mục đích khiêu dâm.
Theo BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội xâm phạm
tình dục bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112),
Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Tội giao cấu
với trẻ em (Điều 115), Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116). BLHS 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung và quy định rõ thêm một số tội danh xâm
phạm tình dục, đặc biệt đối với tội danh xâm phạm tình dục đối với trẻ em:
Tội hiếp dâm (Điều 141), Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội
cưỡng dâm (Điều 143), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
(Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu
dâm (Điều 147).

59
- Các tội mua bán người: Tội mua bán người (chủ yếu là tội mua bán phụ
nữ, trẻ em); Tội mua bán người dưới 16 tuổi; Tội đánh tráo người dưới 1 tuổi;
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi; Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận
cơ thể người.
Theo BLHS 1999 (Sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội mua bán
người gồm: Tội mua bán người (Điều 119), Tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em (Điều 120). Đến BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đã bổ sung và quy định rõ thêm một số tội danh mua bán người, gồm: Tội
mua bán người (Điều 150), Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), Tội
đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152), Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi
(Điều 153), Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều
154).
- Các tội làm nhục người khác: Tội làm nhục người khác; Tội vu
khống; Tội hành hạ người khác.
Theo BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội làm nhục
người khác gồm: Tội hành hạ người khác (Điều 110), Tội làm nhục người
khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122); đến BLHS 2015 (Sửa đổi, bổ sung
năm 2017) tiếp tục quy định các tội danh này tại Điều 140, Điều 155 và Điều
156.
- Nhóm tội khác như: Tội lây truyền HIV cho người khác; Tội cố ý
truyền HIV cho người khác; Tội chống người thi hành công vụ.
5.2. GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM
XÂM HẠI DANH DỰ, NHÂN PHẨM NGƯỜI KHÁC
5.2.1. Giải pháp đối với cơ quan, tổ chức trong phòng, chống tô ̣i
phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác
a) Đẩy mạnh xây dựng, triển khai, áp dụng biện pháp phòng ngừa các
tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác
- Các biện pháp về kinh tế - xã hội: Biện pháp kinh tế - xã hội là biện
căn bản, có ảnh hưởng rất lớn về mặt xã hội nhằm hạn chế và loại trừ dần
những nguyên nhân làm phát sinh tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người
khác, cho nên để phòng ngừa tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác
trong thời gian tới cần phải tập trung vào những nội dung sau:

60
+ Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn các
tỉnh.
+ Nâng cao dân trí, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng
xã hội. Các địa phương huy động, lồng ghép các nguồn lực xã hội để đẩy
mạnh đầu tư ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn, nhằm giảm
nhanh tỷ lệ hộ nghèo; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chế độ, chính
sách với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và hộ nghèo.
+ Tăng cường mở các lớp đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở các địa phương, đặc biệt ưu tiến đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, người dân ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp
cần có chính sách xoá mù chữ cho phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, tạo cơ
hội học tập cho trẻ em thông qua các biện pháp miễn giảm học phí, hỗ trợ cơ
sở vật chất; mở các lớp tình thương cho trẻ em mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn. Trong đó, đặc biệt chú trọng gắn kiến thức văn hoá cho học sinh
với giáo dục kỹ năng sống để trẻ em, phụ nữ tự bảo vệ mình trước các nguy
cơ bị xâm hại.
- Các biện pháp về văn hoá - giáo dục: Trong thời gian qua, các vụ án
xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác chủ yếu ở nhóm có trình độ dân trí
còn thấp, trình độ học vấn còn thấp, có nhân thân xấu hoặc có những đặc
điểm đạo đức, tâm lý lệch chuẩn, cùng với, hủ tục của một số đồng bào dân
tộc thiểu trên địa bàn còn phổ biến (hủ tục này dẫn đến việc tảo hôn). Ngoài
ra, nhận thức của người dân (phụ huynh của nạn nhân hoặc bản thân nạn
nhân) về tội phạm nói chung và tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác
chưa đầy đủ, có tâm lý e ngại, xấu hổ cho nên không dám tối giác tội phạm
(đặc biệt tội xâm phạm tình dục). Vì vậy, phòng ngừa tội xâm hại danh dự,
nhân phẩm người khác trong thời gian tới cần phải tập trung vào những nội
dung:
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tội
phạm và vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và vi phạm pháp luật về xâm
hại danh dự, nhân phẩm người khác nói riêng trong cộng đồng dân cư, xác
định đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục cần được triển khai sâu rộng với

61
nhiều hình thức, đa dạng, phong phú, có nội dung, hình thức phù hợp với từng
đối tượng, vùng miền và địa phương.
Đổi mới hình thức, nội dung, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng
vùng, miền, từng đối tượng, coi trọng các biện pháp truyền thống như: Truyền
miệng, in ấn tờ rơi, pa nô, áp phích, tranh ảnh biếm họa, nhất là tuyên truyền
qua hệ thống loa truyền thanh của các thôn, bản, khu phố...
Các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền hình tập trung tuyên
truyền về giá trị đạo đức, truyền thống gia đình, xóm, làng, truyền thống của
dân tộc; lên án mạnh mẽ những người có hành vi phản văn hóa, vi phạm pháp
luật; tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người dân trong cuộc sống, sinh
hoạt hàng ngày như: Giải quyết tranh chấp mâu thuẫn về dân sự, kinh tế, đất
đai, hôn nhân và gia đình...; Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đặc
biệt chú ý đến các điều luật quy định các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm
người khác.
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, dưới nhiều hình thức (băng zôn, khẩu
hiệu, phát thanh, truyền hình, phóng sự, kịch, sân khấu hóa....) về phương
thức, thủ đoạn hoạt động và hậu quả tác hại cũng như tính nghiêm khắc của
chế tài xử lý hình sự đối với các loại tội phạm, nhất là tội phạm xâm hại danh
dự, nhân phẩm người khác để nhân dân hiểu rõ và chủ động phòng ngừa, đấu
tranh.
+ Nâng cao kỹ năng của mọi tổ chức, công dân trong phát hiện, phòng
ngừa, xử lý đối với những biểu hiện, hành vi và hậu quả tác hại của tội phạm
xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác đối với mỗi cá nhân, gia đình và
toàn xã hội.
+ Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, nếp sống văn minh
ở các cộng đồng dân cư ở các địa phương; xoá bỏ những hủ tục của người
dân, đặc biệt của các đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với mỗi gia đình phải thực hiện tốt việc xây dựng gia đình văn hoá,
thực hiện nếp sống văn hoá văn mình là hành lang để bảo vệ hạnh phúc bền
vững cho các gia đình; các thành viên gia đình thường xuyên chăm sóc, quan
tâm đến nhau, con cháu vâng lời ông bà, cha mẹ; ông bà, cha mẹ chăm sóc,
giáo dục con cháu mình về đạo đức, lễ phép, tác phong, phẩm hạnh theo triết

62
lý “tiên học lễ, hậu học văn”; kiểm soát chặt chẽ để con cháu không sử dụng
những sản phẩm văn hoá phẩm đồi truỵ, khiêu dâm, v.v..
Đối với cộng đồng phải thường xuyên phát động phong trào “toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, xoá bỏ những phong tục,
tập quán không còn phù hợp; thực hiện tốt phong trào “quản lý, giáo dục, giúp
đỡ những người lỗi lầm tại cộng đồng, dân cư” và phong trào “quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc”; v.v..
+ Tăng cường giáo dục của gia đình, nhà nước và xã hội.
Đối với mỗi gia định cần phải quan tâm và có chiến lược giáo dục con
cháu hiệu quả, tạo nên một gia đình có truyền thống, nền nếp gia phòng để
con cháu phấn đấu để xứng đáng với truyền thống của gia đình. Giáo dục
bằng cách cách nêu gương cua cha mẹ, anh chị trong gia định của như lối
sống, ứng xử đúng mực của mình người xung quanh để từ đó con cái học tập,
noi theo; cha mẹ phải gương mẫu trong mọi lời nói, hành động, tránh xa các
vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, v.v... Bên cạnh việc yêu
thương, giáo dục thương yêu con cháu, các gia đình cũng phải nghiêm khắc
để giúp con cháu nhận ra những sai phạm và sửa chữa và không mắc phải
những sai phạm đó sau này.
Đối nhà trường cần chú trọng đến giáo dục cả đạo đức lẫn kiến thức;
lồng ghép nội dung giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho học sinh; giáo
dục cho học sinh (đặc biệt bé gái) biết cách phòng vệ và tránh những nguy cơ
có thể dẫn đến các hành vi xâm phạm tình dục và buôn bán người.
Đối với đoàn thể xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân)
tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục để mọi người cảnh giác trước
các hành vi phạm tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác. Trong đó,
Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh tăng cường
giáo dục hội viên và nhân dân trên địa bàn, tình hình tội xâm hại danh dự,
nhân phẩm người khác trên địa bàn tỉnh; phổ biến những nội dung pháp luật
liên quan đến tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác như Bộ luật Hình
sự, để người dân nâng cao cảnh giác và từ đó nhận thức rõ các hình thức, thủ
đoạn của loại tội phạm này; Đoàn thanh niên tiếp tục phát huy tốt tinh thần
xung kích, tình nguyện; thông qua hình thức sân khấu hóa với những tiểu
phẩm về tuyên truyền phòng, chống tội phạm, trong đó đặc biệt tội xâm hại

63
danh dự, nhân phẩm người khác, từ đó nhằm nâng cao nhận thức của thanh
thiếu niên về các vấn đề pháp luật. Ngoài ra, trong bối cảnh phát triển khoa
học, công nghệ hiện nay, đặc biệt công nghệ thông tin, truyền thống, các đoàn
thể nhân dân cần tuyên truyền và hướng dẫn người dân những kỹ năng cần
thiết khi sử dụng Internet, Facebook, Mail, Twitter, Zalo, Instagram, v.v... để
không mắc phải những sai sót đặc biệt lộ thông tin cá nhân, để không bị đối
tượng xấu lợi dụng, khống chế (đặc biệt liên qua đến tội mua bán người và tội
làm nhục người khác).
b) tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự xã hội ở các địa
phương.
- Cần tăng cường hiệu quả quản lý hành chính về an ninh, trật tự như:
Tăng cường các biện pháp quản lý giáo dục đối với các đối tượng có tiền án, tiền
sự, có biểu hiện vi phạm pháp luật tại cộng đồng; tăng cường trách nhiệm của
chính quyền các cấp trong việc quản lý nhân khẩu, hộ tịch, tạm trú, tạm vắng
trên địa bàn dân cư của tỉnh, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số; quản lý các ngành nghề kinh doanh, dịch vụ có điều kiện và các
loại hình dịch vụ khác có liên quan đến tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người
khác, đặc biệt là tội mua bán người như: Dịch vụ du lịch, xuất khẩu lao động;
dịch vụ Massage, Karaoke; v.v...
- Tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân trong đấu
tranh, phòng ngừa tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác.
Chính quyền các cấp tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, đặc biệt pháp luật hình sự trên địa bàn; cùng với đó, chính quyền các cấp
cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua các phương tiện thông tin đại
chúng và tuyên truyền chiều sâu ở các địa bàn dân cư nhằm nâng cao cảnh
giác cho cộng đồng trước những thủ đoạn của tội xâm hại danh dự, nhân
phẩm người khác, đặc biệt là các tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội giao cấu
với trẻ em, tội dâm ô, tội mua bán người (phụ nữ và trẻ em). Ngoài ra, chính
quyền các cấp phối hợp với các tổ chức đoàn thể tích cực vận động quần
chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, chủ động hỗ trợ các lực lượng
chức năng tấn công trấn áp tội phạm.
- Tăng cường các biện pháp liên quan đến hoạt động phát hiện và xử lý
hành vi phạm các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác.

