You are on page 1of 762

Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri

(LuongVinhTri@gmail.com)
Sưu tầm - Bình giải

Bí ẩn
Huyền sử
Đại Việt

Dự thảo 2021
1
Thông báo 1:
Tác giả: Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri (tên
thật là N.M.D) nhận đặt hàng cuốn sách này bản cứng
A5 giấy trắng đẹp, bìa Couche định lượng 300gms cán
mờ gập cạnh 2 lớp bảo vệ sách. Tác giả sẽ giao hàng
tận nơi toàn quốc và có chữ ký cảm ơn Quý bạn đọc.
Nhận hàng xong thanh toán cho Shipper. Ai có nhu
cầu xin liên hệ email: Luongvinhtri@gmail.com.
Thông báo 2:

Tôi không giữ bản quyền cuốn sách này. Tôi chia sẻ
miễn phí toàn bộ tác phẩm cho quý bạn đọc tùy nghi
sử dụng ở dạng file PDF. Tôi khuyến khích bạn đọc và
người hâm mộ có năng lực lập Facebook, Youtube,
Tiktok... sử dụng nghiên cứu của tôi để chia sẻ kiến
thức cho nhiều người. Toàn bộ nội dung sách đều là
kiến thức bổ ích nên đây là công đức lớn và phúc lớn.
Thông báo 3:
Tôi khuyến khích các dịch giả dịch tác phẩm này
của tôi ra nhiều thứ tiếng. Người Tây Âu rất thích học
thuật và kiến thức bổ ích nên đây là điều lợi ích lớn và
phúc lớn.
Xin trân trọng thông báo!

2 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời ngỏ
“Chính Sử được chép bởi Lý,
Huyền Sử được chép bởi Cảm.
Tình Cảm và Lý Trí là hai phần
Tạo thành một tâm hồn”
(Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri)
Tôi thường nghe rằng: “Việt Nam ta với những
trang sử hào hùng, oanh liệt vang động năm châu
bốn biển”. Vậy thử hỏi rằng bây giờ, mấy ai là người
dân thường Việt Nam lại thuộc rõ được Sử Việt
Nam? (Tôi chỉ nói là “dân thường” thôi nhé!)
Còn hỏi đến Sử Trung Quốc, ai ai cũng biết Tam
Quốc Diễn Nghĩa, Xuân Thu Chiến Quốc, Tần Thủy
Hoàng, rồi Cổ Học Tinh Hoa với các truyện tích của:
Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử rồi
Tôn Tử binh pháp 36 kế, hay các tích truyện về
Quyền Mưu Thần Bí, Quyền Mưu Gia Cát Lượng...
nhiều lắm. Bạn thử đến phố sách Nguyễn Xí ở Hà Nội
và hỏi sách sử Trung Quốc thì họ chỉ cho bạn một
kho sách. Còn hỏi đến sách sử Việt Nam thì cũng ở
kho sách đó cố gắng tìm sẽ được vài cuốn.
Ngoài sách ra thì Phim ảnh Dã Sử Trung Quốc đã
đi sâu vào tâm thức người dân Việt Nam với từng chi
tiết, từng thời kỳ, từng nhân vật cách ăn mặc, hình
dáng, tính cách, nói năng toàn là Trung Quốc.
Bàn về sách Chính Sử Việt Nam từ xưa đến nay
mới chỉ dừng lại ở dạng Sử Ký (nhật ký ghi chép về
Lịch Sử). Bố cục chung của Sử Ký sẽ là: “Năm niên
hiệu, đời Vua / mùa / tháng / ngày / diễn biến lịch
Lời ngỏ 3
sử...” rồi lại lặp lại: “Năm niên hiệu, đời Vua / mùa /
tháng / ngày / diễn biến lịch sử...” học Sử kiểu này
xin nói thật, tôi rất sợ. Thiết nghĩ, chúng ta nên bỏ
chữ “Lịch” trước chữ “Sử” đi thì quan niệm sẽ thoáng
hơn về Sử. “Lịch” ở đây nghĩa là: “Năm / mùa / tháng
/ ngày / diễn biết” rồi lại tiếp tục vòng quay vô tận,
700 trang sử trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn
5000 lần vòng quay này lặp lại.
Còn các tiểu thuyết Dã Sử Cổ Việt Nam thì rất
hiếm, rất ít, rời rạc và không hấp dẫn. Ngay cuốn
Huyền Sử Cổ mà tôi yêu thích nhất: “Lĩnh Nam Chích
Quái của Trần Thế Pháp (1493)” cũng chỉ có 34
truyện (bản gốc có 45 truyện nhưng nay bị thất lạc)
lược bớt những truyện huyền hoặc, mơ hồ không
gắn với nhân vật trong sử nào, tôi chỉ lấy được 20
truyện và trình bày trong cuốn sách này.
Mục đích duy nhất của tôi khi biên soạn cuốn sách
này là:
“Dân Ta phải biết Sử Ta,
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Dân ta lại rõ Sử Người,
Nước nhà thì điếc, nước Người thì thông”.
Để “Dân Ta” yêu “Sử Ta”, tìm hiểu biết rõ “Sử Ta”
rồi dẫn đến tình yêu nước Việt, tự hào được làm
người con dân đất Việt thì không thể bắt “Dân Ta”
học thuộc lòng “Nhật ký Lịch Sử” được.
Tôi muốn đưa các bạn đến với những trang Sử
hào hùng của Việt Nam bằng những câu truyện hấp
dẫn, hơi huyền bí mang tính chất truyền thuyết dã
sử, tôi gọi tắt là Huyền Sử. Và các tích truyện Giai
4 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Thoại lịch sử là các truyện ngắn có nội dung và lời
đối thoại của các nhân vật. Tôi tạm đặt tên cuốn sách
này là: Bí ẩn Huyền sử Đại Việt.
Cách làm này của tôi giống như một bữa ăn. Mục
đích đầu tiên của bữa ăn là “cung cấp đầy đủ vitamin
và dưỡng chất cần thiết cho cơ thể”. Do vậy có 2 cách
như sau:
Cách thứ nhất: Bạn cân đong đo đếm các loại
“vitamin và dưỡng chất cần thiết cho cơ thể” và quyết
định: cho ít cơm, ít canh, ít rau củ quả, ít thịt, ít cá, ít
mắm muối, hải sản, hành tiêu muối ớt, rượu tây,
rượu ta, bia Đức, bia Tiệp, socola, phomat... sau đó
xay tất cả các thứ đó lên rồi cắm ống hút uống.
Cách thứ hai: Hôm nay bạn ăn hải sản với những
thức ăn và đồ uống dành riêng cho hải sản, chấp
nhận thiếu hụt một số vitamin A,B,C... Hôm sau bạn
ăn đồ Tây với rượu vang, phomat, bánh mì Pháp,
Piza, Spagheti... để bổ sung thêm các vitamin A,B,C
thiếu hụt. Và liên tục thay đổi món ăn trong các bữa
với nghệ thuật ẩm thực phong phú.
Vậy bạn đọc lựa chọn cách ăn nào?
Theo tôi học Sử cũng vậy, học Nhật Ký Lịch Sử chỉ
nên dành cho các nhà Khoa Học nghiên cứu lịch sử.
Giống như đồ ăn đóng tuýp như kem đánh răng với
“đầy đủ vitamin và dưỡng chất cần thiết cho cơ thể”
chỉ dành cho các nhà du hành vũ trụ mà thôi. Tôi là
một người dân bình thường nên tôi thích ăn món ăn
không quá đầy đủ chất theo đúng chuẩn mực Khoa
Học. Quan trọng là khi nghĩ đến ăn là tôi cảm thấy
thèm và cảm thấy yêu.

Lời ngỏ 5
Cuốn sách này sẽ giúp bạn khi nghĩ đến Sử Việt
Nam là các bạn cảm thấy yêu Sử Việt với các tích
truyện hấp dẫn mê hoặc lòng người. Mặc dù chưa
chắc 100% là đúng sự thật, nhưng các nhân vật
trong truyện là có thật, thời đại là có thật, cốt truyện
là có thật, còn chi tiết có thể là hư cấu, hoang đường.
Điều đặc biệt nhất là những truyện này được chép
bởi tình cảm của người dân Việt và nó có sức sống
mãnh liệt trong dân gian qua nhiều thế hệ.
Ngoài ra, đặc điểm nổi bật nhất của cuốn Huyền
Sử này là: Giải thích được sự huyền bí trong lịch
sử Việt Nam mà Chính Sử không thể giải thích nổi.
Đó là Thời Vận của đất nước và Tâm Linh của dân
tộc Việt.
Chính sử chỉ nêu ra diễn biến, kết quả, thành công
thất bại mà hoàn toàn bỏ quên yếu tố Tâm Linh của
Sử. Điều này đã khiến cho Chính Sử không hấp dẫn
vì chỉ có lý trí “thấy vậy thì chép vậy” chứ tình cảm
thì khô khan nhạt nhẽo.
Chính Sử đã bỏ quên mất yếu tố Đạo Phật là cái
gốc xây dựng hình thành lên nền Tâm Linh và Phúc
Đức của dân tộc. Vua Lý Thái Tổ là một cậu bé mồ
côi sinh ra ở chùa Ứng Tâm được Thiền Sư Lý Khánh
Vân nhận làm con nuôi. Lên 8,9 tuổi theo học đạo với
Thiền sư Vạn Hạnh rồi ra đời làm tướng đến chức
Tứ Tướng Quân Chế Chỉ Huy Sứ. Vua xây dựng lên
nhà Lý tồn tại 216 năm mở đầu thời kỳ độc lập bền
vững của dân tộc. Nhưng cái gốc của vua là Đạo Phật
thì lại ít được nhắc đến.
Có khi nào các vị Sử thần tiền bối như: Lê Văn
Hưu, Ngô Sĩ Liên... vốn dĩ là nho sĩ Đạo Khổng đã cố
6 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
tình quên hoặc cho rằng là mê tín, là tà ma ngoại đạo
không? Dẫn chứng là vua Trần Nhân Tông chết thiêu
được 3000 ngọc xá lợi ngũ sắc. Trong Đạo Phật thì
các vị Thiền Sư chết hỏa thiêu được ngọc xá lợi là
bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy sự chứng đắc
Đạo Quả. Nhưng các vị Sử thần lại cho là chuyện tầm
phào, nhảm nhí và bàn rằng: “Các sư thanh tịnh dục
thì khi chết thiêu, tinh liên kết lại mà thành ra vậy”.
Thế sao hàng ngàn vị Sư tịnh dục lại chỉ có những vị
Thánh Tăng khi sống đã được coi là chứng đắc Đạo
Quả, khi chết thiêu mới có xá lợi? Hay trường hợp Sư
Vạn Hạnh báo trước ngày giờ mất rồi ngài ngồi thiền
nhập định mà tịch thì các vị Sử thần lại bảo là:
“Người Quân tử không làm như vậy”. Cũng không thể
trách cứ được các vị Sử thần nho sĩ ấy vì những lĩnh
vực ngoài chuyên môn của các vị.
Đặc biệt ở giai đoạn cuối thời Bắc Thuộc, một
nhân vật huyền bí có pháp thuật tâm linh cao siêu là
Cao Biền đã đến cai quản đất Tĩnh Hải Quân (Việt
Nam). Thấy đất Phương Nam có “khí tượng đế
vương” nên người này đã yểm bùa, cắt đứt long
mạch của Đất Việt để mãi mãi về sau Việt Nam
không thể ngóc đầu lên được. Nhưng điều này Chính
Sử không hề chép mà chỉ có các truyện tích Huyền
Sử cổ và Sử Trung Hoa nói rất rõ về nhân vật này
(Đặc biệt là Sử Trung Hoa vì đất nước ta thời đó
thuộc nhà Đường. Các vị Sử thần Trung Hoa cũng
sống trong cùng thời đại sự việc diễn ra).
Tuy vậy, đất nước Việt Nam ta vào thời gian đó đã
có những vị Thiền sư với khả năng tâm linh huyền
học cao thâm hơn Cao Biền. Có vị Thiền sư đoán
Lời ngỏ 7
trước được thời điểm Cao Biền đến đất Việt mà
khuyên đệ tử 120 năm sau tìm người họ Đinh để
giải. Khoảng 120 năm sau đó có vị Thiền sư họ Đinh
đã nối hết 19 điểm long mạch bị cắt đứt. Sư trồng
cây miên (cây gạo) ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị
đứt. Sư viết Sấm Ký lên cây gạo tiên toán sẽ có người
họ Lý lên làm vua.
Rồi 120 năm sau nữa vào thời Lý Công Uẩn đang
làm Tứ Tướng Quân Chế Chỉ Huy Sứ thì cây gạo đó bị
sét đánh tại vết cháy hiện bài thơ. Vạn Hạnh Thiền
Sư đến và giải thích ý nghĩa của bài thơ đó điềm báo
nhà Lý lên ngôi và các sự kiện lịch sử Việt Nam diễn
ra trong 500 năm sau đó đến tận thời nhà Lê Sơ. Lý
Công Uẩn nghe thấy sợ hãi phải đưa Sư phụ trú ẩn
trong chùa vì sợ tin này đến tai vua Lê Ngọa Triều
(vị bạo chúa thời đó). Sấm Ký Vạn Hạnh vô cùng nổi
tiếng trong giới Sử Gia Việt Nam mà cho đến ngày
nay rất nhiều người vẫn nghĩ rằng tác giả là Sư Vạn
Hạnh.
Tất cả những điều bí ẩn trên tôi đều vô tình đọc
được trong cuốn Lịch Sử Thiền Tông Việt Nam của
cố Hòa Thượng Thích Thanh Từ mà không một bộ
sách Sử nào, cả chính sử và huyền sử nói về điều
này.
Có thể suy đoán rằng: mạch nghiên cứu lịch sử
của các vị Sử thần phong kiến tách biệt hẳn với mạch
nghiên cứu lịch sử của các vị Tăng Tổ Thiền Sư trong
Đạo Phật. Và tài liệu nghiên cứu Sử của bên này thì
bên kia không biết đến.
Khi tôi ghép nối lại hai nguồn dữ liệu của Lịch Sử
Thiền Tông và Lịch Sử Việt Nam thì toàn bộ yếu tố
8 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tâm Linh Huyền Bí của Sử Việt đã hoàn toàn rõ ràng
mạch lạc. Chính xác đến cả về thời gian lẫn tên tuổi
các nhân vật trong Chính Sử và sử Thiền Tông.
Chính bởi sự Huyền Bí kì diệu đó đã khiến cho
cuốn Huyền Sử này vô cùng hấp dẫn đối với tôi và
chắc bạn đọc cũng sẽ vậy.
Để hoàn thiện cuốn sách này tôi xin cảm ơn đội
ngũ các nhà Khoa Học, các nhà Sử Học, các vị Học Giả
và các vị Thiền Sư đã bỏ công sức nghiên cứu Lịch
Sử Việt Nam và đã có những công trình nghiên cứu
được ghi chép thành sách truyện. Đây là nguồn tư
liệu vô giá để tôi tham khảo, trích đoạn và hoàn
thành cuốn sách này.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn đọc, các bạn là những
người đã yêu mến đất nước Việt Nam, muốn tìm
hiểu Sử Việt và là nguồn động viên tích cực cho tôi
hoàn thiện cuốn sách.
Ghi chú thêm: Đại Việt là tên gọi của nước Việt
Nam ta thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn. Đây là
khoảng thời gian 900 năm lịch sử giữ nước hào hùng
nhất của dân tộc Việt. Với bao nhiêu sự kiện quan
trọng diễn ra, bao nhiêu trận đánh chống ngoại xâm
oanh liệt của các triều đại vua tôi Đại Việt. Ngoài ra,
để có được hệ thống đầy đủ Sử Việt, tôi xin mạn phép
có thêm giai đoạn đầu dựng nước thời Hồng Bàng và
thời Bắc Thuộc. Các tích truyện Huyền sử và Giai
thoại được chọn lọc trong cuốn sách này trải dài
trong khoảng thời gian đó đến khi Vua Nguyễn Thế
Thổ lên ngôi và đổi tên nước Đại Việt thành Việt Nam.
Do vậy, tôi xin phép lấy tên cuốn sách là: “Bí ẩn

Lời ngỏ 9
Huyền sử Đại Việt” mong quý vị độc giả vui vẻ đồng
ý với tôi.
Xin trân trọng cảm ơn!
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri
(Luongvinhtri@gmail.com)

10 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời dẫn nhập
Từ thời xa xưa, cách đây đúng 4897 năm theo lịch
Huyền Sử (tính đến khi tôi hoàn thiện bản dự thảo
cuốn sách này 2018) là khởi đầu thời Hồng Bàng của
đất nước Văn Lang (tiền thân của nước Đại Việt) thì
hình ảnh vị vua luôn gần gũi với dân, bao bọc, che
chở cho dân như một người cha hiền luôn dõi theo
các con của mình, được tái hiện rõ ràng và chi tiết:
“... mỗi khi đất nước lâm nguy, mỗi khi dân chúng
khổ cực lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! sao
không lại cứu chúng con.”. Lạc Long Quân tới ngay....”
Một đạo lý thấm nhuần của dân tộc Việt đó là:
“Vua như một người cha của dân tộc, dân gọi vua là
Bố”. Vào thời đó, Hùng Vương trị vì đất nước được
bền lâu hơn 2000 năm trải qua 18 đời vua Hùng.
Thời đó, cũng có những chiến công hiển hách chống
giặc ngoại xâm nhà Ân (truyện Thánh Gióng) giết
được Ân Vương làm cho phương Bắc khiếp sợ 644
năm không dám động binh với Lạc Việt.
Sau thời Hùng Vương, Vua mới vẫn được thần
nhân giúp đỡ và ngài vô cùng tài giỏi là An Dương
Vương xây thành Cổ Loa, có nỏ thần Liên Châu là
những kỳ quan quân sự thời bấy giờ. Vua được Thần
Kim Quy nhiệt tình giúp đỡ đã đánh tan 50 vạn quân
Tần... nhưng rồi vẫn mất nước. Do kiêu căng ngạo
mạn, khinh thường kẻ thù, xa rời hiền tài nên vậy
(Kẻ thù khi đó là Triệu Đà một viên quan của Tần
Thủy Hoàng nhưng phản nhà Tần làm thái thú vùng
Lâm Ấp một vùng tự trị có diện tích nhỏ bé so với nhà
Tần. Bậc hiền tài khuyên can An Dương Vương bấy
Lời dẫn nhập 11
giờ là Cao Lỗ tướng quân. Ông khuyên vua không nên
gả Mị Châu cho Trọng Thủy. Nhưng Vua không nghe
còn đuổi Cao tướng quân đi). An Dương Vương đã
làm mất nước Âu Lạc vào tay giặc phương Bắc và
khởi đầu cho 1000 năm bắc thuộc.
Có người đổ tại cho vận số đất nước, tức là họ đổ
tại cho Trời cho Đất và các vị Thần bảo hộ nước Nam
nên nước ta bị Phương Bắc đô hộ.
Xin thưa rằng, trong Thiên - Địa - Nhân thì Thiên
và Địa cũng do tâm con người ứng hiện mà thành.
An Dương Vương đâu phải không được Thần Kim
Quy giúp đỡ. Nhưng yếu tố con người (Nhân) vẫn là
quan trọng nhất. “Khi kiêu mạn khởi lên là nhiễm ô
lối bước” một người tài giỏi như An Dương Vương:
Tần Thủy Hoàng với 50 vạn quân cũng tủi hổ chịu
thất bại, Cổ Loa thành 9 tầng cao vút (Cổ Loa Thành
được giặc phương Bắc gọi là Côn Lôn Thành vì cao
như núi Côn Lôn) với hào rãnh nước sâu bao bọc
trùng trùng lớp lớp, nỏ thần Liên Châu vạn binh gục
ngã... nhưng khi đã kiêu mạn rồi thì sẽ có những
quyết sách u tối, hiền tài can ngăn cũng không nghe...
Nhân đã suy thì Thiên Địa đồng hòa và vận số đất
nước theo đó mà thành.
Trong thời Bắc Thuộc vẫn có những anh hùng kiệt
xuất ra đời: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế,
Triệu Việt Vương, Phùng Hưng nhưng đa phần thời
này đều là các cuộc khởi nghĩa địa phương trước ách
áp bức bóc lột tàn bạo của nhà cầm quyền phương
Bắc chứ không có ý nghĩa sâu xa là dành độc lập cho
đất nước vua Hùng. Cũng là do thời vận chưa đến
nên nhằm vào những lúc Bắc Quốc đang cường thịnh
12 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
nên Phương Bắc đưa quân đến và dẹp tan. Duy có
Hai Bà Trưng khá gần thời Hùng Vương và có dòng
dõi Hùng Vương, có chí nguyện gây dựng nhà nước
Hùng Vương đã đánh chiếm được toàn bộ 65 thành
là đất đai của tộc Bách Việt khi xưa đến tận Hồ Động
Đình phía nam sông Dương Tử. Nhưng Vua là nữ,
thân yếu, thế cô và đã bị giặc đánh bại.
Nhưng vận nước Đại Việt gắn liền với Đạo Phật.
Từ thời Hùng Vương có Chử Đồng Tử học đạo từ vị
tăng Ngưỡng Quang ở núi Quỳnh Viên (bờ biển Hà
Tĩnh là ranh giới phía nam của nước ta thời bấy giờ)
sau đó trở về dạy đạo cho Công Chúa Tiên Dung (vợ
của ngài) và dân chúng trong vùng. Ngài dạy cho họ
cách làm ăn buôn bán và xây dựng nơi đó thành một
tiểu quốc giàu có nhưng sau bị vua Hùng đến đánh
tan. (Huyền sử ghi lại là toàn bộ thành quách dân
chúng và cả Tiên Dung, Chử Đồng Tử đều sau một
đêm biến mất để lại nền móng là một cái đầm sâu
rộng gọi là Đầm Dạ Trạch (đầm một đêm) ở Khoái
Chân - Hưng Yên ngày nay)
Trước thời Bắc Thuộc các vị Thiền sư Nguyên
Thủy Phật Giáo đã đến đất phương Nam để giáo hóa
từ rất sớm vì đất Phương Nam “vận khí an lành”.
Đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang Việt Nam trước khi
từ Trung Quốc đi đến với tên gọi là Đạo Bụt. Trong
Cổ tích Việt Nam thường xuất hiện ông Bụt hiền lành
từ ái giúp đỡ dân chúng là vậy (Từ “Bụt” là phiên âm
trực tiếp từ tiếng Phạn, Đạo Phật là Budda (đạo Giác
Ngộ) sang tiếng Việt là Bụt. Từ “Phật” là phiên âm từ
tiếng Trung đọc là Phật-Đà sang tiếng Việt thành vậy)

Lời dẫn nhập 13


Vào thời Bắc Thuộc có ngài Thiền sư Tỳ-ni-đa-
lưu-chi (Vinitaruci) người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn
Độ) đi khắp Tây Trúc (Ấn Độ) để tham khảo thiền
tông, cơ duyên không đến mà không gặp. Sau gặp
Tam Tổ Tăng Xám ở núi Tư Không (Hồ Nam, Trung
Quốc) Tổ truyền tâm ấn và khuyên:
- Ngươi nên đi qua Phương Nam giáo hóa, không
nên ở đây lâu.
Năm 580, Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp
Vân (nay là chùa Dâu, xã Thanh Khương, huyện
Thuận Thành, Bắc Ninh) và là sơ tổ dòng thiền Tỳ-
ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam. So với Thiền Tông Trung
Hoa của Tổ Bồ Đề Đạt Ma (470-543) thì Thiền Tông
Việt Nam chậm hơn 3 đời vào khoảng 50 năm.
Sau có ngài Thiền sư Định Không (730-808) (Đời
thứ 8, dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư thay đổi vận
khí đất nước. Nhân cơ duyên mà đào được 12 Pháp
Khí Cổ ở làng làng Diên Uẩn. Sư lập đàn tràng trấn
giữ nơi làng 12 món Pháp Khí, khơi thông long mạch
và đổi tên làng Diên Uẩn thành Cổ Pháp (nay là Đình
Bảng, Bắc Ninh). Sư đề Sấm Kí báo trước sẽ có Cao
Biền sang Đại Việt trấn ếm nơi đây. Sư khuyên đệ tử
tìm người họ Đinh giao trụ trì, sẽ hóa giải được bùa
ếm và chí nguyện của Sư sẽ thành.
Tiếp sau, có ngài Thiền sư La Quí (852 - 936) (Đời
thứ 10, dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Đinh
người An Chân, cuối đời Sư có nói: “Thuở trước Cao
Biền xây thành bên sông Tô Lịch, vì biết vùng đất làng
Cổ Pháp (Đình Bảng, Bắc Ninh) có khí tượng đế
vương, nên cho đào đứt con sông Điềm và những hồ
ao liên hệ đến mười chín chỗ để trấn ếm. Nay ta đã sai
14 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại ta có trồng một cây
Miên (cây Gạo) ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt.
Ắt sau này có vua hiền ra đời, để vun bồi chánh pháp
của ta”.
Kế đó, có ngài Lý Công Uẩn (974 - 1028) mồ côi
cha mẹ, sinh ra ở chùa Ứng Tâm được Thiền sư Lý
Khánh Văn nhận làm con nuôi. Sau lớn lên ngài làm
học trò Thiền sư Vạn Hạnh (Thiền sư Vạn Hạnh đời
thứ 12, dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Lý Công Uẩn
có trí lớn, có tài năng kiệt xuất, thông hiểu đạo lý
trời đất gây dựng nhà Lý tồn tại 216 năm qua 9 đời
vua.
Đời sau, có ngài Trần Thái Tông (1218 - 1277) là
vua đầu tiên đời Trần, trí nguyện xuất gia, bỏ ngôi
vua lên Yên Tử tu hành để phản đối Thái sư Trần
Thủ Độ. Nhưng bị Trần Thủ Độ bắt ép về làm Vua.
Sau khi lãnh đạo đất nước chiến thắng giặc Nguyên
Mông lần thứ nhất (1258) ngài nhường ngôi cho con
và làm Thái Thượng Hoàng. Ngài đi tu ở am Thái Vi
vùng rừng núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư, an dân lập ấp tu
hành.
Sau đó, có Ngài Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là
vua đời thứ 3 nhà Trần. Ngài là Điều Ngự Giác Hoàng
Tổ Sư - Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam. Ngài đi
tu ở núi Yên Tử và đắc đạo. Khi hỏa thiêu Ngài được
3000 Ngọc Xá Lợi. Vua Anh Tông cùng đình thần
đem long giá rước ngọc cốt Xá Lợi về tôn thờ nơi
Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên
Tử để tôn thờ. Nhờ uy đức của các vị vua lập quốc
Nhà Trần, đời nhà Trần tồn tại được 175 năm.

Lời dẫn nhập 15


Các đời Lý, Trần, vua dùng đạo lý nhà Phật tạo
Đức sâu dày để an dân. Nhưng phàm cái gì thái quá
thì đều không tốt, vốn dĩ đó là đạo lý của trời đất...
Thời nhà Lý xây 500 chùa tháp to lớn, có vị sư làm
đến chức Quốc Sư (Nguyễn Minh Không). Thời nhà
Trần các vua đều Quy Y cửa Phật, hai vị vua Trần lập
quốc uy đức sáng ngời đều xuất gia xuống tóc... nhìn
bề ngoài thì là tốt...
Nhưng khi đạo Phật được đề cao quá, tăng ni chỉ
cần có hình tướng là đã được tôn kính, nhân dân và
triều thần cung phụng. Chẳng cần biết công đức tu
hành đến đâu? Tâm ra sao? Phúc đến đâu? Đức đến
đâu? Thời Lý nửa dân số đều là tu sĩ thì trong số đó,
biết bao nhiêu là “giả sư” lấy hình tướng để kiếm
chác bổng lộc cá nhân.
Cái gốc không phải là hình tướng hay tên gọi, mà
cái gốc là “Phúc, Đức và cái Tâm”. Khi cái tâm ác độc
đến thay thế cho cái tâm từ ái yêu thương nhân dân.
Khi cái Phúc Đức bị cạn kiệt bởi lòng tham và sự
hưởng thụ trụy lạc của những ông Vua. Thì đau
thương loạn lạc, máu lửa và nước mắt cũng đến bao
phủ lấy đất nước.
Hồi đau thương luôn bắt nguồn từ một vị Vua sinh
trong nhung lụa. Vua từ bé đã hưởng đặc quyền đặc
lợi và sống tham lam ích kỷ, xa rời nhân dân. Vua
không biết quý trọng đất nước, không biết quý trọng
hòa bình, quý trọng xương máu của cha ông tiên tổ
đã hi sinh để có được đất nước này.
Đó là những vị vua như Lê Ngọa Triều ác độc làm
lòng dân chán ghét, đánh mất nhà Tiền Lê. Vua Lý

16 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Cao Tông chơi bời không điều độ, hình chính không
rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, đánh
mất cơ nghiệp nhà Lý. Vua Trần Dụ Tông tin dùng
Trâu Canh làm điều loạn luân, mở sòng đánh bạc,
hoang dâm vô độ, đói kém xảy ra mọi nơi, cơ nghiệp
nhà Trần từ đấy mà suy.
“Thượng bất chính, Hạ tắc loạn”
Vua và đình thần mất Đức, mất Phúc, mất Nhân
thì xã hội loạn từ trong loạn ra, loạn từ trên loạn
xuống. Thế mới hay chữ Đức và chữ Phúc quan trọng
biết chừng nào. Phúc Đức của một vị vua có thể cảm
hóa cả trời và thần. Người dân có Đức, toàn dân có
Đức thì dẫu kẻ thù trăm vạn quân cũng phải chịu
thất bại. Khi vua không có Đức, dân chúng tham lam
ích kỉ thì không cần kẻ thù nào mà căn bệnh “ung
thư” bên trong sẽ phá tiêu đất nước.
Nước loạn mà thời vận chưa mạt. Các vị Phúc
Thần bảo hộ đất nước này phải tự lo đi tìm người có
Đức có Phúc để đứng lên gánh vác sơn hà. Và một
thời yên bình thịnh trị lại đến. Những lúc đất nước
yên bình nhất là những lúc vừa trải qua nỗi khổ cực
đại (sau thời nhà Trần đánh bại Nguyên Mông hay
sau khi Lê Thái Tổ đánh bại giặc Minh luôn được các
nhà sử học đánh giá là thời yên bình nhất của đất
nước).
Sau nhà Trần đến thời nhà Hồ không được lòng
dân. Đức của vua không sâu, Phúc của vua không dày
nên dân oán thán. Quân nhà Hồ thiện chiến, vũ khí
hiện đại (thời đó nhà Hồ đã có súng thần công) lực
lượng đông hơn giặc Minh nhưng quân ở trong dân
mà như trong lòng kẻ địch. Nhà Hồ đại bại và nước
Lời dẫn nhập 17
ra rơi vào thời kỳ Bắc Thuộc lần 4. Nhớ lại cảnh
trước nhà Trần với 30 vạn quân dân Đại Việt đánh
bại 100 vạn quân Nguyên Mông thiện chiến nhất Thế
Giới thời đó. Dẫu biết: “Đoàn kết là sức mạnh” nhưng
làm sao có thể Đoàn kết toàn dân khi không có tình
yêu và sự cảm phục của dân đối với ông Vua. Cái Đức
của ông Vua cảm hóa được toàn dân và có thể sai
khiến được Quỷ Thần, khiến đất nước ta mạnh mẽ
lên gấp bội.
Đến đời Hậu Lê, sau khi vua Lê Thái Tổ lấy lại đất
nước từ tay giặc Minh, các vua dùng đạo lý Khổng Tử
với hình mẫu của người Quân tử “Nhân, trí, tín, lễ,
nghĩa” để làm gốc tạo Đức an dân. Vua chọn người
tài làm quan thông qua thi cử, không cần gốc gác,
không cần quan hệ. Đất nước được thái bình thịnh
trị. Nhà Lê Sơ tồn tại được 100 năm trong hòa bình.
Tới thời nhà Mạc, Nam Bắc phân tranh đất nước
nhiễu loạn. Rồi thời nhà Lê Trung Hưng (256 năm)
đồng thời với giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh
đất nước bị chia đôi ở sông Gianh bến Hải. Thời này
có chiến tranh nội bộ, nhưng không có đại chiến tàn
khốc về cơ bản dân lành yên ổn. Đặc biệt 9 đời chúa
Nguyễn đàng trong đã mở rộng nước Đại Việt ta từ
Quảng Nam đến mũi Cà Mau.
Đến hồi nhà Tây Sơn với vua Quang Trung anh
hùng bách chiến bách thắng đã thống nhất đất nước.
Trong 20 năm cầm quân vua Quang Trung chưa
chiến bại một trận đánh nào. Người đánh tan các thế
lực nội bộ: Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn và các thế lực
ngoại xâm: Xiêm Thành, Mãn Thanh thống nhất toàn
vẹn lãnh thổi Đại Việt. Nhưng ngài yểu mệnh nên ra
18 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
đi sau 3 năm trị quốc để lại đất nước cho triều đại
mới là Nhà Nguyễn.
Từ đây đất nước Đại Việt ta đổi tên là Việt Nam và
lịch sử bước sang một trang sử mới.
Trên đây là đôi lời nhận xét về Lịch sử Đại Việt có
áp dụng chút ít kiến thức và hiểu biết nông cạn của
tôi. Nhưng tôi tự xét thấy mình còn nhỏ tuổi, kiến
thức không nhiều, thời gian học tập nghiên cứu cũng
ngắn. Ắt hẳn không tránh khỏi những sai sót do
thiếu hiểu biết mà thành. Rất mong được quý vị độc
giả thông cảm và lượng thứ. Xin trân trọng cảm ơn!
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri

Lời dẫn nhập 19


Các tài liệu tham khảo:
Tư liệu cổ:
1. Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều
Nguyễn - NXB Thuận Hóa, Huế, 2006)
2. Đại Nam liệt truyện (Quốc sử quán triều
Nguyễn - NXB Thuận Hóa, Huế, 2006)
3. Đại Nam thực lục (Quốc sử quán triều
Nguyễn - NXB Giáo Dục)
4. Đại Việt sử ký toàn thư, 1697 (Lê Văn Hưu,
Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB VHTT,
2006)
5. Đại Việt sử ký tiền biên (Các sử thần triều Lê
- NXB VHTT, 2011)
6. Đại Việt thông sử, 1759 (Lê Quý Đôn - NXB
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1978)
7. Khâm định Việt Sử thông giám cương mục
(Quốc sử quán triều Nguyễn - NXB Giáo dục,
1998)
8. Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp, 1493 -
NXB Giáo dục, 1997)
9. Lam sơn thực lục, NXB Tân Việt, 1956
10. Nam Hải dị nhân liệt truyện (Phan Kế Bính,
1930)
11. Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ (1768
- 1839)
12. Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-1329, Nxb
Khoa học Xã hội, HN-1972)
13. Việt Sử tiêu án (Ngô Thời Sỹ-1775, NXB Văn
Sử-1991)

20 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tư liệu hiện đại:
14. Bách thần sự tích – NXB Đại học Vinh, 2015
15. Các nữ thần Việt Nam (ĐỗThị Hảo, Mai Thị
Ngọc Chúc) NXB Phụ nữ, 1984.
16. Các triều đại Việt Nam – NXB Thanh Niên
năm 2001
17. Đại cương lịch sử Việt Nam (Trương Hữu
Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh
(Nxb Giáo dục, 2007).
18. Danh nhân đất Việt (Văn Lang, Quỳnh Cư,
Nguyễn Anh) NXB Thanh niên, 1995.
19. Danh tướng Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần)
– NXB Giáo dục, 1996
20. Giai thoại về phụ nữ Việt Nam (Hoàng Khôi-
Hoàng Đình Thi) NXB Phụ nữ, 1987.
21. Lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê, Trần Quốc
Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh) NXB Đại
học & THCN, 1983.
22. Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa học Xã hội
Việt Nam (1985), Nxb Khoa học Xã hội, HN)
23. Nghệ An ký (Bùi Dương Lịch) – NXB Khoa
học xã hội, 2004
24. Những liệt nữ trong lịch sử Việt Nam (NXB
Lao Động, 2013)
25. Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt
Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược
(Hồng Nam, Hồng Lĩnh) NXB KHXH, Hà Nội,
1984.
26. Những chuyện lạ khó tin về các vị vua Việt
Nam (NXB Hồng Đức).

Lời dẫn nhập 21


27. Những điều lạ thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, tác
giả: Trần Đình Ba - NXB Văn Hóa & Thông
Tin.
28. Sách Giáo Khoa Lịch Sử Việt Nam (Hội đồng
biên soạn)
29. Thần tích Việt Nam (Lê Xuân Quang) – NXB
Thanh niên, 2007
30. Thiền sư Việt Nam (Hòa thượng Thích Thanh
Từ) - NXB Tôn Giáo 2010
31. Truyện hay trong lịch sử Việt Nam, NXB
Hồng Đức
32. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nguyễn
Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế) NXB KHXH, Hà
Nội, 1992.
33. Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc Thuần)- NXB
Giáo dục, 1999
34. Việt Nam anh kiệt (Đặng Duy Phúc) NXB Hà
Nội, 2004.
35. Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim) – NXB
Đà Nẵng, 2003
36. Việt Sử Những câu chuyện lạ kỳ (Lê Thái
Dũng - NXB VHTT, 2013)
37. Võ tướng Việt Nam (Vũ Ngọc Khánh) – NXB
VHTT, 2007

22 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chương 1: THỜI HỒNG BÀNG

1. Kinh Dương Vương (2879 - 2000 TCN)

Đế Minh, cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh


ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi
Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh
ra Lộc Tục (2879 TCN). Tục dung mạo đoan chính,
thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn
cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho
anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại
phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam,
lấy hiệu nước là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy
con gái Long Vương ở Hồ Động Đình, sinh ra Sùng
Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước.
Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang,
đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con,
vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn
yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có
việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng:
- Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi.
Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân,
người đời không ai lường nổi.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Theo khảo cổ học thì nước Văn Lang thời
Vua Hùng bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ thứ 7 trước CN.
Còn nước Xích Quỷ rộng lớn nếu thực sự tồn tại (ngày
Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 23
nay khảo cổ học không xác định được) thì đó chỉ là
liên bang lỏng lẻo của các tộc người Việt khác nhau
trong nhóm các tộc Bách Việt kéo từ phía nam sông
Dương Tử (vùng Động Đình Hồ) đến đồng bằng Sông
Hồng.
Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự
tan rã của nhà nước liên bang của các tộc người Việt,
từ thế kỷ VIII TCN trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại
các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử
đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng
khu vực cũng như thời kỳ như: Nước Việt, Văn Lang,
Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt,
Đông Việt,...các nhà nước độc lập này từng bước bị
các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông
Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với
nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế Hán khoảng
thế kỷ I TCN các nhà nước của tộc Bách Việt đều bị
thôn tính. (Theo: Cổ sử Việt Nam của Đào Duy Anh)

24 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


2. Lạc Long Quân và Âu Cơ (2879 - 2000 TCN)

Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc


phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần
là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi
tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam.
Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước
không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các
thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm
các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân
cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc các thứ đá quý, các
cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu
thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế
Lai rất ái mộ, vui quên trở về.
Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương
quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng
gọi Long Quân rằng:
- Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu
phương dân.
Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung
mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa
thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ
hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh
trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. Âu Cơ vui lòng
theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài.
Nham Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần
thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần
thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh,
quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi làm cho bọn đi tìm đều sợ
hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 25


Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm
loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu
tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà
nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người
dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu
sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng
chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền
đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp
rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Đế Lai con của Đế Nghi, Âu Cơ là con của
Đế Lai, Lạc Long Quân là con của Lộc Tục, Lộc Tục là
em của Đế Nghi. Mà Lạc Long Quân lại cưới Âu Cơ thì
là kết hôn cận huyết (Chú ruột lấy cháu gái) mà lại
sinh ra được trăm người con khỏe mạnh chính là thủy
tổ của tộc Bách Việt phía nam sông Dương Tử.
Truyền thuyết là vậy, cũng không cần phải tin
chính xác 100%. Ta chỉ cần hiểu đơn giản là các tộc
người Bách Việt và các dân tộc người Hán, Hoa Hạ ở
bắc sông Dương Tử đều là anh em cùng nguồn gốc
thủy tổ họ Thần Nông.
Và từ thời ngàn xưa đến nay thì phương Bắc luôn
luôn tìm cách “xâm nhiễu” các nước phía Nam.
Nhưng Thần Nhân phương nam rất ứng hiện và uy
lực nên phương Nam vẫn được bình yên.