64
Lực lượng Công an cần phải tăng cường hợp tác với quần chúng nhân
dân, phối hợp với các cơ quan chức năng và các đoàn thể trong việc tiếp nhận tin
báo tố giác về các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác để phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời; thực hiện tốt công tác “dân vận”, hợp tác với quần
chúng nhân dân để nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết về
các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác, chủ động, tích cực tham gia
đấu tranh, tố giác tội phạm.
c) Nâng cao năng lực chủ thể phòng ngừa các tội xâm hại danh dự,
nhân phẩm, danh dự người khác ở các địa phương.
- Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan như: Cấp uỷ đảng,
Uỷ ban nhân dân, cơ quan Công an, các cơ quan chuyên môn trong quản lý
hành chính nhà nước (Thông tin truyền thông; Tài chính; Lao động - Thương
binh và Xã hội; Tư pháp, v.v...), Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự, nhân phảm của con người ở các
địa phương.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phòng ngừa các tội xâm hại danh
dự, nhân phẩm người khác, đặc biệt ở vùng sâu,vùng xa, trước hết, cần phải
đảm bảo số lượng cán bộ, công chức, chiến sĩ Công an thực hiện phòng ngừa
các tội phạm này, đặc biệt, cần tăng cường cán bộ chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở các địa phương. Đồng
thời tăng cường đầu tư trang bị, phương tiện, thiết bị nghiệp vụ hiện đại phục
vụ hoạt động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm xâm hại danh
dự, nhân phẩm người khác.
Bên cạnh đó, cần bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng, bản lĩnh chính trị, kiến thức về văn hoá vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức và chiến sĩ thực hiện
nhiệm vụ này. Trong đó đặc biệt chú trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức
thực hiên nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, lực lượng Công
an xã và cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
d) Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể lực phòng ngừa các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ở các địa phương.

65
- Các cơ quan chức năng ở các địa phương tăng cường thực hiện công
tác phòng ngừa tội phạm, gắn phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự, các
nhóm đối tượng có nguy cơ phạm tội và nguy cơ bị xâm hại cao, gắn với
phong trào xây dựng khu dân cư văn hóa, không có tội phạm, tệ nạn xã hội và
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác ở địa phương.
- Các cơ quan, đơn vị ở địa phương thực hiện kế hoạch, chương trình
hành động đã ký kết giữa các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị; thường xuyên tổ
chức sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công tác
phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong tình hình
mới. Củng cố và nhân rộng các mô hình quần chúng tham gia đảm bảo an
ninh, trật tự ở cơ sở theo hướng “tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải”.
- Nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về tội phạm và tệ nạn xã
hội, không để hình thành địa bàn phức tạp; ba ngành Công an - Viện Kiểm sát
- Tòa án tăng cường công tác phối hợp trong điều tra, tuy tố, xét xử và thi
hành án đối với tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác, đồng thời
tổ chức xét xử lưu động các vụ án điểm phục vụ công tác phòng ngừa tội
phạm này.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, khắc phục sơ
hở, thiếu sót trong công tác quản lý nhằm phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật, nhất là các lĩnh vự quản lý cư trú.
5.2.2. Trách nhiệm của nhà trường, sinh viên trong phòng, chống
tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác
a) Trách nhiệm của Nhà trường
- Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội
trong nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm để cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình, của nhà
trường trong đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó tự giác tham gia.
- Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng
tiêu cực, tệ nạn xã hội và tội phạm.

66
- Xây dựng quy chế quản lí sinh viên, quản lí kí túc xá, các tổ chức sinh
viên tự quản, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm soát trong khu vực trường.
- Tổ chức cho sinh viên tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội,
không có hành vi hoạt động phạm tội.
- Tổ chức cho sinh viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật
Hình sự, phòng chống tệ nạn xã hội.
- Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận
động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường.
- Phối hợp với lực lượng công an cơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp
số sinh viên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản lí,
giáo dục ; đấu tranh xoá bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực xung
quanh trường.
b) Trách nhiệm của sinh viên
- Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội
dung cơ bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật
cho mọi người.
Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của nhà trường trong
lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.
- Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào
các tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh
trật tự trong khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy
sinh trong trường, lớp; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi
nghi vấn nghiện ma tuý, cờ bạc, chơi lô đề, cá cược bóng đá... có thể dẫn đến
tội phạm.
- Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực trường, lớp phát hiện và
cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc
phạm tội, người phạm tội; tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có
thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an một cách công khai hay bí
mật.
KẾT LUẬN

67
Để đấu tranh đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại danh dự, nhân
phẩm người khác có hiệu quả cần phải đổi mới công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
nhất là giáo dục về đạo đức, lối sống, chính sách pháp luật. Thường xuyên cải
tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách
nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội: Kết hợp
nhiều hình thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên
truyền cá biệt; tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc
họp của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị
xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên
truyền, vận động cá biệt đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm
và tại các địa bàn trọng điểm về trật tự, an toàn xã hội.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tội phạm là gì? Trình bày các tội xâm hại danh dự, nhân phẩm người
khác?
2. Trình bày giải pháp trong phòng, chống tội phạm xâm hại danh dự,
nhân phẩm người khác?
3. Vai trò trách nhiệm của nhà trường, của sinh viên trong công tác
phòng chống tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm người khác?

Bài 6
AN TOÀN THÔNG TIN VÀ PHÒNG CHỐNG VI PHẠM
PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Trong xã hội đương đại, thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý
nghĩa tác động, chi phối mạnh mẽ đến đời sống con người, đặc biệt là những
thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế...
Từ đó, thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm, thu thập thông tin và biến thông tin thành
một dạng hàng hóa đặc biệt hình thành mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa

68
chủ thể có thông tin và chủ thể cần thông tin. Từ đó, xuất hiện các vi phạm
pháp luật trên không gian mạng liên quan đến thông tin. Do vậy, phòng
chống vi phạm pháp luật về trên không gian mạng được các nước đặc biệt
quan tâm.
6.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ AN TOÀN THÔNG TIN,
PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN
MẠNG
6.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a) Thông tin
Thông tin là kết quả, là một dạng thức liên kết trong xã hội loài người
bao gồm tất cả sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu
biết của con người, hình thành trong quá trình giao tiếp. Một người có thể
nhận thông tin trực tiếp từ người khác, từ phương tiện truyền thông đại
chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc qua quan sát các hiện tượng tự nhiên,
xã hội...
Thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức: nói, viết, dưới dạng điện
tử... có ảnh hưởng đến đời sống xã hội, tác động đến nhận thức, tâm tư, tình
cảm của con người. Thông tin cũng là đối tƣợng đƣợc tìm hiểu, nắm bắt để
phục vụ nhu cầu của các chủ thể.
Thông tin mang đậm tính chủ quan của con người nên trƣớc một sự
việc, hiện tượng, với những mục đích khác nhau, thông tin sẽ biến dạng thành
những nội dung khác nhau. Thông tin chỉ có giá trị cao khi đảm bảo được đầy
đủ các thuộc tính với nhiều yều cầu phức tạp đối với công tác quản lý, đặc
biệt là đối với thông tin mạng do kỹ thuật truyền nhận và xử lý thông tin ngày
càng phát triển, mức độ rủi ro ngày càng lớn. Quản lý an toàn và sự rủi ro
được gắn chặt với quản lý chất lượng. Khi đánh giá độ an toàn thông tin cần
phải dựa trên phân tích các rủi ro, khả năng ứng phó, trình độ, năng lực của
các chủ thể... Các đánh giá cần hài hoà với đặc tính, cấu trúc hệ thống và quá
trình kiểm tra chất lượng.
Hiện nay, thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa tác động,
chi phối mạnh mẽ đến đời sống con ngƣời, đặc biệt là những thông tin thuộc
danh mục bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế... Từ đó, thúc đẩy

69
nhu cầu tìm kiếm, thu thập thông tin và biến thông tin thành một dạng hàng
hóa đặc biệt hình thành mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa chủ thể có thông
tin và chủ thể cần thông tin.
Theo Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về
bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ, thông tin xử lý thông qua hệ
thống thông tin đƣợc phân loại theo thuộc tính bí mật như sau: thông tin công
cộng, thông tin riêng, thông tin cá nhân, thông tin bí mật nhà nước.
b. An toàn thông tin
Theo Tiêu chuẩn Anh BS 7799 về “Hướng dẫn về quản lý an toàn
thông tin”, được công bố lần đầu tiên vào năm 1995, đã đƣợc chấp nhận đã
cho rằng “an toàn thông tin là sự bảo toàn của việc bảo mật, toàn vẹn và tính
sẵn có của thông tin”. Xuất phát từ phần 1 của Tiêu chuẩn Anh BS 7799 mà
hiện nay tồn tại dưới phiên bản được sửa đổi ISO/IEC 17799:2005 bao gồm
134 biện pháp cho an toàn thông tin và được chia thành 12 nhóm, gồm: Chính
sách an toàn thông tin (Information security policy) chỉ thị và hướng dẫn về
an toàn thông tin; Tổ chức an toàn thông tin (Organization of information
security): tổ chức biện pháp an toàn và quy trình quản lý; Quản lý tài sản
(Asset management): trách nhiệm và phân loại giá trị thông tin; An toàn tài
nguyên con người (Human resource security): bảo đảm an toàn; An toàn vật
lý và môi trường (Physical and environmental security); Quản lý vận hành và
trao đổi thông tin (Communications and operations management); Kiểm soát
truy cập (Access control); Thu nhận, phát triển và bảo quản các hệ thống
thông tin (Information systems acquisition, development and maintenance);
Quản lý sự cố mất an toàn thông tin (Information security incident
management); Quản lý duy trì khả năng tồn tại của doanh nghiệp (Business
continuity management); Tuân thủ các quy định pháp luật (Compliance);
Quản lý rủi ro (Risk Management).
Tại Việt Nam, theo Quyết định số 856/QĐ-BTTTT của Bộ Thông tin
và truyền thông ngày 06/6/2017 về quy chế bảo đảm an toàn thông tin trong
hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, “an toàn thông tin là sự bảo vệ
thông tin và các hệ thống thông tin tránh bị truy nhập, sử dụng, tiết lộ, gián

70
đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái phép nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn, tính
bảo mật và tính khả dụng của thông tin”.
Theo đó, tính bảo mật (Confidentiality) là đảm bảo thông tin chỉ có thể
được truy cập bởi những người được cấp quyền truy cập nhằm tránh để lộ
thông tin đến những đối tượng không thuộc diện biết thông tin. Tính bảo mật
trong an ninh mạng bao gồm việc bảo vệ các dữ liệu được truyền qua mạng
trước nguy cơ dữ liệu đó bị những người không được cấp quyền truy cập
chiếm đoạt. Ví dụ: một giao dịch tín dụng qua Internet, số thẻ tín dụng được
gửi từ người mua hàng đến người bán, và từ người bán đến nhà cung cấp dịch
vụ thẻ tín dụng. Hệ thống sẽ mã hóa số thẻ trong suốt quá trình truyền tin,
giới hạn nơi nó có thể xuất hiện bằng việc giới hạn truy cập những nơi được
lưu lại.
Tính toàn vẹn (Integrity): là đảm bảo thông tin đáng tin cậy, không bị
thay đổi hoặc hủy hoại một cách trái phép hoặc bởi những người không đƣợc
phân quyền thực hiện các hoạt động đó, cũng như bảo vệ tính khách quan của
thông tin, tránh việc bị thay đổi hay bị làm sai lệch dù cố ý hoặc vô ý. Thuộc
tính này đảm bảo từng thông điệp được nơi nhận đúng như khi nó gửi đi mà
không bị mất, bị lặp lại, bị thay đổi trật tự và chắc chắn không bị gửi trả lại.
Tất cả các dữ liệu được gửi đi phải đến nơi nhận một cách toàn vẹn.
Tính khả dụng (Availability) là khả năng đảm bảo cho hệ thống truyền
tin vận hành hiệu quả, liên tục trong khoảng thời gian đã định. Tính khả dụng
đảm bảo các tài nguyên thông tin luôn sẵn sàng cho việc khai thác, sử dụng
đúng mục đích đã định.
c. Phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Luật An ninh mạng 2018 (Có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2019) thì thuật ngữ không gian mạng đƣợc quy
định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống
thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con
người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời
gian”.

71
Vi phạm pháp luật trên không gian mạng là hành vi nguy hiểm cho xã
hội diễn ra trên không gian mạng do cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
thực hiện cố ý hoặc vô ý xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến những quan hệ xã
hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành chính,
viphạm dân sự, vi phạm hình sự như: tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tuyên truyền, kích động bạo loạn, phá rối an ninh,
gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống...
Phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng là chỉnh thể
thống nhất các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm
thất bại các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm hoạt động trên không gian
mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng không chỉ
hướng đến làm thất bại các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên không
gian mạng mà còn bao hàm cả phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ đe dọa,
mối đe dọa, không để hình thành hành vi trên thực tế. Phòng, chống vi phạm
pháp luật trên không gian mạng bao gồm nhiều hoạt động khác nhau:
Một là, phòng ngừa là hoạt động nhằm triệt tiêu những nguyên nhân,
hạn chế những điều kiện phát sinh, phát triển các hành vi vi phạm pháp luật
và các đối phƣơng thực hiện các hành vi đó. Hoạt động phòng ngừa diễn ra
thường xuyên, liên tục.
Hai là, phát hiện là tìm kiếm, điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá
nhằm xác định đầy đủ, chính xác, toàn diện âm mưu, phương thức, thủ đoạn,
hành vi, đối tượng, địa bàn hoạt động diễn ra vi phạm pháp luật. Hoạt động
phát hiện được tiến hành thông qua các biện pháp công khai hoặc bí mật.
Ba là, ngăn chặn là các hoạt động không để hành vi vi phạm pháp luật
tiếp diễn trên thực tế, khắc phục nhanh chóng hậu quả. Hoạt động ngăn chặn
đòi hỏi phải tiến hành ngay khi phát hiện hành vi.
Bốn là, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật là các hoạt động
mang tính nghiệp vụ nhằm làm thất bại âm mƣu, hoạt động vi phạm phạp luật

72
và đƣa chúng ra xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đây là khâu
cuối cùng trong tổng thể công tác, quyết định sự thành bại trong bảo vệ an
ninh mạng.
6.1.2 Đặc điểm vi phạm pháp luật trên không gian mạng
Thứ nhất, mang tính xuyên quốc gia. Hiện nay, thông tin và các thách
thức và mối đe dọa đến an toàn thông tin không bó hẹp trong phạm vi quốc
gia, vùng lãnh thổ nào. Cho đến thế kỷ 15, hầu hết các nền văn minh còn bị cô
lập với nhau, hạn chế bởi những tuyến đường và phƣơng tiện giao thông
chậm chạp, tồn kém, nguy hiểm, giao dịch quốc tế có xu hướng khép kín từ
đó bó hẹp các nguồn thông tin. Bước vào thế kỷ 21 với những bước phát triển
vượt bậc của khoa học, công nghệ cùng với xu thế toàn cần hóa đang diễn ra
mạnh mẽ đã tạo ra cuộc cách mạng thông tin trên nền tảng những tiến bộ kỹ
thuật về máy tính, truyền thông và các phần mềm giảm thiểu chi phí truyền tải
và xử lý thông tin. Nếu như năm 1993, có khoảng 50 trang web trên thế giới
thì chỉ sau 10 năm số trang web là hơn 5 triệu và chỉ từ năm 2000 đến năm
2005, tỉ lệ sử dụng internet tăng 170% và liên tục tăng cho đến hiện nay. Và
nếu năm 1980, để lưu trữ thông tin 1 Gigabiyte thì cần một thiết bị to bằng 1
tòa nhà thì hiện nay 1 thẻ nhớ điện thoại bằng 1 đầu ngón tay cũng có thể
chứa tới 512 Gigabiyte. Thông tin từ quốc gia này có thể nhanh chóng được
các quốc gia khác nắm bắt thông qua hệ thống thông tin có tính công cộng.
Cùng với đó, đặt ra vấn đề bảo mật thông tin trong những trường hợp nhất
định. Cùng với đó, tội phạm có tổ chức tổ chức xuyên quốc gia triệt để lợi
dụng các ưu việt cũng như hạn chế trong thông tin để thực thực hiện các hành
vi phạm tội như trộm cắp, phát tán vi rút, tuyên truyền tư tưởng cực đoan, lôi
kéo tham gia và thực hiện các hoạt động khủng bố....
Thứ hai, có yếu tố tính phi chính phủ. Thông tin và an toàn thông tin
không là sản phẩm độc quyền của bất cứ chính phủ hay chế độ nào mà có tính
mở với sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị và đặc biệt
các tổ chức phi nhà nƣớc. Các mối đe dọa đến an toàn thông tin đều không
nhân danh bất cứ nhà nƣớc nào với tác nhân gây ra có thể là sự vô tình hay cố
ý từ bất cứ một thành phần nào trong xã hội, thậm chí còn đến từ các nhóm
chủ thể có khuynh hướng chống đối xã hội nhƣ khủng bố quốc tế, tội phạm

73
quốc tế... hoặc từ những lỗi liên quan đến kỹ thuật. Tuy nhiên, sự nguy hiểm
từ các mối đe dọa đến an toàn thông tin lại từ việc khó xác định chủ thể gây
ra, âm mƣu, ý đồ, tạo ra sự nghi kỵ và dẫn đến các hoạt động có tính trả đũa
quốc tế. Cùng với đó, hậu quả từ các mối đe dọa đến an toàn thông tin thƣờng
khó kiểm soát và khắc phục, gây ra những dư chấn tâm lý, tư tưởng, nhận
thức.
Thứ ba, mang tính toàn cầu. Sự ra đời của máy tính và internet đã góp
phần thúc đẩy sự lan tràn thông tin trên toàn cầu và cùng với đó là những
thách thức và mội đe dọa an toàn thông tin có mức độ hậu quả trên phạm vi
toàn cầu. Nhờ có internet mà con người tạo ra một thế giới ảo với “các xa lộ
thông tin toàn cầu” không còn bị ngăn cách. Từ đó, các tác nhân tấn công và
mục tiêu bị tấn công có thể đến từ bất cứ đâu trên toàn cầu, rất khó xác định.
Cùng với đó, quá trình toàn cầu hóa đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, đặc biệt là trong kết nối, chia sẻ hạ tầng công nghệ thông
tin, làm các mối đe dọa đến an toàn thông tin có khả năng tác động đến nhiều
nước. Từ đó, đòi hỏi các quốc gia có sự phối hợp trong giải quyết và đảm bảo
an toàn thông tin.
Thứ tư, diễn ra gay go quyết liệt phức tạp, lâu dài, trong điều kiện bùng
nổ các phƣơng tiện truyền thông hiện đại, liên quan đến rất nhiều yếu tố quốc
tế, yếu tố nƣớc ngoài. Bảo đảm an toàn thông tin, phòng, chống vi phạm pháp
luật trên không gian mạng phải đối đầu, đấu tranh với nhiều loại tội phạm mới
như tin tặc (hacker; cracker), kinh doanh các dịch vụ viễn thông quốc tế lậu,
trộm cắp cước viễn thông quốc tế…
6.1.3 Vai trò của bảo vệ an tòn thông tin và phòng chống vi phạm
pháp luật trên không gian mạng
Cùng với sự phát triển công nghệ thông tin và phổ cập mạng thì vấn đề
an toàn thông tin, phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng đã
có những thay đổi lớn và trở thành một vấn đề mới trong lĩnh vực an ninh phi
truyền thống và là một trọng tâm trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự, tác
động, ảnh hưởng toàn diện đến an ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh văn
hóa - tư tưởng, an ninh xã hội. Từ đó, bảo vệ an toàn thông tin, phòng, chống
vi phạm pháp luật trên không gian mạng trở thành một yêu cầu không thể
thiếu trong mọi hoạt động nói chung và hoạt động điện tử nói riêng, duy trì và