26 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


3. Âu Cơ và trăm con (2879 - 2000 TCN)

Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là


điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy
ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra
một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú
mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người
nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính
trọng cho là triệu phi thường.
Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc vợ con thường
muốn về đất Bắc. Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói
rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ
không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi
Long Quân rằng:
- Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm
buồn khổ thế này.
Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. Âu
Cơ nói:
- Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với Vua, sinh hạ
được trăm con trai, Vua bỏ thiếp mà đi, không
cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ,
chỉ biết thương mình.
Long Quân nói:
- Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống
tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại
mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc,
giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được,
nay phải chia lá. Ta đem năm mươi con về Thủy
Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 27


ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể,
hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên.
Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ
và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn
nhau, cùng tôn người con cả lên làm Vua, hiệu là
Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp
Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam
tới nước Hồ Tôn (sau đổi tên là Chiêm Thành).
Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt
Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh
Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân,
Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng
Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng
văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai
Vua gọi là quan lang, con gái Vua gọi là mỵ nương,
trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo
xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha
truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập
gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi.
Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá
thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với Vua.
Vua đáp:
- Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với
nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó.
Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình
Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị
tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân
Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy.
Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ
cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm

28 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, lấy
cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối,
cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được
nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm
nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong
rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người
chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng
đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ
lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ
lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới
thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên
của người Bách Việt vậy.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Tích truyện này giải thích sự hình thành
của những tộc người Bách Việt ở phái Nam sông
Dương Tử đều là anh em cùng cha Lạc Long Quân và
mẹ Âu Cơ. Do mẹ cha chia tách nên các anh em cũng
chia tách, mỗi người cát cứ một nơi và hình thành các
bộ tộc liên kết với nhau tạo thành nước Xích Quỷ rộng
lớn và Vua Hùng là thủ lĩnh của các tộc Bách Việt, sau
đó hình thành các quốc gia riêng: Nước Việt, Văn
Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân
Việt, Đông Việt,...
Đến thế kỷ thứ I trước CN thì tất cả các nước Bách
Việt này đều bị nhà Hoa Hạ, nhà Tần và nhà Hán
(Trung quốc) thôn tính. Ngoài ra truyện còn giải thích
một số tục lệ: xăm mình, nhộm răng đen, ăn trầu, cắt
tóc ngắn, cơm lam, cưới hỏi, thờ cúng...

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 29


4. Lạc Long Quân diệt Ngư Tinh (2879 - 2000 TCN)

Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư


Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như
chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi
đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai
cũng sợ.
Đời thượng cổ có con cá dung mạo như người, đi
tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói năng,
dần dần lớn lên, sinh ra nhiều con trai con gái, hay
bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn.
Lại có giống Đản Nhân sống ở một cái gò dưới bể,
chuyên nghề bắt cá, sau cũng biến thành người, giao
dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường
qua lại ở Đông Hải.
Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang
bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó.
Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn
mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo.
Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị
Ngư Tinh làm hại.
Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi
để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa
làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng
ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời. Tới
nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (ngõ Phật
đào).
Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành
một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỉ
Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo
thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một
30 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng
định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném
vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật
vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ
lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ còn cái
đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân
bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái
đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài
Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là
Cẩu Đầu Thủy).
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Qua tích này ta thấy rằng các vị Thần
Nhân đất Việt luôn luôn đứng lên bảo vệ con cháu
người Việt khỏi yêu ma tà đạo nhũng nhiễu hại dân.
Và đồng thời cũng giải thích nguồn gốc hình thành
tên của một số địa danh trên đất Việt.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 31


5. Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh (2879 - 2000 TCN)

Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi


thượng cổ không có người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý
chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai con rồng dẫn
thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô
ở đấy, ngày nay tức là thành Kinh Hoa vậy.
Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía đông
gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có
con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể
hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỉ đi
khắp nhân gian.
Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn
gỗ kết cỏ làm nhà. Trên núi có vị thần rất linh thiêng,
người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán
trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc cho nên gọi là
Bạch Y Man (mán áo trắng).
Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập
vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái
trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở.
Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ thủy phủ dâng
nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy,
quân thủy phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt
ăn.
Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là "đầm
xác cáo" (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức
Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái. Cánh đồng phía
Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt
làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao
ráo, dân làm nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn
Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.
32 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Cũng như tích diệt Ngư Tinh, Lạc Long
Quân luôn luôn bảo vệ con cháu người Việt khỏi các
loài yêu ma thủy quái.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 33


6. Thánh Gióng (1766 - 1122 TCN)

(Tính theo niên đại nhà Ân (hoặc nhà Thương) là


1766 TCN - 1122 TCN). Khi đó Hùng Vương cậy nước
mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc
phương. Vua nhà Ân mượn cớ tuần thú sang xâm
lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi
kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng:
- Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên
giúp!
Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên
trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi
mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín
thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở
ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người
trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu Vua.
Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ
già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân
hỏi:
- Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được
thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp.
Cụ già ngồi im một lúc, rút thẻ ra bồi, bảo Vua
rằng:
- Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm
chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước,
lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào
phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền
hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp
được giặc vậy.

34 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long
Quân.
Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc ân tới.
Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi
cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc
Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được
một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng
giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không
ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói
dỡn rằng:
- Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không
biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo
đáp công bú mớm.
Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo:
- Mẹ gọi sứ giả tới đây.
Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng
xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ
giả hỏi
- Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng:
- Mau về tâu với Vua rèn một ngựa sắt cao mười
tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước,
một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội
nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, Vua phải lo
gì nữa?
Sứ giả mừng rỡ vội về tâu Vua. Vua vừa kinh vừa
mừng nói rằng:
- Ta không lo nữa.
Quần thần tâu:

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 35


- Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?
Vua nổi giận nói:
- Lời nói của Long Quân ngày trước không phải
là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi
tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm,
roi và nón.
Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa
đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng:
- Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc
đánh giặc mẹ chớ có lo.
Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất
nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa
soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn
vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà
mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc
thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới
chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân
đứng dậy cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng)
ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét
lớn:
- Ta là thiên tướng đây!
Rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một
tiếng mà phi như bay, nháy máy đã tới trước quân
Vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến
sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều
la bái kêu lạy thiên tướng rồi cùng đến hàng phục.
Ân vương bị chết ở trong trận. Đi đến đất Sóc Sơn
huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên
trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích
ở hòn đá trên núi.
36 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là: Phù
Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong
làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm
hương lửa. Nhà Ân 644 năm không dám ra quân. Sau
Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập
miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc
tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ. Tới đời
Vua Thuần Đế nhà Lê, ở xã Phù Lỗ có người con gái
tên là Ngô Chi Lan chăm đọc sách, rành văn chương,
thơ ca điêu luyện, nhân đi dạo chơi tới núi này có đề
bài thơ rằng (bản dịch ý):
“Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn,
Vạn tía muôn hồng rỡ thế gian.
Ngựa sắt bay rồi tên vẫn đó,
Anh hùng sống mãi với giang san”.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Tích truyện này cho ta thấy khí phách
của dân tộc Việt Nam trước giặc phương Bắc.
Phù Đổng Thiên Vương được dân gian suy tôn là
một trong Tứ Thánh Bất Tử luôn luôn đứng lên bảo
vệ dân tộc Việt, ngài đại diện cho tinh thần chiến đấu
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của người
Việt.
Ba vị Thánh Bất Tử còn lại là: Tản Viên Sơn Thánh
(Sơn Tinh) là đại diện cho tinh thần chống lại thiên
tai lũ lụt của người dân đồng bằng sông Hồng.
Chử Đồng Tử là đại diện cho tinh thần Phật Giáo và
tinh thần làm giàu phát triển kinh tế.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 37


Thánh Mẫu Liễu Hạnh là đại diện cho tinh thần yêu
thương đùm bọc giúp đỡ nhân dân, Bà là hình ảnh
của vị Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Từ Đại Bi trong lòng
dân (cuối tích truyện Công Chúa Liễu Hạnh cũng đi tu
theo Phật Tổ) thời bà còn tại thế đã giúp dân vùng
Thái Bình, Nam Định xây đê ngăn lũ (nay chính là
đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã
ba Vọng), xây 15 cây cầu bắc qua sông giúp dân đi lại,
đào kênh dẫn nước tưới tiêu, dạy dân cách trồng dâu
nuôi tằm dệt vải, khai khẩn đất hoang ven sông, lập
ra làng xã, an cư lạc nghiệp, xây chùa thờ Phật giúp
tiền công đức cho hương sư, khuyên sư dạy bảo dân
chúng ăn hiền ở lành và đạo đức...
Phúc Thần của Thánh Mẫu từ đây mà ra chứ phàm
chẳng phải từ trời ban xuống (tương truyền rằng
Thánh Mẫu là Công Chúa con của Ngọc Hoàng
Thượng Đế)

38 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


7. Lang Liêu (1766 - 1122 TCN)

(Tính theo niên đại nhà Ân (hay nhà Thương) là


1766 TCN - 1122 TCN) Sau khi Hùng vương phá được
giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho
con, bèn triệu 22 vị Quan lang, Công tử lại mà phán
rằng:
- Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý,
cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến
cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì
sẽ được ta truyền ngôi.
Các Vương tử đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ
khắp trên cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duy
có vị công tử thứ 18 là Lang Liêu, bà mẹ trước kia
vốn bị vua ghẻ lạnh, vì cô đơn mà chết, tả hữu ít
người giúp đỡ, khó xoay xở nên đêm ngày lo lắng,
mộng mị bất an. Một đêm kia, mộng thấy có thần
nhân tới nói rằng:
- Các vật trên trời đất và mọi của quý của người
không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe
mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác
không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm
bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng
trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở
trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành
lớn lao của cha mẹ.
Lang Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ mà nói rằng:
- Thần nhân giúp ta vậy!
Nói rồi bèn theo lời dặn trong mộng mà làm, chọn
thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 39


không bị vỡ, vo cho thật sạch, lấy lá xanh bọc xung
quanh thành hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào
bên trong để tượng trưng cho trời đất, vạn vật rồi
nấu chín, gọi là Bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu
chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng
cho trời gọi là Bánh dày.
Đến kỳ, Hùng vương vui vẻ truyền các con bày vật
tiến lên. Xem qua khắp lượt, thấy không thiếu thứ gì.
Duy có Lang Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh
dày. Vua kinh ngạc mà hỏi, Lang Liêu đem giấc mộng
thuật lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không
chán, hơn hẳn các thức của các con khác, tấm tắc
khen hồi lâu rồi cho Lang Liêu được nhất. Đến ngày
Tết, vua thường lấy bánh này dâng cúng cha mẹ.
Thiên hạ bắt chước, đến nay đổi tên Lang Liêu thành
Tiết Liệu.
Hùng vương bèn truyền ngôi cho Liêu, anh em 21
người đều được chia giữ các nơi phiên trấn, tụ tập
bộ đảng mà thành phiên quốc. Về sau, các tướng
tranh giành nhau thường dựng mộc sách (hàng rào
bằng gỗ) để phòng ngự; cho nên, từ đó mới có sách,
thôn, trang,...
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Bánh chưng bánh dày tượng trưng cho
trời tròn đất vuông, nhưng trong đó là gạo, đỗ, thịt...
và toàn bộ vật liệu đều do bàn tay con người làm ra.
Đó là hình ảnh đẹp để luôn luôn nhắc nhở con người
chúng ta rằng có 3 yếu tố tổng hòa trong vũ trụ:
Thiên - Địa - Nhân.

40 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trong 3 yếu tố trên thì Nhân là gốc và quan trọng
nhất. Có những người ngày ngày đi cầu Trời khấn
Phật, cúng thiên cúng địa mà tâm tính thì ác độc, bạn
bè tốt thì xa lánh, chỉ có kẻ độc ác và lợi dụng đến kết
bạn (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu). Thì
ắt hẳn họ sẽ gặp thất bại.
Có những người chẳng cầu, chẳng cúng, suốt ngày
chăm chỉ làm ăn, giữ chữ Đức làm gốc thì chắc chắn
họ sẽ thành công, nhưng đó chỉ là thành công nhỏ mà
thôi. “Tiểu phú do cần, Đại phú có phần do thiên” để
thành đại phú, tỷ phú hay là vua của đất nước, uy
quyền tột bực thì phải hội tụ đầy đủ: Thiên - Địa -
Nhân.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 41


8. Công chúa Ngọc Tiêu (1766 - 1122 TCN)

(Tính theo niên đại nhà Ân (hay nhà Thương) là


1766 TCN - 1122 TCN) Truyện kể rằng, núi rừng Tam
Đảo xưa đã sinh ra một người con gái tên là Ngọc
Tiêu, tóc nàng dài mượt như dòng suối e ấp, môi
nàng hồng đỏ như hồ xanh, da nàng trắng như mây
trời của Tam Đảo. Giặc Ân tràn đến cướp phá nước
ta. Vua Hùng cho sứ giả truyền loa kêu gọi mọi người
chống giặc. Nàng tiên ở Tam Đảo cũng gia nhập dưới
cờ của chàng Lang Liêu. Sau khi đánh phá tan giặc
được Ân, nàng lại trở về với núi Tam Đảo.
Vua Hùng đã già, muốn tìm người tài trong số các
con mình để truyền ngôi. Lang Liêu dâng bánh
chưng, bánh dầy tượng trưng của trời đất, cho vua
Hùng và được nối ngôi vua. Đến ngày lập hoàng hậu
chàng bỗng thấy nhớ da diết người con gái xinh đẹp
đã cùng mình đánh giặc Ân thuở nào. Nhà vua trẻ
tìm lên vùng núi Tam Đảo mong gặp lại. Nhà vua đón
nàng về cung làm lễ cưới. Nàng được tôn là bà chúa
Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo và được lập
đền thờ.
Theo thần tích ở đền Tam Ðảo, bà họ Lăng tên là
Tiêu, còn gọi là Cẩm Giang, người thôn Ðông Lộ vốn
do khí núi linh thiêng mà sinh ra, không phải người
thường thoắt ẩn, thoắt hiện thiêng liêng khắp mọi
nơi. Thời phong kiến sắc phong là Tam Ðảo Sơn Trụ
Quốc Mẫu Tối Linh Ðại Vương.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)

42 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời bình: Trong các tích xưa, có chồng thì phải có
vợ, có Lạc Long Quân thì phải có Âu Cơ, có vua Hùng
thì phải có vợ vua Hùng, các vị thánh Tản Viên, Chử
Đồng Tử cũng đều nói đến vợ của các vị. Tình cảm vợ
chồng luôn được nhắc đến trong văn học dân gian
Việt Nam dù là Vua, là dân thường hay các vị Thần.
Đạo vợ chồng luôn là nền tảng đạo đức căn bản của
xã hội Việt Nam từ xa xưa cho đến ngày nay.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 43


9. Việt Thường và Bạch Trĩ (1042 - 1021 TCN)

Về đời Vua Thành Vương nhà Chu (1042 TCN -


1021 TCN). Việt Thường còn gọi là Việt Thường thị
là một bộ lạc cổ đại được nhắc đến trong một số thư
tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam. Hùng Vương sai
họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang tiến cống. Vì
ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ qua nhiều
lần dịch mới hiểu nhau được. Chu Công hỏi:
- Tại sao tới đây?.
Họ Việt Thường đáp:
- Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể
không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là
Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy
tới đây.
Chu Công than rằng:
- Chính lệnh không thi hành thì người quân tử
không bắt được kẻ khác thuần phục mình, đức
trạch không mở rộng thì người quân tử không
hưởng lễ của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu
thề rằng: “phương Việt Thường không thể xâm
phạm được".
Bèn ban thưởng cho phẩm vật địa phương, dạy
răn mà cho về. Họ Việt Thường quên đường về, Chu
Công bèn ban cho 5 cỗ biền xa đều chế cho hướng về
phương Nam. Họ Việt Thường nhận lấy rồi theo bờ
biển Phù Nam, Lâm ấp đi một năm thì về tới nước.
Cho nên, xe chỉ nam thường dùng để đi trước đưa
đường.

44 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Về sau, Khổng Tử viết kinh Xuân Thu cho nước
Văn Lang là một nơi hoang vu, văn vật chưa có bèn
bỏ trống mà không chép. Theo bản cũ chép thì Chu
Công có hỏi:
- Người Giao chỉ cắt tóc ngắn, xăm mình, để đầu
trần, đi chân đất, nhuộm răng đen là cớ làm
sao?
Đáp:
- Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Xăm mình
để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài
giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện
leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Để đầu
trần để tránh lửa bén. Ăn trầu cau để trừ uế cho
nên răng đen vậy.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Trong Sử Ký Tư Mã Thiên cũng chép tích
Việt Thường cống chim Trĩ trắng cho Chu Thành
Vương, đây là tích sử cổ nhất nói về tộc Bách Việt
trong Sử Trung Quốc, và đây cũng là căn cứ để khẳng
định rằng đời Hùng Vương đã tồn tại từ trước đời
nhà Chu (1042 TCN) chứ không phải chỉ khoảng năm
700 TCN như các nhà nghiên cứu khảo cổ học nói.
Và nền văn minh Việt Nam nếu không thể có được
từ 2879 trước CN theo dữ liệu sử Việt thì cũng phải có
trước đời nhà Chu (Trung Quốc) là thế kỷ thứ 11 TCN
nếu theo dữ liệu sử Tàu.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 45


10.Đàn Xã Tắc (1046 - 256 TCN)

(Tính theo niên đại nhà Chu là 1046 TCN - 256


TCN) Đế Quân hiệu là Để Hậu Tắc, dạy dân trồng các
giống lúa, từ đời nhà Chu về sau được thờ làm xã
thần. Nước ta đặt đền thờ ở bên cửa Quốc Bình phía
Nam La Thành. Miếu điện tôn nghiêm, tục gọi là Xã
Đàn, uy linh của Thần lúc nào cũng hiển hách. Trải
qua mấy triều, lúc nào lễ Giao cũng phối Thần với
Trời; năm nào có đại hạn hay sâu keo, cúng cầu có
linh ứng. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, truy
phong tước Hậu Tắc Ty Đế Quân; đến năm thứ tư cải
phong Thiên Tổ Xã Tắc Đế Quân. Năm Hưng Long
thứ hai mươi mốt, gia phong Thiên Tổ Địa Chủ Xã
Tắc Đế Quân.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Đàn xã tắc ngày xưa đã bị phá hủy. Đến
nay các nhà khảo cổ học xác định Đàn nằm ở đầu phố
Xã Đàn, góc ngã 5 ô Chợ Dừa, Hà Nội. Giữa phố Xã
Đàn có 1 vườn hoa, tại đó có đặt 1 khối đá lớn cao 3m
để định vị vị trí Đàn Xã Tắc có từ thời Hùng Vương.

46 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


11.Chử Đồng Tử (400 TCN)

(Do Sử không ghi chính xác thời của Chử Đồng Tử,
nên tôi xin lấy niên đại 200 năm sau thời Đức Phật
Thích Ca tại thế. Khi đó đạo Phật phát triển mạnh
sang phía Đông qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia
rồi vào đến Việt Nam)
Hùng Vương truyền tới đời thứ ba (đời thứ 3 có vẻ
sai) thì sinh hạ được người con gái tên là Tiên Dung
mỵ nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không
muốn lấy chồng mà chỉ vui chơi, chu du khắp thiên
hạ. Vua cũng không cấm đoán nàng. Mỗi năm vào
khoảng tháng hai tháng ba lại sắm sửa thuyền bè
chèo chơi ở ngoài bể, vui quên trở về.
Hồi đó ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân
tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, cha từ
con hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn
lại một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc.
Kíp tới lúc cha lâm bệnh, bảo con rằng:
- Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho
con.
Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở
bên sông hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì
đứng ở dưới nước mà ăn xin, khi thì câu cá độ thân
không ngờ thuyền Tiên Dung xốc tới, chiêng trống
nhã nhạc, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất
kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm
ba cây, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ
nằm xuống mà phủ cát lên mình.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 47


Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên
bãi cát, ra lệnh vây màn ở khóm lau mà tắm. Tiên
Dung vào màn, cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông
thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy là con
trai bèn nói:
- Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp
người này, cùng ở trần với nhau trong một hố,
đó chính là do trời xui nên vậy. Người hãy đứng
dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng
ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng.
Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ
xưa nay chưa từng có. Đồng Tử bảo:
- Đâu dám như vậy!
Tiên Dung ta thán, ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố
từ, Tiên Dung nói:
- Đây do trời chắp nối, sao cứ chối từ?
Người theo hầu vội về tâu lại với Vua. Hùng
Vương nói:
- Tiên Dung không thiết tới danh tiết, không
màng tới của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ
mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông
thấy ta nữa.
Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng
Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn
bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám,
còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới
buôn bán tấp nập, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa.
Có người lái buôn giàu nói rằng:
- Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài bể mua vật
quí, sang năm có thể thành mười dật.
48 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử:
- Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức
mặc do trời phú cho, nay hãy đem vàng cùng
phú thương ra bể buôn bán.
Có núi Quỳnh Viên (bờ biển Hà Tĩnh ngày nay),
trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé lại đó
uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi
Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử
lưu học ở đó, giao tiền cho lái buôn mua hàng. Sau lái
buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử
một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng:
- Linh thiêng ở những vật này đây.
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Bụt (thời đó đạo
Phật phiên âm tiếng Phạn ra tiếng Việt: “Budda” là
“Bụt”. Sau 1000 năm bắc thuộc đạo Phật từ Trung
Quốc truyền vào Việt Nam mới phiên âm tiếng Hán ra
tiếng Việt là “Phật Đà” hay gọi tắt là “Phật”). Tiên
Dung bèn giác ngộ, bỏ phố phường, chợ búa, cơ
nghiệp, rồi cả hai đều tìm thầy học đạo. Trên đường
viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người
tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng che nón mà trú
thân. Đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu
ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, vàng bạc châu
báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ,
tướng sĩ thị vệ, la liệt trước mắt. Sáng hôm sau, ai
trông thấy cũng kinh lạ, đem hương hoa, ngọc thực
tới dâng mà xin làm bề tôi. Có văn võ bách quan chia
quân túc vệ, lập thành nước riêng (Đoạn văn này rất
giống với Phẩm thứ 7: “Hóa Thành Dụ” được ghi
trong Kinh Vạn Pháp Liên Hoa (Đại Thừa), đây là bộ
kinh nổi tiếng nhất trong hệ thống Kinh điển Đại
Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 49
Thừa, mà Kinh Đại Thừa Phật Giáo chỉ xuất hiện sau
thời Đức Phật tạ thế khoảng 500-600 năm tức là vào
thế kỷ I sau CN. Đây cũng là một điểm gây thắc mắc?).
Hùng Vương nghe tin, cho rằng con gái làm loạn,
bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra
phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo:
- Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó
thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha,
chỉ xin thuận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm
chém giết.
Lúc đó, dân mới tới đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân
cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên,
còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân.
Nửa đêm, gió lớn thổi bay cát nhổ cây, quan quân
hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút
chốc bay tản lên trời, đất chỗ đó sụt xuống thành cái
đầm lớn. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế,
gọi đầm là đầm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là đầm một
đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù, gọi chợ là chợ Thám
còn gọi là chợ Hà Lương.
Sau Vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đêm
quân xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu
Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục đem
quân nấp ở đầm. Đầm sâu mà rộng, quân địch vướng
mắc, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc
mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu
ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm
không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng:
- Ngày xưa nơi đây là chằm một đêm bay về trời,
nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người.

50 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, Vua nhà Lương bèn gọi
Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sằn thống lĩnh
sĩ tốt, Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt
hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân (rất có thể
là Chử Đồng Tử) cưỡi rồng bay vào trong đàn mà
bảo Quang Phục rằng:
- Hiển linh còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ
để dẹp bằng họa loạn.
Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo:
- Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến
giặc bị diệt.
Đoạn bay lên trời mà đi. Quang Phục được vật đó,
reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương
thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, giặc Lương
phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự
lập làm Triệu Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn,
huyện Vũ Ninh.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Chử Đồng Tử là một nhân vật truyền
thuyết, thần thoại và là một trong Tứ Thánh Bất Tử
của tín ngưỡng Việt Nam (3 vị Thánh còn lại là: Tản
Viên Sơn Thánh, Thánh Gióng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh)
Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ và Luy
Lâu (Bắc Ninh) sớm trở thành trung tâm Phật giáo
quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật
và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng
đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm
168-189, Phật giáo hình thành nên hệ thống tín
ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 51
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ
Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành
"Bụt", từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều trong các
truyện dân gian cổ tích Việt nam. Phật giáo Việt Nam
lúc ấy mang màu sắc của Phật giáo nam truyền được
địa phương hóa, “Bụt” được dân gian hóa coi như
một vị thần cứu giúp người tốt. (Mỗi khi cô Tấm hiền
lành bị áp bức bóc lột và đau khổ ngồi khóc thì “Bụt”
hiện lên hỏi: “Vì sao con khóc?”
Sau này, vào thế kỷ thứ V và VI, do ảnh hưởng của
Phật giáo nhà Hán, Trung Quốc (đây là Phật Giáo Đại
Thừa và Thiền Tông Trung Hoa) nên từ "Bụt" bị thay
thế dần bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha
được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được
rút gọn thành "Phật" trong tiếng Việt.
Bên cạnh ý nghĩa giáo hóa độ sinh, dạy Đạo Đức
nhà Phật thì tích truyện Chử Đồng Tử còn có ý nghĩa
là: “làm ăn kinh tế buôn bán và làm giàu chân chính”.
Đoạn kể: “Đến canh ba, hiện ra thành quách, lầu
ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, vàng bạc châu báu,
giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ
thị vệ, la liệt trước mắt. Sáng hôm sau, ai trông thấy
cũng kinh lạ, đem hương hoa, ngọc thực tới dâng mà
xin làm bề tôi. Có văn võ bách quan chia quân túc vệ,
lập thành nước riêng” có ý nghĩa vô cùng thâm sâu. Ý
của đoạn này là: “Đạo đức và siêng năng ắt sẽ có
thành công rực rỡ. Uy Đức lớn và Nghị Lực phi
thường là cái nhân để tạo thành quả báo có thể làm
Vua một nước”.
Ngày nay, chức Vua đã không còn thì người này có
thể làm vị Tỷ Phú giàu có nhất nhì thế giới.
52 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Ngày nay, xét các vị tỷ phú tự thân xem có những
Công Đức gì mà giàu như vậy. Bill Gates mang máy
tính cá nhân PC đến cho mọi người dân trên thế giới
và làm thay đổi cả thế giới. Google kết nối thông tin
internet khiến cho internet thông minh và dễ truy tìm
dữ liệu... cũng giúp ích cho hàng tỷ con người. Rồi
FaceBook thay đổi cách giao tiếp của hàng tỷ con
người trên thế giới. Amazon thay đổi cách mua bán
của hàng tỷ dân thế giới... Tất cả các Tỷ Phú này đã
giúp đỡ cho hàng tỷ con người trên thế giới và giúp
cho thế giới này phát triển. Đó chẳng phải là Công
Đức to lớn đó sao? Dĩ nhiên những tỷ phú này, Nghị
Lực và khả năng làm việc của họ cũng rất phi thường.
Nói về Nghị Lực, làm tôi nhớ đến một con người
với nghị lực phi thường nhưng chẳng giúp ích được
gì cho xã hội. Đó là một người Nhật (tôi không nhớ rõ
họ tên) đã dành 6000 giờ (nếu mỗi ngày làm việc 8
giờ và nghỉ T7, CN thì sẽ mất 3 năm liên tục) để xếp
Domino rộng bằng 1 sân vận động. Sau khi hoàn
thành ấn đổ quân Domino đầu tiên là toàn bộ các
quân Domino đều đổ và 1 bức tranh hoành tráng hiện
ra... không biết với Nghị Lực đó người ấy kiếm được
bao nhiêu tiền? Có khi không đủ tiền để mua Domino
và thuê diện tích sân vận động? Và chắc chắn chẳng
giúp ích được gì cho ai.
Ngoài ra, hình ảnh Chử Đồng Tử sau khi ngộ đạo
Phật, không đi tìm nơi “thâm sơn cùng cốc” để ẩn tu,
để chứng đạo giải thoát một mình. Mà lại mang đạo
độ cho Tiên Dung, độ cho nhân dân toàn vùng, dạy họ
Đạo Đức và làm ăn buôn bán để trở nên giàu có thành

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 53


một vương quốc thịnh vượng là bài học muôn đời cho
các vị sư tăng này nay.
Đạo Phật là Đạo giải thoát khỏi khổ đau, trong
những nỗi khổ có nỗi khổ về thân: “Sinh, già, bệnh,
chết” ai ai cũng phải chịu và có nỗi khổ về tâm. Trong
các nỗi khổ về tâm thì nỗi khổ: nghèo, đói, túng, quẫn,
bần hàn...là thê thảm nhất.
Theo thống kê thì tỷ lệ tự tử chết vì nợ nần, chết vì
phá sản, chết vì nợ tiền cá độ, cờ bạc... nhiều gấp
nhiều lần so với tự tử chết vì tình yêu. Nếu như Đạo
Phật giải thoát được cho con người và chúng sinh
thoát khỏi cảnh khổ bần hàn này thì là Đạo Phật chân
chính.
Trước tiên, Tu phải làm sao có đủ Phúc Vật Chất để
thoát khỏi nỗi khổ bần hàn, sau đó mới từ bỏ Phúc
Vật Chất này, xuất gia để hồi hướng Phúc Vật Chất đó
tạo thành Phúc Tâm Linh và chứng đạo giải thoát. Đó
chính là Chánh Tinh Tấn sẽ thành tựu sau Chánh
Nghiệp (làm phúc, bố thí, cúng dường) và Chánh
Mạng (giàu có). Đó là con đường Bát Chánh Đạo mà
Phật đã dạy chúng ta từ 2500 năm trước.
Phật Thích Ca khi sinh ra đã là Thái Tử tương lai
sẽ làm Vua uy quyền và giàu có tột bực. Nhưng Ngài
đã từ bỏ Phúc Vật Chất, tu hành thiền định hồi hướng
Phúc Vật Chất thành Phúc Tâm Linh và chứng đạo
giải thoát cũng là vậy.

54 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


12.Hồng Vân Công Chúa (624 - 543 TCN)

Hồng Vân Công Chúa tên thường gọi là Tây


Nương, hay Tây Sa, có tài liệu gọi là nàng Nguyễn. Bà
sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đức độ,
hiền lành tại làng Đông Miên, huyện Chu Diên (tức
thôn Đông Kim, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên hiện nay).
Một đêm nọ mẹ bà mộng thấy một con chim xanh
lớn bay vào màn, rồi hóa thành người con gái đẹp.
Tiếp đó, một người đàn bà xuất hiện ngoài màn, tự
xưng là Tây Cung Vương Mẫu từ thiên đình giáng
xuống, đem con xuống gửi nhà người cõi trần trong
3 kỷ (36 năm). Từ đó bà thụ thai, đến ngày mùng
10/2 âm lịch hạ sinh con gái, đặt tên là Tây Nương.
Tây Nương lớn lên có sắc đẹp lạ thường.
Trong một chuyến đi chữa bệnh cho người dân,
Chử Đồng Tử và Công Chúa Tiên Dung gặp Tây
Nương đang cắt lúa bên đường đã tới hỏi truyện.
Thấy nàng có sắc đẹp lạ thường, hiền lành mà đối
đáp trôi chảy, Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa
chị em. Sau cuộc trò truyện "tâm đầu ý hợp" của ba
người, Tây Nương đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử.
Cũng năm đó, Vua Hùng cha của Tiên Dung ốm
nặng, không ngự y nào chữa khỏi được. Biết Tây
Nương giỏi về chữa bệnh, Tiên Dung đã nhờ nàng
vào cung chữa cho Vua cha. Sau khi Vua Hùng khỏi
bệnh định mang vàng bạc, châu báu ra tạ ơn, nhưng
nàng không nhận mà trở về chung sống với Chử
Đồng Tử và Tiên Dung, tiếp tục chữa bệnh cứu dân.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 55


Sau sự kiện Tam Vị Đồng Thăng (bay lên trời) ở
đầm Nhất Dạ, Vua Hùng đã sa giá đến nơi để xem
xét. Khi đó, Vua nhìn lên trời thấy có người con gái
cưỡi hạc trắng từ xa bay đến, tự xưng là Tây Cung
Vương Nữ, vâng mệnh Chử Đồng Tử - Tiên Dung đến
tạ phụ vương và xin thứ tội các con. Vua nhận ra đây
chính là người con gái đã chữa khỏi bệnh cho mình
lúc trước. Ngài vô cùng hối hận, xúc động và đã
phong cho Tây Nương là "Nội trạch Tây cung Tiên
nữ Hồng Vân Công Chúa". Để tỏ lòng nhớ ơn công
ơn của ba vị, dân làng trong vùng và nhiều nơi khác
đã lập đền thờ họ.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Những vĩ nhân hay những vị thánh khi
sinh ra luôn luôn có những điềm báo. Thời xưa, vốn
tin vào thần thánh nên những tích về giấc mơ, báo
mộng rất được tin tưởng và ghi chép đầy đủ.
Ngày nay, thời đại khoa học công nghệ, tâm linh ít
được coi trọng và bị coi là Mê Tín Dị Đoan nên những
vĩ nhân, sinh ra có khi cũng có điềm báo nhưng các
bậc cha mẹ không chú ý và ghi chép lại mà thôi.
Thật ra, có cõi Vật Chất thì cũng có cõi Phi Vật Chất
ví như có Dương thì phải có Âm, có ngày thì phải có
đêm vậy. Cái không nhìn thấy không có nghĩa là nó
không tồn tại. Điện, từ trường, bức xạ, sóng âm, sóng
vô tuyến điện, sóng wifi, bluetooth... rồi khí ôxi, khí
cácbon, nitơ... mắt thường đều không nhìn thấy.
Nhưng nó là sự vật có thật và tồn tại cùng với vật
chất nhìn thấy từ hàng tỷ năm rồi. Chỉ đến khi con
người có máy móc phát hiện ra nó cách đây vài năm
56 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
hoặc trăm năm thì họ mới công nhận. Tương lai cũng
vậy, chỉ đến khi con người phát minh ra máy móc
nhìn thấy thế giới tâm linh phi vật chất họ mới công
nhận. Còn bây giờ Khoa học họ mới chỉ “bán tín bán
nghi”. Còn trong tín ngưỡng dân gian và đặc biệt là
trong Đạo Phật mọi người tin vì nó được ghi rất rõ và
được nhắc nhiều trong Kinh Phật.
Trên bầu trời có các vì tinh tú mà ta nhìn được chỉ
là các vì sao đang tự cháy và phát ra ánh áng, còn vô
vàn các hành tinh, vệ tinh không tự cháy, không tự
phát sáng thì ta không nhìn thấy. Ví như trong hệ mặt
trời thì người hành tinh khác ở xa chỉ nhìn thấy được
mặt trời mà thôi, còn trái đất, mặt trăng và các hành
tinh trong hệ mặt trời thì họ không thấy vì chúng
không phát sáng.
Trong lý thuyết Âm Dương cũng vậy: dương là lộ
và nhìn thấy, âm là phần khuất, ẩn mà ta không thấy.
Tổng hòa 3 âm 1 dương, âm chiếm 75% và dương chỉ
chiếm 25% giống như hệ mặt trời thì có 1 mặt trời tự
phát sáng (dương) và 8 vệ tinh của mặt trời không
phát sáng (âm). Một khối băng trên mặt biển thì phần
thấy (dương) chỉ rất nhỏ, phần chìm dưới nước (âm)
mới thật là to.
Một cái cây bộ rễ là phần âm phải chắc chắn rộng
và sâu thì cây đó mới sống bền chịu được gió bão hạn
hán. Một cái cây mà rễ ít và nông thì gió mạnh là đổ,
nắng quá là chết héo.
Con người cũng vậy: hình dáng bên ngoài và tài
năng là Dương, Phúc Đức là Âm. Quần áo, xe ôtô, nhà
cửa, trang sức là Dương mà tiền trong két sắt, tiền
trong ngân hàng, tiền đầu tư, tiền cổ phiếu là Âm.
Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 57
Nên, thấy người hình dáng đẹp, nói năng giỏi thì dễ
nhưng biết được Phúc Đức của họ thế nào thì khó.
Thấy người nhà cao cửa rộng, xe ôtô xịn, quần áo đẹp
thì dễ nhưng biết rằng tiền của họ hay do vay ngân
hàng mà có thì là khó.
Đến con người hiện đại ngày nay, nhìn vào vũ trụ
những vì sao cách xa trái đất hàng triệu năm ánh
sáng thấy rõ (vì đó là Dương là cái dễ thấy). Nhưng
ngay đáy đại dương nơi sâu nhất 11.000m dưới mực
nước biển mà công nghệ tàu lặn thăm dò chỉ đạt độ
sâu 7.000m. Tức là 4000m độ sâu còn lại trong lòng
đại dương vẫn là bí ẩn đối với con người. Mặt trăng
tưởng rằng ta biết rõ, thấy rõ nhưng thật ra chỉ rõ
được phần dương. Còn lại nửa sau của mặt trăng vẫn
là bí ẩm của loài người vì kính thiên văn mặt đất
không thể thấy được nó?

58 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


13.Sơn Tinh Thủy Tinh (~300 TCN)

Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long


nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm
trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn. Ba
núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có
tên ấy.
Theo sách Ai Giao Châu Tự của Đường Tăng thì
Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng
linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai
trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết
lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày
quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong
hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn Thần
hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn
ếm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa
chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào
bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng
trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu.
Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó.
Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên,
thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước
bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng:
- Linh khí ở phương Nam không thể lường được.
Cái vượng khí đời nào hết được!
Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó. Xưa kia
Đại Vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp
đẽ bèn làm một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên
phía nam núi Tản Viên, qua động An Vệ, tới các ngọn
nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi. Rồi lại
đi qua ria núi đến chỏm núi có mây che thì định cư ở
Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 59
đó. Đôi lúc rong chơi trên sông Tiểu Hoàng Giang
xem đánh cá, phàm đi qua các làng xóm đều dựng
điện để nghỉ ngơi. Về sau, nhân dân theo dấu vết các
điện đó mà lập đền miếu để thờ cúng.
Lại theo truyện cũ ở sách Giao Châu ký của Lỗ
Công, tương truyền rằng Đại Vương Sơn Tinh họ
Nguyễn, cùng vui ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh,
huyện Phong Châu. Thời Vua Chu Noãn Vương, Vua
Hùng Vương thứ 18 đến ở đất Việt Trì, Châu Phong,
lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên
là Mỵ Nương có sắc đẹp; Thục Vương Phán cầu hôn,
nhà Vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền.
Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người, một người
xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh đến
để cầu hôn. Hùng Vương truyền tỉ thí pháp thuật.
Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong đá không có gì
trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến
thành mây mưa. Vua nói:
- Hai vị đều có phép thần thông, nhưng ta chỉ có
một con gái, vậy ai mang sính lễ tới trước, ta
khắc gả cho.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang ngọc quý, vàng bạc
sơn cầm, dã thú các lễ vật đến tiến, Vua y cho. Thủy
Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem
loài thủy tộc định đánh để cướp lại. Vương lấy lưới
sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Thủy Tinh bèn
mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra
Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng
núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang
hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa
Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt
60 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
thành cái vũng lớn để mở lối đi cho quân thủy tộc.
Thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên đánh
Vương. Dân ở chân núi thấy thế bèn cắm một hàng
rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu
viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn,
thủy tộc chết biến thành thây ba ba thuồng luồng
trôi tắc cả khu sông.
Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng tám vẫn
thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to
nước lớn, lúa má thiệt hại cả. Người đời tương
truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau
lấy Mỵ Nương. Đại Vương Sơn Thánh Tản Viên được
bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất hiển linh,
đó là vị đệ nhất Phúc Thần của nước Đại Việt vậy.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Đệ nhất Phúc Thần của Đại Việt là Tản
Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) một trong Tứ Bất Tử theo
tín ngưỡng Việt Nam. Tại sao gọi là Tứ Bất Tử (3 vị
còn lại là: Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Thánh Mẫu
Liễu Hạnh). Xin thưa rằng, các vị này luôn luôn hiển
linh để cứu giúp dân Đại Việt trong những lúc nguy
nan, các thần không bao giờ mất đi nên gọi là Bất Tử.
Về nguyên tắc, các vị thánh thì ai cũng phải có
Phúc Thần, tức là Phúc tựa Đông Hải thì mới có thể
làm thánh và ban “Phúc rơi Phúc vãi” cho dân (dân
gian thường hay nói: “Thánh ban Lộc rơi, Lộc vãi”,
thiết nghĩ là không đúng) đối với Thần chỉ là một chút
xít chẳng đáng chi chi thì đối với con người là một
điều thần kì.