74
đảm bảo các hoạt động của con người trong không gian mạng cũng như trong
thực tế, không gây xóa trộn và các tình huống phức tạp, nguy hiểm.
Vai trò của bảo vệ an toàn thông tin, phòng, chống vi phạm pháp luật
trên không gian mạng còn xuất phát từ tầm quan trọng của thông tin. Từ chính
phủ, quân đội, các tập đoàn, bệnh viện, cơ sở kinh doanh… đến người dân
đều có những thông tin bí mật riêng về khách hàng, nhân viên, sản phẩm,
nghiên cứu, nhân thân, hoạt động hàng ngay, dữ liệu thông tin cá nhân… Hầu
hết các thông tin đó hiện nay đều được thu thập, xử lý và lưu trữ bởi máy vi
tính, trung tâm dữ liệu. Dữ liệu đó cũng có thể được chuyển qua mạng để về
trung tâm lưu trữ, đến các nhánh công ty con, hoặc gửi cho bạn bè, người
thân… Nếu thông tin đó lọt vào tay đối thủ cạnh tranh, tội phạm thì gây ra
những hậu quả đặc biệt nguy hiểm.
Cùng với đó, hiện nay, do nhu cầu thực tế ngày càng cao của đời sống
xã hội với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và được sự hỗ trợ tích
cực bởi các thành tựu khoa học công nghệ, các ứng dụng công nghệ thông tin
đã và được triển khai rộng rãi và ngày càng có chiều sâu, gắn kết các hoạt
động của con ngƣời trong thực tế với không gian mạng và thể hiện rất rõ
trong chính sách, chiến lƣợc và kế hoạch phát triển công nghệ thông tin của
các chính phủ. Công nghệ thông tin càng phát triển thì mức độ phụ thuộc của
con người vào hệ thống thông tin càng cao và trở thành một công cụ đặc biệt
quan trọng trong các hoạt động của danh nghiệp, dịch vụ trực tuyến, chính
phủ điện tử... Điều này mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, văn hóa, tư
tưởng... tư đó đặt ra yêu cầu bảo đảm an toàn thông tin, phòng, chống vi phạm
pháp luật trên không gian mạng nhằm giảm thiểu sự tổn thương và hậu quả có
thể xảy đến trong đời sống xã hội.
Không chỉ vậy, chính sự phụ thuộc của con ngƣời với không gian mạng
kết hợp với những điểm yếu trong hệ thống thông tin đã nảy sinh nhiều nguy
cơ đối với an toàn thông tin, hình thành nhiều loại tội phạm mới trong không
gian mạng liên quan đến thông tin như đánh cắp, buôn bán trái phép thông tin,
lừa đảo qua mạng internet... Các vấn đề này nếu không được xử lý kịp thời,
mau lẹ sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát trong không gian mạng, ảnh
hưởng đến chủ quyền trong không gian mạng và quyền chủ quyền trong
không gian mạng của nước ta. Không chỉ vậy, thông qua đó, các thế lực thù

75
địch, phản động tiến hành các hoạt động tung tin, bịa đặt, tuyên truyền xuyên
tạc, lôi kéo, kích động quần chúng nhân dân tham gia các hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân.
6.2 CÁC MỐI ĐE DỌA TRONG BẢO VỆ AN TOÀN THÔNG
TIN, PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN
MẠNG
Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, nƣớc ta đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông. Sau hai
mƣơi năm khai sử dụng, tính từ năm 1997, dịch vụ internet đã không ngừng
mở rộng về quy mô mạng lưới, đa dạng các loại hình dịch vụ, trở thành một
trong những quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh trên thế giới và khu
vực. Sự phát triển nhanh chóng của Chính phủ điện tử, với gần 100% cán bộ,
công chức có máy vi tính để sử dụng, tỷ lệ máy tính có kết nối Internet của
các cơ quan Trung ương đạt 93,7% và các cơ quan cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương là 97,2%, 100% các bộ, ban ngành, địa phương đều có
trang thông tin, cổng điện tử, 100% cơ quan nhà nƣớc có mạng nội bộ và bộ
phận chuyên trách về công nghệ thông tin… Các mô hình “một cửa điện tử”,
“thuế điện tử”, “hải quan điện tử”… đã và đang góp phần giảm chi phí, nâng
cao hiệu quả quản lý hành chính công, đưa các chủ trương, chính sách nhanh
chóng đi vào đời sống xã hội. Người dân, doanh nghiệp kết nối với chính
quyền chủ động, trực tiếp hơn.
An ninh mạng ở nước ta từng bước được quan tâm, đầu tư và phát triển,
xác lập cụ thể trong Chiến lƣợc an ninh mạng và đƣợc thể chế hóa trong hệ
thống pháp luật: Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Luật
an ninh mạng năm 2018, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật Giao
dịch điện tử năm 2005... Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới, khu vực và trong nước, đặc biệt là âm mưu và hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch, phản động và tội phạm tao ra nhiều mối đe dọa:
6.2.1. Mất kiểm soát an toàn thông tin mạng
Công tác bảo mật thông tin ở các cơ quan nhà nước còn nhiều sơ hở,
yếu kém, theo đánh giá năm 2017, có 41% cơ quan tổ chức không thực hiện

76
việc kiểm tra, đánh giá quản lý rủi ro về an toàn thông tin, dẫn tới không phát
hiện nguy cơ mã độc tiềm ẩn sẵn trong hệ thống, 51% cơ quan tổ chức chƣa
có quy trình thao tác chuẩn để phản hồi hoặc xử lý khi xảy ra sự cố, dẫn đến
lúng túng, bị động trong khắc phục, đưa hệ thống hoạt động trở lại bình
thường, 73% cơ quan tổ chức chưa triển khai thực hiện các biện pháp an toàn
thông tin theo quy chuẩn trong nước và quốc tế.
Tình trạng lộ, lọt thông tin bí mật nhà nƣớc diễn ra ngày càng nghiêm
trọng trên không gian mạng. Một số cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước đã sử
dụng máy tính có kết nối Internet để soạn thảo và lưu giữ thông tin mật mà
không có các biện pháp bảo vệ. Nhiều tài liệu có độ mật cao về an ninh - quốc
phòng đã bị lộ như các nghị quyết, kế hoạch, đề án, dự án của khối cơ quan
đảng, nhà nước, ban, ngành, chương trình làm việc của các đồng chí lãnh đạo
cấp cao...
Tình trạng tung tin giả trên các trang mạng xã hội diễn biến phức tạp.
Riêng năm 2016, bộ Thông tin và truyền thông đã xử phạt 4 trường hợp tung
tin giả, tin đồn thất thiệt. Nhiều vụ việc tung tin giả, tin đồn chỉ nhằm mục
đích thu hút nhiều lượt người theo dõi như Phạm Thị Mùi sử dụng Facebook
tung tin đồn máy bay rơi tại Hà Nội... Tuy nhiên, nhiều vụ việc diễn ra với
mục đích gây mất ổn định về trật tự nhƣ năm 2016, đối tượng Nguyễn Xuân
Long (34 tuổi, thƣờng trú tại Đồng Nai) cùng đồng bọn đã tung tin Việt Nam
sắp đổi tiền và kêu gọi mọi người ra ngân hàng rút tiền mua vàng và đôla...
Một số cơ quan báo chí điện tử chưa chấp hành nghiên định hướng
tuyên truyền, buông lỏng quản lý, chạy theo thị hiếu thị trường dẫn đến tình
trang đƣa các thông tin không chính xác, sai sự thật, vi phạm Luật Báo chí, đi
ngược lợi ích quốc gia, thậm chí dẫn đến dư luận phức tạp.
Các thế lực thù địch và đối tượng phản động gia tăng các hoạt động
tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tung tin, bịa đặt
gây hoang mang dư luận, kích động biểu tình, bạo loạn; đẩy mạnh các hoạt
động tấn công vào cơ sở dữ liệu của các cơ quan, tổ chức, tập đoàn kinh tế
nhằm thu thập các thông tin, dữ liệu... Trong khi, nhận thức bảo vệ thông

77
tin của người dân còn thấp, dễ bị dụ dỗ, tin theo các thông tin sai sự thật.
Theo số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav cho
thấy, 63% ngƣời dùng thường xuyên độc đƣợc tin tức giả mạo trên
Facebook và trong đó có 40% là nạn nhân hàng ngày. Cùng với đó, thông
tin cá nhân đang trở thành mục tiêu bị tấn công và chiếm đoạt.
6.2.2 Tội phạm mạng
Theo quy định của Luật an ninh mạng năm 2018, tội phạm mạng là
hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện
tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự. Tội phạm mạng ở
nước ta được nhìn nhận trên hai phương diện chính là những hành vi sử dụng
không gian mạng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.
Tình hình phát tán virus, phần mềm gián điệp, mã độc hại với tính chất,
mức độ ngày càng nghiêm trọng. Thiệt hại do virut máy tính gây ra đối với
ngƣời dùng Việt Nam có xu hƣớng tăng cao, năm 2016 là 10.400 tỷ đồng,
năm 2017 là 12.300 tỷ đồng, tương đương 540 triệu USD và năm 2018 lên tới
14.900 tỷ đồng, tương đương 642 tỷ USD. Các đối tường phạm tội không
ngừng mở rộng và thay đổi các hình thức phát tán các phần mềm độc hại như
qua email, trang mạng khiêu dâm, diễn đàn, mạng xã hội, điện thoại thông
minh... Các phần mềm được điều khiển từ xa, hoạt động ngầm, có chức năng
lấy cắp thông tin (mật khẩu, hình ảnh...) phá hủy dữ liệu, ghi âm... và gửi tất
cả dữ liệu thu được cho đổi tượng qua thư điện tử được chỉ định trước đặt ở
nước ngoài. Hiện nay, đã xuất hiện nhiều loại virus siêu đa hình, khi tự dộng
biến đối, tránh sự phát hiện của các phần mềm diệt virus.
Thời gian gần đây, các hacker gia tăng mạng mẽ các hình thức tấn công
nhằm biến máy tính ngƣời dùng thành công cụ đào tiền ảo với khoảng hơn
500 biến thể của mã độc đào tiền ảo và cứ 10 phút một biến thể mới xuất hiện.
Năm 2017, có hơn 139.000 máy tính tại Việt Nam bị nhiễm virus đào tiền ảo
mới W32.AdCoinMiner. Năm 2017 cũng chứng kiến sự bùng nổ của các
ransomware lợi dụng lỗ hổng hệ điều hành để phát tán với tốc độ chóng mặt
như mã độc WannaCry. Tại Việt Nam, hơn 1.900 máy tính có chứa
WannaCry và hơn 52% máy tính tồn tại lỗ hổng có thể bị tấn công bởi mã độc
này, gắn theo đó là các điều kiện đòi tiền chuộc.

78
Tội phạm sử công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến phức
tạp đặc biệt là thông qua các hoạt động thương mại điện tử do sự thiếu hiểu
biết, mất cảnh giác của người dùng. Các đối tượng phạm tội thƣờng lợi dụng
việc bán hàng trên các sàn giao dịch trực tuyến để bán hàng giả, hàng kém
chất lượng hoặc chuyển trước tiền vào tài khoản rồi chiếm đoạt tài sản. Đặc
biệt, tình trạng sử dụng Internet lừa đảo dƣới hình thức huy động vốn đa cấp
diễn ra rất phức tạp, với thủ đoạn chủ yếu của các đối tƣợng là xây dựng
trang mạng và tuyên truyền, tự mạo nhận là sàn thương mại điện tử hợp pháp
để lôi kéo khách hàng tham gia và giới thiệu người khác tham gia để chia
phần trăm hoa hồng.
Cùng với đó, các loại tội phạm truyền thống nhưng sử dụng không gian
mạng thực hiện hành vi phạm tội cũng diễn biến phức tạp, nổi lên là các loại
hình đánh bạc dưới nhiều hình thức. Các đƣờng dây đánh bạc có quy mô lớn
đƣợc hình thành và thƣờng đặt máy chủ ở nƣớc ngoài, sử dụng các đường
truyền internet cáp quang tốc độ cao và thiết lập mạng ảo đƣợc mã hóa phức
tạp để tổ chức. Năm 2018, lực lượng Công an đã phá vụ án đánh bạc qua
mạng do đối tượng Phan Sào Nam cầm đầu với danh nghĩa công ty nghiệp vụ
của C50 thông qua game bài Rikvip/tip.Club, 23Zdo, Zon/Pen với 43 triệu tài
khoản, thu lời hơn 9.850 tỷ đồng.
Các cơ quan đặc biệt nƣớc ngoài đẩy mạnh các hoạt động lợi dụng
không gian mạng chống phá Việt Nam, đẩy mạnh các hoạt động thu thập tình
báo, tiến hành phá hoại... Các đối tƣợng phản động gia tăng các hoạt động
chống phá, đặc biệt là tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Đảng, nhà nước, tuyển
mộ lực lượng, hướng dẫn các hoạt động làm bom, mìn, kích động khủng bố,
bạo loạn.
6.2.3 Các mối đe dọa khác
Hiện nay, Việt Nam đang trở thành mục tiêu tấn công mạng của các thế
lực thù địch và tội phạm, đặc biệt là vào hệ thống mạng thông tin quốc gia.
Theo Symaltec – tập đoàn bảo vệ bí mật máy tính quốc tế, Việt Nam đứng thứ
11 trên toàn cầu về nguy cơ bị tấn công mạng, thứ 15 về lƣợng phát tán mã
độc, thứ 10 về tin rác và thứ 15 về bị mất quyền kiểm soát vào tay tin tặc. Năm
2018, trung tâm ứng cứu sự cố máy tính Việt Nam (VNCERT) ghi nhận 9.344

79
cuộc tấn công với 5 loại hình chủ yếu là: tấn công thu thập thông tin, tấn công
leo thang đặc quyền, tấn công từ chối dịch vụ, tấn công chiếm quyền điều
khiển, tấn công mã độc.
Mục tiêu tấn công không chỉ đối với các trang web của các công ty,
doanh nghiệp mà còn có số lƣợng các trang thông tin điện tử tên miền “vn” của
Việt Nam đặc biệt là các trang thông tin điện tử có tên miền “gov.vn” của các
cơ quan nhà nƣớc. Tin tặc nƣớc ngoài đã phát động các chiến dịch tấn công
Việt Nam. Tháng 7 năm 2013, hệ thống mạng của 05 báo điện tử lớn của Việt
Nam gồm: vietnamnet, dantri, tuoitreonline, thanhnien, vnexpress đồng loạt bị
tấn công từ chối dịch vụ. Nhiều trang tin điện tử bị tấn công nhiều lần trong
một thời gian dài, với những thời điểm lên đến hơn 300 nghìn máy trạm thực
hiện việc tấn công, làm tê liệt hệ thống mạng của các trang báo này khiến việc
truy cập gặp nhiều khó khăn.
Cùng với đó, xu thế tấn công nhằm vào các thiết bị IoT và công nghệ
xác thực ngày càng gia tăng. Theo số liệu từ Kaspersky Lab, Việt Nam nằm
trong nhóm 3 quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ các cuộc tấn công nhắm
vào những thiết bị IoT. Thiết bị kết nối Internet (IoT) nhƣ Router Wi-Fi,
Camera IP, Smartphone… trở thành đích nhắm của hacker mà điển hình là sự
bùng nổ các biến thể mới của mã độc Mirai, trong đó có nhiều biến thể nhắm
mục tiêu đến Việt Nam.
Các sự cố mạng ở nƣớc ta cũng diễn biến phức tạp, đặc biệt là các sự
cố liên quan đến đường truyền mạng. Năm 2017, tuyến cáp quang biển quốc
tế AAG gặp sự cố 5 lần, năm 2018 gặp sự cố 5 lần, làm ảnh hƣởng chất
lƣợng kết nối internet từ Việt Nam đi quốc tế. Tuyến cáp quang biển quốc tế
này có chiều dài 20.191 km, dung lượng thiết kế đạt 2 terabit/giây, kết nối
trực tiếp khu vực Đông Nam Á với Mỹ. Bên cạnh đó, các sự cố về bảo mật
cũng có chiều hướng gia tăng.
Công tác quản lý nhà nước đối với các dịch vụ viễn thông, internet còn
tồn tại nhiều sơ hở để các thế lực thù địch và tội phạm lợi dụng. Nhiều trang
mạng, blog đăng ký tên miền trong nước hoạt động tương tự báo tư nhân trên
mạng, đăng tải nhiều thông tin trái chiều, thậm chí công khai bày tỏ các quan
điểm đối lập. Công tác quản lý nhà nước đối với một số dịch vụ viễn thông,

80
nhất là thuê bao di động, đầu số tin nhắn, dịch vụ internet 3G... chƣa chặt chẽ,
để tình trạng “sim rác”, tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo diễn ra tràn lan.
6.3. CHỦ THỂ, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM AN TOÀN THÔNG TIN VÀ
PHÒNG, CHỐNG CÁC VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN KHÔNG GIAN
MẠNG
6.3.1. Chủ thể bảo đảm an toàn thông tin và phòng, chống các vi
phạm pháp luật trên không gian mạng
Bảo đảm an toàn thông tin và phòng, chống các vi phạm pháp luật
trong không gian mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc;
phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng,
nêu cao ý thức tự giác của quần chúng nhân dân. Đảng ban hành các nghị
quyết, chỉ thị hoạch định đường lối, chính sách và phương pháp bảo vệ an
ninh mạng nói chung, bảo đảm an toàn thông tin và phòng, chống các vi phạm
pháp luật trong không gian mạng nói riêng, huy động mọi ban, ngành, đoàn
thể tham gia công tác.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về an ninh mạng, có nhiệm vụ, quyền hạn Ban hành hoặc trình cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm
pháp luật về an ninh mạng; Xây dựng, đề xuất chiến lược, chủ trƣơng, chính
sách, kế hoạch và phương án bảo vệ an ninh mạng; Phòng ngừa, đấu tranh với
hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm mạng; Bảo đảm an
ninh thông tin trên không gian mạng; xây dựng cơ chế xác thực thông tin
đăng ký tài khoản số; cảnh báo, chia sẻ thông tin an ninh mạng, nguy cơ đe
dọa an ninh mạng; Tham mưu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định việc phân công, phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ an
ninh mạng, phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng trong trường
hợp nội dung quản lý nhà nước liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều Bộ,
ngành. Tổ chức diễn tập phòng, chống tấn công mạng; diễn tập ứng phó, khắc
phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh

81
quốc gia; Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về an ninh mạng.
Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ, quyền hạn: Ban hành hoặc trình cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành ưà hƣớng dẫn thi hành văn bản quy phạm
pháp luật về an ninh mạng trong phạm vi quản lý; Xây dựng, đề xuất chiến
lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch và phƣơng án bảo vệ an ninh mạng
trong phạm vi quản lý; Phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia trong phạm vi quản lý; Phối
hợp với Bộ Công an tổ chức diễn tập phòng, chống tấn công mạng, diễn tập
ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia, triển khai thực hiện công tác bảo vệ an ninh mạng; Kiểm
tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về an
ninh mạng trong phạm vi quản lý.
Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ và trách nhiệm: Phối hợp
với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong bảo vệ an ninh mạng; Phối hợp với
các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền, phản bác thông tin có nội dung
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Yêu cầu doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng
trên không gian mạng, chủ quản hệ thống thông tin loại bỏ thông tin có nội
dung vi phạm pháp luật về an ninh mạng trên dịch vụ, hệ thống thông tin do
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý.
Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ an ninh mạng
đối với thông tin, hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; phối hợp với Bộ
Công an thực hiện quản lý nhà nƣớc về an ninh mạng của Bộ, ngành, địa
phƣơng.
Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng
có trách nhiệm: Cảnh báo khả năng mất an ninh mạng trong việc sử dụng dịch
vụ trên không gian mạng do mình cung cấp và hƣớng dẫn biện pháp phòng
ngừa; Xây dựng phương án, giải pháp phản ứng nhanh với sự cố an ninh
mạng, xử lý ngay điểm yếu, lỗ hổng bảo mật, mã độc, tấn công mạng, xâm
nhập mạng và rủi ro an ninh khác; khi xảy ra sự cố an ninh mạng, ngay lập

82
tức triển khai phương án khẩn cấp, biện pháp ứng phó thích hợp, đồng thời
báo cáo với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng theo quy định của
pháp luật; Áp dụng các giải pháp kỹ thuật và các biện pháp cần thiết khác
nhằm bảo đảm an ninh cho quá trình thu thập thông tin, ngăn chặn nguy cơ lộ,
lọt, tổn hại hoặc mất dữ liệu; trường hợp xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra sự cố
lộ, lọt, tổn hại hoặc mất dữ liệu thông tin người sử dụng, cần lập tức đưa ra
giải pháp ứng phó, đồng thời thông báo đến ngƣời sử dụng và báo cáo với lực
lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng theo quy định của Luật này; Phối
hợp, tạo điều kiện cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng trong bảo
vệ an ninh mạng.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng phải tuân thủ
quy định của pháp luật về an ninh mạng, kịp thời cung cấp thông tin liên quan
đến bảo vệ an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an ninh mạng, hành vi xâm phạm
an ninh mạng cho cơ quan có thẩm quyền, lực lượng bảo vệ an ninh mạng và
thực hiện yêu cầu và hƣớng dẫn của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ an
ninh mạng; giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức và ngƣời có trách
nhiệm tiến hành các biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
4.3.2. Giải pháp bảo đảm an toàn thông tin và phòng, chống các vi
phạm pháp luật trên không gian mạng
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan, đoàn thể quần chúng.
- Tăng cường bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng vả Nhà nước về lĩnh vực thông tin; bảo vệ an toàn đội ngũ cán bộ, công
nhân viên của các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động thông tin; bảo vệ an toàn
thông tin đươc lƣu giữ trong cơ sở dữ liệu quốc gia; thông tin thuộc bí mật
nhà nƣớc truyền tài trên hệ thống thông tin; bảo vệ an toàn cơ sở hạ tầng
thông tin.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh mạng, quản
lý chặt chẽ hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, internet tại Việt
Nam;