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 61


Nếu ví các vị Thần là con người và con người
chúng ta chỉ là những con kiến: khi các thần ăn cơm
chẳng may rơi mấy hạt cơm xuống đất mà những con
kiến chúng ta nhặt được thì họ hàng ba đời đều được
no đủ.
Vậy Phúc ở đâu mà các vị có to lớn như vậy? Các vị
tạo ra bằng cách nào?
Thánh Gióng có công giết giặc Ân cứu nước (theo
như truyền thuyết chỉ 1 mình Thánh cưỡi ngựa sắt,
giáp sắt, roi sắt đánh tan giặc, giết được cả Ân
Vương. Khiến nhà Ân kinh hãi 644 năm không dám
động binh với Nam Việt. Sử không nói là bao nhiêu
quân giặc xâm lược, nhưng đạo quân mà có Vua
thống lĩnh thì ắt không phải là nhỏ bé), vậy Thánh
Gióng lấy Phúc từ đây. Nhưng về sau ít thấy Ngài hiển
linh giúp dân, không biết có bị vơi Phúc đi hay không?
Tản Viên Sơn Thánh tuy không có chiến công hiển
hách như Thánh Gióng nhưng có công giúp dân đánh
lại giặc Thiên Tai. Mà Thiên Thai thì năm nào cũng có
nên “Tích tiểu thành đại” mà công đức của Sơn Tinh
là không thể tính xuể nên xứng với danh: “Đệ Nhất
Phúc Thần”.
Chử Đồng Tử có công giúp dân làm ăn kinh tế,
buôn bán mà giàu có và truyền đạo Từ Bi Hỉ Xả và đó
chính là gốc của Đạo Đức, nên Phúc Thần từ đây mà
thành.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh Bà đã giúp dân đắp đê ngăn
nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (núi Gôi)
đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc

62 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là
con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Bà xây 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu,
khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người
nghèo, chữa bệnh cho người ốm, tu sửa đền chùa, cấp
lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức
dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Xây chùa Kim Thoa thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm
Bồ Tát, bà tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam
Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện
Thành ở Đồn xá - Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá,
Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải... Phúc Thần của Thánh
Mẫu từ đây mà có.
Theo đó còn có Đức Thánh Trần - Trần Hưng Đạo
có công đánh giặc Nguyên Mông thời nhà Trần. Đức
Thánh Nguyễn - Nguyễn Minh Không có công xây
dựng trên 500 ngôi chùa tháp ở miền Bắc Việt Nam...
Các vị khi sống đều tạo Phúc “vô lượng, vô biên”. Khi
mất mới có Phúc tựa Đông Hải và thành Thánh che
chở cho dân chúng.
Vậy thử hỏi rằng, ta đây khi sống đã tạo được bao
nhiêu Phúc?

Chương 1: Thời Thủy Tổ đến thời Hùng Vương 63


Chương 2: THỜI ÂU LẠC VÀ NHÀ TRIỆU

14.An Dương Vương (258 - 207 TCN)

Theo truyền thuyết sử cũ thì An Dương Vương tên


thật là Thục Phán là cháu nước Thục. (Nước Thục
không phải là nước Thục ở vùng Tứ Xuyên đời chiến
quốc (Trung Quốc) mà là một bộ tộc thuộc Bách Việt
còn gọi là nước Âu Việt, sống xen kẽ với người Lạc
Việt và người Thái).
Truyện xưa kể rằng: Vua Hùng Vương thứ 18 có
người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ
Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua
Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng:
- Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu
hôn đó thôi.

Không lấy được Mỵ Nương (về sau Mỵ Nương lấy


Tản Viên Sơn Thánh), Thục Vương căm giận, di chúc
cho con cháu đời sau thế nào cũng phải diệt nước
Văn Lang của Vua Hùng.
Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân
sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương
có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Một lần An
Dương Vương tiến đánh Hùng Vương, Vua Hùng
Vương nói:
- Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao?

Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi
thế, Khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang,
Vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến
64 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi
nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là
nước Văn Lang mất.
Năm Giáp Thìn (257 TCN), Thục Phán dẹp yên
mọi bề, Xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu Âu
Lạc (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đóng
đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú).
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư,
1697 (Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên -
NXB VHTT, 2006)
Lời bình: Thời Hùng Vương kéo dài 18 đời (mà sử
cũ còn ghi chép được, theo tôi, chắc còn thiếu sót vài
ba đời) trải dài hơn 2000 lịch sử với những chiến
thắng hiển hách trước giặc ngoại xâm nhà Ân. Đây là
một thời đại thịnh trị bền lâu.
Nhưng lẽ đời là vậy, có sinh thì phải có tử, có hình
thành thì phải có kết thúc. Đến đời Hùng Vương 18,
vận khí vua Hùng đã đến hồi đi xuống, tự nhiên sinh
ra chủ quan, tự kiêu, khinh thường giặc và mất nước
đó là lẽ thường tình. Dù rằng, vua Hùng thứ 18 vẫn vô
cùng tài giỏi, ngài có “Sức Thần” và chưa bao giờ
thua An Dương Vương.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 65


15.An Dương Vương đánh Tần (218 TCN)

Khi An Dương Vương làm Vua nước Âu Lạc thì


Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng) nước Tần đã kết
thúc mọi hỗn chiến đời chiến quốc, thống nhất nước
Trung Hoa, lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thõa
tham vọng mở mang lãnh thổ, Doanh Chính huy
động lực lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh
xâm lược Bách Việt.
Năm 218 trước công nguyên, Doanh Chính huy
động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách
Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt,
đạo quân thứ nhất của quân Tần phải đào con kênh
nối sông Lương (vùng An Hưng Trung Quốc ngày
nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực
của quân Tần do viên tướng lừng danh Đồ Thư
thống lĩnh vào đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất
rồi tiến vào Lạc Việt.
Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân
Tần nên bỏ vào rừng để bảo toàn lực lượng. Thục
Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung
chỉ huy cuộc kháng chiến này.
Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, chúng
gặp khó khăn chồng chất. Quân địch tiến sâu đến
đâu, người Việt làm “vườn không nhà trống” và trốn
rừng đến đó. Chẳng mấy chốc quân Tần lâm vào tình
trạng thiếu lương thực trầm trọng (do đường xa nên
lương thực phải dựa vào cướp bóc mà có). Khi quân
Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương,
khí hậu độc địa, thì người Việt, do Thục Phán làm
tướng, mới bắt đầu xuất trận.
66 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị
bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở
đường máu tháo chạy về nước.
Sau gần 10 năm lãnh đạo Lạc Việt kháng chiến
chống quân Tần thắng lợi. Đề phòng quân Tần xâm
lược lần nữa, Thục Phán cho xây dựng thành Cổ Loa.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Đây là chiến thắng oanh liệt và trường
kỳ trước giặc ngoại xâm Tần Thủy Hoàng, sánh
ngang với chiến thắng 100 vạn quân Nguyên Mông
thế kỷ XIII (thời đó dân số ít nên 50 vạn quân Tần là
vô cùng lớn)
Tần Thủy Hoàng đã đánh thắng toàn bộ 6 nước
chư hầu thời chiến quốc ở Trung Nguyên. Và là vị vua
đầu tiên thống nhất đất nước Trung Hoa rộng lớn và
lập ra nhà nước quân chủ Trung Hoa kéo dài gần
2000 năm.
Đang ở thời đỉnh cao sức mạnh đó thì nhà Tần bị
thất bại khi nam tiến vào Lạc Việt bởi An Dương
Vương. Kinh nghiệm An Dương Vương đánh giặc
phương Bắc với thế mạnh như vũ bão này đã được
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghiên cứu rất kỹ
và ứng dụng trong chiến tranh chống Nguyên Mông
của vua tôi nhà Trần 1500 năm sau đó.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 67


16.An Dương Vương mất nước (210 TCN)

Vua An Dương Vương xây thành ở đất Việt


Thường, hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy.
Vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày
mồng 7 tháng 3 bỗng thấy một cụ già từ phương
đông tới trước cửa thành mà than rằng:
- Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong
được!
Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ, hỏi rằng:
- Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tổn
nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm
sao?
Cụ già đáp:
- Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà Vua xây
dựng mới thành công.
Nói xong từ biệt ra về. Hôm sau Vua ra cửa đông
chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương đông
lại, nổi trên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là
sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương,
quỷ thần. Vua mừng rỡ nói:
- Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước.
Bèn rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi
vì sao xây thành không được. Rùa vàng đáp:
- Cái tinh khí ở núi này là con Vua đời trước,
muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trống
sống ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi
Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người
nhạc công triều đại trước chôn ở đây. Ở bên
cạnh, có một quán trọ cho khách vãng lai, chủ
68 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
quán tên là Ngộ Không, có một người con gái và
một con gà vốn là dư khí của quỉ tinh, phàm có
khách qua đường nghỉ đêm ở quán thì quỉ tinh
lại biến hóa muôn hình vạn trạng để làm hại.
Người chết vì thế rất nhiều. Nay con gà trống
trắng lại lấy con gái chủ quán, nếu giết được
con gà trống thì trấn áp được quỉ tinh, quỉ tinh
sẽ tụ âm khí thành yêu, hóa ra con chim cú
ngậm lá thư bay lên trên cây chiên đàn tâu
cùng thượng đế xin phá thành. Thần sẽ xin cắn
rơi lá thư, nhà Vua tức tốc lặt lấy, thành sẽ xây
được.
Rùa vàng bảo Vua giả làm kẻ hành nhân nghỉ trọ ở
quán, để rùa vàng ở phía trên khung cửa. Ngộ Không
nói:
- Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người.
Hôm nay trời chưa tối, xin ngài đi mau chớ nghỉ
lại.
Vua cười, nói:
- Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì được, ta
không sợ.
Bèn cứ nghỉ lại. Đến đêm, quỉ ở ngoài vào, thét
lớn:
- Kẻ nào ở đây, sao chẳng mau mở cửa?
Rùa vàng hét:
- Cứ đóng cửa thì mày làm gì?
Quỉ bèn biến hóa trăm hình vạn trạng, muôn kế
nghìn phương để hòng dọa nạt, sau cùng cũng chẳng
nổi. Đến lúc gà gáy sáng, quỷ tinh tẩu tán. Rùa vàng
cùng Vua đuổi theo, tới núi Thất Diệu, quỉ tinh thu
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 69
hình biến mất. Vua bèn quay về quán. Sáng hôm sau,
chủ quán sai người đến lượm xác khách trọ để chôn,
thấy Vua vẫn cười nói hớn hở, bèn cùng chạy tới lạy
mà nói rằng:
- Ngài được như thế tất là thánh nhân, vậy xin
ban thuốc thần để cứu sinh dân.
Vua nói:
- Nhà ngươi giết con gà trắng mà tế thần, quỉ
tinh sẽ tan hết.
Ngộ Không y lời, đem gà trắng ra giết, người con
gái lập tức quay ra chết. Vua bèn sai đào ở núi Thất
Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt
tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối,
Vua và rùa vàng lên núi Việt Thường thấy quỉ tinh đã
biến thành con chim cú sáu chân, ngậm lá thư bay
lên cây chiên đàn, rùa vàng biến thành con chuột
đen theo sau, cắn vào chân cú, lá thư rơi xuống đất,
Vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị nhấm rách quá nửa. Từ
đó quỉ tinh bị diệt. Thành xây nửa tháng thì xong.
Thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn
ốc, cho nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Tư Long
thành, người đời Đường gọi là Côn Lôn thành, lấy lẽ
rằng nó cao lắm. Rùa vàng ở lại ba năm, rồi từ biệt ra
về. Vua cảm tạ nói:
- Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu
có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?
Rùa vàng đáp:
- Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do
mệnh trời, Vua có thể tu đức mà kéo dài thời
vận. Song Vua ước muốn, ta có tiếc chi.
70 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Bèn tháo vuốt đưa cho nhà Vua mà nói:
- Đem vật này làm nẫy nỏ, nhằm quân giặc mà
bắn thì sẽ không lo gì nữa.
Dứt lời, trở về biển đông. Vua sai Cao Lỗ làm nỏ,
lấy vuốt làm nẫy. Gọi là Linh Quang Kim Quá thần cơ.
Về sau Triệu Vương là Đà cử binh nam xâm, cùng
Vua giao chiến. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua
lớn, chạy về Trâu Sơn cầm cự với nhà Vua, không
dám đối chiến, bèn xin hòa. Vua cả mừng, hẹn rằng
phía bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà cai trị, phía
nam thì Vua cai trị. Không bao lâu, Đà cầu hôn. Vua
vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là
Trọng Thủy. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm
nỏ thần rồi ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt
rùa vàng, nói dối là về phương bắc thăm cha. Nói
rằng:
- Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ
cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha,
nếu như đến lúc hai nước thất hòa, bắc nam
cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?
Đáp:
- Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt lá thì đau
đớn khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng
thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông
mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ
có thể cứu được nhau.
Trọng Thủy mang lẫy thần về nước. Đà được lẫy
cả mừng, bèn cử binh sang đánh. Vua cậy có nỏ thần,
vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng:
- Đà không sợ nỏ thần sao?
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 71
Quân Đà tiến sát, Vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã
mất bèn bỏ chạy. Vua đặt Mỵ Châu ngồi đằng sau
ngựa rồi cùng nhau chạy về phương Nam. Trọng
Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ
bể, đường cùng, không có thuyền qua bèn kêu rằng:
- Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại
cứu!
Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn:
- Kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó!
Vua bèn tuốt kiếm chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn
rằng:
- Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu
hại lại cha, chết đi sẽ biến thành hạt bụi. Nếu
một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì
chết đi sẽ biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối
nhục thù.
Mỵ Châu chết ở bờ bể, máu chảy xuống nước, trai
sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê
bảy tấc, Rùa vàng rẽ nước dẫn Vua đi xuống bể. Đời
truyền rằng nơi đó là đất Dạ Sơn, tổng Cao Xá, phủ
Diễn Châu.
Quân Đà kéo tới đấy không thấy bóng vết gì, chỉ
còn lại xác Mỵ Châu. Trọng Thủy ôm xác vợ đem về
táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mỵ
Châu đã chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng,
khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mỵ Châu, bèn
lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò ngọc
ở biển đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy
trong sáng, nhân kiêng tên Mỵ Châu cho nên gọi
ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu.
72 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp, 1493)
(NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Đến như sử chép An Dương Vương bại
vong là do nỏ thần bị đổi lẫy là mượn lời để cho vật
trở thành thiêng mà thôi. Đại phàm việc giữ nước
chống giặc tự có đạo lý của nó, đúng đạo lý thì được
nhiều người giúp mà nước hưng, mất đạo lý thì ít
người giúp mà nước mất, chứ không phải vì những
thứ ấy.
Thần Kim Quy cũng đã nói: “Vận nước suy thịnh là
mệnh trời nhưng Vua có thể tu Đức để kéo dài thời
vận”.
Dân gian cũng có câu: “Đức trọng quỷ thần kinh”
tuy rằng vận nước hay số mạng của mỗi con người đã
được định đoạt ở thiên thư. Nhưng nếu đất nước đó
có vị Vua biết tu Đức, con người đó biết tu Đức làm
thiện thì vận nước đó sẽ đổi, số mạng con người đó sẽ
đổi. Quỷ Thần phải sợ mà nghe lời người có Đức là
vậy.
An Dương Vương mất nước vì kiêu mạn chủ quan:
Cho con gái lấy Trọng Thủy là (con của giặc) mà
không đề phòng là tội. Có của quý là Nỏ Thần mà
không canh giữ cẩn mật là tội. Giặc đến chân mà vẫn
chủ quan đánh cờ khinh thường giặc là tội. Thần
thánh (ở đây là thần Kim Quy) cũng vì tâm con người
mà ứng hiện chứ không có một sự khẳng định chắc
chắn thắng lợi nào.
Cũng tương tự như vậy: Thần Kim Quy hiện ra cho
Lê Lợi mượn “Thuận Thiên bảo kiếm” thì Lê Lợi khởi
nghĩ đánh tan quân Minh lập lên triều đại nhà Lê 360

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 73


năm (Lê Sơ 100 năm và Lê Trung Hưng gần 260
năm). Thần Kim Quy cũng hiện ra giúp An Dương
Vương xây thành, giúp nỏ thần, tưởng rằng không thể
giặc nào xâm phạm được, vậy mà An Dương Vương
lại mất nước. An Dương Vương đánh thắng 50 vạn
quân Tần nhưng lại thua Thái Thú đất Lâm Ấp là một
quận nhỏ phía nam Tần và bắc Âu Lạc chỉ vì do kiêu
căng, khinh địch mà mất nước vậy.
Sau khi Triệu Đà chiếm nước ta, Vua xưng Triệu Vũ
Đế đòi ngang với nhà Hán, gửi chiếu sang Vua Hán
xưng là: “Lão Phu” âu cũng là bậc Vua anh hùng. Vua
thọ 121 tuổi ở ngôi 71 năm. Vua truyền ngôi cho con
cháu qua 5 đời thêm 26 năm thì hết. Đời con cháu
Triệu Đà nội bộ rối ren, triều thần chia phe chia cánh
đánh nhau. Nhà Hán đưa quân vào dẹp tan và đưa
nước ta chìm trong 1000 năm bắc thuộc.
Về cơ bản, thế kỷ thứ I trước CN, Tần Thủy Hoàng
và Hán Cao Tổ đã thâu tóm được toàn bộ tất cả các
nước phía Nam Trung Quốc thuộc tộc Bách Việt là
dòng dõi vua Thần Nông.

74 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


17.Cao Lỗ Tướng Quân (? - 179 TCN)

Cao Lỗ (? - 17TCN) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông,


Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần)
là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương,
quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc
Ninh ngày nay.
Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu
(bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi
là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương
Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và
là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết
kế chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Tại kì họp ngày 5 tháng 8 năm 2005, Hội đồng
Nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định lấy tên
ông để đặt tên cho một con đường ở trung tâm
huyện Đông Anh.
Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ liên châu (nỏ
thần): bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên
đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa
gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích
quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là
chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm
tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập
bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc
đông bắc ngoài thành nội Cổ Loa).
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ
nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ. Khi Triệu Đà
cho quân xâm lược Âu Lạc, quân Triệu đã bị các tay
nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 75
và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành
thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
TS Lại Văn Tới (Trung tâm nghiên cứu kinh
thành) cho biết: “Từ năm 1959 ở Cổ Loa đã phát hiện
được kho tên đồng hàng vạn mũi tại khu vực Cầu Vực.
Nhưng phải tính từ cuộc khai quật Đền Thượng năm
2005 phát hiện di tích lò đúc mũi tên đồng cùng các
khuôn đúc mũi tên ba cạnh thì truyền thống “nỏ thần”
mới dần dần được chứng minh bằng những hiện vật,
bằng những luận cứ khoa học xác đáng ...”. Những gì
đã phát hiện cho phép xác định rằng khu vực tây nam
thành Trong xưa là một “binh công xưởng” - có thể
không phải duy nhất - làm nhiệm vụ đúc mũi tên
trang bị cho quân đội của An Dương Vương. Các thế
hệ sau hoàn toàn có thể tôn vinh Cao Lỗ là vị Tổ sư
của ngành quân khí Việt Nam.
Huyền sử cho rằng cái tên Cao Lỗ không phải là họ
Cao, mà Cao nghĩa là đá thạch, núi đá, rằng Cao Lỗ là
một vị thần địa phương - thần Đá - đã được thu phục
trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An
Dương Vương, và trở thành một vị tướng của nhà
Vua. Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng
Việt Trì, Bạch Hạc. Nhà Trần đã sắc phong cho ông là
"Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại
vương".
(Tham khảo từ: Tư liệu của Trung
tâm nghiên cứu kinh thành)
Lời bình: Thần thì cũng phải từ con người mà ra,
Thần phải tạo Phúc ở thế giới loài người mới thành
Thần Thánh. Vì rằng, tạo Phúc có 3 con đường: 1 -
Làm phúc: giúp đỡ con người và chúng sinh hết khổ
76 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
(làm đường, đắp đê, xây cầu, dạy đạo đức). 2 - Bố thí:
giúp con người và chúng sinh thoát khỏi cảnh ngặt
ngèo của đói, rét, túng thiếu. 3 - Cúng dường: tôn kính
các bậc thánh đáng kính.
Xuất phát điểm Thần là một con người như bao
con người chúng ta mà thôi. Nhưng trong cuộc sống
Thần đã tạo lập Công Đức lớn như: làm tướng chiến
đấu bảo vệ dân chúng bình yên hoặc làm vua giúp
dân chúng hưởng hạnh phúc. Các vị đó sau khi chết
căn theo Công Đức lúc sinh thời mà được tái sinh vào
cõi Thần hoặc cõi Trời có sức mạnh tâm linh và quyền
uy lớn. Chiều ngược lại, nếu tội nhiều thì đọa vào ba
đường Ác Đạo là Súc sinh (làm con vật), Ngã quỷ (ma
đói), Địa ngục (chịu ngục hình). Nếu tội phúc lẫn lộn
và không có cái nào vượt trội thì tái sinh cõi người
lúc đau khổ khi hạnh phúc. Điều này được ghi rất rõ
trong hệ thống Kinh điển Phật Giáo gọi là Lục Đạo
Luân Hồi, 6 cõi giới trong luân hồi từ cao đến thấp là:
Trời, Thần (Atula), Người, Ngã quỷ, Súc sinh, Địa
ngục. Mời bạn đọc tự tìm hiểu thêm
Với lý do trên, ắt hẳn Cao Lỗ là người thật chứ
không phải là từ đá hóa sinh thành người. Ngài là vị
Tướng vô cùng tài giỏi đã giúp An Dương Vương lãnh
đạo quân dân đánh tan 50 vạn quân Tần, sau đó bằng
tài năng khoa học kỹ thuật của mình đã giúp An
Dương Vương thiết kế và xây dựng Loa Thành cũng
như thiết kế và làm Nỏ Thần Liên Châu.
Nếu ta bỏ qua nhân vật thần Kim Quy thì nhân vật
tướng quân Cao Lỗ là một thiên tài quân sự cũng như
thiên tài khoa học kỹ thuật có công đức rất lớn giúp

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 77


dân Âu Lạc. Và Phúc Thần của Cao Lỗ từ đây mà
thành.
Theo tôi Cụ Rùa Thần (Kim Quy) nói tiếng người
đến giúp An Dương Vương là rất mơ hồ và không
thuyết phục đối với tôi. Tại sao vậy?
Vì rằng, Thần là cõi tâm thức vô tướng, vô hình đa
phần cảm ứng bằng báo mộng hoặc tác động vào tâm
của một con người vật chất (hiện tượng nhập đồng
dân gian Việt Nam cũng là một vị nào đó trong cõi
tâm linh mượn thân xác của người yếu bóng vía để
nhập vào nói chuyện). Nếu thần muốn hiện hình
tướng thì cũng hiện là một Thần tướng đẹp đẽ có hào
quang và đôi khi có thiên tướng hộ pháp theo cùng.
Do Thần có Phúc lớn lên ứng hiện hình tướng phải
đẹp đẽ uy nghi oai hùng tương ứng với ngài.
Thần chẳng bao giờ lại thích hiện hình thành loài
súc sinh là con Rùa. Tuy rằng, Rùa là một trong tứ
linh nhưng đó vẫn là con vật ngu si. (Tứ linh là: Long,
Ly, Quy, Phượng)

78 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


18.Lý Ông Trọng (258 - 207 TCN)

Cuối đời Hùng Vương có người ở xã Thụy Hương,


huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ họ Lý tên Thân. Khi đẻ
ra rất to lớn, rồi cao đến 2 trượng 3 thước, tính tình
hung hãn, hay giết người, tội ác đáng chết, Hùng
Vương tiếc mà không nỡ giết.
Đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn cất
binh đánh ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân
cung tiến nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong
cho làm chức tư lệ hiệu úy. Khi Thủy Hoàng đã lấy
được cả thiên hạ, sai Lý đem quân giữ đất Lâm Thao,
danh vang dội đến Hung Nô, Hung Nô không dám
xâm phạm cửa ải.
Thủy Hoàng phong Lý làm phụ tín hầu, lại gả Công
Chúa cho Lý. Sau tuổi già trở về nước. Hung Nô lại
xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng nhớ tới Lý Thân, sai
người sang triệu. Lý Thân không chịu đi, trốn vào
rừng núi. Vua Tần trách quở, An Dương Vương tìm
không được, nói dối là Lý đã chết. Vua Tần hỏi vì sao
mà chết. Trả lời:
- Vì đi tả.
Tần sai sứ sang khám. An Dương Vương bèn nấu
cháo đổ xuống đất để làm thực tích. Vua Tần đòi
mang xác sang, Lý Thân bất đắc dĩ phải tự vẫn (hôm
đó là ngày mồng 2 tháng 2). An Dương Vương sai lấy
thủy ngân rắc lên xác rồi đem nộp Vua Tần.
Thủy Hoàng lấy làm lạ, mới đúc đồng làm tượng,
đặt hiệu là ông Trọng, đem dựng ở cửa Kim Mã đất
Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa mấy chục
người để lay cho tượng cử động. Hung Nô trông thấy
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 79
tưởng là quan hiệu úy sống, không dám động tới cửa
ải.
Đời Đức Tông nhà Đường, niên hiệu Trinh
Nguyên năm đầu, Triệu Xương qua làm Đô Hộ nước
An Nam ta thường qua chơi làng Vương (Ông
Trọng), đêm mộng thấy cùng Vương nói truyện trị
dân, và giảng luận sách Xuân Thu tả truyện, nhân đó
Triệu Xương mới hỏi thăm nhà cũ của Vương hồi
xưa, thì chỉ thấy mù khói ngang trời, sông nước
mênh mông, rêu phong đường đá, xanh rời cụm
hoang, một mảnh nhàn vân phất phơ trên đám cỏ
thôn hoa rụng. Ông mới lập lại đền thờ, xưởng cao
lầu lớn, rồi chuẩn bị lễ vật đem đến tế vương.
Đến lúc Cao Biền đánh phá nước Nam Chiếu,
Vương thường hiển linh trợ thuận. Cao Biền lấy làm
kinh dị, sai thợ trùng tu từ vũ tráng lệ hơn xưa, và
chạm khắc tượng gỗ son thếp giống như thực mà
đem lễ vật đến tế, từ đó, hương hỏa không khi nào
hết. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Anh
Liệt Vương, đến bốn năm, gia phong hai chữ Dũng
Mãnh, năm Hưng Long thứ hai mươi, gia phong Phụ
Tín Đại Vương.
Đền thờ Lý Ông Trọng được xây dựng từ thời Bắc
Thuộc (từ năm 603 đến năm 938) ở Thị Điềm, Thụy
Phương (phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm,
Hà Nội ngày nay). Ông được nhân dân trong vùng
xưng tôn là Đức Thánh Chèm.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)

80 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời bình: Lý Ông Trọng tên thật là Lý Thân, là một
nhân vật có thật, nhưng niên đại trong truyền thuyết
không ghi chép cụ thể nên tôi xin mạn phép lấy theo
niên đại của An Dương Vương (258 - 207 TCN). Di
tích cổ thờ tự ông là Đình Chèm- Xã Thụy Phương-
Bắc Từ Liêm- Hà Nội.
Trong Đình có các bia đá ghi chép lại lịch sử và
nhân vật, đồng thời thờ 2 pho tượng đồng lớn: một là
của Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng, pho
tượng còn lại là của bà vợ, hiệu Hoàng phi Bạch Tĩnh
Cung (con gái của Tần Thủy Hoàng).
Di tích Đình còn nguyên vẹn, kiến trúc rất đẹp do
thợ tay nghề của nước Tần xây dựng. Theo đó, ông
sống vào cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu thời An
Dương Vương, gốc làng Chèm.
Hiệu úy phong tặng: Uy mãnh Oanh liệt Phụ tín Đại
vương.
Phúc Thần của ông do đâu mà có? Không phải hình
dáng to lớn mà ông có Phúc Thần. Mà phải từ công
đức cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau mới tạo
ra Phúc Thần.
Ở đây, Ông Trọng chỉ giúp Tần Thủy Hoàng chấn
biên ải áp chế Hung Nô không biết có giúp được dân
chúng thoát khỏi cảnh chiến tranh hay không, để có
thể đoán biết công đức của ông nhiều hay ít?
Ông tuy sinh ở đất Nam, thác ở đất Nam nhưng
công đức ghi tạc ở đất Bắc vậy nếu hiển linh sẽ hiển
linh ở đất Bắc nhiều hơn vì nơi ấy, Ông có duyên và
nợ với dân chúng nhiều hơn.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 81


19.Triệu Đà - Triệu Vũ Đế (207 - 136 TCN)

Họ Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng


lại Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế, đòi ngang
với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới
mất, cũng là bậc vua anh hùng.
Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định
nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng
Đông) .
Giáp Ngọ, năm thứ 1 (207 TCN). Vua chiếm lấy đất
Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.
Triệu Vũ Đế ở ngôi 71 năm (207 - 136 TCN), thọ
121 tuổi (256 - 136 TCN). Đời sau con cháu nhà
Triệu quy thuận nhà Hán và nước Nam ta thành một
châu của nhà Hán có tên là Giao Châu.
Sử thần Lê Văn Hưu bàn rằng:
Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành
phong tục mặc áo đội mũ như Trung Hoa, đất Ngô Cối
không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá
vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua
giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là
bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi
trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay
Di, chỉ xem ở Đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất
Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà
Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế
vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm
vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt
chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân
quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi

82 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người
phương Bắc không thể lại ngấp nghé được.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng:
Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn thì
ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm gì
mà được như thế? Cũng chỉ vì có Đức mà thôi. Xem
câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến
khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ
tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh
em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó
tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế
chẳng phải là nhờ Đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm
nhường thì ngôi tôn mà Đức sáng, ngôi thấp mà
không ai dám vượt qua". chính hợp câu ấy.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697 (Lê
Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB VHTT,
2006)
Lời bình: Thật ra hai vị sử thần Lê Văn Hưu và
Ngô Sĩ Liên đã bàn ở trên là gần hết ý rồi. Có chăng
chỉ thiếu mỗi một ý là:
Gốc gác Vương vốn là người Phương Bắc, có giữ
được nước độc lập, dân yên ổn, nước Đức trị thái
bình, nhưng tuy rằng làm vua Nước Nam thì trong
tâm vẫn nghĩ mình thuộc Hán chứ không bao giờ nghĩ
mình thuộc dòng dõi Hùng Vương cả.
Cái tâm đó truyền đến đời con cháu, nội bộ triều
đình phân làm 2 phe cánh: Phe muốn đầu hàng, đứng
đầu là Thái Hậu Cù Thị (vốn là người Hán) và Phe
muốn chiến đấu, đứng đầu là Tể Tướng Lữ Gia (Lữ

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 83


Gia sinh ra ở huyện Lôi Dương quận Cửu Chân (nay là
huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá).
Rồi Lữ Gia đang đêm mang cấm quân đi giết chết
sứ giả nhà Hán khiến cho phe muốn hàng không có
đường lui. Hán Vũ Đế tức giận sai Phục Ba tướng
quân mang 5 đạo quân đánh nhà Triệu. Lữ Gia không
đánh lại, vua tôi đều bị hại. Nhà Hán chiếm Nam Việt
đổi tên thành Giao Chỉ bộ.

84 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


20.Nguyễn Danh Lang (207 - 137 TCN)

Thời Triệu Vũ Đế (207 - 137 TCN) nước Nam Việt,


Sơn trang Nam Trì có một người tên Nguyễn Tuyên,
lấy vợ người trang Đoài, xã Thổ Hoàng bên cạnh, tên
là Trần Thị Huyền. Tuy chỉ làm ruộng nhưng gia
đình khá giả, vợ chồng là người có lòng trung hậu,
lương thiện. Năm Nguyễn công 51 tuổi, bà 42 tuổi
vẫn chưa có con trai. Hai vợ chồng cầu đảo Trời Đất,
thần linh phù hộ. Một hôm, bà Trần Thị ra sông Kim
Ngưu tắm rồi ngủ và mộng thấy từ trên trời một con
hổ vàng giáng xuống nằm cạnh bên trái mình. Bà trở
về nhà và có mang. Ngày 9/3 năm Nhâm Thân bà
sinh hạ được một con trai. Vì chiêm bao thấy hổ nên
sau bách nhật đặt tên Danh Lang.
Lớn lên, Danh Lang có tướng mạo kỳ lạ, cao lớn
khác thường. Ông kết nghĩa với Bảo Lang tức Lữ Gia.
Hai người được nhân dân Nam Trì một lòng kính nể,
phục tùng gọi hai ông là Bảo Công, Lang Công.
Bảo Công và Lang Công cùng nhau mộ được 1000
binh sĩ đánh Đào Hoan để trả thù cho cậu của Bảo
Lang. Trả thù xong, hai ông trở lại Nam Trì. Oai danh
chấn động gần xa nên nhân dân kính nể, thần phục.
Hai năm sau, khi Triệu Vũ đế (Triệu Đà, 197-137
TCN) chết, Triệu Văn đế (Văn vương Triệu Hồ tức
Triệu Mạt hay Triệu Muội, con Trọng Thuỷ) nối ngôi
(136-125 TCN) lệnh cho các châu, huyện đề cử
người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài, học
vấn uyên bác ra giúp nước. Bảo Công, Lang Công đều
trúng lại được yết kiến nhà Vua ứng đối trôi chảy
nên ra sắc chỉ phong Bảo Công chức Thị tụng Tham
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 85
quan (Quân sư) đảm nhiệm việc luyện quân và công
văn cho Triều đình; Lang Công chức Điển binh (Cấm
quân bảo vệ triều đình).
Năm Văn vương thứ 6, Bảo Công được phong
Thừa tướng, Lang Công được phong Đốc lĩnh (chữ
Đốc âm cổ là Đại tướng) châu Ái kiêm châu Hoan.
Trong thời gian này, Văn vương cùng Bảo Công, Lang
Công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính, quân
thần hiệp đức nên thiên hạ thái bình, nhân dân yên
vui, no ấm. Văn vương chết, Triệu Minh Vương nối
ngôi. Minh vương trọng đãi, hai họ của hai anh em
quý hiển có hơn bốn mươi người làm quan truyền
đời.
Thời Bắc thuộc các triều đại Đông Hán, Ngô, Tấn,
Tống của Trung Hoa đều phong Thần Nguyễn Danh
Lang là Trung Lang Tế thế Đại vương. Các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam cũng sắc phong như
vậy. Triều hậu Lê sắc phong là Dũng lược quả đoán
và chuẩn cho trang Nam Trì lập đền thờ chính. Sau
lại sắc phong thêm là Dực bảo trung hưng.
(Tham khảo từ: Sách Thành Hoàng VN của Phạm
Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB VHTT
1997)
Lời bình: Những người khi sống có công lao to lớn.
Khi chết sẽ thành thần, linh ứng và uy đức một
phương. Nhưng các vị này vẫn chịu sắc phong của
Vua trên trần thế.
Không ít truyện tích trong đây có đoạn: “Sau khi
vua sắc phong vương và mũ áo cho thần xong, đêm
ngủ nằm mộng thấy thần hiện lên với mũ áo mới và

86 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


cảm tạ nhà vua”. Thế mới biết, Thần Nhân cõi âm uy
đức là vậy nhưng không uy đức bằng ông Vua trên
trần thế.
Đó là trường hợp các vua Uy Đức thì được vậy. Thế
còn các vua kém uy đức hôn quân vô đạo thì sao? Các
vị thần cõi âm thấu rõ tâm của mọi người và tâm của
ông vua, thấy rõ sự ác độc vô đạo của vua. Với quyền
uy của mình, sự niêm chính và đạo đức của mình ắt
hẳn Thần sẽ tìm một người có Đức khác để thay thế
ông vua vô đạo này.
Nên rất nhiều các Vĩ nhân Cái thế (thay đổi thế
gian) sinh ra đã có điềm báo dị thường. Người có Uy
Đức chiêu cảm được tâm quy hướng của Thần và số
mạng của họ là sẽ làm một việc gì đó thay đổi thế
gian.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 87


21.Giếng Việt (207 - 136 TCN)

Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh. Đời


Vua Hùng Vương thứ ba, nhà Ân cử binh sang sâm
chiếm nước Nam, đóng quân ở dưới núi Trâu Sơn.
Hùng Vương cầu cứu Long Quân, Long Quân truyền
đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ thì sẽ dẹp được giặc.
Sóc Thiên Vương ứng kỳ mà sinh, cưỡi ngựa sắt
đánh giặc, tướng sĩ nhà Ân đều bỏ chạy. Ân Vương
chết ở dưới núi, biến thành Vua ở địa phủ, dân phải
lập miếu thờ, lâu năm suy dần, đền miếu bỏ hoang.
Qua đời Chu, tới đời Tần, có người nước ta là Thôi
Lượng làm quan cho nhà Tần đến chức ngự sử đại
phu, thường qua vùng này, thấy cảnh suy tàn, trạnh
lòng thương cảm, bèn sửa sang lại đền miếu. Sau các
tướng Nhâm Hiêu, Triệu Đà đem quân xâm chiếm
phương Nam trú quân ở dưới núi, sai tu sửa lại miếu
mạo, nghiêm cẩn khấn thờ. Ân Vương cảm cái đức
của Lượng xưa, muốn đền ơn, bèn sai tiên nữ Ma Cô
ra ngoài cõi tìm kiếm. Khi ấy Lượng đã chết ở đất
Tần, có đứa con là Vỹ hãy còn du học.
Khoảng đầu tháng giêng, dân chúng tới thăm đền
này, có người cúng một đôi bình pha lê, tiên nữ Ma
Cô cầm lên tay ngắm nghía, lỡ rơi xuống đất vỡ
khuyết một mảnh, bị người ta bắt đền. Ma Cô mặc áo
rách, mọi người không biết là tiên, nên đánh đập tàn
nhẫn. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng thương, bèn cởi áo
đền cho Ma Cô được tha. Ma Cô hỏi Vỹ ở đâu, Vỹ kể
lại lai lịch của cha. Ma Cô lúc ấy mới biết là con quan
Thôi ngự sử, mừng rỡ mà nói với Vỹ rằng:

88 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Nay ta không có gì báo đáp, sau này tất sẽ tạ
ơn.
Nhân đưa cho Vỹ một bó lá ngải mà nói:
- Giữ cẩn thận vật này, đừng để rời khỏi mình,
sau này thấy ai có bướu trên đầu, đem cứu cho
tan tất sẽ được phú quý to.
Vỹ nhận lấy, chưa biết đó là thuốc thiên. Đi đến
nhà người bạn thân là ứng Huyền, Huyền là một vị
đạo sĩ có cái bướu trên đầu, Vỹ nói:
- Tôi có lá ngải có thể trị được tật này.
Huyền nhờ chữa cho. Vỹ bèn dùng lá ngải mà cứu,
bướu lập tức tan, Huyền nói:
- Đó là thuốc tiên, ta nay không có vật gì báo đáp,
xin lấy ơn khác đền lại. Ta quen một vị quí nhân
mắc tật này, thường nói rằng ai chữa được thì
sẽ chia sẻ gia tài mà không tiếc, ông hãy tới đó
chữa
Huyền đưa Vỹ tới nhà Nhâm Hiêu chữa, bướu tự
khắc tan. Hiêu cả mừng, nuôi Vỹ làm nghĩa tử, mở
trường cho Vỹ học để chờ khi hữu dụng. Vỹ là người
thông minh, hay đọc sách, gảy đàn. Con gái Hiêu là
Phương Dung thấy Vỹ thì phải lòng, bèn cùng tư
thông. Con giai Hiêu là Nhâm Phu biết truyện, muốn
giết Vỹ, đem Vỹ tế thần Xương Cuồng, bèn dỗ rằng:
- Cuối năm phải lễ thần Xương Cuồng mà chưa
có người làm đồ lễ nay không nên đi ra ngoài, e
rằng bị bắt sống, phải ẩn vào phòng kín để
tránh.
Vỹ vô tình nghe theo, Nhâm Phu bèn khóa cửa
buồng. Phương Dung biết ý, ngầm lấy dao đưa cho
Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 89
Vỹ, Vỹ đào ngạch mà ra. Ban đêm, Vỹ lẻn đi, muốn
tới nương tựa nhà ứng Huyền. Đi gấp lên trên núi,
núi có hang sâu. Vỹ lỡ chân rơi xuống hang. Đương
lúc canh một thì rơi tới đáy, Vỹ đau quá, hơn một
khắc mới ngồi dậy được.
Đến lúc đúng ngọ, mặt trời chiếu thẳng xuống
hang, thấy xung quanh đều là vách đá, không có bậc
lên. ở trên có một hòn đá, thạch nhũ rủ xuống bàn
đá. Có một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào
vàng, miệng đỏ, râu xanh, vẩy trắng, dưới cổ có cái
bướu, trên trán có dòng chữ vàng đề "Vương Kinh
Tử". Rắn ra ăn thạch nhũ rồi lại chui vào trong hang.
Vỹ ở trong hang ba ngày, đói lắm phải ăn vụng thạch
nhũ. Rắn ra thấy trên bàn đá hết cả thạch nhũ, ngửng
đầu thấy Vỹ thì định nuốt. Vỹ kinh sợ, sụp lạy mà
nói:
- Tôi tị nạn rơi xuống dưới này, không có gì ăn,
đói dạ nên phải ăn vụng, thực là đắc tội. Nay
thấy dưới cổ ngài có cái bướu thịt, tôi có lá ngải
để đã ba năm, xin khoan tha cho tôi để tôi thi
thố chút tài mọn.
Rắn ngẩng đầu xin cứu. Bỗng thấy ánh lửa sáng,
một mảnh than rơi xuống hang. Vỹ lấy lửa mà cứu,
bướu lập tức tiêu tan. Rắn quẫy mình tới trước mặt
Vỹ như có ý bảo Vỹ cưỡi lên lưng. Vỹ cưỡi lên, rắn
bèn tức thì đưa Vỹ ra khỏi hang. Đúng canh hai thì
lên tới cửa hang, nhìn không thấy ai qua lại, rắn bèn
vẫy đuôi bảo Vỹ xuống, sau đó rắn lại trở vào trong
hang.
Vỹ đi lạc đường, chợt thấy trước mặt có một tòa
thành, trên cổng thành có lầu cao lợp ngói đỏ lộng
90 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
lẫy, ánh sáng mờ mờ chiếu tỏa. Trên cổng treo biển
đỏ viết chữ "Ân Vương Thành" bằng vàng. Vỹ ngồi
bên cạnh cổng nhìn thấy trong sân có ao, giữa ao có
sen ngũ sắc, cạnh ao có hòe, liễu mấy hàng. Thấy
đường gạch phẳng lỳ, điện ngọc cung châu, lầu cao
gác rộng. Trên điện kê giường kim qui, trải chiếu hoa
bạc, có hai cây đàn cầm, sắt, vắng lặng không thấy
người. Vỹ bèn vào đánh đàn, bỗng thấy kim đồng
ngọc nữ hàng trăm người theo hầu ân hậu mở cửa
mà ra. Vỹ cả kinh, xuống điện phục lậy. Hậu cười
phán rằng:
- Thôi quan nhân ở đâu tới đây?
Rồi lại mời lên điện mà nói:
- Xưa kia điện Ân Vương bỏ hoang đổ nát, không
người thờ cúng, nhờ có Thôi ngự sử sửa chữa,
người đời mới theo gương mà cúng thờ mãi
mãi. Ta đã sai tiên nữ Ma Cô đi tìm để báo ơn,
không gặp ngự sử mà chỉ gặp công tử. Vẫn
chưa có gì báo đáp, nay may được trông thấy
mặt công tử, nhưng hiềm vì có sắc gọi cho nên
Vương lên chầu trời hiện không ở nhà.
Bèn ban tiệc rượu, chuốc cho ăn uống no say.
Xong tiệc, bỗng thấy có một người râu dài bụng to
tiến lên dâng biểu, quỳ xuống mà tâu rằng:
- Ngày 13 tháng giêng, người phương Bắc là
Nhâm Hiêu đã bị thần Xương Cuồng đánh chết.
Tâu xong, Hậu bèn nói:
- Dương quan nhân hãy đưa Thôi công tử trở về
trần thế.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 91


Hậu quay vào. Dương quan nhân bèn bảo Vỹ
nhắm mắt ngồi lên vai mình. Hơn một khắc sau lại
xuống tới đỉnh núi. Dương quan nhân biến thành
một con dê đá mà đứng ở trong núi, nay con dê ấy
còn ở sau chùa Triệu Việt Vương trên núi Trâu Sơn.
Vỹ trở về nhà ứng Huyền kể lại đầu đuôi câu
truyện. Đêm ngày mồng 1 tháng 8, đương lúc xế
bóng, Vỹ và Huyền cùng đi dạo bên ngoài, thấy tiên
nữ Ma Cô dắt một người con gái tới cho Vỹ để kết
làm vợ chồng, lại cho cả viên ngọc Long Tụy. Vốn
xưa ngọc đó có hai viên thư, hùng, suốt từ đời Vua
Hoàng Đế tới triều nhà Ân vẫn được lưu truyền là
vật quí ở đời.
Trong cuộc chiến trận ở Trâu Sơn, Vua Ân đeo
ngọc đó mà chết, ngọc bị vùi xuống đất mà hào
quang của nó vẫn chiếu tỏa đến tận trời. Thời binh
hỏa đời Tần, báu ngọc đều cháy hết, người ta xem
linh khí mà biết rằng viên ngọc quí Long Tụy vẫn còn
ở nước Nam, mới từ xa tới tìm.
Đến nay Ân Vương lấy ngọc quý này báo đáp ơn
Vỹ. Người thời ấy đem vàng bạc lụa là đáng giá trăm
nghìn quan tới mua, Vỹ do đó mà giàu lớn. Sau tiên
nữ Ma Cô tới đón vợ chồng Vỹ đi đâu không biết, có
lẽ đã hóa thành tiên vậy. Nay giếng đã lở thành cái
huyệt rộng, gọi là Việt Tỉnh Cương.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Truyện tích chép vậy, nay tôi căn cứ theo
nội dung truyện mà bàn, nhưng trong lòng vẫn không
khỏi thắc mắc: “Tại sao tác giả viết truyện này lại biết

92 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


tường tận cõi Thần như vậy?”. Từng chi tiết, từng
hành động, từng tâm tính đường đi của Thần mà tác
giả này đều biết quá chi tiết.
Ân Vương là vua Đất Bắc, Phúc Thần của Vương
rất lớn nên khi chết vẫn được làm Vua cõi Địa Phủ
nhưng trải qua từ thời Thánh Gióng đánh giặc Ân
(1766 - 1122 TCN) đến thời nhà Tần (250 TCN) là
ngót nghét 1000 năm thì Phúc Thần đã bị vơi đi
nhiều. Hết Phúc thì các Thần bắt buộc phải tái sinh
cõi người hoặc phải chịu cảnh đói khổ đền miếu bỏ
hoang dột nát.
Xin bàn một chút về Lục Đạo Luân Hồi (6 cõi giới
Luân Hồi trong Đạo Phật): Để tạo Phúc thì chỉ có cõi
người mới dễ dàng tạo được Phúc lớn.
Vậy Phúc là gì? Với kiến thức nông cạn, tôi xin tạm
giải thích nếu có sai xin bạn đọc lượng thứ. Theo Luật
Nhân Quả Đạo Phật “Ai tạo ra cho người khác hạnh
phúc (đau khổ) thì hạnh phúc (đau khổ) đó sẽ lặp lại
ở chính ta trong tương lai”. Ta tạo cho người khác
hạnh phúc thì ta sẽ nhận được niềm hạnh phúc đó đầy
đủ ở tương lai gọi là Phúc hay Quả Phúc.
Người có Phúc kha khá thì được sinh ra ở gia đình
giàu có, cha mẹ yêu thương, đất nước tiên tiến văn
minh và được hưởng hạnh phúc ngay từ khi sinh ra.
Nhưng chỉ có hưởng mà không lao động làm việc giúp
đời, giúp người thì Phúc sẽ mất dần. Họ càng về già
càng khó khăn. Có khi về già họ bị con cháu hắt hủi bỏ
rơi, sống cô đơn nghèo khổ đói rách. Đó là bị mất
Phúc.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 93


Một người có Phúc vô cùng lớn thì những hạnh
phúc thế gian không đáp ứng đủ. Phải có một cõi giới
có những hạnh phúc to lớn hơn mới đáp ứng được
cho họ. Đó chính là cõi Trời hay cõi Thần. Nhưng ở đó
thì ai ai cũng hạnh phúc và không ai đau khổ. Vậy nên
sống ở đó chẳng thể giúp đỡ được ai mà tạo thêm
Phúc mới. Họ chỉ có hưởng không thôi nên mất Phúc.
Khi đó hoàn cảnh của họ khó khăn dần và phải đầu
thai xuống cõi thấp.
Do vậy, chỉ ở cõi Người những người giàu sang,
quyền lực rất dễ tạo được phúc lớn do giúp đỡ nhiều
người thoát khổ. Do vậy người giàu và quyền lực mà
Đức dày, thích làm việc thiện thì càng giàu sang và
quyền lực có khi để lại cho con cháu nhiều đời sau
hưởng. Nếu gia đình dòng họ đó giữ chặt chữ Đức
làm gốc để giáo dục con cháu thì sự nghiệp gia đình
được bền lâu.
Trong lịch sử Việt Nam ta hãy xem đời vua Lý Thái
Tổ là trẻ mồ côi được sinh ra ở chùa Ứng Tâm châu
Cổ Pháp. Con nuôi của Thiền sư Lý Khánh Vân, đệ tử
của Thiền sư Vạn Hạnh. Ngài làm vua và giữ Đạo
Phật làm gốc thì truyền đời được 226 năm đất nước
hòa bình. Nhà Trần có vua Trần Thái Tông và Trần
Nhân Tông sau khi rời bỏ ngai vàng các ngài đi tu có
ngài đắc đạo thiêu được 3000 hạt xá lợi ngũ sắc. Nhà
Trần tồn tại được 175 năm đất nước hòa bình. Các
đời khác như: An Dương Vương, Đinh, Tiền Lê, Tây
Sơn, Mạc, Hồ đều rất ngắn. Các đời lâu dài thì có Lê
Sơ được gần 99 năm đến đời Lê Trung Hưng thì đất
nước rơi vào nội chiến. Nhà Nguyễn độc lập được 83
năm sau đó bị Pháp đô hộ. Do vậy để được bền lâu thì
94 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
phải giữ chặt được chữ Đức làm gốc. Gia đình cũng
vậy mà đất nước cũng vậy.
Những người nghèo tạo Phúc rất khó vì chẳng có
tiền để giúp ai. Ngoài ra họ còn phải bon chen giành
giật nên nghèo lại càng nghèo. Cái nghèo và cái hèn là
một cái vòng luẩn quẩn: do nghèo sinh hèn, mà hèn
thì nhân quả lại càng nghèo.
Trên đây bàn về Phúc. Và Tội cũng tương tự (Đạo
Phật gọi Tội là Nghiệp mà ta hay nói ghép là Tội
Nghiệp). Những người Nghiệp nặng là những người
quá khứ đã tạo tội nặng. Nên ngay khi họ sinh ra đã
gặp phải hoàn cảnh thiệt thòi bất hạnh và đau khổ để
trả nợ Nghiệp. Nhưng nếu như về già thấy hoàn cảnh
của họ khá hơn. Có thể những thiệt thòi về cơ thể vẫn
còn nhưng tâm họ hạnh phúc bình an. Tức là trong
đời sống thời trẻ họ đã chăm chỉ tạo Phúc mang lại
hạnh phúc cho người hoặc giúp người khác thoát
khổ. Nên khi về già họ sẽ có Phúc để hưởng. Trường
hợp này Đạo Phật gọi là Chuyển Nghiệp.
Những người tội rất nặng thì những nỗi khổ cõi
người không đủ cấp độ. Phải có những cõi giới đau
khổ hơn để họ tái sinh vào trả nợ Nghiệp. Đó là 3
đường Ác Đạo: Ngã quỷ, Súc sinh, Địa ngục. Sau khi
trả nợ xong và Tội nhẹ bớt chì họ sẽ được vào cõi
Người để thử thách.
Kết luận: Lục Đạo Luân Hồi xin kể ra từ cao đến
thấp: Cõi trời và cõi trần (Atula) là hai cõi hưởng
phúc. Cõi người là cõi bản lề. Cõi Ngã quỷ (ma), cõi
súc sinh (con vật) và cõi địa ngục (chịu ngục hình) là
3 đường Ác Đạo chịu khổ.

Chương 2: Thời Âu Lạc và nhà Triệu 95


Đền miếu nếu ở dương thế bị bỏ hoang thì ở cõi âm
Phúc của các vị cũng đã hết. Khi Phúc các Thần vơi
hoặc hết Phúc thì tự nhiên “Đàn na tín chủ” tự sinh
tâm ghét bỏ mà xa lánh hoặc thờ ơ. Và thế là đền
miếu sẽ bị bỏ hoang. Các vị Thần ngự ở đó hoặc đã
đầu thai hoặc chịu cảnh đói khát nhà cửa hoang tàn
vì thiếu Phúc.
Ta thấy, những đền thờ miếu phủ từ xưa đến nay
vẫn hương khói nghi ngút, người đến lễ bái tấp nập
thì Phúc của các vị Thần ở đó vẫn còn. Các vị vẫn
được hưởng sự lễ bái cung kính, được nhà cao cửa
rộng.

96 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chương 3: THỜI BẮC THUỘC

22.Quân Nam Chiếu (111 TCN - 942 sau CN)

Người Nam Chiếu là con cháu Vua Vũ Đế Triệu Đà


vậy. Thời Hán Vũ Đế, thừa tướng nước Nam Việt là
Lữ Gia không phục, giết sứ Hán là bọn An quốc,
Thiếu Quý.
Hán Vũ Đế sai tướng là bọn Lộ Bác Đức, Dương
Phác đem quân chinh phạt, bắt Vệ Dương Vương
Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước, phân đất cho
các quan cai trị. Con cháu họ Triệu tản mát bốn
phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn là những
xứ vắng vẻ không có người. Khi bộ hạ đông đúc, họ
bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập
vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh
của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau
gọi sai là Nam Chiếu, cho nên họ mang danh hiệu ấy.
Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại
làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một
vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành
Sơn, ạ Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải,
Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở,
không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở
đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết
thú mục, không thể ngăn cản nổi. Đồ đảng của chúng
khá nhiều, hay đem hàng hóa châu ngọc đút lót cho
nước Tây Bà Dạ cầu làm thân thuộc, cùng giúp đỡ
nhau.
Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là
Triệu Ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 97
em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy
đều phục, cùng với quân Nam Chiếu hợp lại, được
hơn hai vạn người, lại đem châu ngọc tiến nước Tây
Bà Dạ, xin chỗ đất không ngay cạnh đó để ở.
Khi ấy, Tây Bà Dạ quốc chia đều bãi bể và đồng
nội ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới
Diễn Châu gọi là lộ Gia Viễn, giết trâu ăn thề rồi giao
cho nước Nam Chiếu và Triệu ông Lý thống lĩnh. Sau
đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu,
đông tới Giáp Hải, tây tới nước Bà Dạ, nam tới
Hoành Sơn, tự xưng làm chúa.
Nhà Đông Tấn sai tướng quân là Tào Nhĩ đem
quân sang đánh, ông Lý phục tượng binh ở chỗ hiểm
trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở Mê
Sơn và Mạt Sơn ngoài bể, địch tụ thì mình tán, địch
tán thì mình tụ, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5
năm trời. Quân Tấn không chịu nổi khí núi, tử vong
quá nửa, bèn rút quân về. Quân Nam Chiếu thường
tới cướp các xứ Nam Thành, Đông Thành, Trường
An, thú lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường
thịnh lên, Vua Lý Thái Tông sai Cao Biền đem quân
sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về. Tới đời Ngũ
Đại, Vua Tấn là Thạch Kính Đường (Tấn Cao Tổ) sai
quan tư mã họ Lý đem 20 vạn quân đánh vào Đồ
Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về ở nhờ tại biên giới
Ai Lao, hiệu là Đầu Hoành Mô Quốc Bồn Mang,
thường lấy sự cướp bóc làm nghề, lúc đánh lúc nghỉ,
chưa hề bao giờ yên chiến sự. Đất đó nay là phủ Trấn
Ninh, muôn đời sát nhập trong bản đồ nước Đại Việt.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
98 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lời bình: Con cháu vua Triệu Đà thật cũng oanh
liệt không phải dạng vừa. Nghĩa quân mà tồn tại
được hơn 1000 năm lịch sử có lẽ phải đi vào lịch sử
thế giới. Nhưng cũng vì địa thế hiểm trở, đánh thì
khó, phòng thủ thì dễ. Vua ở Trung Nguyên đường xa
ngàn dặm (vì nước ta đang thời Bắc Thuộc). Địa thế
đồi núi bao bọc, không thể phát triển thành đất nước
thịnh trị làm ăn kinh tế buôn bán sầm uất được,
thường lấy cướp bóc làm nghề, quân số ít ỏi nên
không đe dọa đến triều đình mới tồn tại được lâu như
vậy.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 99


23.Hai Bà Trưng (40 - 43)

Theo sách Sử Ký thì hai bà Trưng vốn dòng họ


Hùng, con cháu Hùng Vương, chị tên là Trắc, em tên
là Nhị, người ở huyện Mê Linh, đất Phong Châu, con
gái quan Hùng tướng đất Giao Châu.
Xưa Trắc lấy Thi Sách người huyện Chu Diên. Bà
rất có tiết nghĩa, tính khí hùng dũng, có trí quyết
đoán sáng suốt.
Thời ấy, Tô Định ở Giao Châu rất tham bạo, nhân
dân rất khổ sở. Trắc thù Định giết chồng mình, bèn
cùng em là Nhị dấy binh đánh Định, vây hãm Giao
Châu; các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều
hưởng ứng, hai chị em bèn bình định được 65 thành
ở Lĩnh Ngoại tự lập làm Vua, xưng hiệu là Trưng
vương, đóng đô ở thành ạ Diên.
Tô Định chạy về Nam Hải, Hán Quang Vũ nghe tin,
biếm Tô Định về quận Đạn Nhĩ sai tướng là bọn Mã
Viện và Lưu Long sang thay. Quân địch đến Lãng
Bạc, bà chống cự. Qua năm, bà thấy binh thế Mã Viện
cường thịnh, tự lượng sức quân mình ô hợp, sợ
không chống nổi, bèn lui về giữ đất Cẩm Khê. Viện
đem quân đến đánh, bộ hạ bà Trưng đều bỏ chạy. Bà
thế cô, bị hại trong trận.
Có chỗ nói rằng bà lên núi Há Sơn rồi không biết
đi đâu mất. Người trong châu thương cảm, lập miếu
ở cửa sông Hát Giang để phụng thờ. Phàm những
người gặp tai họa tới cầu đảo đều ứng nghiệm.
Thời Lý Anh Tông gặp đại hạn, Vua sai Cảm Tĩnh
thiền sư cầu mưa. Một hôm mưa xuống mát lạnh
thấu người. Vua mừng, ra xem, tự nhiên ngủ thiếp đi,
100 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mộng thấy hai người con gái đội mũ phù dung, mặc
áo xanh, thắt lưng đỏ, cưỡi ngựa sắt theo gió lướt
qua. Vua lấy làm lạ bèn hỏi. Hai người trả lời rằng:
- Chúng ta là hai chị em họ Trưng vâng mệnh
thượng đế làm ra mưa.
Vua muốn hỏi thêm cặn kẽ. Hai người bèn giơ tay
ngăn lại. Vua tỉnh mộng, cảm kích, ra lệnh tu sửa
đền, đem lễ đến dâng. Về sau hai bà lại thác mộng
cho Vua xin lập đền ở bãi Đồng Nhân. Vua nghe theo,
sách phong làm trinh linh nhị phu nhân. Triều Trần
lại gia phong cho mỹ tự là Hiển liệt chế thắng thuần
bảo thuận. Cho đến nay vẫn được bao phong đời đời,
lửa hương không dứt.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Đại Việt sử ký toàn thư nói thêm:
Năm Tân Sửu (41), nhà Hán sai Mã Viện đưa 20
vạn quân sang xâm lược nước ta.
Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), sau khi đã
phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối
cùng vào kẻ thù, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống
dòng sông Hát Giang tuẫn tiết.
Chiếm được nước ta, nhà Hán sáp nhập nước ta
vào Ðông Hán. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở
chỗ phân địa giới và cho khắc sáu chữ:
"Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (cây đồng trụ đổ, thì
người Giao Chỉ mất nòi).
Nhân dân ta ai qua đó cũng ném một hòn đá vào,
dần dần thành gò cao, đến nay không biết cột trụ ở
đâu.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 101
Lời bình: Hai Bà là phận gái mà có khí phách hơn
người. Dòng dõi Hùng Vương quyết tâm gây dựng lại
nước Nam Việt, đánh giặc như chẻ tre, chiếm được 65
thành ở đất Bách Việt khi xưa.
Nhưng chỉ tiếc rằng, phận gái thế cô, vận nước
chưa hưng, gặp phải khi đất Bắc đang thịnh. Nên bị
Mã Viện đánh bại. Thế mới biết rằng thời vận thật là
quan trọng lắm thay.
Còn về vấn đề hiển thánh thì thành tựu cứu dân
giúp nước của Hai Bà cũng không được bền lâu, Phúc
Thần còn ít nên thánh cũng không linh dị.

102 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


24.Bát Nàn Công Chúa (40 - 43)

Thời nhà Hán đô hộ và Tô Định làm Thái Thú Giao


Châu, vùng Phượng Lâu, Đức Bác (ngày nay thuộc
huyện Phù Ninh, tỉnh Vĩnh Phú) là một trang ấp lớn
dưới quyền ông Vũ Chất và bà Hoàng Thị Mẫu cai
quản. Ngoài công việc nông trang ông bà còn biết
nhiều bài thuốc chữa chạy cho những ai đau yếu
bệnh tật, nên được dân chúng khắp vùng mến phục.
Nàng Thục Nương, con gái của ông bà, là người tài
đức, có võ nghệ cao cường, lại có dung mạo xinh đẹp
tuyệt vờị Đến tuổi trưởng thành Thục Nương hứa
hôn với Phạm Danh Hương là một chàng trai anh
tuấn, con của vị huyện trưởng Nam Châụ
Tiếng đồn về tài sắc của Thục Nương đến tai thái
thú Tô Định của quận Giao Châu. Y sai bày tiệc rượu
rồi cho mời ông Vũ Chất đến để cầu thân. Ông Vũ
Chất từ chối, nói là con gái mình sắp lấy chồng. Tô
Định không tin, liền sai mời cả Phạm Danh Hương
cùng đến. Y nói với ông Vũ: nếu đúng như vậy thì y
sẽ đứng ra làm chủ hôn.
Giữa bữa tiệc, Tô Định ra ám hiệu hất chén rượu,
thế là bọn thủ hạ trực sau hai bên lập tức xông ra lôi
tuột ông Vũ Chất và Phạm Danh Hương đem giết.
Sau đó Tô Định cho một toán quân đến trang
Phượng Lâu để bắt Thục Nương đem về dinh.
Nhưng người thân tín theo ông Vũ Chất vào dinh
Tô Định đã nhanh chân chạy về báo trước. Thục
Nương vô cùng căm giận, vội thu xếp cho mẹ và gia
quyến đi trước, còn tự mình thì ở lại chờ giặc.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 103


Khi quân Tô Định tới nơi, thục Nương múa song
kiếm xông ra, tên cầm đầu cùng mấy tên nữa bị giết.
Những tên còn lại hoảng hốt bỏ chạỵ Thục nương
cũng vội thu xếp tư trang hành lý, rồi mau chóng
lánh mình.
Nàng đi mãi đi mãi xuống phía Nam. Khi tới một
ngôi chùa nhỏ ở ấp Tiên La bên bờ sông Thiên Đức,
thuộc địa phận tỉnh Thái Bình ngày nay, thì dừng lạị.
Đêm ấy các vị bô lão trong ấp Tiên La đều nằm
mộng thấy thần thành hoàng đến báo có vị thượng
nhân ở nơi khác tới chùa. Sáng hôm sau các vị bô lão
kéo đến tập trung trước sân chùa Một số người mở
cửa vào trong thấy sau ngôi tam bảo có một người
con gái đang đứng, tay cầm song kiếm. Thục Nương
lúc ấy nghe có tiếng động tưởng quân Tô Định đến
bao vây, liền đứng vào thế thủ sẳn sàng chiến đấu
Thấy vậy các vị bô lão và đân làng vội vàng quỳ
xuống, kể lại giấc mộng đêm quạ Thục Nương cảm
động cũng quỳ xuống đáp lễ, rồi thuật lại gia cảnh
của mình. Tất cả đân làng đều nhất tề hãy ở lai làm
ăn sinh sống để chờ thời cơ giết giặc, bởi vì sưu cao
thuế nặng và sự dã man tàn bạo của quân thù làm
cho ai nấy đều căm giận trong lòng.
Thấy mọi người đồng tâm đồng ý, lại thấy nơi đây
địa hình thuận lợi có thể lập căn cứ được, Thục
Nương đã vui lòng ở lại
Từ đó Thục Nương trông coi chùa Tiên Lạ Nàng
xuống tóc đi tu nhưng tâm trí thì lúc nào cũng nấu
nung đến nợ nước trả thù nhà. Vốn là người có võ
nghệ cao cường, lại tinh thông nhiều trận pháp nên

104 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thục Nương bắt tay vào việc tập luyện cho dân làng.
Thế là mọi người lo sắm sửa khí giới, chuẩn bị lương
thực và đêm đêm lại tập luyện võ nghệ, trận pháp.
Các làng xung quanh biết tin cũng kéo đến ngày
thêm mỗi đông. Dần ấp Tiên La trở thành một căn cứ
lớn, có mấy ngàn dân binh, được trang bị khí giới
đầy đủ, lại tinh thông võ nghệ và các trận pháp. Thục
Nương phất cờ khởi nghĩa, được dân chúng tôn xưng
là Bát Nàn Đại Tướng quân, đã giao chiến nhiều trận
với giặc và thu được nhiều thắng lợi.
Lúc ấy Hai Bà Trưng đã dấy binh ở Mê Linh, chuẩn
bị đánh thành Luy Lâu, cho sứ giả đi khắp nơi truyền
lệnh khởi nghĩa
Khi sứ giả đến Tiên La thì Bát Nàn tướng quân đã
hay tin ở Mê Linh có cuộc khởi nghĩa còn đang băn
khoăn đem quân đến Mê Linh hay cứ ở lại độc lập
tác chiến thì một đêm đang ngủ Bát Nàn mộng thấy
một nữ thần xuất hiện, tay cầm lá cờ xan. Nữ thần
nói tuân lệnh ngọc hoàng xuống trao cho bà lá cờ, rồi
lại đọc bốn câu thơ:
“Tướng gái quân gái, Trời đã định danh, Chớ đứng
một mình, Việc không thành được”
Đọc xong nữ thần biến mất. Bát Nàng tướng quân
tỉnh dậy và hiểu là mình phải quyết định thế nào
Mấy hôm sau có sứ giả đến, Bà sai thù tiếp rồi ngay
sau đó tập hợp binh sĩ tiến về Mê Linh tụ nghĩa.
Thấy Bát Nàng tướng quân đến Hai Bà Trưng vô
cùng mừng rỡ. Đây là một lực lượng hùng mạnh lại
dưới quyền chỉ huy của vị danh tướng tài ba. Sau
mấy ngày hội quân, Hai Bà giao cho Bát Nàn lĩnh đạo

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 105


quân tiên phong tiến đánh Luy Lâu quả danh bất hư
truyền, mỗi khi song kiếm của Bát Nàn tướng quân
múa tới đâu là đầu giặc rơi tới đó, quân Hán về sau
chỉ vừa trông thấy đã phải bỏ chạy.
Thành Luy Lâu và các thành khác bị hạ, Hai Bà
Trưng xưng vương, phong thêm Bát Nàn tướng quân
là Trinh Thục Công Chúa, cho hưởng thực ấp và
quản lĩnh cả hai nơi là Tiên La (Thái Bình) và
Phượng Lâu (Vĩnh Phú).
Khi Mã Viện kéo quân sang xâm lược, sau trận
Lãng Bạc, Hai Bà Trưng rút về Cẩm Khê, Bát Nàn
tướng quân cũng rút về Tiên Lạ Tại đây khi thấy tình
thế đang lúc khó khăn, bà cho giải tán lực lượng, ai
về nhà ấy làm ăn sinh sống, để chờ thời cơ, còn bà,
tự mình cũng về tu trong chùa cũ.
Tuy vậy, bà và các thủ lĩnh vẫn thỉnh thoảng gặp
gỡ nhau để bàn bạc đại sự.
Quân giặc vẫn ngày đêm cho lính đi dò la tin tức
của bà. Một đêm trăng sáng khi bà đang cùng mọi
người họp mặt thì quân giặc bỗng ở đâu ập tới.
Chúng kéo mỗi lúc một đông. Bát Nàn tướng quân
múa song kiếm tử chiến với giặc. Bà tả xung hữu đột,
phá vòng vây rồi chạy tới một gốc cây tùng. Tại đây
do vết thương quá nặng nên bà đã gục xuống và hóa.
Đó là lúc rạng sáng ngày 18 tháng 3 âm lịch.
Sau này, mọi người Tiên La đã lập đền thờ bà
ngay tại gốc cây tùng đó và lấy ngày bà tử nạn làm
ngày lễ.

106 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Các làng Phượng Lâu, Đức Bát ở Vĩnh Phú cũng
lập đền thờ bà. Các triều đại trước kia đều có sắc
thượng phong cho bà.
(Tham khảo từ: Các nữ thần Việt Nam (ĐỗThị
Hảo- Mai Thị Ngọc Chúc) - NXB Phụ nữ, 1984)
Lời bình: Xét về công đức của một vị khi sống đã
giúp dân giết giặc cứu nước mà các đời vua đều có
sắc phong. Có những ý nghĩa như sau:
1, Trước tiên để ghi nhận công đức của người anh
hùng và tìm cách trả ơn cả khi họ đã mất là đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp bao đời của dân tộc
Việt Nam.
2, Đây sẽ là tấm giương để mọi người dân noi theo
mà học hỏi để phấn đấu gây tạo điều lành việc thiện,
giúp đời, giúp người hoặc giết giặc cứu nước. Đó là
mục tiêu khuyến khích nhân dân hành thiện vô cùng
tốt đẹp và đầy thâm ý của Vua.
3, Cuối cùng, ở thế giới cõi âm. Thật ra các vị Thần
cũng nhận được sắc phong và vật phẩm của vua gửi.
Không ít tích truyện trong này có đoạn: “...sau khi
nhận được sắc phong, đêm vua nằm mộng thấy vị
Thần Nhân đó mặc áo mũ vua ban đi đến cảm tạ...” và
đó là sự thật. Các vị vua đời xưa uy đức bao trùm một
cõi nước, từ đất trời cây cỏ, con người và sinh vật
sinh sống trên đó, đến cả các vị thần ngự tại đất đó
đều Quy hướng nơi vua và là tài sản của Vua.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 107


25.Quý Lan Nữ Tướng (40 - 43)

Ngày 6 tháng Giêng năm Canh Tý (năm 40) nghĩa


quân Hai Bà Trưng hội tụ ở bãi Trường Sa bên cửa
sông Hát làm lễ tế cờ:
“Một xin rửa sạch quốc thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vận sở công lênh này”.
(Trích Thiên Nam ngữ lục diễn ca).
Sau khi tế cáo trời đất xin tổ tiên và chư vị thần
linh phù hộ, bà Trưng Trắc phát lệnh dấy binh khởi
nghĩa, thảo hịch kêu gọi các quận huyện cùng nổi
dậy đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập cho
đất nước.
Sách Việt giám thông khảo tổng luận viết vào thời
Lê sơ có bình rằng:
"Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều
có tiếng dũng lược; căm giận chính lệnh hà ngược
của Tô Định, hăng hái đem người các bộ nổi quân
hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng
cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại, thu lại hết
đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu"...
Trong Việt sử lịch đại tổng luận có đoạn ca ngợi:
"Vua Trưng vì chồng trả thù, cùng em dấy quân,
làm một trận mà lược định được 65 thành, tự lập làm
vua, ấy cũng là bậc anh kiệt trong đám nữ lưu".
Trong số các Nữ Tướng có mặt trong hội thề đó có
Quý Lan là người em gái kết nghĩa của Trưng Vương

108 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Theo thần tích về nữ tướng này thì Quý Lan quê
gốc ở đất Chí Linh (Hải Dương), cha là một hào
trưởng trong vùng nhưng vì không chịu được cảnh
áp bức của giặc Hán mới dẫn vợ lánh lên ở ẩn tại
vùng đồi núi trang Tinh Luyện (nay thuộc xã Liên
Sơn, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Một đêm người vợ nằm mộng thấy được cụ già
đưa cho cành lan bạch diệp trắng muốt, từ đó thụ
thai rồi đủ ngày đủ tháng sinh ra một bé gái; nhớ lại
giấc mộng, hai vợ chồng đặt tên con là Quý Lan.
Khi trưởng thành, Quý Lan nổi tiếng thông minh,
học giỏi, lại ham đọc binh thư, luyện võ nghệ. Nghe
tin Trưng Trắc ở Mê Linh phát hịch kêu gọi các bậc
anh kiệt cả nước cùng hợp sức lật đổ ách đô hộ của
ngoại bang, Quý Lan xin phép cha mẹ về Mê Linh xin
đầu quân. Bà Trưng Trắc thấy nàng là người nhanh
nhẹn, hoạt bát lại xinh đẹp nên rất yêu mến bèn đề
nghị kết nghĩa chị em với Quý Lan.
Sau khi trở thành tâm phúc của Trưng Trắc, Quý
Lan được giao nhiệm vụ đi chiêu dụ các gái tài để
sung vào đội quân nội thị và nàng được giữ chức Nội
Thị tướng quân. Trước khi người chị kết nghĩa của
mình phất cờ khởi nghĩa, Quý Lan đã về thăm bố mẹ
và tập họp dân binh năm trang Tinh Luyện, Thản
Sơn, Liễn Sơn, Ngọc Sơn, Liên Hồ thành một đội
quân riêng tham gia khởi nghĩa.
Dẹp xong Tô Định, đuổi quân Hán về phương Bắc,
Trưng Trắc lên ngôi xưng vua, Quý Lan được phong
là An Bình công chúa.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 109


Trưng Vương còn làm chủ hôn trong lễ cưới của
Quý Lan với tướng quân họ Đinh, người trang Đào
Khê bên sông Đà, nhà nối đời làm quan lang phụ đạo.
Ba năm sau, vào năm Quý Mão (năm 43), giặc Hán
lại kéo sang xâm lược, Quý Lan mang quân bản bộ
theo sát Trưng Vương trong các trận đánh ác liệt với
quân Hán. Tại trận chiến ở ngã ba Bạch Hạc (nay
thuộc Việt Trì, Phú Thọ), tướng giặc là Mã Viện huy
động một lực lượng lớn vây hãm quân ta. Quý Lan
hai tay hai kiếm tả xung hữu đột, bảo vệ Trưng
Vương.
Đến trận ở Cẩm Khê (nay thuộc huyện Cẩm Khê,
Phú Thọ), quân ta bị thua, Trưng Vương trước khi tự
sát đã cầm tay Quý Lan ứa nước mắt mà nói rằng:
- Ta với em nghĩa là vua tôi, tình là chị em, nay
gặp lúc thế cùng việc ngặt nói sao cho xiết.
Quân giặc ập đến rất đông, Trưng Vương nhìn
Quý Lan mà cười rồi tắt thở. Truyền rằng, trước tình
thế nguy nan, Quý Lan đặt thi hài Trưng Vương lên
ngựa rồi cùng các nữ cấm quân mở đường máu chạy
về phía núi Hùng (tức núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ
các vua Hùng) tìm nơi an táng.
Sau đó nàng cùng các nữ binh vượt sông Lô rút về
Thản Sơn tiếp tục chiến đấu cho đến khi sức cùng
lực kiệt phải rút kiếm tuẫn tiết chết theo gương của
Trưng Vương, người chị gái kết nghĩa của nàng.
(Tham khảo từ: Truyện hay trong lịch sử Việt
Nam, trang 5-8 , NXB Hồng Đức)
Lời bình: Vào thời điểm này tự dưng ở đâu xuất
hiện nhiều anh hùng liệt nữ tướng quân đến vậy.
110 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Cũng chỉ có thể đổ tại vào thời đại vận khí đất nước
mà thôi.
Theo dữ liệu Chính sử Hai Bà có hơn 70 tướng lĩnh
trong đó có nhiều thủ lĩnh nghĩa quân địa phương
nay đều có đền thờ là Thành Hoàng Làng ở miền bắc
Việt Nam và miền nam Trung Quốc (vì 65 thành Hai
Bà đánh bại nằm toàn bộ trên đất Nam Việt thời vua
Hùng bao gồm cả các vùng ở miền nam Trung Quốc
hiện nay). Trong số đó có trên 30 vị là nữ tướng.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 111


26.Dân nước Nam làm nhà quay
lưng về Bắc (78)

Vóc dáng nhỏ bé nhưng văn hay chữ tốt, tính tình
lại khẳng khái, Trương Trọng trong lần đi sứ đã
khiến vua nhà Hán không ít lần bẽ mặt.
Trương Trọng, người quận Nhật Nam (vùng đất
cuối cùng phía nam Việt Nam thời đó) nhờ hay chữ
nên được viên Thái thú Nhật Nam lấy vào làm thuộc
lại trong quận.
Cuối năm 78, theo lệ nhà Hán, Trương Trọng
được viên Thái thú cử sang kinh đô Lạc Dương để
tâu bầy công việc trong quận lên vua Hán. Hán Minh
Đế thấy Trương Trọng người thấp bé lại là dân "man
di" bèn hỏi xách mé:
- Viên tiểu lại kia người quận nào?
Trương Trọng trong lòng khó chịu nhưng điềm
tĩnh đáp:
- Tôi là người thay mặt Thái thú quận Nhật Nam
vào chầu vua chứ không phải một viên tiểu lại.
Bệ hạ muốn dùng người tài cán hay chỉ muốn
đo xương thịt?
Bất ngờ bị đối thủ trả lời cứng cỏi lại đứng đắn
vua Hán giận lắm nhưng không làm gì được.
Mấy ngày sau, nhân tết Nguyên đán, vua mở tiệc
yến. Nhận thấy trong số các quan vào chúc tết có
Trương Trọng, vua Hán muốn rửa nhục bữa trước
bèn hỏi Trương Trọng:
- "Nhật Nam" có nghĩa là "phương Nam mặt
trời". Ta nghe nói tất cả nhà cửa xứ ấy đều
112 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
quay về phương Bắc để trông thấy mặt trời có
phải không?
Thấy vua Hán kiêu ngạo tự ví mình là mặt trời, bắt
mọi người phải ngưỡng mộ sùng bái, Trương Trọng
quyết trả miếng. Bởi thế, trước trăm quan cùng một
tâm địa cậy thế nước lớn miệt thị nước nhỏ, Trương
Trọng chậm rãi đáp:
- "Nhật Nam" không phải là phía nam mặt trời.
Một bậc túc Nho không ai hiểu như thế. Ví như:
Đất Trung Nguyên (Trung Quốc) có quận "Vân
Trung" nhưng quận ấy có ở trong mây đâu? Có
quận "Kim Thành" nhưng có phải là thành xây
bằng vàng đâu? Ấy là đặt tên thế thôi chứ thực
không phải như thế.
Sau đó lại nói tiếp:
- Lại nữa, ở nơi nào thì mặt trời cũng đều mọc ở
đằng Đông, kẻ thất phu cũng hiểu được như thế.
Còn ở xứ Nhật Nam không ai xoay nhà về
phương Bắc để trông thấy mặt trời. Ngược lại
"lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam" là tục lệ
của dân Nhật Nam là vậy. Nhà cửa ở Nhật Nam
toàn quay lưng về phương Bắc và chẳng ai thay
đổi được tục lệ đó cả.
Vua Hán và quần thần ngây người trước câu đối
đáp rắn rỏi, mạnh mẽ của viên sứ thần có tầm vóc bé
nhỏ mà trí tuệ lớn. Về sau Trương Trọng được vua
Hán cho làm Thái thú quận Kim Thành.
(Tham khảo từ: Các triều đại Việt Nam (trang
32-33) NXB Thanh niên)

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 113


Lời bình: Giai thoại này cho thấy tài năng ứng xử
của vị quan khâm sứ Nhật Nam. Một điều trùng hợp
nữa là nhà cửa ở nước Nam đều quay mặt hướng
Nam để đón gió Đông Nam mát mẻ từ biển thổi vào
mùa hè và tránh gió mùa Đông Bắc lạnh lẽo vào mùa
đông. Cũng đồng nghĩ với hình ảnh nước Nam là một
nước độc lập không bao giờ chịu Quy hướng về
phương Bắc cả.