83
- Nâng cao nhận thức, ý thức của quần chúng nhân dân trong bảo đảm
an toàn thông tin trên không gian mạng, phòng chống vi phạm pháp luật trên
không gian mạng; kịp thời phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật;
không tham gia đăng tải, chia sẻ, bình luận các thông tin không chính thống.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm an toàn
thông tin trên không gian mạng, phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian
mạng. Tổ chức thực hiện hiệu quả Luật An ninh mạng; Luật an toàn thông tin
mạng...
- Nâng cao năng lực dự báo các tình huống và chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn các diễn biến phức tạp liên quan đến an toàn thông tin trên không
gian mạng.
- Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong bảo vệ an ninh mạng
quốc gia. Chủ động ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về
an ninh mạng, phòng, chống tội phạm mạng. Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc
tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia có trình độ phát
triển cao về công nghệ thông tin để tiếp cận, tiếp thu các kinh nghiệm, công nghệ
mới.

KẾT LUẬN
Như vậy, ngày nay thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa
tác động, chi phối mạnh mẽ đến đời sống con người, đặc biệt là những thông
tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế... Thúc
đẩy nhu cầu tìm kiếm, thu thập thông tin và biến thông tin thành một dạng
hàng hóa đặc biệt hình thành mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa chủ thể có
thông tin và chủ thể cần thông tin. Từ đó, xuất hiện các vi phạm pháp luật
trên không gian mạng liên quan đến thông tin. Do vậy, phòng chống vi phạm
pháp luật về trên không gian mạng được các nước đặc biệt quan tâm.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm, đặc điểm à ai trò của phòng, chống vi phạm pháp luật
trên không gian mạng hiện nay?

84
2. Chủ thế giải pháp và trách nhiệm của sinh viên với việc phòng,
chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng?
Bài 7
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC MỐI ĐE DỌA AN
NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong lịch sử của mình, chưa có khi nào nhân loại đạt được những
bước tiến dài trên con đường phát triển như ngày nay, nhưng cũng chưa bao
giờ con người phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa đến chính sự tồn vong
của mình như bây giờ. Cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia…
đang đặt ra những yêu cầu bức thiết phải có sự nỗ lực chung của cả cô ̣ng đồng
quốc tế để đối phó, vì sự an nguy của mỗi quốc gia dân tộc cũng như của toàn
nhân loại.
7.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BỐI CẢNH NẢY SINH
7.1.1. Khái niệm
- Theo quan điểm chung nhất thì: An ninh quốc gia là sự an toàn, ổn
định của lợi ích chung sống còn của một chế độ, một xã hội.
Tuy nhiên, lợi ích quốc gia là yếu tố mở, nội dung của an ninh quốc gia
phụ thuộc vào nhận thức của quốc gia về lợi ích cần phải bảo vệ và vị thế của
quốc gia đó trên trường quốc tế. Do đó, mỗi quốc gia có quan niệm khác
nhau, tương ứng với vị thế, tầm nhìn và khả năng, tiềm lực bảo vệ của quốc
gia
Với những nước lớn (như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản…) tiềm lực
về kinh tế và an ninh quốc phòng mạnh, có vai trò và vị thế lớn trên trường
quốc tế thì quan niệm về an ninh quốc gia được xác định tương đối rộng,
không chỉ dừng lại ở phạm vi bảo vệ lợi ích quốc gia ở bên trong lãnh thổ, mà
còn vươn đến tầm khu vực và quốc tế, thậm chí một số quốc gia còn xác định
biên giới mềm, cho rằng ở đâu có lợi ích của họ thì biên giới của họ đến đó.
Với những nước mà tiềm lực về kinh tế, an ninh quốc phòng còn hạn
chế thì quan niệm về an ninh quốc gia chủ yếu hướng vào bảo vệ các lợi ích
bên trong của quốc gia, trong đó chủ yếu là các lợi ích về chính trị.

85
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chung nhất là đều đề cập
đến sự an toàn của những lợi ích quan trọng, sống còn của nhà nước, xã hội.
- An ninh truyền thống: là an toàn, ổn định của đất nước trước các
mối đe dọa hoặc tấn công quân sự từ bên ngoài; hay trước các mối đe dọa cả
từ bên ngoài và bên trong- Nghĩa là các mối đe dọa đã có từ lâu đời.
+ An ninh truyền thống gắn liền với lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội
bên trong của mỗi quốc gia.
+ An ninh truyền thống gắn liền với âm mưu, hoạt động của các cơ
quan đặc biệt nước ngoài, của các thế lực thù địch, chống phá từ bên trong và
cả bên ngoài quốc gia.
Tuy nhiên, từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, đối đầu quân sự trên quy
mô toàn cầu không còn căng thẳng như trước, uy hiếp và đe dọa quân sự trực
tiếp đối với các nước giảm xuống, song an ninh quốc gia đối diện với 2 vấn
đề mới:
Thứ nhất, những vấn đề cũ như: chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nguy cơ
khủng hoảng kinh tế, tội phạm có tổ chức, khủng bố ...; Trong điều kiện toàn
cầu hóa và phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện nay, các nhân
tố nói trên mới có điều kiện phát triển, trở thành xu hướng phổ biến, đe dọa
đến an ninh quốc gia của các nước.
Thứ hai, những vấn đề mới nổi lên như: chủ nghĩa khủng bố quốc tế;
nguy cơ khủng hoảng tài chính, tiền tệ; nguy cơ cạn kiệt nguồn năng lượng;
vấn đề an ninh lương thực; an ninh mạng; biến đổi khí hậu; buôn lậu ma túy;
dịch bệnh truyền nhiễm; di dân bất hợp pháp… đe dọa an ninh quốc gia các
nước.
Những hiểm họa nêu trên đã gây ra sự lo sợ và cảm giác bất an trong xã
hội, buộc các quốc gia phải quan tâm để tìm hướng giải quyết nhằm tiếp tục
đảm bảo sự ổn định và phát triển và được các quốc gia trên thế giới xác định
là vấn đề an ninh phi truyền thống (Nontraditional Security).
- An ninh phi truyền thống:
An ninh phi truyền thống là những nhân tố mới xuất hiện, hoặc mới trở
thành xu hướng phổ biến trong những thập kỷ gần đây có khả năng đe dọa
đến sự sinh tồn và phát triển của nhiều quốc gia và cả cộng đồng quốc tế

86
An ninh phi truyền thống có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, thậm chí
mang tính toàn cầu, như an ninh môi trường, an ninh tài chính, tiền tệ; an ninh
văn hóa, truyền thống; phòng chống khủng bố; tội phạm xuyên quốc gia; các
loại tai nạn, tệ nạn xã hội.
Đồng thời, không chỉ nảy sinh từ âm mưu của địch mà còn có nhiều
mối đe dọa nảy sinh từ phía chúng ta (do những việc làm thiếu tính toán khoa
học của chúng ta trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội…)
Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đa
chiều như hiện nay, các mối quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày
càng gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, việc
tách biệt đâu là an ninh truyền thống và đâu là an ninh phi truyền thống chỉ
mang tính tương đối bởi sự đan xen, chồng lấn nội dung giữa chúng.
7.1.2. Đặc điểm
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống gồm hai loại là có bạo lực và
phi bạo lực.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có xu hướng vận động, mở
rộng, lan tràn xuyên quốc gia.
- Mối đe dọa an ninh phi truyền thống đe dọa an ninh khu vực, an ninh quốc
tế.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có quan hệ, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau và với các mối đe dọa an ninh truyền thống.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đa dạng về nguồn gốc, có
quá trình tích lũy tiềm tàng.
7.1.3. Bối cảnh nảy sinh
- Sự biến đổi của cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh
Sự biến đổi cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh bản chất là hướng đến
quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức với mối quan tâm hàng đầu là kết thúc
sự đối đầu có tính cân bằng nhiều thập kỷ giữa Liên Xô và Mỹ, giữa phe các
nước xã hội chủ nghĩa với phe các nước tư bản chủ nghĩa với kết quả sự sụp
đổ mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Tổ chức Hiệp
ước Vácsava. Đây là sự kiện gây chấn động, làm thay đổi sâu sắc cục diện
quốc tế, buộc chính quyền các nước phải tập trung nghiên cứu, đánh giá và

87
liên hệ đến tình hình, chiến lược an ninh của nước mình. Trong bối cảnh mới,
bất kỳ quốc gia nào cũng trở thành đối tượng bị xâm hại của các vấn đề an
ninh phi truyền thống, thậm chí trên một số lĩnh vực, sự tiên phong, chiếm
lĩnh của các quốc gia cũng đem lại ưu thế như: Không gian mạng, vũ trụ...
- Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi rộng, tốc độ nhanh.
Sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau của các nước trên các lĩnh
vực như: Kinh tế, tài chính, tiền tệ, mậu dịch, đầu tư, thông tin... đã tạo ra sự
lan truyền mạnh mẽ của các yếu tố tiêu cực như khủng hoảng tài chính kinh
tế... làm tăng tính nhạy cảm của an ninh quốc gia. Tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia hoạt động phức tạp, khó đấu tranh, đặc biệt là tội phạm ma túy, tội
phạm kinh tế, tội phạm môi trường... Toàn cầu hóa làm xuất hiện và nhân
rộng một loạt các mạng lưới liên kết ở cấp độ toàn cầu, thách thức biên giới
lãnh thổ, giảm sự khác biệt về văn hóa, suy thoái các giá trị truyền thống, đặc
trưng quốc gia.
- Các quốc gia tập trung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội
Sau chiến tranh lạnh, các quốc gia có xu hướng phân bố các nguồn lực
đồng đều, theo hướng giảm bớt chi tiêu trong lĩnh vực quân sự, tập trung đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào
trong sản xuất, nghiên cứu, phát hiện các nguồn năng lượng mới, nâng cao
chất lượng đời sống nhân dân, đảm bảo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
- Khoa học và công nghệ phát triển
Các thành tựu khoa học và công nghệ đã tạo ra những đột phá, được áp
dụng nhanh chóng vào công tác bảo vệ an ninh của mỗi quốc gia, đặc biệt là
đối với các ngành: Vũ trụ và không gian, năng lượng, hóa học và sinh học,
điện tử và phần mềm... Các quốc gia tăng cường đầu tư phát triển khoa học
công nghệ, hình thành các lực lượng tác chiến mới, làm thay đổi phương thức
chiến tranh truyền thống, “số hóa chiến trường”, xây dựng nền công nghiệp
lưỡng dụng, rút ngắn thời gian sản xuất vũ khí, triển khai các hoạt động vũ
trang.