114 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


27.Vương Sĩ Nhiếp (136 - 226)

Sĩ Vương ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi. Vương là


người khoan hậu khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ
vẹn đất Việt để đương đầu với sức mạnh của Tam
quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, đáng gọi là người hiền.
Sách Tam Quốc diễn nghĩa chép rằng: Vương họ Sĩ
tên Nhiếp, người làng Quảng Tín, quận Thương Ngô;
tiên tổ người làng Vấn Dương nước Lỗ, chạy loạn
sang ở đấy, sáu đời thì đến Vương. Thân phụ của
Vương tên là Tứ, thời Vua Hoàn Đế nhà Hán, làm
Thái thú quận Nhật Nam. Thiếu thời, Vương du học
Kinh Sư (Kinh Sư có tên là Hán Kinh, tức nay là
thành Long Biên) chuyên khảo Tả Thị Xuân Thu,
được cử là Hiếu Liêm, được bổ Thượng Thư Lang, vì
lỗi về công sự, bị miễn quan.
Sau khi mãn tang thân phụ, ông được cử là Mậu
tài, được bổ Vu Dương Lệnh, thời Vua Hiến Đế nhà
Hán, đổi làm Thái Thú Giao Châu ta, thời Trương
Tân đang làm Thứ sử. Thời Hán mạt, tam hùng chia
nước Tàu thành thế chân vạc, Vương được cai trị hai
thành Luy Lâu và Quảng Tín. Sau khi Tân bị tướng
giặc là Khu Cảnh sát hại, Lưu Biểu ở Kinh Châu khiến
quan lệnh Linh Lăng là Lại Cung quyền nhiếp Thứ sử
Giao Châu ta.
Vua Hiến Đế nghe tin mới ban cho Vương một bức
tỉ thư chép rằng:
- Giao Châu ở về tuyệt thực, nhã hóa thấm xa,
sơn hà từ sao Dực sao Chẩn, thiên thư đã định
phần, sơn xuyên nhiều thắng cảnh, Nam Bắc
cách trở xa xôi, ơn trên không được tuyên
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 115
dương, nghĩa dưới nhiều bề ủng tắc, ngu xuẩn
thay tướng giặc dám lộng binh uy hy vọng mưu
đồ truyện kiểu hãnh, gia dĩ nghịch tặc Lưu Biểu
dám khiến Lại Cung dòm dỏ đất Nam, thật là
một người tự bạo tự khí, chỉ muốn lạm dụng
chức vụ để một mình ra oai, tội trạng như thế
giấy chẳng chép xiết. Nay đặc ủy cho khanh làm
chức Tuy Nam Trung Lang Tướng, đổng đốc
binh mã bảy quận, lĩnh chức Thái Thú Giao
Châu, nhất thiết được tiện nghi hành sự, vụ
được thanh bình, đuổi trộm cướp, tụ dân lành,
chỉnh đốn biên trần cho thanh lặng, ban bố ơn
khương thường cho rộng rãi, sự vụ trong ngòai,
nhất thiết ủy cho khanh; khanh nên hết bổn
phận mình, chớ bỏ lệnh Trẫm.
Vương mới sai Trương Mân phụng cống đến Hán
kinh. Bấy giờ đương lúc binh cách, thiên hạ tang
loạn, đạo đồ du viễn, vãng phẫn gian lao, thế mà
Vương không phế bỏ chức cống, kính giữ đạo tôi.
Vua Hán lại hạ chiếu gia tưởng. Lời chiếu chép rằng:
- Giao Châu là đất văn hiến, núi sông vun đúc,
trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài
kiệt xuất, mấy năm nhân họa chiến tranh, mục
thú ít người xứng chức, nên chi phương xa
không thấm nhuần được nhã hóa, nay đặc ủy
cho Khanh được trọng nhậm, Khanh nên theo
phong tục của học Triệu, họ Đỗ, lấy nhân ân mà
mục dân, đừng phụ cái tài lương đống. Nay lại
cho Khanh làm An Viễn Tướng Quân, phong
Long Độ Đình Hầu.

116 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sau này Thái thú Thương Ngô tên là Ngô Cự cùng
với Lại Cung có hiềm khích. Cự cử binh đến đánh
đuổi. Cung bại, chạy về Linh Lăng. Lúc bấy giờ Ngô
Tôn Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu ta.
Chất đến, Vương đốc suất anh em phụng thừa Tiết
Độ. Vua Ngô phong cho Vương chức Tả tuớng quân.
Ba con đương làm Trung Lang tướng, Vương khiến
vào làm con tin ở nước Ngô, lại dụ dỗ kẻ thổ hào Ích
Châu là Ung Khải đem dân trong quận phụ thuộc nhà
Ngô; Ngô càng khen Vương, thăng Vệ Tướng quân,
phong Long Biên Hầu Đệ Nhất Thiên Tướng Quân.
Vương sai sứ đến nước Ngô đem cống các thứ tạp
hương, vải tế cát, ngọc châu, đồi mồi, lưu ly, lông phi
thúy, sừng tê giác, ngà voi, hoa quý, cỏ lạ, chuối, dừa,
nhãn, năm nào cũng sang cống, mỗi lần đi cống thì
chở ngựa vài trăm thớt. Ngô Vương muốn đáp lại
lòng chân thành mới phong cho ba người em: Nhất
làm Thái thú Hiệp Phố (nay là huyện Từ Liêm); Vỹ
làm Thái thú quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa); Vũ
lãnh Thái thú Nam Hải (nay là Quảng Châu).
Vương thể khí khoan hậu, khiêm hư đãi kẻ sĩ, bởi
vậy, các nhà Nho đời Hán, tị loạn, chạy sang với
Vương rất nhiều; người trong châu đều gọi là Vương.
Lúc ấy Trần Quốc Huy đưa thư cho Thượng thư
Lệnh Tuân Úc, đại khái nói rằng:
- Sĩ Phu Quân ở Giao Châu, học vấn ưu bác, lại
thạo về chính trị, xử trong lúc đại loạn mà bảo
toàn được một phương, hơn hai mươi năm
cương trường vô sự, dân không mất mùa,
những người ky lữ đều nhờ được ân huệ, tuy
Đậu Dung giữ Hà Tây cũng không hơn được;
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 117
các em Vương đều hùng cứ mỗi người mỗi
châu, ở ngoài vạn dặm, một châu yên lành, uy
tôn của Vương không ai hơn được, mỗi khi ra
vào, chuông khánh đều đánh, đủ cả uy nghi, kèn
sáo, trống phách, xe ngựa đầy đường, người Hồ
đi bên xe đốt hương; thường có hàng chục thê
thiếp ngồi trong xe biền tri, theo sau là đoàn kỵ
binh của đệ tử; đương thời quý trọng, uy chấn
vạn lý, Triệu Đà cũng chẳng hơn được vậy.
Vương mất, thọ chín mươi tuổi, ở châu 48 năm.
Xét truyện Báo Cực chép rằng Vương khéo sự nhiếp
dưỡng, chết đã chôn dưới đất rồi, đến cuối đời Tấn
là hơn một trăm sáu mươi năm, nước Lâm Ấp
(Chiêm Thành) vào đánh cướp, đào mộ Vương lên
thì thấy thi thể y nguyên, diện mạo như khi sống,
chúng cả sợ liền chôn lấp lại. Thổ nhân truyền lấy
làm thần, lập miếu phụng tự, hiệu là Sĩ Vương Tiên.
Giữa niên hiệu Hàm Thông nhà Đường, Cao Biền
phá Nam Chiếu, đi đến cõi ấy thì gặp một dị nhân
diện mạo hòa nhã, bận nghê thường vũ y, đón đường
cùng đi đến; Cao Biền mời vào trong màn nói truyện
thì nói toàn truyện thời sự đời Tam Quốc. Sau khi từ
biệt, Cao Biền đưa ra đến cửa hốt nhiên không thấy
đâu. Cao Biền lấy làm lạ, hỏi người trong thôn. Thôn
nhân chỉ mộ Sĩ Vương mà thưa. Biền than tiếc không
kịp biết, rồi ngâm rằng:
Sau thưở Hoàng Sơ Ngụy
Cách đây năm trăm niên
Đường, Hàm Thông thứ tám,
Nay gặp Sĩ Vương tiên.

118 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thôn dân mỗi khi có việc gì, cầu đảo đều có linh
ứng đến nay vẫn là phúc thần. Hoàng Triều niên hiệu
Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Gia Ứng Đại Vương.
Năm thứ tư, gia thêm hai chữ Thiện Cảm. Năm Hưng
Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Linh Vũ;
nhờ công âm phù mặc tướng của thần, thôn dân
hưởng được nhiều hạnh phúc vậy.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta thông thi thư,
học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ
Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời
mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con
không hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau
khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn
160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương,
thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người
địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên
Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên
thành thần vậy. Đền thờ tại thành cũ Long Biên nay
vẫn còn.
Lời bình: Dù là người xuất thân ở đâu, người Ta
hay người Tàu nhưng khi được lên làm vương của
đất Nam Việt mà biết lấy đạo nghĩa làm trọng, lấy
đức trị dân, mang lại yên ổn thái bình thịnh trị 50
năm không mất mùa. Trong khi đó ở Trung Nguyên,
Tam Quốc phân tranh, đầu rơi máu đổ, gia đình ly
tán. Thì ở Nam Việt đất nước thịnh trị, dân được bình
an thật chẳng phải là công đức nhiều lắm sao. Phúc
Thần ở đây mà ra. Sau khi Vương mất hóa thành thần

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 119


nhân bảo bọc xứ này 500 năm sau vẫn hiển linh cảm
hóa. Thật là đáng phục.

120 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


28.Phật Mẫu Man Nương (136 - 226)

Thời Hiến Đế nhà Hán, quan thái thú là Sĩ Nhiếp


(136 - 226) đóng đô thành ở bờ phía nam sông Bình
Giang (nay là Thiên Đức Giang). Phía Nam thành đó
có chùa thờ Phật, có vị sư từ Tây Trúc (Ấn Độ) tới,
hiệu là Già-la-đồ-lê trụ trì ở đấy, có phép đứng một
chân, mọi người đều kính phục gọi là tôn sư, kéo
nhau tới học đạo.
Hồi ấy có người con gái tên là Man Nương, cha mẹ
đều đã mất, nghèo khổ vô cùng, cũng tới đó dốc lòng
theo học đạo Phật, nhưng vì ả có tật nói lắp, không
thể cùng chúng tụng kinh, thường ở dưới bếp, vo
gạo, nhặt rau, nấu nướng cho các vị tăng trong chùa
và khách tứ phương tới học. Một đêm vào tháng
năm, đêm ngắn, tăng đồ tụng kinh đến lúc gà gáy.
Man Nương nấu cháo đã chín mà tăng đồ tụng kinh
chưa xong, chưa tới ăn cháo. Man Nương bèn nằm
tựa ở trong cửa bếp, không ngờ ngủ quên đi mất.
Tăng đồ tụng kinh xong đều về phòng riêng. Man
Nương ngủ ở giữa cửa, sư Già-la bước qua mình Man
Nương. Man Nương tự nhiên động thai. Có thai được
ba bốn tháng, Man Nương xấu hổ bỏ về. Sư Già-la
cũng thẹn mà bỏ đi.
Man Nương về tới một ngôi chùa ở ngã ba sông
thì ở lại đó. Đầy tháng sinh ra một đứa con gái, tìm
sư Già-la mà trả. Đêm đến, sư Già-la bế đứa con gái
tới ngã ba đường thấy một cây phù dung cành lá
xum xuê, có một cái hốc sâu mà sạch sẽ, sư đặt đứa
trẻ vào mà nói: "Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành
Phật đạo". Già-la, Man Nương từ giã ra về, Già-la cho

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 121


Man Nương một cây trượng mà bảo: "Ta cho nàng
vật này, nàng về nhà nếu gặp năm đại hạn thì lấy
trượng cắm xuống đất, lấy nước cứu sinh dân". Man
Nương cung kính bái lĩnh mà về ở trong chùa.
Gặp năm đại hạn, nàng lấy trượng cắm xuống đất,
tự nhiên nước cuồn cuộn chảy ra, dân được nhờ ơn.
Khi Man Nương ngoài chín mươi tuổi là lúc cây phù
dung bị đổ, trôi ra ở bến sông trước cửa chùa, quanh
quẩn ở đấy mà không trôi đi. Dân thấy thế, định bổ
làm củi nhưng rìu nào cũng đều bị gãy, bèn đưa hơn
ba trăm người trong làng ra kéo cây gỗ lên mà không
chuyển. Gặp lúc Man Nương xuống bến rửa tay, thử
kéo chơi thì cây chuyển động. Chúng đều ngạc nhiên,
bảo Man Nương kéo lên bờ sai thợ tạc bốn pho
tượng Phật Man Nương đặt Phật hiệu là: Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Khi xẻ cây gỗ đến chỗ
đặt đứa con gái thì thấy đã hóa thành một tảng đá
rất rắn. Tốp thợ lấy rìu đập tảng đá, rìu đều bị mẻ.
Họ liền vứt đá xuống vực sông, một tia sáng chói lên,
hồi lâu đá mới chìm xuống nước. Bọn thợ đều chết
cả. Dân mời Man Nương bái lễ, thuê dân chài lặn
xuống nước vớt lên, rước vào tự điện, đặt vào bên
trong tượng Phật Pháp Vân, tượng Phật tự nhiên
trông như mạ vàng. Tứ phương cầu đảo không điều
gì không ứng. Dân làng đều gọi Man Nương là Phật
mẫu.
Ngày 8 tháng 4, Man Nương không bệnh mà chết,
táng ở trong chùa. Người đời lấy ngày này làm ngày
sinh của Phật. Hàng năm, tới ngày ấy, nam nữ bốn
phương thường tụ hội ở chùa này vui chơi ca múa,
người đời gọi là hội Tắm Phật.
122 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Huyền tích này thật sự rằng rất mơ hồ
nhưng có một số điểm rất trùng khớp với lịch sử Việt
Nam ta cần lưu ý:
Chùa Pháp Vân, sau đổi tên là Diên Ứng, Cổ Châu,
đến nay có tên là Chùa Dâu, nằm ở xã Thanh Khương,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa nằm ở vùng
Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu.
Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt
Nam. Tại vùng Dâu có bốn ngôi chùa cổ: Pháp Vân
(mây pháp), Pháp Vũ (mưa pháp), Pháp Lôi (sấm
pháp) và Pháp Điện (chớp pháp). Bốn chùa này ngoài
thờ Phật còn thờ các nữ thần: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà
Dàn, Bà Tướng đều là hóa thân của Phật Mẫu Man
Nương.
Chùa được xây dựng từ thời Sư Già-la-đồ-lê trụ trì
ở đó (từ năm 187 và hoàn thành năm 226). Trong
tích kể: “Man Nương làm bếp nấu nướng cho các vị
tăng trong chùa và khách tứ phương tới học”. Chứng
tỏ thời đó khách thập phương và tăng ni tu học ở
Chùa rất đông.
Có một điều lạ nữa là, thời này Vương Sĩ Nhiếp làm
thái thú quận Giao Châu (Việt Nam) trong 48 năm
(ngài thọ 90 tuổi) thì Giao Châu quận không hạn hán,
không chiến tranh, không mất mùa, dân sống hòa
bình ổn định hạnh phúc. Trong khi đó ở Trung Hoa là
thời Tam Quốc loạn lạc, Ngụy, Thục, Ngô đánh nhau,
dân chúng khổ cực. Nên có rất nhiều văn sĩ đã tìm về
Giao Châu để lánh nạn.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 123


Không hiểu rằng do Sư Già-la-đồ-lê đoán biết thời
vận, biết được nơi cõi nước bình an mà đến ở hay do
tâm của dân chúng nơi này Quy Y đạo Phật nên tạo
thành Phúc hưởng sự bình an?
Sư Già-la-đồ-lê có phép đứng một chân nhập thiền
thì đây là Pháp tu Khổ Hạnh trong Phật Giáo Nguyên
Thủy mà sơ tổ đầu tiên là ngài Ma Ha Ca Diếp là một
trong 10 đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Ngài Ma
Ha Ca Diếp có biệt hiệu là Đệ Nhất Khổ Hạnh Đầu Đà.
Ngài tu khổ hạnh thường giữ 10 điều: Sống ở bãi tha
ma, thường sống 1 mình, sinh hoạt bằng phép trì hình
(ví dụ: đứng 1 chân nhập thiền trong nhiều giờ), ngày
ăn 1 bữa, khất thực nơi người nghèo, tài sản 3 y 1
bát...
Điều đó chứng tỏ rằng Thiền Tông từ Tây Trúc đã
truyền sang Việt Nam sớm hơn Trung Hoa 500 năm.
Vì sơ tổ đầu tiên của Thiền Tông Trung Hoa là đệ tử
đời thứ 28 của ngài Ma Ha Ca Diếp có tên là: Bồ Đề
Đạt Ma (470-543). Nhưng vì sao Thiền phái khổ hạnh
của Sư Già-la-đồ-lê lại mất dấu ở Việt Nam, vẫn là
điều bí ẩn.
Cũng tại Chùa Pháp Vân này 350 năm sau (vào
năm 580) có vị Thiền Sư Tây Trúc Tỳ-ni-đa-lưu-chi
(Vinitaruci) được truyền tâm ấn từ Tam Tổ Tăng
Xám ở núi Tư Không (Hồ Nam, Trung Quốc). Tổ
khuyên:
- Ngươi nên đi qua Phương Nam giáo hóa, không
nên ở đây lâu.
Năm 580, Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp
Vân và là sơ tổ dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt

124 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nam. So với Thiền Tông Trung Hoa của Tổ Bồ Đề Đạt
Ma (470-543) thì Thiền Tông Việt Nam (dòng Tỳ-ni-
đa-lưu-chi) chậm hơn 3 đời vào khoảng 50 năm.
Các đệ tử đời sau dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi có
những vị nổi tiếng:
1 - Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi) nhân duyên đào được 12 món
Pháp khí cổ nên đổi tên làng Diên Uẩn thành làng Cổ
Pháp và đề Sấm kí báo trước đất Cổ Pháp sẽ sinh ra
họ Lý làm vua, Phật pháp được hưng long. Sư báo
trước Cao Biền sẽ đến trấn ếm, khuyên tìm người họ
Đinh giao trụ trì sẽ giải được bùa ếm.
2 - Thiền sư La Quý (852 - 936) (Đời thứ 10, dòng
Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Đinh người An Chân. Sư đã
nối lại long mạch ở 19 điểm bị Cao Biền trấm ếm, Sư
trồng cây Gạo ở chùa Minh Châu nơi đuôi rồng để án
giữ và dự báo vua Lý sẽ xây dựng đất nước và Phật
pháp được hưng long.
3 - Đời thứ 12 của dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi có
các Vị Thiền Sư lỗi lạc đã đi lịch sử Việt Nam: Thiền
Sư Vạn Hạnh là thầy của vua Lý Thái Tổ khi tịch thiêu
ngài được ngọc Xá Lợi ngũ sắc, Thiền Sư Từ Đạo
Hạnh phép thuật huyền ảo khi tịch để lại nhục thân
đến thời giặc Minh mới bị mất, Thiền Sư Nguyễn Minh
Không làm đến chức Lý Quốc Sư có công xây dựng
500 chùa miền bắc, một mình sang Trung Quốc quảy
đồng đen về đúc tứ đại pháp khí trấn ở Đại Việt.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 125


29.Triệu Thị Trinh, Bà Triệu (225 - 248)

Bà Triệu (225 - 248), Triệu Trịnh Nương hay


Triệu Thị Trinh đều là tên các đời sau gọi người nữ
anh hùng dân tộc hồi đầu thế kỷ thứ III. Bà là em gái
Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi
Quảng Yên, huyện Cửu Chân (Thanh Hóa). ở đó cho
đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về
thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô. Đó là
chuyên Bà Triệu thu phục được con voi trắng một
ngà.
Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và
mưu trí. Năm 19 tuổi, bà cùng người anh tập hợp
nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh
Hóa). Đấy là một thung lũng giữa hai núi đá vôi, vừa
gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía bắc
vào. Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó
đảm đương trọng trách. Bà trả lời:
- Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng
dữ, chép cá tràng kình ở biển Đông, giành lại
giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cúi
đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta.

Mến mộ bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm


luyện võ, chờ ngày nổi dậy.
Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quân bắt đầu tấn công
quân Ngô. Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh
phá tan tành. Bọn quan cai trị kẻ bị giết, kẻ chạy trốn
hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh
chóng. Thứ Sử Châu Giao hoảng sợ bỏ chạy mất tích.

126 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận: "Toàn thể Châu
Giao chấn động".
Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo
giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn
quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh
hồn, bạt vía.
Hay tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu
Giao mất tích, Vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận,
một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt
sang làm thứ sử. Lục Dận đem 8.000 quân tinh nhuệ
sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải
chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người
Việt. Một số kẻ giao động mắc mưu địch. Mặc dầu
vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường đánh nhau với
giặc không nao núng. Sau 6 tháng chống chọi, vì có
kẻ phản bội, bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc-
Thanh Hóa). Bấy giờ bà mới 23 tuổi.
Về sau, Vua Lý Nam Đế khen ngợi là người trung
dũng, sai lập miếu thờ, phong là: "Bậc chính anh liệt
hùng tài trinh nhất phu nhân". Nay ở Phú Điền
(Thanh Hóa) còn có đền thờ bà.
(Tham khảo từ: Giai thoại về phụ nữ Việt
Nam (Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi) - NXB Phụ nữ,
1987)
Lời bình: Toàn bộ các cuộc khởi nghĩa thời này
đều manh nha cục bộ xuất hiện từ một vùng rừng núi
là căn cứ địa rồi gây tiếng vang lớn và lan rộng.
Từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng đến khởi nghĩa Bà
Triệu cách nhau 205 năm là quãng thời gian quá xa
để liên kết và hỗ trợ nhau.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 127


Bên cạnh đó Bà là phận nữ dẫu có oai hùng thì
trong xã hội phong kiến vẫn bị coi là “Nữ nhi chân yếu
tay mềm” nên chỉ với 8000 quân mà nhà Ngô đã dẹp
tan được cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.

128 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


30.Thần Tô Lịch (266 - 420)

(Sử không chép rõ niên đại của Thần khi sống nên
xin mạn phép lấy theo niên đại nhà Tấn 266 - 420)
Sách Giao Châu Ký và truyện Báo Cực thì Vương vốn
họ Tô, tên Lịch, làm quan Lệnh ở Long Độ; Vương
vẫn ở Long Độ, làng ở trên bờ sông nhỏ, gia tư không
hào phú lắm, tề gia lấy sự hiếu đễ làm trọng, đã ba
đời nhân nhượng nhau không ở riêng biệt.
Thời nhà Tấn thì đậu Hiếu Liêm, có lời chiếu biểu
dương môn lư của Vương, gặp năm mất mùa thiếu
ăn, chiếu đong lúa kho cho Vương, lấy tên Vương là
Tô Lịch đặt tên thôn.
Thời Vua Mục Tông nhà Đường, năm Trường
Khánh thứ hai, quan Đô Hộ Lý Nguyên Hỷ thấy ngoài
cửa bắc thành Long Biên có dòng nước chảy ngược,
địa thế khả quan mới tìm chỗ cao ráo để dời Phủ Lỵ
đến; quy chế trù liệu là cửa kép tường đôi, bốn
hướng vây tròn, nhà cửa san sát, ấy là cố trạch của
Vương lúc sinh thời vậy.
Nhân cơ hội ấy, quan Đô Hộ tiết trâu đặt rượu,
mời tất cả các kỳ lão hương thôn đến ăn uống, rồi
thuật truyện muốn tâu xin phụng Vương làm thành
hoàng thì trên dưới một lòng, mưu tính bàn bạc với
nhau rất là thỏa thiếp. Khi ấy bàn tính việc khởi công
làm đền thờ, chẳng bao lâu đền thờ làm xong thì là
một toà đền lớn, nguy nga tráng lệ; ngày khánh
thành, trăm điệu múa đều có, đàn địch vang trời. Đất
bởi người mà đẹp, người bởi đức mà long trọng, có
phải vậy không?

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 129


Đêm ấy, Nguyên Hỉ đang yên lặng nằm bên cửa sổ,
hốt nhiên một trận thanh phong ào ào thổi đến, vụi
cuốn cát bay, rèm lay án động, có một người cỡi một
con hươu trắng từ trên không chạy xuống, mày râu
bạc phơ, áo xiêm sặc sỡ, nói với Nguyên Hỉ rằng:
- Mông được Sứ quân uỷ cho ta chủ thành, nếu
Sứ quân có giáo hóa cư dân trong thành cho hết
lòng hết sức thì mới sung được nhiệm vụ của
quan thú mục, mới xứng với trách nhiệm của
một bậc tuần lương.
Nguyên Hỷ vái tạ xin vâng, hỏi đến họ tên thì
không đáp. Hốt nhiên tỉnh dậy mới hay là mộng.
Đến lúc Cao Biền xây thành Đại La, nghe Vương
linh dị, lập tức đem lễ điện tế bái chức Đô Phủ Thành
Hoàng Thần Quân.
Thời Lý Thái Tổ dời đô thường mộng thấy một
ông đầu bạc, phảng phất đứng trước bệ rồng, cúi đầu
lạy hai hạy hô vạn tuế. Vua lấy làm lạ, hỏi tính danh
thì ông tâu rõ lai lịch như thế. Vua cười bảo rằng:
- Tôn thần cũng giữ được hương lửa trăm năm
hay sao?
Ông liền đáp:
- Mong muốn hoàng đồ như Thái Sơn bàn thạch,
thánh thọ vô cương, trong triều ngoài quận thái
hòa, bọn thần không chỉ hương hỏa một trăm
năm mà thôi.
Vua tỉnh dậy, khiến quan Thái chúc đem rượu đến
tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại
Vương. Dân cư cầu đảo hoặc thề nguyện điều gì, lập
tức thấy họa phúc linh ứng. Niên hiệu Trùng Hưng
130 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
năm đầu, sắc phong hai chữ Bảo Quốc; năm thứ tư,
gia phong hai chữ Hiển Linh, năm Long Hưng thứ hai
mươi mốt, gia phong hai chữ Định Bang.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Theo tích này thì Thần Long Độ (hay
thần Tô Lịch) khi sống cũng không tạo được nhiều
Phúc lắm, chỉ sống theo đạo hiếu, gia đình hòa thuận
mà khi thác sinh lại có Phúc Thần uy linh ?
Có tích khác kể rằng: “Cao Biền lập đàn niệm chú,
lấy kim đồng thiết phù để ếm. Đến hôm ấy, sấm động
ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng
hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim
đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan
trên không. Biền càng kinh hãi, than rằng: “Xứ này có
thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ cho ta”.
Vậy Phúc Thần thần đã lấy ở đâu mà có? Thần là vị
đứng đầu các địa linh, được Lý Thái Tổ phong là Quốc
đô Định bang Thành Hoàng Đại vương, Vậy uy đức
của Thần là không phải dạng vừa.
Tôi thiết nghĩ có 2 suy luận như sau: Phúc của
Thần lấy từ sự che chở bao bọc giúp đỡ nhân dân
trong vùng thành Thăng Long, giúp cho họ đỡ khổ
không bị nạn đói kém mất mùa, giúp họ tu tập Đạo
Đức, tích tiểu thành đại lâu dần mà có. Hoặc là sử
chép thiếu truyện tích oanh liệt của thần khi là một
con người.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 131


31.Lý Bôn - Lý Nam Đế (503 - 548)

Lý Bôn còn gọi là Lý Bí (503 - 548) quê ở Long


Hưng Thái Bình, xuất thân từ một hào trưởng địa
phương. Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, lánh nạn
sang nước ta từ cuối thời Tây Hán, khoảng đầu công
nguyên trải qua 07 đời, đến Lý Bí thì dòng họ Lý Bí
đã ở Việt Nam hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc
đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân".
Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ rõ là cậu bé thông minh, sớm
hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ qua
đời, Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một
hôm có một vị Pháp Tổ Thiền Sư đi qua, trông thấy
Lý Bí khôi ngô, tuấn tú; liền xin Lý Bí đem về chùa
Linh Bảo nuôi dạy. Quả hơn mười năm đèn sách
chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo, Lý
Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh
kịp.
Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên
làm thủ lĩnh địa phương. Có thời kỳ Lý Bí ra làm
quan cho nhà Lương, nhận chức giám quân (kiểm
soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu (Đức Thọ, Hà
Tĩnh. Nhưng do bất bình với bọn đô hộ tàn ác, Lý Bí
bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính
quyền đô hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Hưng) là
Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, mến tài đức
Lý Bí đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Rồi
Tinh Thiều, Phạm Tu, và hào kiệt các nơi cũng nổi
dậy hưởng ứng.
Tháng giêng năm nhâm tuất (542), Lý bí khởi
binh tấn công giặc. Không đương nổi sức mạnh của
132 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
đoàn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ
không dám chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút
lót cho Lý Bí xin được toàn tính mạng, chạy về Trung
Quốc. Không đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu
hết các quận, huyện và thành Long Biên. Được tin
Long Biên thất thủ, Vua Lương lập tức ra lệnh cho
quân phản công chiếm lại. Bọn xâm lược vừa kéo
sang bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.
Đầu năm Quý dậu (543) Vua Lương lại huy động
binh mã sang xâm lược một lần nữa. Tướng giặc còn
khiếp sợ còn dùng dằng chưa dám tiến quân, thì Lý
Bí đã chủ động ra quân, đón đánh giặc ở bán đảo
Hợp Phố, miền cực bắc Châu Giao. Quân Lương
mười phần chết bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết,
kẻ sống sót cũng bị Vua Lương bắt phải tự tử.
Tháng hai năm Giáp Tý (544) Lý Bí tụ xưng là
Hoàng Đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn
Xuân (ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời), đặt
kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay)
và cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi Vua quan họp bàn
việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm
Tu được cử đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều
đứng đầu hàng quan văn, Triệu Túc làm tái phó,
Triệu Quang Phục là tướng trẻ có tài cũng được
trọng dụng.
(Tham khảo từ: Nam Hải dị nhân liệt
truyện - Phan Kế Bính, 1930)
Lời bình: Lý Nam Đế khởi nghĩa sau đời Bà Triệu
đúng 300 năm. Ngài quy tập được rất nhiều tướng
giỏi giúp sức trong đó có những dũng tướng trẻ như
Triệu Quang Phục sẽ là tầng lớp kế thừa.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 133
Cũng do thời vận mà nhà Lương vẫn đang rất
mạnh. Ngoài ra các thế hệ tiếp sau có Hậu Lý Nam Đế
(Lý Phật Tử) và Triệu Quang Phúc nội chiến và đất
nước lại mất nước vào tay nhà Lương.
Với chiến công hiển hách này, các đời vua sau cũng
Phong Thần cho Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương.

134 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


32.Chùa Trấn Quốc, Hồ Tây, Hà Nội (544)

Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ rõ là cậu bé thông minh, sớm


hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ qua
đời, Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một
hôm có một vị Pháp Tổ Thiền Sư đi qua, trông thấy
Lý Bí khôi ngô, tuấn tú; liền xin Lý Bí đem về chùa
Linh Bảo nuôi dạy. Quả hơn mười năm đèn sách
chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo, Lý
Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh
kịp.
Sau khi đánh bại nhà Lương, vào tháng hai năm
Giáp Tý (544) Lý Bí tụ xưng là Hoàng Đế lấy hiệu là
Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân (ước muốn xã
tắc truyền đến muôn đời), đặt kinh đô ở miền cửa
sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Vua sai dựng một
ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên
là chùa Khai Quốc, sau này trỏ thành một trung tâm
phật giáo và phật học lớn của nước ta. Chùa Khai
Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo cá
vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây, Hà Nội.
Đến nay, chùa đã có lịch sử 1500 năm, được coi là
lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Kiến trúc chùa
có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính
với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một
hồ nước mênh mang. Là trung tâm Phật giáo của
kinh thành Thăng Long vào thời nhà Lý và nhà Trần.
Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn
Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm
thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan,
du lịch trong ngoài Việt Nam.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 135


(Tham khảo từ: Trung tâm bảo tồn di tích
thắng cảnh Hà Nội)
Lời bình: Vua là đệ tử của Pháp Tổ Thiền Sư nên
ngay sau khi lên ngôi đã nghĩ đến xây chùa để truyền
bá Phật Pháp. Đạo Phật Việt Nam với những vị Thiền
Sư tài giỏi cũng là nguồn gốc để thay đổi vận khí của
đất nước vậy.

136 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


33.Triệu Việt Vương (? - 571), Lý
Phật Tử (? - 602)

Việt Vương họ Triệu, tên là Quang Phục (? - 571).