88
7.2. CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT
NAM
Việt nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới, đều đang phải đối
mặt với những mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Văn kiện Đại hội XII của
Đảng nhận định Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với
các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đặc biệt là an ninh
mạng. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể về địa lý tự nhiên và chính trị, xã
hội của chúng ta mà các mối đe dọa an ninh phi truyền thống cũng có những
khía cạnh khác với các nước khác trên thế giới. Cụ thể có các mối đe dọa đó
là:
7.2.1. Mối đe dọa từ an ninh kinh tế
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, an ninh kinh tế có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc gia. Thực tế các cuộc khủng
hoảng kinh tế những năm vừa qua đã chứng minh một cách sâu sắc hơn vai
trò trung tâm của an ninh kinh tế trong an ninh quốc gia. Nếu không đảm bảo
được an ninh kinh tế sẽ không thể bảo vệ được an ninh quốc gia.
Những năm qua, mặc dù được đánh giá là điểm sáng trong tăng trưởng
kinh tế ở khu vực, nhưng ta đối diện với bốn vấn đề:
- Quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, khả năng tự chủ kém, nội lực chưa
cao, còn phụ thuộc vào nguồn vốn của nước ngoài. (Kinh tế của ta dễ bị tổn
thương với các tác động bên ngoài)
- Năng lực điều hành, quản lý vĩ mô của chúng ta đối với nền kinh tế
còn nhiều yếu kém, bất cập.
- Cơ chế, chính sách còn nhiều sơ hở, tạo điều kiện cho các loại tội
phạm hoạt động gây tổn thất cho các lợi ích kinh tế của đất nước, từ đó gây
mất lòng tin của nhân dân.
- Trong hợp tác quốc tế về kinh tế, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém, tạo sơ
hở để các đối tác nước ngoài lợi dụng gây ra các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc
gia…
Tất cả những vấn đề trên, nếu chúng ta không cảnh giác, lường trước sẽ
dễ mất an ninh kinh tế, từ đó sẽ mất an ninh quốc gia...

89
7.2.2. Mối đe dọa từ an ninh xã hội
Trong quá trình đổi mới nước ta đang phát sinh nhiểu vấn đề bất cập
bên trong chưa thể giải quyết được như:
- Chưa giải quyết được ổn thoả các vấn đề phức tạp trong tôn giáo, dân
tộc, nhất là tại các vùng chiến lược... Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng tôn giáo, dân tộc....
- Tình trạng khiếu kiện, đình công, lãn công diễn ra ở nhiều tỉnh, thành
trong cả nước trở thành vấn đề nóng bỏng đối với an ninh xã hội. Nhiều vụ
không chỉ nhằm đòi quyền lợi dân sinh mà còn có yếu tố địch móc nối, kích
động, lồng ghép vào mục tiêu chính trị. Nhiều vụ phức tạp về trật tự xã hội
không được giải quyết thấu đáo dẫn đến hậu quả nghiêm trọng xẩy ra ở nhiều
địa phương...
- Xuất hiện tâm lý bạo lực trong một bộ phận nhân dân khi xẩy ra tình
huống có va chạm, tranh chấp với các cán bộ thi hành công vụ. Xu hướng
trương băng rôn, khẩu hiệu, tụ tập đông người kéo lên trụ sở chính quyền
phản đối, biểu tình đang thực sự trở thành một mối đe dọa đối với an ninh xã
hội. VD: Vụ Đoàn Văn Vươn; Tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm, Hà Nội...
- Điều đáng chú ý là các thế lực thù địch bên ngoài và đối tượng bên
trong đang tìm cách lợi dụng, kích động tâm lý bức xúc trong quần chúng âm
mưu làm “cách mạng màu” ở Việt Nam, bọn phản động lưu vong người Việt
và số phần tử chống đối trong nước đánh giá đây là thời điểm chín muồi, cần
tập hợp lực lượng.
- Đặc biệt, một số đối tượng đã tìm cách kích động quần chúng nhân dân
biểu tình chống đối. Chúng lợi dụng một số sự kiện phức tạp về tình hình an
ninh chủ quyền biển đảo của Việt Nam hoặc các vụ việc trong nước như: Vụ đề
bù giải tỏa dự án Fosmusa Hà Tĩnh (Nguyễn Văn Bổng; Phạm Huy Tường và 5
đồng phạm- chiều 2/12); Vụ xả thải ra môi trường của Công ty TNHH Hưng
Nghiệp Fosmusa Hà Tình; Quốc hội dự kiến thông qua Luật đặc khu, Luật An
ninh mạng.... để kích động nhân dân chống lại chính quyền và chống lại Đảng,
Nhà nước.
Cơ quan an ninh đã phát hiện 35 tổ chức phản động lưu vong và 20 đối
tượng chống đối ở trong nước tán phát “Tuyên ngôn”, “Lời kêu gọi, Thông

90
cáo kích động người dân trong nước thực hiện “Cách mạng hoa nhài", "cách
mạng hoa sen" lật đổ nhà nước Việt Nam.
Những vấn đề trên dẫn đến tích tụ mâu thuẫn trong lòng xã hội, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột xã hội, làm mât an ninh quốc gia.
7.2.3. Mối đe dọa từ an ninh nội bộ
Mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập đã tác động trực tiếp
đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, làm nảy sinh những vấn đề phức tạp mới
trong nội bộ, đe doạ đến sự ổn định và phát triển của chế độ chính trị và nhà
nước.
- Không ít cán bộ, đảng viên bị lung lạc ý chí, bị tác động bởi luận điệu
chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch bộc lộ tư tưởng
băn khoăn, lo lắng mất niềm tin vào tiền đồ của chủ nghĩa xã hội, vào chủ
nghĩa Mác - Lê nin; phủ nhận thắng lợi của cách mạng; mơ hồ mất cảnh giác,
mất phương hướng, muốn Đảng ta phải “cải cách”, “mở rộng dân chủ”
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thậm chí ở cả cán bộ quản
lý cấp suy thoái về tư tưỏng, chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, hách dịch,
xa rời quần chúng đã và đang làm giảm sút uy tín của Đảng, ảnh hưởng tiêu
cực đến hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền. Gây mất niềm tin của
quần chúng vào Đảng, chính quyền, tạo ra các phản ứng xã hội, tạo điều kiện
cho các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo chống Đảng, Nhà
nước. Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn...
- Mối đe doạ “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng rõ
nét như: Đã xuất hiện nhiều ý kiến trong một số cán bộ, đảng viên cả đương
chức và nghỉ hưu không đồng thuận với chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước ở nhiều cấp độ khác nhau. Họ dùng danh nghĩa góp ý cho Văn kiện
Đại hội Đảng, thư ngỏ, hồi ký,... để đưa các vấn đề gây tổn hại đến uy tín của
Đảng, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành
tựu của đất nước. VD: Nguên Ngọc, Chu Hảo, Hoàng Minh Chính...
Thực tế, tình trạng trên đã và đang diễn ra âm thẩm ở mọi ngành, mọi
cấp, trở thành mối đe doạ trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị, đến
thịnh suy của dân tộc nếu chúng ta không có giải pháp quyết liệt để ngăn
chặn, đẩy lùi.

91
7.2.4. Mối đe dọa từ an ninh thông tin
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhất là sự bùng nổ của
công nghệ thông tin toàn cầu đã cho ra đời những công cụ vô cùng tiện ích,
đó là Internet và công nghệ liên lạc không dây. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ
an ninh, các công cụ này cũng đang trở thành hiểm họa đối với sự ổn định và
phát triển bình thường của các nước.
- Internet đang được coi là “chiến trường thứ 5” trong cuộc tranh đấu vì
lợi ích của con người ngoài bầu trời, mặt đất, không gian, biển. An ninh thông
tin, nhất là an ninh mạng đang thực sự trờ thành mối lo ngại đối với an ninh
quốc gia của mỗi nước, thậm chí ở ngay tại Mỹ - quốc gia có trình độ khoa
học kỹ thuật cao nhất, là quê hương của Internet.
- Đối với Việt Nam, sự phát triển bùng nổ của các phương tiện thông
tin và truyền thông (Với 140 triệu thuê bao di động - đứng thứ 7 thế giới về số
lượng thuê bao di động và hơn 40% dân số Việt Nam tiếp cận sử dụng dịch
vụ mạng) cùng với sự yếu kém, bất cập trong quản lý cùa ta đang là điều kiện
thuận lợi cho các thế lực thù địch, các đối tượng phản động trong và ngoài
nước tiến hành các hoat động xâm phạm an ninh quốc gia đất nước.
+ Bài toán quản lý các dịch vụ viễn thông và Iternet hướng tới mục tiêu
đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, cũng như phòng ngừa các hoạt động lợi
dụng mạng thông tin gây tổn hại lợi ích nhà nước, xã hội và cá nhân là rất
phức tạp cho cơ quan quản lý.
+ Các thế lực thù địch lợi dụng triệt để công cụ Internet để tuyên
truyền phá hoại tư tưởng, móc nối cơ sở, thu thập tin tức tình báo.... Trên
mạng Itemet xuất hiện hàng trăm website của các tổ chức phản động lưu vong
cùng hàng nghìn Blog cá nhân có nội dung không lành mạnh. Ngày đêm
24/24h lúc nào cũng có phòng hội thoại trực tuyến các luận điệu chống Đảng,
Nhà nước, với một số lượng đông đảo học sinh, sinh viên tham gia. Không
chỉ dừng ở tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, các đối tượng đã sử dụng công
nghệ thông tin để phối hợp, tiến hành các hành động chống đối. Nhiều vụ
kích động biểu tình, tụ tập đông người được truyền đi từ Internet và tin nhắn
điện thoại di động; các vụ khủng bố đe doạ tính mạng của nhiều người, gây
mất ổn định chính trị xã hội được kích nổ bằng một cuộc gọi di động.