Nam Đế họ Lý, tên là Phật Tử (? - 602). Hai ông này
đều là Bộ tướng của Nam Đế nhà tiền Lý tên là Lý
Bôn. Lý Phật Tử là em họ của Lý Bôn.
Triệu Quang Phục vốn là người Chu Diên, làm Tả
tướng quân của Lý Bôn. Lý Bôn mất rồi. Quang Phục
liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ
Trạch.
Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao
nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa
có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người
ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ
chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được.
Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không
biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn
chết. (Rất giống với Lương Sơn Bạc trong dã sử Thủy
Hử của Tàu)
Quang Phục vốn là thổ dân sinh ra ở vùng này nên
thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào
đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày tuyệt không để
khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc
mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên,
giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để
làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh,
nhưng không đánh được.
Quang Phục ở trong đầm được một năm, một đêm
kia thấy thần nhân cưỡi một con rồng vàng cởi móng
đem cho mà bảo rằng:
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 137
- Lấy cái móng này cắm vào trên đâu mâu, hễ
giặc thấy là tự nhiên uý phục.
Gặp lúc Kiến Khương có việc triệu Bá Tiên về Bắc,
Tiên lưu tướng là Dương Sằn ở lại giữ trấn, đại diện
cho ông mà hành sự. Quang Phục sau khi đã được
móng thần thì mưu lược kỳ dị, đánh đâu thắng đấy,
lại nhân Bá Tiên về Bắc mới đem quân ra đánh Sằn;
Sằn cự chiến, vừa trông thấy đâu mâu một cái đã
thua rồi chết. Quang Phục vào chiếm thành Long
Biên quản trị cả hai xứ Lộc Loa và Vũ Ninh, tự hiệu là
Nam Việt Quốc Vương.
Phật Tử là em họ của Lý Bôn; Bôn mất thì theo
anh Lý Bôn là Thiên Bảo, đem ba vạn quân chạy trốn.
Bá Tiên tìm kiếm không được. Thiên Bảo đi đến đầu
nguồn sông Đào Giang, đông Dã Năng, thấy chỗ ấy
danh thắng, thổ vật phì nhiêu, đất sản xuất nhiều lại
rộng rãi, bèn đắp thành ở đó. Đời sống càng ngày
càng phồn thịnh, trí thức càng ngày càng quảng bá
lập thành nước Dã Năng; dân chúng suy tôn Thiên
Bảo làm Đào Lang Vương.
Chưa được bao lâu, Thiên Bảo thăng vô tư; dân
chúng hội nghị suy tôn Phật Tử làm Vương. Gặp lúc
Bá Tiên trở về Bắc, Phật Tử bèn dẫn binh xuống
miền Đông; tả hữu khuyên Phật Tử xưng Đế. Phật Tử
nghe theo rồi lấy hiệu là Nam Đế (tạm gọi là: Hậu Lý
Nam Đế).
Nam Đế cùng với Việt Vương giao chiến ở Thái
Bình đã năm trận, gươmg giáo qua lại, tên đạn như
bay mà thắng thua chưa quyết. Quân Nam Đế có hơi
núng thế, cho là Việt Vương có dị thuật mới thỉnh
hòa. Việt Vương cũng nghĩ Nam Đế là tộc thuộc của
138 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lý Bôn bèn chia nước ra mà cùng trị, vạch bãi Quân
Thần làm địa giới.
Nam Đế ở thành Ô Diên lập mưu cho con tên là
Nhã Lang đến Việt Vương cầu hôn; Việt Vương cho
con gái là Cảo Nương về với Nhã Lang, thật là hảo
tình mật thiết, cầm sắt giao hài. Một hôm Nhã Lang
hỏi nhỏ Cảo Nương rằng:
- Hai nước ngày xưa là cừu thù, ngày nay lại là
thông hôn, thật là thiên duyên tác hợp, tao ngộ
kỳ duyên. Trước kia hai nước giao tranh, binh
cơ của phụ vương em thần diệu xuất sắc hơn
phụ vương anh nhiều; không hiểu có cái diệu
thuật gì mà nhiều kỳ mưu như vậy?
Cảo Nương là bậc nữ lưu trâm tuyến, có đâu biết
thế thái ba đào, mới mật lấy cái đâu mâu móng rồng
đem cho xem, kể sự đầu xuôi, và nói:
- Xưa nay phụ vương thiếp hơn giặc là nhờ cái
này.
Nhã Lang xem xong, lập mưu đổi cái móng rồng
đi, xong bèn nói với Cảo Nương rằng:
- Anh làm phò mã ở đây đã lâu, nay nhớ đến song
thân, chẳng lẽ cứ lưu luyến tình chiếu chăn
riêng tư mà bỏ khuyết việc thần hôn phụng
dưỡng, ý anh muốn tạm về vấn an mới thỏa
lòng. Nhưng mà đường sá xa xôi, đi về cách trở,
không dễ một hôm một mai mà trở lại được,
sum họp ít mà chia phôi nhiều, anh thật ân hận
quá. Sau khi anh về nước, nếu mà có biến cố bất
ngờ xảy ra, chắc là em phải theo vương giá mà

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 139


đi, đi về phương nào em nên rải lông ngỗng để
cho anh tiện việc kiếm tìm.
Nhã Lang về nước, đem việc bạch ở Phụ vương;
Nam Đế cả mừng, lập tức dẫn binh trực nhập Việt
cảnh như vào một chỗ không người, Việt vương
không hề hay biết. Đến khi Việt vương được tin báo,
vội vàng xách đâu mâu ra cự chiến để đợi Nam Đế
nhưng thần cơ đã bị đoạt rồi, tinh thần binh sĩ không
phấn chấn nữa. Việt vương tự biết không thể địch
nổi Nam Đế mới dắt con gái chạy về phương Nam để
tìm chỗ yếu hiểm tránh thân. Binh giặc vẫn đuổi theo
sau; đến châu phủ thì Vương tạm nghỉ ngơi, tả hữu
báo binh Nam Đế đã đến Vương sợ hãi hô to lên
rằng:
- Hoàng Long thần vương sao không giúp ta?
Thoắt thấy Hoàng Long chỉ tay cáo với Vương
rằng:
- Không phải ai đâu, chính là Cảo Nương con gái
Vương rải lông ngỗng dẫn đường cho giặc đó,
giặc ở bên lưng không giết đi còn đợi gì nữa?
Vương ngảnh lại lấy gươm chém đầu Cảo Nương
rơi xuống nước rồi bỏ đi. Vương giục ngựa chạy đến
cửa biển Tiểu Nha, cùng đường, lại phải chạy lui về
hướng Đông đến cửa biển Đại Nha, than rằng:
- Ta cùng rồi!
Hốt nhiên, Hoàng long rẽ nước thành đường dẫn
Vương vào, nước khép lại như cũ. Nam Đế tiến binh
đến đó, vắng vẻ không biết đi về hướng nào bèn dẫn
binh về. Việt vương dựng nước được mười chín
năm, dấy từ năm Tân vỵ niên hiệu Đại Bảo thứ hai
140 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
nhà Lương đến năm At Sửu niên hiệu Đại Kiến năm
đầu nhà Trần thì mất nước. Người trong nước cho là
linh di, lập đền thờ ở cửa biển Đại Nha. Niên hiệu
Trùng Hưng năm đầu, sách phong Minh Đạo Hoàng
Đế. Năm thứ tư, gia thêm hai chữ Khai Cơ, niên hiệu
Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong bốn chữ
Thánh Liệt Thần Vũ. Sau khi Nam Đế thăng, người
trong nước chỗ nào cũng có lập đền thờ, có miếu ở
tại cửa biển Tiểu Nha, phường An Khương, rất linh
dị. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sách phong Anh
Liệt Trọng Uy Hoàng Đế. Năm thứ bốn mươi, gia
thêm hai chữ Nhân Hiếu. Năm Hưng Long thứ hai
mươi mốt, gia tặng bốn chữ Khâm Minh Thánh Vũ.
Cả hai miếu đến nay hương lửa chẳng dứt, có nhiều
linh ứng.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: 800 năm sau thời An Dương Vương bị
mắc kế gả rể làm thông gia trộm lấy mất thần cơ.
Triệu Việt Vương cũng mắc lại lỗi y hệt như vậy, cũng
gả rể giả làm thông gia, bị trộm mất đâu mâu móng
rồng, rồi rắc lông ngỗng dẫn đường, chém chết phản
tặc là con gái đẻ và rẽ nước đi vào thủy cung...
Sao lại có sự trùng hợp với nhau như vậy, có khi
nào người viết ra tích truyện này đã học theo nội
dung của tích An Dương Vương mà viết nên chứ rất
khó có thể có sự trùng hợp gần như 100% vậy.
Thôi ta tạm coi tích này là có thật thì Triệu Việt
Vương cũng như An Dương Vương đều quá khinh
địch, thấy mình được thần nhân giúp đỡ, có sức thần
đánh đâu thắng đó sinh tự cao và kiêu ngạo nên thất
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 141
bại. Bài học muôn đời nay lại lặp lại mà vẫn như mới
do cái tâm kiêu ngạo của con người xưa và người nay
không có gì khác nhau cả.

142 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


34.Chu Phúc Uy (?-545)

Kiếp Bạc là một trong những địa danh nổi tiếng ở


nước ta gắn liền với người anh hùng dân tộc Trần
Hưng Đạo. Vào thời Trần, Kiếp Bạc thuộc hương Vạn
Kiếp, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải
Dương).
Từ Vạn Kiếp có nhiều đường thủy bộ lên núi,
xuống vùng đồng bằng, đi ra biển…, tất cả tạo thành
một cảnh quan hùng vĩ, một vị trí quân sự quan
trọng và chứa đựng trong nó nhiều truyền thuyết ly
kỳ.
Dưới chân núi Ngũ Nhạc, sát với núi Phượng
Hoàng có một ngôi đền tương truyền được xây dựng
từ lâu đời, đến triều Lý và triều Trần được mở rộng
quy mô lớn hơn; đền thờ một vị thần hiệu là Phi
Bồng đại tướng quân, nhân dân thì tôn gọi là "Đức
Thánh Yên Mô" (nay thuộc thôn Yên Mô, xã Lê Lợi,
huyện Chí Linh, Hải Dương).
Tại đến có tấm bia 4 mặt có tên là Thần tích bi ký
(bia ghi thần tích) dựng năm Đinh Sửu niên hiệu Bảo
Đại thứ 12 (1937) nói về sự tích của Ngài như sau:
Xưa kia Yên Mô là một trang ấp, tại đây có gia
đình ông Chu Thức và vợ là Hoàng Thị Ba, hiệu Diệu
La vốn là người lương thiện, hay làm việc phúc,
chăm chỉ nghề cầy cấy nên ai cũng quý mến.
Thế nhưng họ có một nỗi buồn bởi ông bà tuổi đã
già mà vẫn chưa có con nối dõi; họ thành tâm làm lễ
cầu phúc sinh con trai, lại ra sức cứu giúp người
nghèo và thường hay đi lễ chùa.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 143


Một hôm ông bà đến chùa Trường Liêu lễ bái rồi
ngủ, đến nửa đêm mộng thấy sứ giả cho biết Ngọc
Hoàng giáng sẽ cho một ngôi sao xuống đầu thai làm
con, sau lại cứu nước giúp dân.
Đúng một năm sau, vào giờ ngọ ngày 5 tháng 5
năm Ngọ thì sinh ra một cậu bé khôi ngô khác
thường. Khi sinh thấy trời đất mờ mịt, hương thơm
tỏa khắp, trên trời như có ba tiếng sấm; hai vợ chồng
mừng rỡ đặt tên con là Chu Hiệu, tự là Phúc Uy.
Được cha mẹ quan tâm, giáo dục từ nhỏ nên Phúc
Uy ngày ngày thường trong phòng đọc văn thư, tối
đến luyện binh thư võ lược, cung tên không gì là
không biết. Năm 15 tuổi thì cha mẹ lần lượt qua đời,
Phúc Uy lúc nào cũng đèn hương, một lòng kính
hiếu, làng xóm biết điều này ai cũng phục và cảm
động.
Năm Nhâm Tuất (542), khi nghe tin Lý Bí phất cờ
khởi nghĩa, Chu Phúc Uy tập hợp được hơn 10 người
tài giỏi đi theo phò giúp, được Lý Bí phong làm Nha
tướng.
Sau khi đánh đuổi giặc Lương, giành lại nền độc
lập, năm Giáp Tý (544) Lý Bí lên ngôi tự xưng là
Nam Việt Đế (sử quen gọi là Lý Nam Đế); vua đã
phong cho Chu Phúc Uy là Uy Vũ Đại tướng quân,
lệnh cho trấn giữ Hải Dương.
Tại đây ông quan tâm đến dân chúng, khuyến
khích họ chăm nghề trồng cấy, ban tiền bạc để mua,
ruộng đất dùng vào việc công…, ai ai cũng đội ơn
đức.

144 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Theo chính sử, vào tháng 6 năm Ất Sửu (545) vua
Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem một
lực lượng lớn binh mã sang xâm lược nước ta, mặc
dù tổ chức chặn đánh quyết liệt nhưng vì thế giặc
quá mạnh nên quân ta dần dần bị đẩy lui, nhiều
thành lũy rơi vào tay giặc.
Còn thần tích chép rằng, lúc giặc kéo sang, Lý Nam
Đế gọi Chu Phúc Uy về trấn giữ Bắc Đạo, ông cầm
quân đánh giặc ở sông Thiên Đức nhưng bị thương
đành phải thu quân rút về Việt Yên rồi hóa ở đó vào
ngày 11 tháng 8.
Người dân trang Yên Mô là nơi Chu Phúc Uy đặt
hành doanh khi trấn trị ở Hải Dương, nghe tin buồn
đã cùng nhau lập đền thờ ông.
Tấm bia Thần tích bi ký ở đền thờ ông có đoạn
viết rằng:
"Đến triều Lý, khi vua Thái Tông về chùa Cổ Pháp,
qua sông Thiên Đức thường mơ mộng thấy có người
nói rằng:
- Thiên hạ gặp loạn, gia đình ta là nhà trung
hiếu, tính danh nổi tiếng, sáng tựa nhật nguyệt
trên trời.
Khi đến nơi thì không thấy hình bóng ai cả. Vua
bèn qua sông về quê cũ của cha mẹ thần, tô tượng để
thờ phụng và sai mệnh quan viết biển ngạch ban
phong, cho tiền lập miếu thờ, phong là Thượng đẳng
thần. Trang Yên Mô là ấp thang mộc, được miễn sưu
dịch và phong là Hiệu Phi Thiên Bồng.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 145


Đến khi đánh giặc Chiêm, Thái Tông đến Thiên Đức
bỗng có tiếng sấm lớn, mây lành che phủ thuyền rồng,
giúp cho quân đội nhà vua.
Tương truyền, một ngày vượt qua bao bãi biển to
nhỏ tiến thẳng đến đồn quân Chiêm. Vua Chiêm
nghênh chiến, bỗng thấy xuất hiện vị Thần tướng
xông thẳng vào trước vua Chiêm hô một tiếng to như
sấm:
- Ta là Thiên thần Hiệu Phi Thiên Bồng phụng
sắc của Ngọc Hoàng trợ giúp thánh quân.
Nói xong, bèn bầy binh tả hữu, thăng thiên nhập
địa, biến tướng hiện hình, hô gió gọi mưa, xuống
nước, lên núi, xuất thần nhập thánh, biến hóa vô
cùng. Giặc Chiêm nghe thấy tiếng tựa như sấm tất cả
đều kinh hãi, hồn siêu phách lạc, quay giáo mà chạy.
Quân ta không mệt mỏi mà dẹp yên quân giặc, bắt
được vua Chiêm rồi rút quân về. Triều đình ban sắc
đổi Yên Mô là Phấn Lôi để tỏ lòng nhớ đến công lao
hiển hách của thần vậy.
Sau này đến triều Trần có loạn, Hưng Đạo Vương
cầu đảo ở miếu nên đã hiển ứng ở bến sông Bạch
Đằng. Bởi vậy trải qua các triều thần đều có sắc
phong tặng thần".
Đến đời Hậu Lê, ngoài phong hiệu là Hiển ứng Uy
linh Hiệu Phi Thiên Bồng Đại tướng quân Thượng
đẳng Linh Phúc thần Đại vương đã có từ trước, triều
đình đã ban sắc phong cho Ngài là "Hùng Chấn Uy
linh Tôn nghiêm Chính thuận Thánh văn Thần vũ, cứu
nước giúp dân, khí thiêng sông núi, thông linh khắp

146 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


chốn, phù giúp trung hưng, tặng là Hiệu Phi Thiên
Bồng chi thần linh thần".
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam - Lê Xuân
Quang (NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: Thiên tướng sinh vào cõi người cũng chỉ
là người bình thường tài giỏi chứ không có quyền
phép gì. Vị đó khi sống giúp dân đánh giặc, giúp dân
cày cấy sản xuất nên tạo thành Phúc lớn. Sau khi mất,
do Phúc Thần đó các vị được sinh vào cõi Thần.
Vị thần đó có do duyên nợ với những người Thần
giúp đỡ và mang ơn ngài nên ngài thường dõi theo và
giúp họ. Chiều ngược lại, những con người thọ ơn
ngài cũng tự sinh tâm sao động, nhớ nhung, thúc dục
đi đến đền miếu thờ đó để dâng hương lễ vật. Quyền
năng vị Thần đó mạnh hay yếu tùy vào Phúc gây tạo
được khi còn sống nhiều hay ít.
Những vị thần lớn ơn đức bao trùm thiên hạ thì
thần uy cũng phủ trùm thiên hạ. Ví như Đức thánh
Trần (Hưng Đạo) khi sống có duyên nợ với toàn bộ
dân Đại Việt nên khi mất thần uy ngài bao phủ rộng
khắp nước Việt. Đền thờ của ngài khắp nơi trên đất
nước Đại Việt và đều khang trang, khách thập
phương đến lễ bái đông đúc.
Ta lại bàn thêm, có những người Việt ở đất Việt lại
thờ ông Quan Công? Biết đâu rằng thời Tam Quốc
nước Việt là vùng đất tận cùng phía nam của nước
Ngô, vua Tôn Quyền, vùng đất có tên là Giao Châu,
thái thú cai quản là Vương Sĩ Nhiếp. Và đã có con em
đất nước Việt đi lính hi sinh dưới ngọn đao Thanh
Long Yển Nguyệt của Quan Vân Trường. Nhưng do

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 147


đọc tác phẩm Tam Quốc của La Quán Trung (người
gốc Hán) viết sách để ca ngợi những người Hán như
Lưu Bị, Quan Công, Gia Các Lượng và ca ngợi nước
Thục. Và thế là người Việt ta nhận Tướng Giặc làm
thần hộ mệnh.
Tôi đồng ý rằng: Quan Thánh Đế Quân là có thật,
hiển linh thật, uy thần thật. Các triều đại vua Trung
Quốc muốn thần tượng hóa ngài để khuyến khích
những tính cách của một bề tôi mẫu mực: “Danh lợi
không đổi lòng, Giàu sang không dâm loạn, Nghèo
hèn không nhụt chí, Oai vũ không khuất phục". Ông là
một võ tướng duy nhất có một điện thờ riêng ở Đế
Vương Miếu (Tử Cấm Thành) nơi vốn chỉ thờ các vị
Đế Vương Trung Hoa. Nhưng ngài chỉ hiển linh nơi
ngài sống chiến đấu là nước Thục và ngài cũng chỉ
giúp đỡ người dân Hán mà thôi.
Tôi cũng đồng ý với một số người Trung Hoa gốc
Hán đang sinh sống và làm việc ở Việt Nam mang tín
ngưỡng bản địa của họ là thờ Quan Thánh Đế Quân
đến đất Việt. Họ thờ cúng và được linh ứng gia hộ của
Quan Thánh, đó là điều hiển nhiên hợp đạo lý. Nhưng
nếu là người dân gốc Việt thờ Quan Thánh lại là điều
không phải.

148 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


35.Trương Hống và Trương Hát (502 - 571)

Đức Thánh Tam Giang là danh xưng mà người dân


Việt Nam gọi chung hai vị thánh hiển linh là: Trương
Hống và Trương Hát. Đây là những vị tướng được
nhắc tới nhiều nhất dưới thời Vua Triệu Quang Phục.
Tên gọi Tam Giang xuất phát từ tên gọi mà các triều
đại Phong kiến Việt Nam phong cho hai ông là: “Tam
Giang thượng đẳng thần”. "Tam Giang" còn bắt
nguồn từ cách gọi chung của ba con sông là sông
Cầu, sông Thương, sông Đuống - nơi có nhiều đền
thờ hai ông. Hai anh em ngài được đánh giá, đều là
bậc tướng, trí dũng song toàn, "sinh vi dũng tướng,
tử vi minh thần".
Trương Hống, Trương Hát sinh ra trong một gia
đình gồm năm anh em sinh cùng lúc, bốn trai, một
gái. Ba người còn lại trong gia đình là Trương Lừng,
Trương Lẫy, và người con gái là Trương Đạm
Nương. Năm anh em sinh ngày 15, tháng Giêng, năm
Nhâm Ngọ (502), người làng Vân Mẫu, xã Vân Mẫu,
huyện Quế Dương (sau là Võ Giàng), quận Vũ Ninh,
xứ Kinh Bắc, (nay là thôn Hai Vân, phường Vân
Dương, thành phố Bắc Ninh). Mẹ là con gái họ
Phùng, tên hiệu là Từ Nhan, sinh năm Quý Hợi 483
thời Tiền Lý Nam Đế.
Theo cuốn thần phả hiện được lưu giữ tại Ban
quản lý di tích Đền Vân Mẫu, thôn Hai Vân, phường
Vân Dương, thành phố Bắc Ninh: Năm Từ Nhan 18
tuổi, vào đêm rằm tháng một (theo cách gọi xưa, còn
theo cách gọi hiện nay thì là tháng 11) năm Canh
Thìn (500) Từ Nhan nằm chiêm bao thấy Thần Long

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 149


quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai.
Sau 14 tháng mang thai, ngày 5 tháng 1 năm Nhâm
Ngọ (502) bà lên chùa lễ phật trở về đến xứ Cửa Cữu
làng Vân Mẫu thì trở dạ, sinh ra một bọc năm con.
Người mẹ hết lòng chăm lo các con ăn học. Năm
anh em là học trò của Tiên sinh Lã Thị người hương
Chu Minh, lộ Bắc Giang (tức xã Hương Mạc, huyện
Từ Sơn ngày nay). Anh em học đến đâu lầu thông
kinh sử đến đấy, ngày ngày chăm đọc binh thư, siêng
rèn võ nghệ, nên đều là những người tinh thông văn
võ. Khi anh em 17 tuổi thì mẹ mất (ngày 15 tháng 4
âm lịch năm Kỷ Hợi 519) và 5 anh em đã táng mẹ tại
xứ đồng Bãi Cả, hiếu thảo thờ mẹ 3 năm.
Năm 545 nhà Lương, đời Vua Đại Đồng năm thứ
bảy, cử tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem
quân sang xâm lược Việt Nam. Lý Nam Đế đem quân
chặn đánh nhưng vì quân ít không cản được giặc
phải rút về miền núi động Khuất Lão (Tam Nông,
Phú Thọ) trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục,
rồi mất tại đó. Triệu Quang Phục đưa quân về đầm
Dạ Trạch (Hưng Yên) đánh phục kích, đồng thời
truyền hịch trong dân gian tìm người tài giỏi đánh
giặc giúp nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Quang Phục
Trương Hống, Trương Hát bàn nhau xin lệnh thầy,
dụng kế lập thân, về quê mộ quân để đi giúp nước.
Sau này các ông đến địa phận làng Tiên Tảo, huyện
Kim Hoa, phủ Đa Phúc, lộ Bắc Giang thấy đất có thế ỷ
giốc, tiến thoái lưỡng tiện có thể dụng binh liền cho
quân hạ trại, làm tờ chiêu dụ nhân dân. Phụ lão làng

150 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


ấy thấy các ông dung dị khác thường, uy nghi đường
bệ, thi đua nhau cho con cháu đi theo làm quân sĩ.
Triệu Quang Phục được tin, sai sứ lên phong
Trương Hống làm thượng tướng quân, Trương Hát
làm phó tướng quân, Lã tiên sinh làm quân sư,
Trương Lừng, Trương Lẫy làm tỳ tướng, Đạm Nương
làm hậu binh lương và lo kế sách phản công.
Đúng kỳ thúc giáp, hai phía cùng truyền lệnh quân
cơ, tỏa binh tiếp trận, quân Triệu Quang Phục ở Dạ
Trạch tiến lên, quân Hống-Hát ở Tiên Tảo kéo xuống,
thủy bộ bốn mặt giáp công, xung đột tung hoành
đánh rất dữ dội. Quân Lương không sao chống cự
nổi, đại bại rã rời, số chạy dẵm đạp lên nhau, chết
hại nhiều vô kể, số bị bắt mặt mày tái mét, run rẩy
van xin, chánh tướng Trần Bá Tiên tử trận, phó
tướng Dương Phiêu phải thu nhặt tàn quân rút về
Bắc quốc.
Dẹp xong giặc rồi, khải hoàn tấu tiệp, Triệu Việt
Vương kéo quân về Long Biên sang sửa đô thành.
Nước nhà độc lập, Triệu Quang Phục lên ngôi Vua,
phong thưởng cho các tướng có công đánh giặc. Vua
Triệu phong thực ấp cho hai anh em họ Trương ở
Kinh Bắc, Trương Hống ở làng Tiên Tảo, huyện Kim
Anh (nay là thôn Tiên Tảo, xã Việt Long, huyện Sóc
Sơn), Trương Hát ở làng Tam Lư, huyện Đông Ngàn
(nay là thôn Tam Lư, Từ Sơn, Bắc Ninh) là nơi dấy
binh cũ.
Được tin Triệu Quang Phục lên ngôi Vua, Lý Phật
Tử (người họ Lý Nam Đế) đã đem quân đánh lại
nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con.
Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 151
Vương đừng gả Cảo Nương cho Nhã Lang. Nhưng
Triệu Quang Phục không nghe, mắc mưu của Lý Phật
tử, rồi bị đánh úp.
Lý Phật tử lên ngôi Vua tự xưng là Hậu Lý Nam Đế
và biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người vời ra
làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân không
theo Lý Phật tử, thưa lại rằng:
- Tôi trung chẳng thờ hai Vua, gái trinh chẳng
đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội
nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch
này ư?
Biết không thể khuất phục được, Lý Phật tử lệnh
truy bắt các ông khắp nơi. Các ông trốn vào ở núi
Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã
không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Các
ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông
Cầu, uống thuốc độc để giữ trọn tấm lòng trung với
Vua. Nhân dân dọc theo sông Cầu và các nơi các ông
từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục,
thương tiếc, lập đền thờ làm Thần.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Xưa kia có Cao Lỗ đại tướng quân, thần
cơ diệu kế, giúp An Dương Vương đánh tan 50 vạn
quân Tần, thiết kế và xây thành Cổ Loa, chế tạo nỏ
thần Liên Châu... là bậc hiền tài của đất nước ngàn
năm có một. Khi thác ngài hóa thành Phúc Thần đại
vương hộ trì vùng Việt Trì, Bạch Hạc của Đại Việt và
được vua sắc phong là: “Quả nghị Cương chính Uy
huệ Chính thần Đại vương”.

152 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Cao tướng quân tính khí cương trực, minh mẫn
hơn người, thấy rõ âm mưu của kẻ địch, khuyên can
An Dương Vương Thục Phán, nhưng vua không nghe.
Có phải An Dương Vương kém tài hay không? xin
thưa không! “Tâm kiêu mạn khởi lên - là nhiễm ô lối
bước” An Dương Vương có những quyết sách u tối là
do kiêu mạn che mất tâm ngài mà thôi. An Dương
Vương Thục Phán thần uy lãnh đạo quân dân ta đánh
tan 50 vạn quân Tần giết chết tướng giặc Đồ Thư khi
cơ sở vật chất còn kém. Sau đó đã xây dựng lên thành
lũy Cổ Loa, vũ khí có Nỏ Thần. Nên trước đạo quân
nhỏ bé liên tiếp bị bại trận của Triệu Đà đã chủ quan
khinh địch bị mắc mưu và bị mất nước.
800 năm sau, truyện tích lại lặp lại như vậy, có
chăng chỉ sai mỗi tên họ và năm tháng mà thôi. Thế
mới biết, tâm con người hàng triệu năm vẫn không
thay đổi. Ở thời xa xưa hay thời ngày nay, ở trong
chiến tranh hay trong làm ăn kinh tế thì Kiêu căng sẽ
dẫn đến sai lầm và thất bại. Hãy xem những thất bại
của Nokia, Motorola, Yahoo... hoặc rất nhiều các công
ty khác khi trên đỉnh vinh quang, do Kiêu ngạo coi
thường kẻ thù và chịu thất bại rồi biến mất.
Nhân đây ta lại bàn thêm một chút về tính chất của
các Thần là sao lại làm Thiện Thần? sao lại làm Ác
Thần? Và đó chỉ là ý kiến cá nhân tôi, nếu bạn đọc
thấy sai xin hãy lượng thứ.
Các vị tướng quân vĩ đại, các vị vua uy quyền tạo
công đức lớn cho dân chúng khi các ngài còn sống.
Sau khi chết thành Thần thì Công Đức to lớn hay nhỏ
bé đó sẽ thành Phúc Thần của họ trong cõi tâm linh
Uy quyền hay kém Uy quyền.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 153
Một yếu tố nữa là họ chết thế nào? Chí nguyện của
họ đã thỏa mãn hay chưa?
Nếu công đức lớn chí nguyện đã thỏa mãn và chết
trong thanh thản ở tuổi già thì sẽ là một vị Thần đức
độ hiền lành đa phần là hỗ trợ dân chúng làm ăn phát
triển kinh tế. Dân gian gọi là Thiện Thần hay Ông
Thiện. Các vị thiện thần chuyên giúp dân xây dựng
đạo đức hiền lành làm ăn có cuộc sống ấm no.
Nếu công đức lớn mà bị bức tử chết trong quẫn
bách, chí nguyện chưa thỏa mãn thì sẽ làm một vị
Thần hung dữ. Do tâm tức giận của vị đó vẫn còn, chí
nguyện mong muốn vẫn chưa đạt. Nên các Thần hay
tương ưng với tâm tức giận, muốn phanh thây giặc,
chém đầu giặc... để cứu nước của quân sĩ trong trận
mạc. Dân gian gọi thần là Ác Thần hay Ông Ác.
Trong các chùa ở miền bắc Việt Nam luôn có hai
ông hộ pháp là Ông Thiện và Ông Ác. Ông Ác căm ghét
cái ác nhưng đôi khi hơi thái quá, ví dụ: gặp kẻ trộm
ăn cắp đồ trong chùa Ông vật cho nó chết hộc máu
mồm máu mũi. Hoặc trong trận mạc gặp kẻ địch tâm
ông ứng hiện với tâm chiến sĩ muốn chém đầu giặc ra
bảy mảnh, băm thây nó nát như tương...
Chuyện tích về sau Đức Thánh Tam Giang hiển linh
đa phần trong trận mạc giúp các tướng lĩnh Đại Việt
như: Giúp Lê Đại Hành đánh tan quân tống và Thần
đọc bài thơ: “Nam Quốc Sơn Hà” lần 1 ở sông Như
Nguyệt. Giúp Lý Thường Kiệt đánh tống và Thần
ngâm bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” lần 2 cũng ở sông
Như Nguyệt. Đó là do hai vị Trương Hống, Trương
Hát chết trong quẫn bách, uống thuốc độc tự tử giữa

154 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


dòng sông Như Nguyệt mà chí nguyện của họ chưa
thỏa nên vậy.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 155


36.Tổ sư Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594)

Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) (? - 594)


Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt
Nam
Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng
Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác
thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham
khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại
sang Đông Nam.
Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế
niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến
Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp,
Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy,
Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư
Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ.
Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính
mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm
mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên
tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng
chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:
- Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì
lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.
Tổ bảo:
- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa,
không nên ở đây lâu...
Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang
Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu

156 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh
Xá” chữ Phạn ra chữ Hán.
Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu
(580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân
(gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã
Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương
Quảng Tổng Trì.
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:
- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối,
tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không
đi không lại, không được không mất, chẳng một
chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn
không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt,
cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa.
Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi.
Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế,
nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta
cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế
được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế
được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho
ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không
nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến
đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời
huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta
đã đến.
Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ
hỏa táng, lượm Xá Lợi năm sắc, xây tháp cúng
dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ
mười bốn nhà Tùy (594).

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 157


Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài
kệ truy tán phong tặng Sư:
Mở lối nước Nam đến
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tánh
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già sáng rỡ
Hoa Bát-nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền.
Dịch ý:
Sáng tự Nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tánh
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam
gắn liền với các Huyền Tích. Từ thời vua Đế Minh là
cháu 3 đời vua Thần Nông sinh ra Đế Nghi và Lộc Tục
chia nước ra làm 2 lấy sông Dương Tử làm ranh giới
cho 2 anh em cai quản vào năm 2879 trước CN cũng
là một Huyền Sử.

158 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tích Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương cũng là
Huyền Sử.
Tích An Dương Vương, Thần Kim Quy trước đây ai
cũng nghĩ là Huyền Sử nhưng từ khi khai quật được
thành Cổ Loa, tìm được khảo cổ của Nỏ Thần, nơi đúc
đồng và đào được vô vàn mũi tên đầu bịt đồng quanh
Cổ Loa (2005) mới biết đó là thật.
Và đến lúc này đây, một trang Huyền Sử Đại Việt
mới đã mở ra. Huyền bí đối với người dân Việt và đối
với đa số các học giả và các nhà khảo cổ học nhưng
lại được ghi rất chi tiết trong Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam.
Sư Tổ khai sáng dòng thiền Việt Nam Tỳ-ni-đa-lưu-
chi đã đến Việt Nam từ rất sớm, chỉ sau Thiền Tông
Trung Hoa 50 năm là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (470-543), cả
hai đều người gốc Ấn Độ.
Vận khí nước Nam đã nương theo Phật Pháp mà
thay đổi từ đây. Đúng như lời Tam Tổ Tăng Xám có
căn dặn Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi rằng: “Ngươi mau qua
Phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu...”.
Tôi xin mạn phép đưa giả thiết đoạn sau của câu
nói lấp lửng của Tam Tổ như sau: “Ngươi mau qua
Phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu... để
mang lại lợi ích cho những chúng sinh nơi đó và
để hoằng truyền đạo pháp sẽ được trường tồn”
214 năm sau khi Tổ viên tịch, có Thiền sư Định
Không (730-808) (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi).
Sư thay đổi vận khí đất nước. Nhân cơ duyên mà đào
được 12 Pháp Khí Cổ ở làng làng Diên Uẩn. Sư lập
đàn tràng trấn giữ nơi làng 12 món Pháp Khí, khơi

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 159


thông long mạch và đổi tên làng Diên Uẩn thành Cổ
Pháp (Đình Bảng, Bắc Ninh). Sư đề Sấm Kí báo trước
có Cao Biền sang Đại Việt sẽ trấn ếm nơi đây, Sư
khuyên đệ tử tìm người họ Đinh giao trụ trì, sẽ hóa
giải được bùa ếm và nguyện của Sư sẽ thành.
305 năm sau, có Cao Biền (sinh 821) được nhà
Đường cử sang trấn ếm Đại Việt và đất Cổ Pháp.
336 năm sau Thiền Sư La Quế (sinh 852) là người
họ Đinh, ứng hiện tại chùa giải trừ bùa ếm, kết nối
long mạch nơi làng Cổ Pháp.
458 năm sau (974) tại đất Cổ Pháp, Lý Công Uẩn ra
đời lập lên nhà Lý tồn tại 216 năm gây nền độc lập
trường tồn cho nước Đại Việt.
Qua các tích Huyền Sử trên ta có thể dẫn đến một
kết luận sai lầm: “Long mạch và vận khí đất nước
là số mệnh không thể thay đổi”.
Thật ra, đất nước đó phải chịu chiến tranh, phải bị
chia cắt là Phúc và Tội chung của dân chúng nơi đó
phải gánh chịu, ứng hiện mà thành vận nước. Đó
chính là Nhân Quả, là tuyệt đối không thể sai, nếu có
sai thì do “Vô Minh” ta không thấy rõ Nhân Quả đi
qua nhiều đời nhiều kiếp sinh ra nghĩ sai và kết luận
lầm mà thôi.
Nhân của một người, Phúc và Đức của một người
không thể làm thay đổi được vận nước. Muốn thay đổi
được vận nước phải làm cho Phúc và Đức của toàn bộ
dân ở đó tiến lên thì vận nước mới đổi.
Các vị tướng như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam
Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng đâu
phải là không tài giỏi, đâu phải là không Thần Nhân
160 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
giúp đỡ. Nhưng Đức của các vị ấy và Đức của các vị
Thần bảo trợ không thể đủ để lay chuyển được vận
nước.
Các vị Huyền Học cao siêu như Cao Biền, Tả Ao đâu
phải không nhìn ra Long Mạch, đâu phải không thông
Thiên Địa. Nhưng Cao Biền thì bị chết bởi thuộc hạ Lã
Dụng Chi (bị Dụng Chi dùng bùa ngải gây mê hoặc mà
chết). Tả Ao cả đời tìm long mạch, giúp làng này làng
khác phát lên bằng nghề truyền thống, nhưng cuối
đời bị chết bên đường và an táng tại gò đất ven
đường. Rồi tích Nguyễn Nhạc an táng mộ song thân
được vào long mạch nhưng nhà Tây Sơn bị đổ sau 3
năm.
Nhưng đến đời Lý, đời Trần dân lấy gốc là Đạo
Phật tin sâu nhân quả, ăn hiền ở lành Phúc Đức của
từng người dân ở đó đều tăng, vận nước ứng biến,
hòa đồng thay đổi.
Dù rằng vua Lý vua Trần cũng không oai hùng
đánh nam dẹp bắc để lên ngôi. Nhưng vào thời này
đến khi nước gặp hoạn nạn tự dưng trời sinh ra thiên
tướng: Đời Lý có Lý Thường Kiệt, Đời Trần có Trần
Hưng Đạo và các tướng giỏi nhà Trần.
Do vậy nên mới nói: Vận nước là Phúc Đức hoặc
Tội Nghiệp chung của mọi người dân nơi đó mà
thành.
Vận nước lên hay xuống đều rất chậm nhưng chắc
chắn. Ví như từ khi Tam Tổ Tăng Xám nói với Tổ Tỳ-
ni-đa-lưu-chi (vận đang ở cực tiểu) đến khi Lý Thái
Tổ lên ngôi (vận ở cực đại) ngót nghét mất 500 năm.
Hay từ khi xuất hiện ông vua Vô Đạo giữa đời thịnh

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 161


trị Lý, Trần, Lê (vận đang ở cực đại) làm nước đi
xuống cho đến khi mất ngôi (vận ở cực tiểu) cũng trải
qua hàng chục năm.
Cần lưu ý thêm: để vận nước lên thì khó và chậm
(500 năm) nhưng để đi xuống từ điểm cực thịnh đến
khi mất nước thì dễ và nhanh (Ví như: từ Lý Anh Tông
1140 bắt đầu suy đến Lý Chiêu Hoàng 1225 mất ngôi
chỉ có 85 năm. Từ thời Trần Dụ Tông 1350 bắt đầu
suy đến Trần Thiếu Đế 1400 mất ngôi chỉ có 50 năm)
Vận nước: đoán biết thì dễ, nhưng cải biến thì thật
là khó. Muốn cải biến trước tiên phải là người có Uy
Đức phủ trùm thiên hạ. Ngay bản thân họ phải là
người thấu hiểu Đạo Lý thánh hiền. Biết khuyến khích
dân tu theo Đạo Lý thánh hiền. Làm cho Phúc Đức của
từng người dân tăng trưởng thì vận nước mới hòng
thay đổi. Điều đó khó lắm thay.
Bác Hồ có nói câu: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia” nghĩa là người có đức và có tài thì sẽ làm đất
nước phát triển. Và nay ta lại có câu: “Phúc Đức làm
vận nước thay đổi”.

162 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


37.Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế (? - 722)

Năm Giáp Dần (714) đời Vua Huyền Tông nhà


Đường, ở Hoan Châu nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai
Thúc Loan. Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ, Thạch Hà,
Hà Tĩnh.
Không ai còn nhớ năm sinh của ông. Chỉ biết rằng,
thuở nhỏ nhà Mai Thúc Loan nghèo lắm, mẹ phải đi
làm mướn cho nhà giàu và kiếm củi nuôi con. Đã thế,
cậu bé lại chịu tiếng xấu là con không cha và nước da
đen xạm xấu xí. Nhưng Mai Thúc Loan cũng sớm bộc
lộ thiên tư thông minh, sáng ý kỳ lạ và có sức khỏe
tuyệt vời.
Lớn lên, Mai Thúc Loan phải làm lụng, lo toan
giúp mẹ đủ việc. Chú bé hết đi làm mướn cho bọn
hào phú lại theo mẹ vào rừng kiếm củi. Rồi một tai
nạn khủng khiếp xảy ra giữa buổi hai mẹ con đi kiếm
củi trong rừng sâu. Khi nghe tiếng kêu thét của mẹ,
kịp đến thì mẹ đã chết gục bên vũng máu cạnh một
con hổ lớn đang gầm gừ, quần đảo cán xé man rợ.
Hờn căm ngút trời, Mai Thúc Loan xông vào đánh
nhau với mãnh thú, buộc con vật đang say mồi, hung
tợn phải bỏ chạy.
Từ đó, Mai Thúc Loan sống cuộc đời mồ côi, cày
thuê ở mướn cho các hộ trong làng. Nhà nghèo, Mai
Thúc Loan không được học hành mà chỉ học lõm để
biết chữ, hiểu nghĩa sách.
Lớn lên, Mai Thúc Loan là một chàng trai có sức
khỏe phi thường. Thúc Loan là đô vật lừng danh,
không ai dám vào thi đấu.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 163


Theo phường săn học hỏi rồi trở thành thợ săn
lành nghề, nhiều lần Thúc Loan giết được chúa sơn
lâm khiến dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi
người suy tôn Mai Thúc Loan làm chức "Đầu phu",
thủ lĩnh quân sự địa phương của làng.
Châu Loan ngày ấy hay luôn bị giặc Chà Và
(Giava), Côn Lôn (Mã Lai) cướp phá, nhất là ách đo
hộ tàn bạo của nhà Đường, làm cho nhân dân vô
cùng cực khổ. Đặc biệt, nạn cống "quả lệ chi" (quả
vải) là một gánh nặng khôn cùng đối với nhân dân
Hoan Châu. Nguyên do, ở Trường An, Vua Đường có
một nàng ái phi, thường gọi là Dương Quý Phi nhan
sắc tuyệt vời mà tính tình cũng thật thất thường.
Dương Quý Phi thích ăn quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An
Nam mới có.
Mùa vải năm Quý Sửu (713), Mai Thúc Loan cùng
đoàn phu phải gánh vải đi nộp cống. Đoàn người
gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn lê từng bước chân
trên đường.
Gần trưa, Mai Thúc Loan cho mọi người nghỉ chân
ở bên rừng. Cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu. Một
dân phu có tuổi bứt lấy một quả vải ăn cho đỡ khát.
Quả vải chưa kịp đưa lên miễng đa bị một tên lính
Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào
đầu. Khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già,
thì hắn đã bị đánh chết. Sự việc xảy ra nhanh như
chớp.
Bọn giặc cậy có binh khí hò hét vung đao, kiếm
xông vào Mai Thúc Loan. Nhưng những người dân
phu theo lệnh Mai Thúc Loan, đã rút đòn gánh chống
lại. Lũ giặc không địch nổi đoàn dân phu đều phải
164 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
đền tội. đánh tan lũ giặc Đường trong một cơn phẫn
nộ, Mai Thúc Loan lập tức thổi bùng khí thế vụ bạo
động thành một cuộc dấy nghĩa.
Vị thủ lĩnh trẻ được tôn thành vị anh hùng, đã
hiệu triệu trăm họ hưởng ứng nghĩa lớn va chọn Rú
Đụn, còn gọi là Hùng Sơn làm căn cứ.
Không để cho giặc rảnh tay, Mai Thúc Loan quyết
định ra quân trước, đánh thẳng vào Châu trị mở
rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa. Mai
Thúc Loan đã phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi
mọi người Việt đứng lên gìn giữ non sông.
Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa
bàn, xây thành Vạn An với quy mô của một kinh
thành. Từ đây, tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và
nhân dân các miền núi, với Champa để có thêm lực
lượng chống quân Đường.
Trước khi tiến đánh phủ đô hộ, ngoài Giao Châu,
Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi
Hoàng Đế gọi là Mai Hắc Đế (Vua đen họ Mai). Và, chỉ
trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm
được phủ thành Tống Bình (Hà Nội), đuổi tên trùm
đô hộ Quách Sở Khách tháo chạy về nước, lấy lại
giang sơn. Đất nước ta được giải phóng nhân dân
khắp nơi nô nức theo Mai Hắc Đế, lực lượng nghĩa
quân tới hàng chục vạn người.
Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh. Vua Đường
huy động 10 vạn quân ồ ạt theo đường hiểm đánh ập
vào thành Vạn An.
Không đương nổi đội quân xâm lược hung hãn,
Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 165


Nghĩa quân tan vỡ. Quân Đường tàn sát nhân dân ta
vô cùng dã man, xác người chết đắp thành gò cao.
Tội ác tầy trời này của giặc chỉ làm tăng thêm làng
căm thù của nhân dân nước Việt.
(Tham khảo từ: Các triều đại Việt Nam (trang
48-51) NXB Thanh niên)
Lời bình: 150 năm sau thời Triệu Việt Vương, Nam
Việt mới xuất hiện thêm một hiền tài đứng lên cứu
nước nhưng nhằm khi vận nước chưa thông, Bắc
Quốc cường thịnh, thân yếu thế cô, không có những
thế hệ anh hùng nối tiếp. Khởi nghĩa tan nhanh. Chỉ
còn để lại những dòng sử hào hùng bi tráng cho dân
tộc Việt Nam mà thôi.

166 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


38.Phùng Hưng - Bố cái Đại vương (? - 791)

Sách Giao Châu Ký của Triệu Vương chép rằng:


Vương họ Phùng tên Hưng (? - 791), thế tập Biên
Khố Di Tù Trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan
Lang (man tục nay còn). Vương gia tư hào hữu, sức
lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu; người
em tên là Phùng Hãi cũng có sức mạnh kỳ dị, vác
được một tảng đá nặng mười nghìn cân, hay một
chiếc thuyền con chở nghìn hộc mà đi hơn mười
dặm; mọi lào thấy vậy đều kinh hãi.
Giữa niên hiệu Đại Lịch nhà Đường, nhân nước An
Nam ta có quân loạn, anh em đem nhau đi tuần các
ấp lân cận đều hạ được cả, đi đến đâu thì chỗ ấy tan
tác. Đắc chí rồi, Phùng Hưng cải danh là Cự Lão, Hãi
cũng đổi tên là Cự Lực; Vương hiệu là Đô Quán,
Phùng Hãi hiệu là Đô Bảo, dùng kế hoạch của người
Đường Lâm là Đỗ Anh Hậu đem binh tuần hành mấy
châu Đường Lâm, Trường Phong, thảy đều quy
thuận cả; uy danh chấn động, dương ngôn muốn
đánh lấy Đô Hộ Phủ.
Lúc bấy giờ quan Đô Hộ là Cao Chính Bình đem
binh dưới trướng ra đánh không hơn được, ưu phẫn
phát bệnh vàng da mà chết. Vương vào Đô Phủ thị sự
bảy năm rồi mất; dân chúng muốn lập em là Phùng
Hãi lên nối ngôi. Có kẻ phụ tá đầu mục là Bồ Phá Lặc,
sức có thể bài sơn cử đỉnh, dũng lực tuyệt luân, có ý
không theo mới lập con Vương là Phùng An, rồi đem
quân chống Phùng Hãi; Hãi tránh Bồ Phá Lặc, dời
qua ở động Chu Nham, sau đấy không biết ra sao
nữa.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 167


Phùng An tôn Phùng Hưng là Bố Cái Đại Vương,
bởi quốc tục xưng cha là “Bố”, mẹ là “Cái” nên mới
gọi như vậy.
Phùng An lên kế vị được hai năm, Vua Đường Đức
Tông phong Triệu Xương sang làm An Nam đô hộ;
Xương sang đến nơi, trước hết sai Sứ đem nghi vật
dụ Phùng An; An sửa sang nghi vệ, đem quân
nghênh hàng Triệu Xương, các thân thuộc họ Phùng
giải tán hết.
Vương vừa mới mất đã hiển linh, thường ở trong
thôn dân hiện hình thành thiên xa vạn mã phi đằng
trên gia ốc, trên cổ thụ; chúng nhân trông lên thực
như đám mây ngũ sắc, lại nghe thấy ti trúc, quản
huyền giao hưởng trên không trung, tiếng hô hoán,
tiếng cờ trống võng kiệu vọng lên nghe thấy phân
minh giữa ban ngày. Phàm trong ấp có tai nạn hoặc
việc vui mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị
nhân báo cáo trước; chúng phục là thần, lập đền phía
tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm cướp,
việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết
thần, vào trong đền mà minh thệ, lập tức thấy họa
phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền cầu lợi hậu
đều có linh ứng; thôn dân gặp phải mưa dầm hay đại
hạn; cầu đảo liền được như ý. Mỗi năm xã đến ngày
tạ lễ, người đến đông như rừng như biển, bánh xe
dấu ngựa đầy đường; miếu mạo nguy nga, hương
đèn chẳng dứt.
Thời Ngô Tiên Chúa Kiến Quốc, Bắc binh nhập
khấu, Tiên chúa đã lo, nửa đêm hốt nhiên mộng thấy
một ông già đầu bạc, y quan nghiêm nhã, tay cầm
quạt lông, chống gậy trúc, tự xưng tính danh rằng:
168 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
- Ta lãnh thần binh vạn đội, sẵn sàng mai phục
các chỗ yếu hại, chúa công tức tốc tiến binh
chống cự, đã có âm trợ, chớ lo phiền chi cả.
Đến khi tiến binh trên Bạch Đằng, quả thấy trên
không có tiếng xe ngựa, trận ấy quả được đại tiệp;
tiên chúa lấy làm lạ, chiếu kiến lập miếu điện, trang
nghiêm có từng hơn xưa, lại sắm thêm quạt lông, cờ
hoàng đạo, chiên đồng, trống đại, rồi làm lễ thái lao,
con hát đến làm lễ tạ; lịch triều theo đó dần dần
thành ra cổ lễ. Hoàng triều niên hiệu Trùng Hưng
năm đầu, sắc phong Phu Hựu Đại Vương. Năm thứ
bốn mươi, gia thêm hai chữ Chương Tín, Năm Hưng
Long thứ hai mươi, gia phong hai chữ Sùng Nghĩa,
đến bây giờ anh uy càng thịnh, hương lửa không
ngớt vậy.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329) - NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: 50 năm sau thời vua Mai Hắc Đế, đất
Nam lại xuất hiện anh hùng hào kiệt Phùng Hưng.
Lúc đầu thế mạnh vũ bão, đánh giặc như chẻ tre,
tướng giặc sợ hãi lâm bệnh mà mất. Nhưng Vương
thọ ngắn yểu mệnh, đời kế tiếp ươn hèn khiếp nhược,
đầu hàng quân giặc. Giặc chẳng đánh mà tan. Chỉ có
thể đổ tại cho vận nước chưa thông, tâm người chưa
thuần hòa, chưa nay động được trời đất mà thôi.
Đến đây tạm thời kết thúc giai đoạn Bắc thuộc
1000 năm lịch sử với những cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ.
Tướng lĩnh thế cô. Không có thế hệ anh hùng nối tiếp
để giữ gìn nền độc lập. Hoặc nhằm khi Bắc Quốc đang
cường thịnh, khởi nghĩa mới ở giai đoạn đầu đã bị
dập tắt từ trứng nước.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 169
Giai đoạn sau ta sẽ thấy: Khi vận nước được khơi
thông, thời cơ tự đến. Đầu thế kỷ thứ X, Bắc Quốc
bước vào thời loạn “ngũ đại thập quốc” chia 5 xẻ 10.
không còn đủ sức và tâm trí chiến tranh ở các vùng xa
xôi. Thời cơ thoát ra khỏi vòng tay lỏng lẻo đã tới. Và
Khúc Thừa Dụ chỉ là một Hào Trưởng giàu có ở địa
phương, tự đứng lên tuyên bố là Tiết Độ Sứ. Dân ùn
ùn quy hướng. Bắc Quốc đang bận đánh nhau chẳng
hề để ý.
Các thế hệ tiếp sau nhà họ Khúc như: Ngô, Đinh,
Tiền Lê thì đất nước Trung Quốc vẫn ở trong tình
trạng Ngũ Đại Thập Quốc (907–979) loạn lạc và yếu
kém nên nền độc lập của Nước Nam ta cũng dễ dàng
được xây dựng bền vững.
Vào thời kỳ này, tự nhiên trời sinh thiên tướng.
Liên tiếp xuất hiện các anh hùng kiệt xuất nối tiếp
nhau đứng lên giữ cho Nước Nam được vững vàng
độc lập: Ngô Quyền đánh tan 2 vạn quân Nam Hán
(Nam Hán lúc này là nước nhỏ trong 10 nước Trung
Quốc tách ra tiếp giáp Nam Việt, chứ không phải là
nhà Hán kế sau nhà Tần). Đinh Tiên Hoàng dẹp yên
12 sứ quân trong cuộc nội chiến ở Nam Việt. Lê Đại
Hành anh dũng uy nghi “đánh Tống dễ như trở bàn
tay, bắt tướng giặc như lấy đồ trong túi” (theo Ngô Sĩ
Liên).
Đến thời nhà Tống thống nhất Trung Hoa, mang
quân sang đánh Việt Nam nhằm vào những lúc Đại
Việt đã ổn định hùng mạnh. Ra quân lần đầu gặp
ngay tướng tài Lê Đại Hành mà thất bại. Lần thứ 2 bị
Lý Thường Kiệt đánh chặn ngay trên đất Quảng Châu
gây hoang mang lo sợ. Lý Thường Kiệt chủ động lùi
170 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
binh lập phòng tuyến sông Như Nguyệt đánh cho
quân Tống tan tác chim muông. Bản hùng ca Đất
Việt: “Nam Quốc Sơn Hà” đã được cất lên từ đây.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 171


39.Thiền sư Định Không (730 - 808) và Sấm Kí

Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8, dòng


Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp,
con nhà danh giá, lại thâm hiểu về thế số. Những
hành động của Sư đều hợp pháp tắc, người trong
làng quí kính gọi là Trưởng Lão.
Lúc tuổi đã lớn, Sư đến pháp hội Long Tuyền Nam
Dương nghe pháp, liền lãnh hội ý chỉ. Nhân đây Sư
phát tâm xuất gia theo Phật.
Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-
804), Sư lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Khi
đào đất đắp nền chùa gặp được một quả hương đề
và mười cái khánh. Sư sai đem xuống nước rửa, một
cái khánh lăn đến tận đáy ao mới dừng. Sư giải rằng:
- Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ CỔ. Chữ
thủy, chữ khứ hợp thành chữ PHÁP. Thổ là
chính chỗ chúng ta ở, tức chỉ đất này.
Nhân đây, Sư đổi tên làng là Cổ Pháp (trước kia
tên là: Diên Uẩn), lại làm bài tụng (sau ngày nghiệm
ra thì đó chính là Sấm Kí):
“Đất dâng pháp khí
Một món thuần đồng.
Ấy điềm Phật pháp hưng long
Đặt tên làng là Cổ Pháp.”
Bản gốc:
Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng.
Trị Phật pháp chi hưng long

172 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lập hương danh chi Cổ Pháp.
Sư lại tiếp:

“Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng


Họ Lý làm vua ba phẩm thành công.”
Bản gốc:
Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung
Lý hưng vương tam phẩm thành công.
Sư lại đọc kệ tiếp:
”Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Danh hiệu làng Cổ Pháp.
Gà ở sau loan nguyệt
Chính là Tam Bảo thạnh.”
Bản gốc:
Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu.
Kê cư loan nguyệt hậu
Chánh thị hưng Tam Bảo.
Sau, Sư trụ trì tại chùa Thiền Chúng ở làng Dịch
Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đình Bảng, phủ Từ
Sơn, Bắc Ninh là nơi sinh ra vua Lý Công Uẩn).
Sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện đến bảo:
- Ta muốn mở rộng làng xã, nhưng giữa chừng e
gặp họa nạn, ắt có người khác đến phá hoại đất
đai của chúng ta (quả nhiên, sau có Cao Biền
nhà Đường đến trấn ếm ở đất này). Sau khi ta
tịch, ngươi khéo gìn giữ pháp của ta. Khi nào

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 173


gặp người họ Đinh hãy truyền pháp của ta thì
nguyện của ta được mãn vậy.
Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ bảy mươi chín
tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba
(808) năm Bính Tý.
Thông Thiện xây tháp thờ Sư ở phía tây chùa Lục
Tổ và ghi lời phó chúc rành rõ.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Quả nhiên ứng với Sấm Kí của Sư (Sư
sinh năm 730) thì:
91 năm sau, có Cao Biền (sinh năm 821) được nhà
Đường cử sang trấn ếm đất Cổ Pháp này.
122 năm sau, có Thiền Sư La Quế (sinh năm 852) là
người họ Đinh ứng hiện nơi đây, hóa giải bùa ếm, hàn
lại Long Mạch.
244 năm sau, tại đất Cổ Pháp này Lý Công Uẩn,
năm 974 ra đời lập lên nhà Lý tồn tại 216 năm gây
nền độc lập trường tồn cho nước Đại Việt.
Thuật Huyền Môn của các Sư thật kỳ diệu lắm thay.
Với Công Đức như vậy, Âm Phúc lớn lao như vậy
thế sao sau khi các Sư viên tịch không thấy ứng hiện
thành Thần mà phù hộ cho dân chúng?
Chúng ta hãy bàn sâu thêm về câu hỏi này...
Đạo lý Phật Pháp xoay quanh cái gốc là Từ (yêu
thương vạn vật muôn loài), Bi (đau khổ với nỗi đau
của chúng sinh), Hỉ (vui với cái vui đạo đức của mọi
người), Xả (Buông bỏ cái tôi bản ngã, buông bỏ các

174 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sắc Vô Thường như: thân thể, tiền bạc, quyền lực, sự
nổi tiếng, tài năng và học vấn).
Một vị Thiền Sư tu đúng Chánh Pháp thì: Khi sống
Từ Bi yêu thương tất cả chúng sinh, chăm lo dạy đạo
đức cho mọi người, khuyên mọi người tích Phúc làm
Thiện. Khi thác thì nhẹ nhàng buông xả, duyên đã hết
thì không níu kéo. Cái tôi bản ngã không còn nên Sư
không bao giờ hiện thành hình tướng. Chỉ còn cái tâm
từ cảm ứng chan hòa. Do không chấp dính vào một
vùng, một nhóm người nào nên cảm ứng của Sư rộng
khắp, ai có thiện căn, ai khởi được tâm thiện đều cảm
ứng được với Sư.
Khác với các Thần thì khi sống tạo Phúc lớn nên
quyền uy và thần lực lớn, cái tôi bản ngã các thần
cũng rất lớn. Do vậy, thần hay hiện hình oai phong
lẫm liệt, đi mây về gió, cưỡi rồng cưỡi ngựa, đi xe tứ
mã... đôi khi có cả triều thần hay quân lính theo hầu.
Cũng để ra oai thị uy và thể hiện cái tôi bản ngã mà
thôi.
Nhưng tâm các thần bị dính chấp ở nơi thần đã
sinh sống, nơi có duyên nợ với các thần. Và chỉ giúp
những người có duyên nợ với thần khi còn sống mà
thôi (có thể người này đã tái sinh thành người khác,
thân tướng khác nhưng thần vẫn tìm đến để giúp đỡ).
Nếu tâm Từ Bi nhỏ hẹp, số người có duyên nợ với
thần ít ỏi thì uy lực thần cũng bé và chỉ giúp được gia
đình họ hàng cháu con trong dòng tộc của thần mà
thôi. Tâm Từ Bi càng lớn và gieo duyên nợ với số
lượng lớn (ví như một vị vua lập quốc hay vị tướng
chống giặc ngoại xâm) thì vị thần đó sẽ là Phúc Thần

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 175


Uy Lực cai trị một cõi nước và cảm ứng với toàn bộ
dân ở cõi nước đó.
Kết luận: các vị Thiền Sư tài giỏi, có những Huyền
Môn giỏi, biết rõ quá khứ hiện tại vị lai, có thể làm
thay đổi được vận khí đất nước, Phúc rất lớn nhưng
khi thác chẳng bao giờ hiện ra hình tướng là vậy.
Nhưng tâm cảm ứng hướng thiện của Sư thì chan
hòa rộng khắp khiến cho Phúc của từng người dân
nơi đó dần dần tăng trưởng. Đôi khi ta có những
quyết định sáng suốt, làm một việc thiện lớn có khi là
do các Sư tâm truyền tâm đã ngầm giúp ta mà ta
không biết.

176 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


40.Cao Biền (821 - 887)

Cao Biền (821 - 887), tên tự Thiên Lý, là một


tướng lĩnh triều Đường, một nhân vật chính trị,
người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trị sở Tĩnh
Hải quân trong lịch sử Việt Nam. Thoạt đầu, ông trở
thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập
của Nam Chiếu, song sau đó ông đã thất bại trong
việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, quản lý yếu
kém Hoài Nam quân. Năm 887, một cuộc nổi dậy
chống lại ông đã dẫn đến cảnh giao chiến khốc liệt
tại Hoài Nam quân, kết quả là ông bị Tần Ngạn, Lã
Dụng Chi (cấp dưới) giam cầm rồi sát hại. (Theo Sử
Trung Hoa: Tư trị thông giám, Tư Mã Quang, nhà
Tống)
Huyền sử kể rằng: Cao Biền rất giỏi nghề địa lý.
Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo.
Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc (nhà
Đường) nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác
cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao
Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm
được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi
nhà Đường vững như bàn thạch.
Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen
ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn
cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của
hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm
mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai
biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói:
- Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc
của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 177
ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ
thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng
mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng
chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy.
Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên nhưng vốn
trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để
Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả
nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút
lông dùng cho triều đình.
Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang
đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi
lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn
vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục
chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho
sắp vơi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng
vào đá mà ngòi lông vẫn còn nguyên vẹn, Biền mừng
quá reo lên:
-Ta tìm được ngòi bút thần rồi!
Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên
mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn
(chấm mực vào vị trí mắt), rồng tự nhiên cuộn mình
được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên
trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc
của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác
và những con vật ấy đều hoạt động không khác gì
những con vật có thực.
Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng
bút thần nhúng mực điểm nhãn cho diều. Diều đập
cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa
vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua

178 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


muôn trùng núi sông sang đến nước Nam (thời đó
đang là thời Bắc thuộc lần 3, Việt Nam là Tĩnh Hải
Quận của nhà Đường).
Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất
quý. Quả nhiên không bao lâu, ông tìm thấy ở gần
một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh
Quảng Ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất
ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn
ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới
nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá
được.
Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung
sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại
thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại
đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn
hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho
rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội
phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng
hưởng phúc lâu dài. Nhưng muốn thực hiện công
việc "đại sự" này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu
không sẽ mất đầu như chơi.
Nghĩ vậy, Biền trở về Trung Quốc bảo người con
rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải
táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người
học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin
cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần
mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt
thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang
Nam.
Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo
học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 179
rồng, chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò
đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói
xương kia thì bỏ ở một bên mép.
Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống
lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên,
sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt.
Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại
thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn
nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai
năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới
huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung
Quốc.
Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa
là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên
con gái hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba bé trai,
mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi
biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt
màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng
quắc. Cả ba nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem
quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt.
Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người
thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của
Biền sợ quá, bảo vợ:
- Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì
khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua
cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế.
Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối người nhà
của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những
nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đất chuyển động.
ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một

180 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia từ
dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức
còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại
bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch.
Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn
mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này
diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ
cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công
việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn.
Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút
gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền
sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn
thì đạp đổ", nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp
nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long
mạch của nước này.
Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém
đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay
người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi
máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt.
Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày
nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt
đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh
núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối
gì còn mọc được.
Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất
quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho
rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to
được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa.
Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 181


nước Nam đều phát tích ở Thanh Hóa (vua Hồ Quý
Ly và vua Lê Lợi).
Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng
Đại Mỗ, tỉnh Hà Đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ
sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế
vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất,
đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình
xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa
thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không
một ai dám động đến nó.
Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính
hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc
gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn: một đầu buộc
vào khúc gỗ, còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi
voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên
cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa
phát hỏa tứ tung.
Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ
con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Điều
đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao
giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có
bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy.
Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ
từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh
tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả
những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã
trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức
bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành
gọi là thành Đại La để chặn long mạch.

182 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình.
Trên dãy núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại La (Sau
tích trấn ếm này của Cao Biền người ta đặt tên núi là
Bát Vạn để nhắc người đời sau về 8 vạn ngọn tháp
trấn ếm của Cao Biền), hắn cho dựng một cái đàn
tràng.
Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn
cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động
tám vạn quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo
xóc một cây tháp, đi từ Đại La tiến dần lên núi Bát
Vạn (núi có 99 ngọn khu vực làng Cổ Pháp, Đình
Bảng, Bắc Ninh, ngày nay mỗi ngọn đều có 1 ngôi
chùa: Tiêu Sơn, Phật Tích, chùa Dâu, Bút Tháp..đồi
Lim).
Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "Thống vận hoàng
đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn
quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại La.
(Về sau Thiền Sư La Quý (852 - 936) (Đời thứ 10,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi) đã nối lại Long Mạch ở 19
điểm bị đứt và có trồng một cây Miên (cây gạo đỏ) ở
chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt và làm bài thơ đặt
tại đó (sau nghiệm ra thì đó là Sấm Kí):
Đại sơn đầu rồng dấy
Đuôi to ẩn Châu Minh
Thập bát tử định thành
Cây gạo hiện hình rồng
Thỏ gà trong tháng chuột
Quyết thấy mặt trời lên.
(Đại sơn long đầu khởi

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 183


Cầu vỹ ẩn Chu Minh
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long hình
Thố kê thử ngoạt nội
Định kiến nhật xuất thanh.)
“Đại sơn” là núi Bát Vạn là đầu rồng, đuôi rồng ẩn
tại chùa Minh Châu có cây Gạo án giữ không cho rồng
bay mất. Thập bát tử là chữ Lý sẽ làm vua. Cây Gạo
hiện ngôi vua (về sau gây Gạo này bị sét đánh, tại vết
sét hiện ra bài Sấm ký, Sư Vạn Hạnh giải nghĩa ứng
với lịch sử Đại Việt 500 năm qua các đời Lý, Trần,
giặc Minh, Lê). Hai câu sau có nhắc đến: Tý (chuột),
Mão (lịch Tàu là Thỏ, lịch ta là Mèo), Dậu (gà) nếu có
thêm Ngọ vào thì sẽ vào Tứ Hành Xung Khắc rất xấu,
nhưng bỏ Ngọ đi thì lại là Ngũ Hành Tương Sinh (Dậu
là Kim sinh Thủy là Tý, Thủy sinh ra Mộc là Mão) về
hình tượng con vật thì Mèo ăn Chuột, Chuột ăn Gà...
lại là rất tốt. Mặt trời lên là “Thời vận thay đổi”.
Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại
càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân
chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết
hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào
miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. Ở đây người ta đã
chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là
mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng
tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng
thương, sau đó phải đưa về Trung Quốc.
Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh
Diều ở Ninh Bình. Cao Biền về nước được ít lâu bị
thủ hạ là Lã Dụng Chi dùng bùa phép gây mê hoặc
184 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mà chết. Người ta theo lời dặn của hắn, đem hài cốt
chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam, cứ như
bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. ở đó mặc dầu sóng dồi
gió dập thế nào đi nữa, cát ở mả vẫn cũng không bay
đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả
Cao Biền. Ngày nay chúng ta có câu ví:
“Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”
là ý nói nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, và thế
nào cũng thất bại.
(Tham khảo từ: 1 - Chuyển hoán lịch Trung-Tây
(năm 2000 do Viện Nghiên cứu Trung ương (Đài
Loan) xuất bản), 2 - Tư trị thông giám quyển 250-
257 (Bộ sử Trung Quốc được viết đời Tống tác giả
Tư Mã Quang), 3 - Bách khoa toàn thư mở Tiếng
Việt - Wikipedia)
Lời bình: Cao Biền thông minh tài giỏi Huyền Môn
học cao thâm nhưng nhằm đúng lúc vận nước Nam
đang thịnh nên trước khi Cao Biền sinh ra đời 91 năm
đã có Thiền Sư Định Không đoán biết sự tình
Ngay sau khi Cao Biền trấn ếm vùng đất Cổ Pháp
thì 31 năm sau đã có vị Thiền Sư La Quý hóa giải xong
toàn bộ trấn ếm, lại còn khóa hình Long Mạch án giữ
đuôi Rồng. Thế mới biết núi đã cao lại còn có những
núi cao hơn.
Huyền Môn học và Pháp thuật không thể thay đổi
được mệnh trời. Cao Biền tài giỏi mấy cũng chỉ nhìn
thấy được hình Long Mạch, đoán biết được thời điểm
Rồng khai môn (mở miệng) mà thôi. Còn có thể táng
được mả tổ vào đó thì lại là chuyện hoàn toàn khác.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 185


Tả Ao cũng vậy, Huyền Môn của Tả Ao cũng không
hề kém cạnh nhưng khi mang hài cốt cha mẹ đến
đúng vị trí Rồng bắt đầu mở miệng thì tự dưng một
trận gió to cát bụi bay mù trời ập đến, khi hết trận gió
thì thế đất đã thay đổi và Rồng đã khép miệng. Tài
giỏi như Gia Cát Võ Hầu còn phải than rằng: “Người
tính không bằng trời tính” là vậy.
Rồi gieo Nhân gì thì gặp Quả báo nấy. Cao Biền cả
đời trấn trấn ếm ếm tà môn dị thuật cuối đời bị chết
bởi tà môn của thuộc hạ Lã Dụng Chi. Ở đây tôi không
muốn bàn Cao Biền và Lã Dụng Chi ai cao ai thấp, mà
tôi chỉ muốn nói: “Khi nghiệp đã đổ, quả báo đã đến
hồi phải trả thì có đào hầm trú ẩn, hay giam mình
trong phòng kín cũng bị nghiệm đến đòi”. Đức Phật có
tam bất năng, một trong số đó là: “Định nghiệp chúng
sinh tức là nghiệp đã đến cửa thì Phật không thể
cứu”.
Rồi Tả Ao cả đời xem đất cắm trạch khai môn,
mang tiếng giúp đời giúp người mà không dạy cái
đức, tăng trưởng cái phúc thì làm sao đặng. Cuối đời
cũng bị chết vất va vất vưởng giữa đường và an táng
tạm bợ vào gò đất ven đường, thật buồn lắm thay.

186 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


41.Nói về Cao Biền, lại bàn về Long Mạch

Chắc các bạn đọc cuốn sách này thì đa phần cũng
tin vào một số Y lý Đông Y mà không thể dùng khoa
học chứng minh được như: châm cứu, diện chẩn, xoa
bóp, bấm huyệt... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật
đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch,
huyệt, lạc trong cơ thể con người.
Người ta xác định được hàng ngàn vị trí huyệt đạo
trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp
khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm
vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông
sâu khác nhau.
Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,
điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của
cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn
là bộ phận đó không còn sử dụng được.
Các nhà khoa học Tây Y muốn tìm hiểu huyệt đạo
bằng phẫu thuật. Thì sau khi mổ cơ thể bệnh nhân
ra, nghiên cứu tại các vị trí huyệt đạo thấy không
khác gì các vị trí khác. Ở đó không tập chung dây
thần kinh, không dẫn thần kinh đến các vị trí có tác
dụng... nhưng thực tế thì châm cứu vào vị trí đó thì
khỏi bệnh.
Ta vẫn biết rằng Thiên, Địa, Nhân là hợp nhất. Mọi
vật thể từ vi mô cho đến vĩ mô đều phải tuân theo
những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Do
vậy trên Trái Đất này cũng sẽ có những đường kinh
mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái
Đất này là một cơ thể sống, chứ không phải là một
khối vật chất chết như nhiều người lầm tưởng.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 187
Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng: Tại một
điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào
đó để ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long
Mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa
gọi là trấn ếm cũng giống như châm cứu vào đúng
huyệt trên cơ thể người vậy.
Nhưng Cao Biền giỏi về Địa Cát Trạch xem thế đất,
tìm long mạch, trấn ếm, lúc thắt lúc mở, tạo thịnh tạo
suy... nhưng đó chỉ giỏi về Địa mà thôi.
Tổng hòa của Vũ Trụ phải bao gồm đầy đủ 3 yếu
tố: Thiên, Địa, Nhân. Xem địa và cải địa là thuật
phong thủy. Xem thiên và cải thiên là thuật của tử vi
lý số, chiêm tinh học. Xem nhân và cải vận là Nhân
Tướng Học và Đắc Nhân Tâm hay thuật ứng nhân xử
thế.
Ba yếu tố Thiên Thời - Địa Lợi - Nhân Hòa phải
đạt được sự hài hòa cả ba mới thành. Ví như một
chiếc kiềng 3 chân, nếu cả 3 chân đều chắc khỏe cao
bền thì vô cùng vững trãi. Nếu một trong 3 chân đó
bị yếu, gãy, gục thì toàn bộ sẽ đổ vỡ. Một người giỏi
thiên, giỏi địa, am hiểu rõ trời đất mà tâm tính không
tốt, ác độc, bị trên ghét, dưới thù oán thì không thể
thành được và Cao Biền là một ví dụ điển hình của
sự thiếu hụt yếu tốt Nhân Hòa.
Thiên Thời - Địa Lợi - Nhân Hòa như đã nói thì
Thiên Thời là thời cơ, vận mệnh, số mệnh do trời
mang đến. Địa Lợi là các vấn đề về tâm linh, thờ
cúng, lễ bái, phong thủy. Nhân Hòa là lòng người
hiền hòa thánh thiện tạo phúc tích đức sâu dày.
Trong 3 yếu tố trên thì Nhân Hòa là trung tâm là yếu
tố quyết định nên có câu rằng: “Đức năng thắng số”.
188 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Thiên thời chỉ là Dương trợ, Địa lợi chỉ là Âm phù và
đó là 2 yếu tố phù trợ cho Nhân mà thôi.
Triết học phương đông với những vị học giả nổi
tiếng mọi người kính phục tôn là Bậc Thánh Nhân và
lập đền thờ đều là các vị dạy Đạo Đức con người ví
như: Khổng Tử với đạo người Quân Tử (Nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín) hay Đức Phật Thích Ca với đạo Từ, Bi, Hỉ,
Xả... mặc dù các vị này cũng vô cùng giỏi về trời, về
đất, giỏi về Huyền môn Phép thuật. Nhưng cái gốc để
giúp mọi người đi lên lại là Nhân Đức chứ không
phải là Thiên Địa.
Nhân tướng học có câu“Tướng tự tâm sinh -
Tướng vi tâm diệt” để thay đổi nhân tướng thì ta chỉ
cần thay đổi tâm của mình, tướng sẽ thay đổi và trời
đất, thời vận sẽ đồng hòa cùng thay đổi theo.
Nói thì dễ, nhưng làm mới khó, tâm người đâu dễ
thay đổi, ai tham thì vẫn tham, ai ác độc thì vẫn ác
độc, rồi ích kỉ, nhỏ nhen, cố chấp, kiêu ngạo...tất cả
các thói xấu đó chẳng hề dễ thay đổi. Do vậy mới có
câu: “Non sông dễ đổi, bản tánh khó rời”.
Từ xưa đến nay, thay vì tự sửa lấy tâm của mình
cho Đạo Đức được dày, Phúc Lộc được lớn thì người
ta lại chọn cách làm là: chỉnh sửa tử vi lá số, ngày
giờ, ngũ hành, bát quái, phong thủy, linh vật... để
được may mắn và thành công. Nhưng họ đâu biết
rằng đó chỉ là sửa ngọn mà thôi.
Có câu rằng: ”Đức trọng quỷ thần kinh” một người
với Uy Đức to lớn như núi thái sơn thì Thần và Trời
phải nể phục. Khi đó thế đất đẹp, vận số tốt sẽ tự tìm
đến với họ.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 189


Trong Lịch Sử Việt Nam có những đời vua Tài
Năng phi thường nhưng Đức không dày nên thời đại
chỉ tồn tại trong thời gian ngắn như: An Dương
Vương với thành Cổ Loa, Nỏ Thần Liên Châu là kỳ
quan quân sự thời bấy giờ nhưng chỉ tồn tại 50 năm.
Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán nhưng nhà Ngô
chỉ tồn tại được 36 năm. Lê Hoàn đánh tan quân
Tống dễ như lấy đồ trong túi nhưng nhà Tiền Lê chỉ
tồn tại 29 năm. Quang Trung Nguyễn Huệ đánh 30
vạn quân Mãn Thanh, đánh tan tập đoàn Lê Trịnh,
đánh tan quân chúa Nguyễn, mở ra một đất nước
Việt Nam rộng từ bắc vào nam ra tận đảo Phú Quốc.
Nhưng nhà Tây Sơn chỉ tồn tại 3 năm.
Và có những vị vua Uy Đức rạng ngời tuy không
có những chiến công hiển hách khi bước lên làm vua
nhưng vì chữ Đức nên triều đại tồn tại bền lâu.
Lý Công Uẩn là một vị sư, đệ tử của Thiền Sư Vạn
Hạnh, con nuôi của Thiền Sư Lý Khánh Vân, được
triều đình nhất trí phong làm vua và nhà Lý tồn tại
225 năm.
Trần Cảnh phải thi hành theo đúng kịch bản của
chú ruột là Trần Thủ Độ đứng lên diễn vai vua. Trần
Cảnh không đồng ý và bỏ lên Yên Tử tu hành thì bị
Trần Thủ Độ ép về làm vua nếu không sẽ cho xây
kinh thành trên Yên Tử nên đành đau khổ về nhận
chức vua. Nhà Trần tồn tại 175 năm.
Lê Lợi tạo Phúc từ việc đánh tan giặc Minh sau 20
năm đày ải dân tộc Việt lầm than. Nhưng sau đó, Vua
gây dựng nhà Hậu Lê lấy Đức của đạo Khổng làm
gốc. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín thấm nhuần trong dân.
Vua chọn chức quan không bằng quan hệ họ hàng
190 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mà bằng thi cử Nho học. Nếu là người tài thì là trẻ
chăn trâu vẫn được kính trọng. Đổi trường Quốc Tử
Giám (trước chỉ dành cho Hoàng Tử) thành trường
đại học của toàn dân Việt. Trạng nguyên Việt Nam có
56 vị thì 40 vị là thời Hậu Lê. Ngày nay nhìn lại lịch
sử, các nhà sử học luôn đánh giá Lê Sơ là thời thái
bình thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhà Hậu
Lê tồn tại 360 năm.
Quay lại chuyện Cao Biền, thầy địa lý số một trong
lịch sử Việt Nam và Trung Quốc thì cuối đời bị chết
bởi bởi phép thuật của cấp dưới là Lã Dụng Chi. Tả
Ao là thầy địa lý số một của Việt Nam thời Lê Sơ cuối
đời bị chết giữa đường và an táng trên một gò đất
hoang ven đường.
Thật rằng: “Người tính không bằng trời tính” mà
trời thì sợ người có Đức: “Đức trọng quỷ thần kinh”
số mạng và thời vận sẽ thay đổi theo Đức của một
con người: “Đức năng thắng số”. Đó là những bài học
muôn đời cho những ai ỷ vào tài năng của mình mà
làm những điều thất đức.
Theo tôi, long mạch là có thật, hàm rồng là có thật
và cũng có những nhà phong thủy giỏi có khả năng
nhìn thấy long mạch tìm được hàm rồng. Cũng vậy,
thuật tử vi đoán số, thuật chiêm tinh học hay thuật
nhân tướng học là có thật. Và cũng có các vị thầy tử
vi giỏi, thầy tướng giỏi thấy rõ được tướng, thấy rõ
tử vi.
Nhưng thấy là một chuyện, cải số lại là một
chuyện hoàn toàn khác nhau. Đừng khờ dại mà nghĩ
rằng: “Họ thấy được dễ dàng thì họ cải số cũng dễ
dàng”.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 191
Các vị ấy nhìn thấy được phong thủy, thấy số
mạng, thấy nhân tướng cũng như người thường có
mắt không mù, thì nhìn thấy cái cây có cành có lá,
hoa và quả (đó là phần Dương của cái cây). Nhưng
bảo rằng “muốn có trái ngọt để ăn” thì đừng có tìm
cách “cải sửa phần Dương” như: uốn cây, bẻ cành,
ngắt lá... để hi vọng có trái ngọt.
Muốn sửa cái cây để có trái ngọt thì phải “cải sửa
phần Âm” cái mà mắt thường không thể nhìn thấy,
đó là: tìm hạt giống tốt, gieo trồng ở vùng đất tốt, khí
hậu thuận lợi và thường xuyên chăm bón tưới gốc...
cuối cùng sẽ được trái ngọt.
Các vị Huyền Môn thấy được phần Dương chỉ
đoán được quả ngọt hay chua mà thôi. Để sửa chữa
và cải số thì quan trọng là phải chăm sóc nấy cái
phần Âm mới thành. Người ta gọi đó là Âm Đức hay
Phúc Âm.
Có những người chẳng có tài năng đoán biết số
mạng gì cả, mà đơn giản họ chỉ cần biết chọn hạt
giống tốt, gieo trồng vào vùng đất tốt và chăm sóc
tưới nước bón phân cẩn thận... cuối cùng cũng sẽ có
ăn mà giàu có. Điển hình là toàn bộ các nước Tây
Phương, Huyền môn dị thuật của họ gần như không
có. Nhưng họ vẫn vô cùng giàu và luôn là những
nước hạnh phúc nhất thế giới chính là vì vậy.
Rồi có nước mà dân ở đó chỉ sống theo cái đức đã
ăn sâu thành văn hóa dân tộc như Nhật Bản. Thấm
nhuần Đạo Đức nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
“Ngũ thường” này nước Nhật không thiếu một điểm
nào. Nên một đất nước tài nguyên không có, động
đất, núi lửa, bão lụt triền miên mà vẫn giàu nhất nhì
192 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính trọng họ chỉ vì cái
Đức.
Rồi các nước Bắc Âu lạnh giá, nhưng dân ở đó
cũng thấm nhuần Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, mà bản
thân họ cũng không biết nho giáo là gì. Nhưng cái
gốc Đạo Đức thì không có tên là Nho hay Phật và
cũng không có hình tướng. Những nước này hàng
nghìn năm không chiến tranh, GDP đầu người cao
nhất thế giới, luôn là những nước đứng đầu thế giới
về chỉ số hạnh phúc.
Kết luận, để thay đổi mệnh trời, thay đổi vận số
thì không thể dùng tài năng chỉnh sửa mà phải cải
biến cái Âm Đức. Nên những ai có khả năng phong
thủy, biết tử vi lý số, biết xem tướng pháp... và có
một số thuật chuyên ngành để hoán vận, cải số thì
bên cạnh việc làm chuyên ngành, còn nên khuyên
thân chủ tích Phúc tạo Đức thì vận số mới đổi. Và
biết rằng Phúc và Đức là phần Âm, quan trọng hơn
phần Dương là Huyền môn, Tà thuật và Mưu kế.
Nhưng nhờ thấy phần Dương mà định hình hướng đi
cải tạo phần Âm cũng là một tài năng ít người có.
Còn nếu như chỉ ỷ vào tài năng Huyền thuật, chỉ
dùng trấn ếm phong thủy, chỉnh sửa nhan sắc hợp
nhân tướng, chọn ngày giờ tuổi số, ngũ hành, bát
quái hợp tử vi... và hoàn toàn bỏ qua Âm Đức thì
chắc chắn sẽ thất bại.
Đôi điều cảm nghĩ của Soạn Giả
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 193


42.Cao Biền, Cao Lỗ, ếm Tản Viên (821 - 887)

Tướng quân họ Cao tên Lỗ, là người huyện Vũ


Ninh. Thời An Dương Vương, tướng quân được vuốt
Thần Kim Quy bèn chế ra nỏ Linh Quang thần cơ, cứ
đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám
đến gần. Tướng quân từng nhiều lần đánh lui được
giặc Tần lên đến 50 vạn, lập nên công lớn. Sau do can
dán vua gả con gái cho giặc và bị Lạc hầu dèm pha
rồi trừ bỏ.
Khi Cao Biền dẹp quân Nam Chiếu trở về, qua
châu Vũ Ninh, tới một chỗ, đêm nằm mộng thấy có
một dị nhân mình dài chín thước, diện mạo cương
nghị, búi tóc, mặc áo đỏ, tự xưng họ tên mà nói rằng:
- Ta ngày trước phò tá An Dương Vương, giết
giặc lập đại công, bị Lạc hầu dèm pha mà trừ
bỏ. Sau khi ta chết, thượng đế thương tình vô
tội, một lòng trung liệt nên phong cho làm Quản
lĩnh đô thống tướng quân ở một giải sơn hà
này. Phàm việc chinh phạt giặc cướp và cày cấy
nông tang ta đều đứng chủ trương. Ngày nay,
ta theo ngài dẹp yên nghịch tặc, thiên hạ lại
được yên ổn. Ngài trở về bản bộ, nếu không cáo
tạ là trái lễ đó!
Biền lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì mà Lạc hầu ghen ghét.
Dị nhân đáp:
- Việc uẩn khúc, không tiện tiết lộ.
Biền nài hỏi mấy lần nữa. Ngài đáp:
- An Dương Vương là tinh phượng vàng, Lạc Hầu
là tinh vượn trắng, phượng và vượn tương hợp,

194 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ta là tinh rồng xanh, phượng với rồng tương
khắc, vì thế mà ghen ghét.
Nói xong cưỡi mây mà đi. Biền tỉnh mộng, bụng
còn ghi tên Vũ Ninh, bèn nói cho bộ hạ biết và tự
ngâm câu thơ rằng:
Đẹp thay cảnh Giao Châu,
Dằng dặc ngàn năm lâu.
Thần xưa rày được gặp,
Quyết chẳng phụ lòng nhau.
(bản dịch ý)
Lại ngâm rằng:
Trăm Việt vững phong cương,
Ba quân dẹp chiến trường.
Thần tiên phù chính nghĩa,
Muôn năm vững triều Đường.
(bản dịch ý)
Kẻ theo hầu là Cao Viên chúc mừng Biền rằng:
Kiên cố non sông Việt,
Thanh tân nhân vật Đường.
Họ Cao cao chí khí
Phù trợ có Long Vương.
Nam Việt non sông đẹp,
Long thần khí phách kinh,
Người Giao đừng cau trán,
Nay lại thấy thăng bình.
(bản dịch ý)
Cao Biền bèn gia phong mỹ tự cho thần - nay là
Đại Than Đô Lỗ thạch thần, quanh năm hương lửa
không dứt.
Đoạn sau, Cao Biền muốn ếm Tản Viên Sơn
Thánh, bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 195
tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần
vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử
động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh
lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó
để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi
ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi.
Biền than rằng:
- Linh khí ở phương Nam không thể lường được.
Cái vượng khí đời nào hết được!
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Truyện tích này chỉ kể lại cảnh Cao Biền
gặp các Phúc Thần nước Nam mà sinh lòng cảm phục.
Thiết nghĩ, trấn ếm thần linh ví như giọt nước rớt vào
cái ly. Nếu số trời đã định, vận nước đến hồi, ly nước
đã đầy thì Huyền môn dị thuật là một giọt nước tràn
ly. Nếu thời vận không đến thì Huyền môn di thuật chỉ
như muối bỏ biển mà thôi, chẳng thể nào thành.