92
+ Internet và điện thoại di động còn là phương tiện ẩn chứa những mối
đe doạ tấn công, nguy cơ xẩy ra một cuộc chiến tranh mạng đối với nước ta
Theo các hãng bảo mật trên thế giới, Việt Nam là một trong 5 nước
đứng đầu về tỉ lệ tán phát thư rác, xếp thứ 12 thế giới về mức độ đe doạ bị tấn
công bằng mã độc, đứng thứ 33 với hệ thống máy chủ bị lợi dụng lừa đảo trực
tuyến, xếp thứ 45 về mức độ de doạ máy tính bị nhiễm phần mềm điều khiển
của tin tặc. Nguy cơ này càng gia tăng khi hiện nay nhận thức của cán bộ các
cơ quan, ban ngành và nhân dân về an ninh mạng còn bất cập: 100% cơ quan
chủ quản Việt Nam khi thuê thiết kế website đều chưa quan tâm đến an toàn
mạng. Với khá năng tài chính hạn chế, 100% các website của Quốc hội,
Chính phủ, các cơ quan ban ngành Việt Nam đang được đặt ở những dải
mạng yếu, rất dễ bị xâm nhập tấn công. Các sản phẩm công nghệ thông tin
tràn ngập thị trường nhưng chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài (60% thiết
bị viễn thông của Việt Nam hiện nay có nguồn gốc từ Trung Quốc; các thiết
bị hiện đại: smart phone, máy tính bảng ... đều do nước ngoài sản xuất).
Trong khi đó, trình độ phát triển khoa học công nghệ (nhất là công nghệ
thông tin) của ta còn thấp, khả năng phát hiện và kiểm soát an ninh đối với
các sản phẩm, thiết bị, linh kiện công nghệ thông tin nhập khẩu từ nước ngoài
rất hạn chế. Thời gian vừa qua, chúng ta đã phát hiện nhiều vụ chiếm đoạt,
thay đổi, lấy cắp thông tin, bí mật nhà nước bằng cách sừ dụng phần mềm
gián điệp, tán phát sâu máy tính (virus), tấn công bằng mã độc làm tê liệt
mạng máy tính, gây ra tình trạng rối loạn trong hoạt động của một số cơ quan
nhà nước.
7.2.5. Mối đe dọa từ khủng bố quốc tế
Từ sau sự kiện 11/9 đến nay, nguy cơ khủng bố lan rộng ra toàn thế
giới, và trở thành mối đe doạ an ninh phi truyền thống đối với tất cả các nước.
Đối với Việt Nam, hiện các hoạt động khủng bố quốc tế như đã diễn ra
trên thế giới chưa xẩy ra, bởi vì:
+ Việt Nam không phải là mục tiêu của chủ nghĩa khủng bố (không có
xung đột lợi ích).
+ Các tổ chức khủng bố quốc tế cũng chưa có cơ sở xã hội tại Việt
Nam.

93
+ Tuy nhiên, mối đe doạ khủng bố tại nước ta cũng đang hiện hữu, bởi
ở trên lãnh thổ Việt Nam đang có các lợi ích của Mỹ và các nước phương
Tây.
Thời gian qua, quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước này ngày
càng được tăng cường. Chúng ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 13
nước, trong đó có Anh và đã nâng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ lên tầm đối tác
toàn diện. Điểu đó cho thấy sự hiện diện lợi ích cùa Mỹ và đồng minh tại Việt
Nam ngày càng lớn. Không loại trừ khả năng các tổ chức khủng bố quốc tế sẽ
tiến hành khủng bố tại Việt Nam để đánh thẳng vào các lợi ích này. Nếu chúng
ta để xẩy ra khủng bố đổi với các mục tiêu cùa Mỹ và phương Tây, hậu quả đối
với an ninh quốc gia sẽ là rất lớn, bởi sẽ trực tiếp ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường đầu tư của Việt Nam, làm giảm sút đầu tư nước ngoài, đổng thời
phá hoại quan hệ đối tác giữa Việt Nam với các nước chúng ta đang cần tranh
thủ, nhất là với Mỹ.
+ Ngoài ra, cũng đã xuất hiện một số tổ chức phản động lưu vong cử
người về nước nhằm khủng bố, gây nổ tại các mục tiêu chính trị. Đáng chú ý
là đã xuất hiện một số vụ gây nổ nhằm vào mục tiêu là nhà riêng các đồng chí
lãnh đạo ban ngành tại một số địa phương có dấu hiệu khùng bố... đòi hỏi
chúng ta càng phải nâng cao nhận thức và tăng cường các mặt công tác an
ninh để đối phó với mối đe doạ khủng bố.
7.2.6. Mối đe dọa từ biến đổi khí hậu toàn cầu
+ Ngày nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đã trở thành một vấn để “nóng”
của thế giới và được xác định là một thực tế đe doạ sự tồn tại của loài người
trên trái đất có tác động trực tiếp đến chính trị và an ninh quốc gia.
Nguyên nhân cùa tình trạng biến đổi khí hậu do trái đất bị hâm nóng vì
hiệu ứng nhà kính tăng quá mức trung bình tự nhiên khiến các sông băng trên
các núi cao và nhất là vùng quanh năm băng giá ở Bắc và Nam cực tan dần,
làm mặt nước biển dâng cao hơn, tới lúc nào đó sẽ ngập chìm và xoá khỏi bàn
đổ thế giới những hòn đảo và những vùng đất thấp cùa một số nước. Ngoài ra,
thời tiết trên trái đất cũng bị biến đổi tiêu cực, thiên tai xẩy ra thường xuyên
hơn và với cường độ cao hơn, lụt lội và hạn hán kéo dài hơn. Tất cả những
triệu chứng này đã bắt đầu hiện rõ, với viễn cảnh rất đáng sợ của một hiện

94
tượng “tị nạn môi trường” và những luồng di dân khổng lồ, làm căng thẳng
quan hệ giữa các nước, biến đổi mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia.
+ Việt Nam là một trong những nước chịu tác động của biến đổi khí
hậu
toàn cầu mạnh nhất (đứng thứ 13 trong 16 nước chịu tác động mạnh của biến
đổi khí hậu toàn cầu trong 30 năm tới), với hậu quả trực tiếp nhất là nước biển
dâng nhấn chìm các vùng đất ven biển.
Theo sự tính toán của các chuyên gia 100 năm tới có 2 kịch bản về
nước biển dâng cao:
Kịch bản 1: mặt nước biển chỉ dâng cao hơn 1 mét. Ở Đồng Bằng sông
Cửu Long, nhiều nơi đất chỉ cao hơn mặt biển từ lm đến l,25m nên mực nước
biển chỉ cần dâng cao thêm lm cũng đủ làm ngập chìm 40% diện tích của cả
vùng này, và trên bình diện cả nước, làm đảo lộn cuộc sống của 11% dân số
(tỉ lệ cao nhất thế giới), lấy đi của Việt Nam 10% GDP, tàn phá 13% diện tích
đất nông nghiệp, 10% các vùng đô thị và 28% các vùng ngập nước.
Kịch bản 2: Nếu mặt nước biển dâng cao 5m, 16% diện tích lãnh thổ
nước ta sẽ bị ngập chìm, 35% dân chúng sẽ phải di dời nơi cư trú, mất đi 36%
GDP, 24% diện tích đất nông nghiệp sẽ bị huỷ hoại.
Hiện nay, người dân Đồng bằng Sông Cửu Long đang phải đối mặt với
tình trạng nước mặn ngày càng tiến sâu vào đất liền, tác động không nhỏ đến
cuộc sống và sản xuất; hiện tượng sạt lở bờ sông. Tại miền Trung, người dân
từ lâu đã phải sông với hiện tượng biển dâng cao lấn đất liền. Suốt dọc bờ
biển từ Phong Điền đến Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), hàng trăm làng phải
“chạy sóng”, dắt díu nhau bỏ nhà, nhường lại làng cho biển. Có nơi, người
dân đã dời lui nhà cửa 800m, nhưng với tốc độ xâm thực của biển (lấn thêm
200m sau 10 năm), cũng chỉ vài năm nữa thôi những làng tái định cư này
cũng không còn.
7.3. ỨNG PHÓ CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN
THỐNG
7.3.1. Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống

95
Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII trở về trước, thuật ngữ an ninh phi
truyền thống chưa được Đảng ta sử dụng chính thức nhưng các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống đã được mô tả như: Hội Nghị Đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) xác định 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
chế độ là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nguy cơ
về tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc VIII (6/1996) xác định: “Thế giới đứng
trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về
dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc
gia nào có thể tự giải quyết, mà phải có sự hợp tác đa phương”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) khẳng định: “Bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn
hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự
nghiệp đối mới và lợi ích quốc gia dân tộc”, bổ sung thêm vấn đề chống tội
phạm quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (04/2006), Đảng ta xác định bối
cảnh tình hình là “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi h i các quốc gia và các
tổ chức phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước
giàu và nước ngh o ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng di
cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường
tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên
tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều
hướng tăng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (4/2011), Đảng ta chính thức sử
dụng thuật ngữ an ninh phi truyền thống. Báo cáo chính trị nêu rõ: “Trên thế
giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung
đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp
lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền

96
thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử -
viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng” và “Những vấn đề
toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến
đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến
phức tạp”.
Từ nhận định, đánh giá tình hình đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng xác
định về mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là: “Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển
đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn
chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực th địch
và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính
toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (01/2016), trong báo cáo của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do
đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 21/01/2016 đã đánh giá
“Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều
diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với
các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng
và các hình thái chiến tranh kiểu mới” và xác định nhiệm vụ quốc phòng - an
ninh là “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của
các thế lực th địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái,
đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa
an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an
ninh mạng”. Như vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác
định các vấn đề an ninh phi truyền thống có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề
an ninh truyền thống và đều là những mối đe dọa đến sự ổn định và phát triển
bền vững của quốc gia.
7.3.2 Những giải pháp cơ bản nhằm ứng phó với các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống ở Việt Nam
- Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của toàn dân về các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

97
- Tăng cường tiềm lực quốc gia, xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội
vững chắc, tập trung giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình, dự báo kịp thời
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong ứng phó
với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Phát huy các nguồn lực xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng
phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
KẾT LUẬN
Vấn đề an ninh phi truyền thống là một nội dung rất quan trọng của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới.
Đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống vừa là yêu cầu, nhiệm
vụ của sự nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc, vừa là điều kiện quan
trọng để bảo vê ̣ vững chắc đô ̣c lâ ̣p, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vê ̣ chế đô ̣, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trâ ̣t
tự, an toàn xã hô ̣i. Thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi sự đồng thuận và nỗ lực
của toàn xã hội, sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, với
những giải pháp, biện pháp phù hợp và hiệu quả.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm, đặc điểm và các nội dung cơ bản của an ninh
phi truyền thống? Làm rõ nội dung An ninh thông tin?
2. Trình bày quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống?

98
99

You might also like