196 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


43.Cao Biền và Thần Tô Lịch (821 - 887)

Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là


Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường Khánh
(Nhâm Dần 822), vua Mục Tông nhà Đường dùng
Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa
thành có dòng nước ngược, sợ rằng dân ở thành có ý
đồ phản nghịch, liền sai thầy bói gieo một quẻ. Thầy
bói nói rằng:
- Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm
sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà
xây dựng Vương phủ.
Tới đời vua Đường Y Tôn (841-873), Cao Biền
được cử sang đất Việt làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền là
một con người đa hiệu: vừa là một tướng, một nhà
phù thủy, một đạo sĩ, cũng là một nhà phong thủy có
tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại
cho hợp phong thủy vào các năm 866, 867, 868.
Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành
Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.
Cao Biền liền tiến hành trấn ếm Thần sông Tô Lịch
và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch Mã, núi
Tản Viên. Sau đó việc xây dựng mới có thể hoàn tất.
(Có tích nói rằng Cao Biền nằm mơ thấy thần Long Độ
cưỡi ngựa trắng (Bạch Mã) chạy vòng quanh một
vòng lớn đến khu vực đền Bạch Mã ngày nay (Phố
Hàng Buồm, Hà Nội) thì biến mất, sau đó Biền liền
theo vị trí đó mà xây thành thì không bị sụp lở).
Hồi đó đang giữa tháng sáu nước mưa lên cao:
Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào tiểu giang đi
khoảng một dặm, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 197
phơ, dung mạo dị kỳ, tắm ở giữa dòng sông, cười nói
tự nhiên. Biền hỏi họ tên. Đáp rằng:
- Ta họ Tô tên Lịch.
Biền lại hỏi:
- Nhà ở đâu?
Đáp rằng:
- Nhà ở trong sông này.
Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng
nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt
tên sông là Tô Lịch.
Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô
Giang, phía đông thành Đại La, thấy trận gió lớn nổi
lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, có một
dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng,
mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng
rực rỡ một khoảng trời, chập chờn lên xuống trên
khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy
còn mù mịt, Biền rất kinh dị, muốn ếm thần.
Đêm nằm mộng thấy thần nhân tới nói rằng:
- Chớ ếm ta, ta là Tinh Long Đỗ, đứng đầu các địa
linh, ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp,
cho nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép?
Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm
chú, lấy kim đồng thiết phù để ếm. Đến hôm ấy, sấm
động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần
tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh
khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành
tro, bay tan trên không. Biền càng kinh hãi, than
rằng:

198 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ
cho ta.
Sau Ý Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết
bởi thuộc hạ là Tần Ngạn, Lã Dụng Chi và Cao Tàm
được cử sang thay.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Các truyện tích này cũng chỉ nói lên một
điều là Cao Biền có thuật Huyền môn kì ảo nhưng
cũng không khắc chế được các vị thần nhân Nước
Nam. Mà gieo gió thì gặp bão, cả đời trấn ếm làm trò
phù thủy, đến cuối đời lại bị chết bởi chính trò phù
thủy.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 199


44.Cao Biền (821 - 887) Tiên Du,
Trâu Vàng

Vào đời thượng cổ, có người Vương Chất, đi đốn


củi trong núi gặp hai tiên đồng đang đánh cờ. Tiên
đồng cho Chất một hạt táo. Chất ăn khỏi đói mà gác
rìu ngồi xem đánh cờ. Tiên đồng bảo Chất:
- Cán rìu của ngươi nát rồi.
Chất cúi xuống, lúc ngẩng lên thì không thấy tiên
đồng đâu. Kịp đến khi trở về nhà, thì không còn gặp
lại những người thân cũ ở trần gian nữa.
Do tích đó, người đời bèn gọi quả núi này là núi
“Lạn Kha” nghĩa là Rìu Nát, hay còn gọi là núi Tiên
Du, rồi nhân lấy tên ấy để đặt tên huyện. Ở huyện
Tiên Du tỉnh Bắc Ninh nay vẫn còn vết cũ.
Núi Tiên Du có tinh Trâu Vàng (Kim Ngưu), nửa
đêm thường tỏa ra ánh sáng. Có nhà sư lấy tích
trượng ếm lên trán trâu. Trâu vàng bỏ chạy húc vào
đất làm sút thành cái hồ, nơi này hay gọi là thôn Húc.
Trâu chạy đến địa phận Văn Giang, vì vậy ở đây có
cái vũng lớn gọi là Vũng Trâu Đầm. Trâu chạy qua
các xã: Như Phượng, Như Loan, Đại Lạn, Đa Ngưu.
Các xã này sở dĩ có tên như vậy vì có vết chân trâu đi
tới.
Trâu lại từ trong bến ra sông Cái đến Ninh Giang,
đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới sông Tô
Lịch, chỗ ấy chính là Tây Hồ.
Người đời truyền tụng rằng Cao Biền giỏi thuật
số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên
không trung để ếm các nơi thắng cảnh long mạch.

200 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Biền thấy Trâu đi vào hồ Dâm Đàm (tên cũ của Hồ
Tây), rồi thoát không thấy trâu đâu nữa. Trên đường
trâu chạy khắp nơi biến thành khe, ngòi, rãnh, lạch.
Người xưa đã có thở rằng:
Kim ngưu do ẩn tại hồ trung
Thủy hạt nan tầm, bất kiến tung
Đại Việt Nam an tồn thánh chủ
Cao Biền hạ bút hận vô cùng.
Dịch nghĩa:
Trâu Vàng còn ẩn mãi giữa hồ
Nước cạn muốn tìm chẳng thấy tung
Nước Việt bình yên là nhờ thánh
Cao Biền hạ bút hận còn sâu.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Có tích khác về Kim Ngưu rằng: Thiền Sư
Nguyễn Minh Không sang Trung Quốc muốn lấy đồng
đen về đúc Tứ Đại Pháp Khí trấn giữ nơi nước Nam.
Sư vào trong cung vua Tống thấy có một con trâu đúc
bằng vàng to lớn dị thường.
Vua Tống thấy sư già yếu mà đi một mình đến xin
đồng trong kho nên hứa rằng: “Sức Sư lấy được bao
nhiêu thì lấy vua sẽ cho”.
Không ngờ Minh Không lấy tay nải mà làm phép vơ
hết đồng đen trong kho của vua Tống mang về Tây Hồ
đúc chuông đồng, đánh lên một hồi thì Trâu Vàng ở
cung vua Tống nghe thấy liền chạy sang nước Việt
đến Hồ Tây thì biến mất.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 201


Cao Biền sinh 821 thời nhà Đường Trung Hoa, Lý
Quốc Sư sinh 1076 thời nhà Tống Trung Hoa cách
nhau 250 năm. Xét theo niên đại thì có sự sai lệch lớn.
Nên tôi cũng có những hồ nghi về tích này.
Còn tích tiên du và rìu nát giống như truyện Từ
Thức gặp tiên, xem đánh cờ ở cõi trời mà trần gian đã
trải qua mấy trăm năm. Từ Thức gặp tiên du hí một
ngày mà về trần gian đã mất vài ba kiếp. Trong các
truyện tích của Đạo Phật luôn nhắc đến cõi trời Phạm
Thiên, cõi trời Đế Thích, cõi trời 33 vị thiên vương...
Trong mỗi cõi đó thì thân tướng các vị to lớn, thời
gian rất lâu... tùy theo Phúc các vị mà ứng hiện nơi cõi
nước đó như vậy. Chúng ta đọc truyện tích này thì hồ
nghi nhưng rất nhiều tích truyện ở các nền văn hóa
khác nhau, thời đại khác nhau nhưng đều có chung
một nhận định: Cõi trời và cõi tâm linh thời gian khác
cõi người.

202 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


45.Thấy trấn ếm Cao Biền ở sông
Tô Lịch (2001)

Vào ngày 27-9-2001, đội thi công số 12 thuộc


Công ty xây dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô
Lịch, thuộc địa phận làng An Phú (phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội) đã phát hiện được di vật cổ
rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng
dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có
các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc
gỗ. Ngoài ra, còn phát hiện được tấm gỗ vàng tâm có
hình bát quái, một số đồ gốm, xương voi, ngựa, dao,
tiền đồng...
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài
cốt đem lên Bát Bạt (Hà Tây) là nghĩa trang chôn cất
chung của Tp. Hà Nội, thấy có rất nhiều hiện tượng
kỳ lạ xảy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi
công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao
xuống sông; nào là một số người đang làm việc tự
nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi
thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất ý thức trong
nhiều giờ; địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên
biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; thử đưa
la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiện
ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây
dựng số 12 là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên.
Bản thân, gia đình, anh em của những người công
nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng
dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như
chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 203


có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc
tại công trường nữa. Trong số đó có nhiều người
không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà
đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9-10-2001 những người thợ đã mời một
thầy theo đạo Tứ Phủ đến giải thích, theo nhận định
của thầy thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ
được chôn ếm lâu đời để trấn ếm Long Mạch của
khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời
Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích
Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ hàn
lại Long Mạch. Chỉ hơn một tháng sau, Thượng tọa
Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.
Trích lời ông Nguyễn Hùng Cường, đội trưởng thi
công nạo vét số 12 có đăng trên các báo VnExpress
(24/4/2007) và các báo Tiền Phong, NLĐ, Gia đình
Xã hội về cái chết của GS Trần Quốc Vượng và
Thượng tọa Thích Viên Thành (Chùa Hương).
“Khách mang tiền đến, chưa kịp đếm tiền thì thật
là kinh hãi, chiếc tước không ai đụng tay vào tự nhiên
vỡ đôi, rồi vỡ vụn. Khách co giò bỏ chạy. Ngay sau đó
tôi cũng sợ hãi quá, mang nốt mấy cái đồ cổ còn lại ra
Hà Nội gặp GS Trần Quốc Vượng và cho hết ông. GS
Trần Quốc Vượng lúc đó vừa lấy vợ mới đang rất vui
vẻ, ông cứ cười tôi về sự yếu bóng vía. Ông giải thích
cho tôi là đồ ngâm lâu dưới nước, khi đưa ra ngoài
không khí nước bốc hơi làm cho gốm bở ra rất dễ vỡ,
nhắc lên nhắc xuống nhiều nó sẽ tự nứt vỡ. Chuyện
cái tước không có gì liên quan đến tâm linh. Tôi thì
quá sợ nên không dám giữ một món đồ nào nữa. Tôi
không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với GS
204 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Trần Quốc Vượng, vì chỉ ít lâu sau ông mất đột ngột.
Trong thâm tâm tôi có cảm giác mấy món đồ cổ từ
trận đồ trấn ếm đã làm hại ông. Tôi cũng nhớ ông có
xin mấy món đồ lúc ông đến công trình”.
"Đến tháng 11/2001 nhờ tích cực vận động, tôi đã
mời được Thượng toạ Thích Viên Thành ở Chùa
Hương về làm lễ cúng cho tôi ở hiện trường. Vừa đến
hiện trường, thầy đã ngồi xuống nhắm mắt niệm
Phật. Niệm một lúc thầy đứng lên nói: Đây là trận đồ
trấn ếm rất nguy hiểm; Vì vậy các đệ tử thầy sẽ lập
đàn tràng hoá giải. Sau đó thầy lập đàn tràng ở bờ
sông hoá giải trấn ếm. Lễ xong, thầy Thích Viên
Thành nói với mọi người: “Mặc dù thầy đã cố hoá giải
nhưng anh em phải cẩn thận, còn anh Cường thì phải
chịu nhiều hậu quả, gia đình, anh em con cháu cũng
gặp hoạ”. Rồi buồn buồn thầy nói: “Vì cái đàn tràng
này tính mạng thầy cũng khó giữ”. Ba tháng sau, thầy
Thích Viên Thành hoá. Các đệ tử nói thầy mất vì trận
đồ trấn ếm ở sông Tô Lịch”.
Hướng giải thích 1: căn cứ theo niên đại của đồ
gốm và tiền cổ
Căn cứ theo niên đại các đồ gốm cổ khai quật ở
đây thì các nhà Khoa Học và Khảo Cổ Việt Nam có
kết luận như sau:
“Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên
đại của tiền cổ và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của
điểm Trấn ếm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến thế
kỷ 14, thuộc vào thời Lý Việt Nam ngang với thời
Tống của Trung Quốc.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 205


Trước đây, cổng Hoàng Thành ngoài lính canh gác
còn có Thần trấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ Trấn) và
có ếm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy, đây là
cổng thành phía Tây của La Thành.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô
bị lở do đổi dòng, mắt vua Lý Nhân Tông bị đau và sự
tích Ông bà Dầu bị hiến sinh mà oán thán hiện hình về
nguyền rủa vua tôi nhà Lý và nguyền Sông Tô Lịch và
Sông Thiên Phù bị co hẹp lại.
Vua Lý Nhân Tông hoảng sợ đã mời pháp sư giỏi về
trấn ếm ông bà Dầu nơi con sông Tô Lịch”.
Hướng giải thích 2: Đây là điểm Cao Biền trấn
ếm dọc trên dòng sông Tô Lịch.
Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của
thành Cổ Loa khi An Dương Vương xây dựng, sự sụp
đất của thành Đại La khi Cao Biền xây dựng (Đại La
tên cũ của thành Thăng Long) và sự sụp lở đất không
thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô
Lịch 2001? (Thành Cổ Loa chỉ cách thành Thăng
Long khoảng 10km tính theo đường thẳng)
Bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta
phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu
nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa (huyện Đông
Anh - Hà Nội) là một vùng đất có địa tầng địa chất
không ổn định.
Ta cũng cần phải nhớ rằng, núi Tản Viên nằm ở
hướng Tây Hà Nội nơi ngự của Tản Viên Sơn Thánh
là một trong Tứ Thánh Bất Tử của Việt Nam nơi đây
từ ngàn xưa luôn được coi là Tổ Sơn là địa linh của
đất nước.

206 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một
vùng núi non trùng điệp thuộc các tỉnh Hòa Bình,
Sơn La, Lai Châu...
Theo các nhà Phong Thủy quan niệm thì Long
Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó
khởi nguồn Long Mạch gọi là “Tổ Sơn”. Ngoài ra
Long Mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi
là “Thiếu Sơn”. Thiên Khí từ trên trời luôn có tính
chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những anten
tiếp thu Sinh Khí.
Từ những lập luận trên ta cảm nhận được rằng có
một Long Mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và
các rặng núi phía Tây, Tây Bắc của Thành Đại La, kéo
dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (Khí
thường đi theo nước), chạy qua khu vực Hồ Tây bây
giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông
Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa (huyện
Đông Anh - Hà Nội) và còn theo hướng Đông, Đông
Bắc đi tiếp qua vùng núi Bát Vạn, Bắc Ninh rồi có thể
kéo đến tận Yên Tử.
Một điểm lưu ý nữa là Núi Nùng xưa kia còn có
tên là Long Độ (rốn rồng). Vị Thần được thờ trong
đền Bạch Mã là thần Long Độ.
Chính vì có Long Mạch này mà Cao Biền phải vô
cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc trấn ếm.
Có rất nhiều truyền thuyết về Cao Biền trấn ếm
Long Mạch này:
Cao Biền muốn ếm Tản Viên Sơn Thánh, bèn mổ
bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi,
nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 207


trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung
kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần
đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại
vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở
trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi.
Có Truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt,
đồng... chôn để trấn ếm đền Bạch Mã là nơi vị Thần
Long Độ trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn
tràng, dùng 4 thứ kim loại: sắt, đồng, vàng, bạc để
trấn ếm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch, thần Tô Lịch
đã làm ra trận cuồng phong, tất cả các kim đồng thiết
phù bật ra khỏi đất biến thành tro bụi.
Và 19 điểm bị cắt ở đường Long Mạch đến đỉnh
núi Bát Vạn đã được Thiền Sư La Quý hóa giải kết
nối và còn trồng cây Gạo ở vị trí đuôi rồng tại chùa
Minh Châu để án giữ.
Vậy ta có hai kết luận như sau:
1 - Căn cứ theo niên đại và họa tiết, hoa văn đồ
gốm sứ và tiền cổ cùng các truyện tích vua Trần
Nhân Tông đau mắt đã hiến sinh ông bà Dầu để chữa
bệnh sau đó bị oán phải lập đền thờ và trấn ếm ông
bà Dầu. Nên đây có thể là điểm trấn ếm tinh ông bà
Dầu của vua Trần chứ không phải là của Cao Biền.
2 - Căn cứ theo truyện tích Huyền Sử về Cao Biền
xây thành Đại La đã dùng rất nhiều Huyền môn dị
học để trấn ếm dọc theo dòng sông Tô Lịch và các
điểm khác trong thành Đại La thì rất có thể đây mà
một trong những điểm đó.

208 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


(Tham khảo từ: Hệ thống các bài phân tích
“Thánh Vật Sông Tô Lịch” được đăng trên các báo
Tiền Phong, NLĐ)
Lời bình: Với hai kết luận trên tôi xin có ý kiến cá
nhân như sau:
Các Huyền môn dị thuật trấn ếm của Cao Biền gần
như đã được các vị cao tăng thời Lý phá gỡ và hóa
giải hết. Thiền Sư La Quý cũng đã nói rõ: “19 điểm
trấn ếm cắt đứt long mạch của Cao Biền đã được lấp
lại như xưa”. Khi vua Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng
Long thì có sư phụ là Thiền Sư Vạn Hạnh vô cùng tài
giỏi. Đời vua Lý sau có các vị Thiền Sư phép thuật cao
minh như: Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh... nên
chắc chắn các thuật Huyền môn của Cao Biền trấn ếm
ở ngay Kinh thành Thăng Long là không thể qua mắt
được các vị.
Còn điểm trấn ếm của vua Lý Nhân Tông thời đó
không phải liên quan đến vận nước, chỉ để ếm bùa
tinh ma ông bà Dầu mà thôi nên cũng chẳng ai mà
chú ý hóa giải cả. Ngoài ra vua đã trấn ếm thì không
ai dám mà đến phá kẻo bị chu di tam tộc. Bên cạnh đó
dữ liệu về khảo cổ học, khảo sát về niên đại đồng tiền
cổ, đồ gốm cổ và đưa ra kết luận là ở thế kỷ XI thật sự
rằng rất là thuyết phục đối với tôi.

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 209


46.Sư La Quí phá trấn ếm Cao Biền (852 -
936)

Thiền Sư La Quí (852 - 936) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-


ni-đa-lưu-chi). Sư họ Đinh người An Chân, đi du
phương từ thuở nhỏ, tham yết khắp các bậc thầy nổi
danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà
pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí. Sau gặp Thiền
sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng nói một câu,
tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại hầu hạ thầy.
Lúc Thiền sư Thông Thiện sắp tịch gọi Sư La Quí
đến bảo:
- Xưa thầy ta là Định Không từng dặn dò rằng:
“Con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ
Đinh sẽ truyền”. Ngươi gắng đảm đương lấy.
Nay ta đi vậy.
Sư đã được pháp tùy phương diễn hóa, chọn đất
cất chùa. Mỗi khi nói ra lời nào đều phù hợp sấm
ngữ. Sư tổ chức đúc tượng Lục Tổ bằng vàng tại chùa
Lục Tổ. Sau vì sợ trộm cướp nên đem chôn trước
cửa chùa. Sư di chúc rằng:
Gặp vua sáng thì hiện
Thấy chúa tối nên ẩn.
(Trị minh vương tắc xuất
Ngộ ám chúa tắc tàng.)
Sư trụ trì chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ
Thiên Đức.
Sắp tịch, Sư bảo đệ tử là Thiền Ông rằng:
- Thuở trước Cao Biền xây thành bên sông Tô
Lịch, vì biết vùng đất làng Cổ Pháp (Đình Bảng,
210 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Bắc Ninh, nơi sinh ra Lý Công Uẩn) có khí
tượng đế vương, nên cho đào đứt con sông
Điềm và những hồ ao liên hệ v.v... đến mười chín
chỗ để mà ếm đó. Nay ta đã sai Khúc Lãm lấp
lại như xưa. Lại ta có trồng một cây Miên (cây
Gạo) ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt. Biết
sau này ắt có vua hiền ra đời, để vun bồi chánh
pháp của ta. Sau khi ta tịch, ngươi nên đắp lên
một nền đất, xây lên ngọn tháp, lấy pháp để kín
trong ấy, chớ cho người thấy.
Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi,
nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường
(936).
Lúc trồng cây Miên (cây Gạo), Sư có làm bài kệ
Đại sơn đầu rồng dấy
Đuôi to ẩn Châu Minh
Thập bát tử định thành
Cây gạo hiện hình rồng
Thỏ gà trong tháng chuột
Quyết thấy mặt trời lên.
(Đại sơn long đầu khởi
Cầu vỹ ẩn Chu Minh
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long hình
Thố kê thử ngoạt nội
Định kiến nhật xuất thanh.)
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)

Chương 3: Thời Bắc Thuộc 211


Lời bình: Lịch sử đã trải qua 1300 năm, dữ liệu
Huyền sử để lại còn quá ít, nay chỉ còn các truyền
thuyết lưu truyền trong dân gian mà không được ghi
chép thành sách vở cẩn mật. Rất may trong hệ thống
đại tạng kinh Phật giáo Việt Nam còn lưu giữ được
những Sử Liệu khá chi tiết về các vị Thiền Sư. Trong
đó có rất nhiều vị bằng tài năng và pháp thuật của
mình đã làm thay đổi vận nước Đại Việt.
Sau đây tôi xin giải thích sấm kí của Thiền Sư La
Quý:
“Đại sơn” Núi lớn tức là núi Bát Vạn là đầu rồng,
đuôi rồng ẩn tại chùa Minh Châu có cây Gạo án giữ
không cho rồng bay đi. Thập Bát Tử là thành chữ Lý,
sẽ làm vua. Cây Gạo hiện ngôi vua (về sau gây Gạo
này bị sét đánh, tại vết sét hiện ra bài Sấm ký, Sư Vạn
Hạnh giải nghĩa ứng với lịch sử Đại Việt 500 năm qua
các đời Lý, Trần, giặc Minh, Hậu Lê). Hai câu sau có
nhắc đến: Tý (chuột), Mão (lịch tàu là Thỏ, lịch ta là
Mèo), Dậu (gà) nếu có thêm Ngọ vào thì sẽ vào Tứ
Hành Xung Khắc là xấu, nhưng bỏ Ngọ đi thì lại là
Ngũ Hành Tương Sinh (Dậu là Kim sinh Thủy là Tý,
Thủy sinh ra Mộc là Mão) về hình tượng con vật thì
Mèo ăn Chuột, Chuột ăn Gà là một vòng sinh khí là rất
tốt. “Mặt trời lên” là thời vận thay đổi, đất nước thái
bình, chấm dứt chiến tranh, đạo đức hiền hòa.

212 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chương 4: THỜI NGÔ, ĐINH, TIỀN LÊ

47.Họ Khúc mở đầu thời tự chủ


(905 - 923)

Họ Khúc là dòng họ nắm quyền cai trị Việt Nam


đầu thế kỷ X, mở đầu Thời kỳ tự chủ Việt Nam sau
hơn 1000 năm Bắc thuộc. Họ Khúc truyền nối làm
chức Tiết độ sứ gồm 3 đời: Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo,
Khúc Thừa Mỹ, cai trị từ năm 905 tới năm 923.
Đầu thế kỷ X, nhà Đường rơi vào tay quyền thần
Chu Ôn, các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết lẫn nhau,
tạo ra thế chia cắt 5 đời 10 nước (Ngũ Đại Thập
Quốc). Năm 905, ở Tĩnh Hải quân (tên gọi Việt Nam
lúc đó), Tiết độ sứ Độc Cô Tổn mới sang đã rất độc
ác mất lòng người, bị gọi là "Ngục Thượng thư"
(thượng thư ác). Tổn lại không cùng phe với Chu Ôn
nên chỉ vài tháng lại bị Chu Ôn dời tiếp ra đảo Hải
Nam và giết chết. Tĩnh Hải quân do đó không có
người cai quản.
Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên,
được dân chúng ủng hộ, đã tiến ra chiếm đóng phủ
thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự xưng là Tiết
độ sứ.
Sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên đất
Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính quyền
dựa trên danh xưng của chính quyền đô hộ nhà
Đường, nhưng thực chất là một chính quyền độc lập
và do người Việt quản lý. Ông khéo léo dùng danh
nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà
Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày 7
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 213
tháng 2 năm 906, vua Đường phong thêm cho Tĩnh
Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình
chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền
mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải
hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ
chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ.
Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên kế vị
và phong cho con là Khúc Thừa Mỹ làm "Tĩnh Hải
hành quân tư mã quyền tri lưu hậu" để kế vị. Nhà
Hậu Lương lên thay nhà Đường công nhận ông làm
"An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ". Khúc Hạo là nhà cai
trị ôn hoà nhưng rất vững vàng.
Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà
Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận
Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907.
Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại
phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn
kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ".
Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn
chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững vàng của Khúc
Hạo khiến họ Lưu không dám nhòm ngó tới phương
nam.
Năm 917, em của Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm (lên thay
từ năm 911) xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một
trong Mười nước thời Ngũ đại Thập quốc ở Trung
Quốc.
Cuối năm 917 Khúc Hạo mất. Khúc Thừa Mỹ lên
thay cha làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân. Ông không
tiếp tục chính sách "khoan thứ sức dân" mà Khúc
Hạo đã áp dụng. Nhân dân tại Tĩnh Hải quân phải lao

214 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


dịch nặng nề, do đó sự ủng hộ với họ Khúc không
còn được như trước.
Khúc Thừa Mỹ kết thân với nhà Hậu Lương (nước
lớn ở Trung Nguyên), gây hấn với nhà Nam Hán
(nước nhỏ ở Quảng Châu). Vua Nam Hán tức giận và
quyết định sai Lý Khắc Chính cầm quân sang đánh
chiếm Tĩnh Hải quân.
Do mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước, nhà
Hậu Lương ở quá xa càng không thể hỗ trợ được gì,
Khúc Thừa Mỹ đơn độc và bị thua trận. Ông bị quân
Nam Hán bắt đưa về Phiên Ngung. Vua Hán cử Lý
Tiến làm thứ sử Giao Châu (923).
Trong 3 đời họ Khúc, Khúc Hạo là người được
nhắc đến nhiều nhất do những đóng góp của ông đối
với lịch sử Việt Nam lúc đó.
(Tham khảo từ: Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa
học Xã hội Việt Nam, 1985)
Lời bình: Thời cơ và vận hội vô cùng quan trọng
để có được đất nước. Tuy rằng ta không mạnh nhưng
kẻ thù là vô cùng yếu...
Điều này làm ta nhớ đến thời cơ của Việt Nam năm
1945 khi Pháp bị Nhật đánh đuổi khỏi Đông Dương,
Nhật lại đầu hàng đồng minh trong thế chiến thứ II
và tự rời khỏi Đông Dương, triều đình nhà Nguyễn thì
gần như xụp đổ hoàn toàn.
Bác Hồ đã tiên đoán thời điểm này từ nhiều năm
trước, nên Người đã chuẩn bị rất kỹ bộ máy chính
quyền của chính phủ lâm thời nhà nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa. Từ nhân sự, con người, cơ sở vật

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 215


chất đến quốc kỳ, quốc ca và cả bản tuyên ngôn độc
lập.
Đến lúc đó chẳng mất một viên đạn, chẳng mất một
mạng người mà đứng lên dành độc lập, tuyên bố với
Thế Giới một nhà nước Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông
Dương được thành lập đó là Việt Nam.
Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương,
Mai Hắc Đế, Phùng Hưng của các thời kỳ trước không
thiếu gì người tài giỏi, hùng mạnh, nhưng thế giặc
Phương Bắc còn mạnh hơn gấp nhiều lần nên các
cuộc khởi nghĩa bị dập tắt nhanh chóng.
Lúc này đây (đầu thế kỷ thứ X), Trung Quốc đang
chia năm xẻ mười (Ngũ Đại Thập Quốc 907–979),
không còn đủ sức và tâm trí chiến tranh ở các vùng xa
xôi thì thời cơ để thoát ra khỏi vòng tay lỏng lẻo đó
cho Việt Nam đã tới.
Và Khúc Thừa Dụ đã tận dụng rất tốt thời cơ đó.
Các thế hệ tiếp sau nhà họ Khúc như Dương, Ngô,
Đinh, Tiền Lê thì đất nước Trung Quốc vẫn ở trong
tình trạng Ngũ Đại Thập Quốc (907–979) loạn lạc và
yếu kém nên nền độc lập của Nước Nam ta cũng dễ
dàng được xây dựng bền vững.
Tuy rằng vẫn có những nội chiến và những cuộc lật
đổ vương triều nhưng đều kết thúc trong êm thấm.
Các vị Vua các đời nối tiếp nhau xuất hiện như: Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành đều là những vị
Vua tài giỏi ngàn năm có một nhưng đều nhất tề xuất
hiện cùng một thời điểm để nối tiếp cho nhau giữ gìn
nền độc lập cho nước Đại Việt.
“Vận nước đổi thay, trời sinh thiên thướng” là vậy.

216 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


48.Dương Đình Nghệ - Kiều Công
Tiễn (870-938)

Dương Đình Nghệ (? - 937), người Ái châu, làm


tướng cho Khúc Hạo. Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận
đánh chiếm Giao Châu. Khúc Thừa Mĩ bị bắt. Dương
Đình Nghệ dấy binh đánh bại Lý Khắc Chính. Vua
Nam Hán cho Lý Tiến thay làm Thứ sử Giao Châu,
Dương Đình Nghệ lại vây hãm. Vua Nam Hán sai
Trần Bảo đem quân cứu Lý Tiến, Dương Đình Nghệ
đón đánh chém Trần Bảo, giữ thành, xưng là Tiết độ
sứ. Được 8 năm, Dương Đình Nghệ bị nha tướng
Kiều Công Tiễn làm phản, giết chết lên thay.
Kiều Công Tiễn (870 - 938) vốn là hào trưởng
Phong Châu (Phú Thọ) từ thời họ Khúc tự chủ. Kiều
Công Tiễn đến theo Dương Đình Nghệ và được
Dương Đình Nghệ dùng làm gia tướng. Dương Đình
Nghệ nhận tất cả 3.000 tráng sĩ đến đầu quân làm
"con nuôi" (nghĩa tử) và Kiều Công Tiễn cũng ở
trong số đó.
Năm 931, Kiều Công Tiễn theo Dương Đình Nghệ
tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán về nước.
Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, Tiễn được
sai giữ Phong Châu.
Năm 937, Kiều Công Tiễn làm phản giết chết
Dương Đình Nghệ, nắm lấy quyền bính, tự xưng là
Tiết độ sứ.
Ngô Quyền (con rể Dương Đình Nghệ) đang trấn
thủ Ái châu, tập hợp lực lượng ở đó và phát lời kêu
gọi mọi người chống Công Tiễn. Các hào trưởng, hào
kiệt nhiều nơi như Dương Tam Kha, Đinh Công Trứ,
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 217
Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc... về theo. Công Tiễn bị
cô lập, sợ hãi cầu cứu vua Nam Hán.
Tháng 4 năm 938, Ngô Quyền mang quân ra Bắc.
Đạo quân này nhanh chóng hạ thành Đại La, giết
chết Kiều Công Tiễn. Khi đó quân Hán chưa kịp đến
cứu giúp Tiễn.
(Tham khảo từ: Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa
học Xã hội Việt Nam, 1985)
Lời bình: Đất nước ta mới trải qua 1000 năm Bắc
Thuộc và chính sách đồng hóa người An Nam của
Trung Quốc. Tâm tính chưa thuần, ví như một người
bệnh nặng thập tử nhất sinh mới khỏi bệnh.
Có rất nhiều tâm lý phản nghịch đối lập nhau, số
người bị đồng hóa nhà Hán thì coi đây là phản
nghịch. Số người còn nhớ dòng dõi Lạc Hồng thì coi
đây là dành lấy độc lập cho đất nước.
Nên thời này tâm lý “trung với vua mới” chưa có
nên các thế hệ vua hay bị tạo phản mà mất vương
triều.
Tuy vậy, Vận khí nước Việt đã đến hồi xoay chuyển,
Vượng khí đã phát, linh thần cảm ứng.
Đất nước ta trong thời kỳ này liên tiếp xuất hiện
các vị tướng tài ba và uy đức như những lớp sóng sau
dồn lên đỡ lấy lớp sóng trước và tiếp bước đi lên:
Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn,
Lý Công Uẩn là những nhân tài kiệt xuất ngàn năm có
một, nhưng lại đồng khởi cùng xuất hiện trong thời
kỳ, chỉ cách nhau 1 thế hệ (20-30 năm).

218 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Không như thời trước các vị anh hùng Bà Trưng,
Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan xuất hiện cách nhau
100-200 năm, thì làm sao được.
Những vĩ nhân này đã đưa được đất nước ta thoát
khỏi thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam: 1000
năm Phương Bắc đô hộ, áp bức và bóc lột.
Lúc này đây, khi tôi ngồi viết cuốn sách này (2018)
và tôi chợt nhìn lại... đất nước Việt Nam ta mới được
độc lập trước giặc Phương Bắc được 1100 năm
(trong đó lại mất 120 năm bị giặc Minh, Pháp Mỹ đô
hộ). Thế mới biết 1000 năm Bắc Thuộc dài như thế
nào.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 219


49.Ngô Quyền - Ngô Vương (897 - 944)

Vương họ Ngô, tên húy là Quyền (897 - 944),


người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc. Cha là
Mân làm chức châu mục ở bản châu. Khi Vua mới
sinh ra có ánh sáng lạ đầy nhà, trạng mạo khác
thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ,
bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là
Quyền. Đến khi lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như
chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có
thể nâng được vạc; làm nha tướng của Dương Đình
Nghệ, được Đình Nghệ gả con gái và cho quyền quản
Ái Châu. Đến đây giết Kiều Công Tiễn kết thúc thời
Nam Bắc phân tranh, tự lập làm vương, đóng đô ở
Loa Thành.
Năm Mậu Tuất - 938. Mùa đông, tháng 12, nha
tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất
quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang đút lót
để cầu cứu với nhà Hán. Vua Hán là Cung muốn nhân
khi nước ta có loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là
Vạn Vương Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân tiết độ
sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem quân sang
cứu Công Tiễn. Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải
Môn để làm thanh viện.
Vua Hán hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Ích nói:
- Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa
xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt,
không thể khinh suất được. Đại quân phải nên
thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng
đạo rồi sau mới nên tiến.

220 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến
thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh
Quyền, nhưng Quyền đã giết Kiều Công Tiễn rồi.
Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các
tướng tá rằng:
- Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa
đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn
đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất
vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với
quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng
có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước
thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai
người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng
ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng
theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau
đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra
thoát.
Định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển.
Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ
ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo.
Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh
thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút,
cọc nhô lên, Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy
đều liều chết chiến đấu.
Quân Hoằng Tháo không kịp sửa thuyền mà nước
triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà
lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa.
Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng
Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân
lính còn sót rút về.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 221


Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, tức là Tiền Ngô
Vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương thị làm hoàng
hậu; đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.
Năm 944, Tiền Ngô Vương mất, sai Dương Tam
Kha giúp lập thái tử. Dương Tam Kha là anh Dương
Thái hậu cướp ngôi, tự xưng Dương Bình Vương.
Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy
về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha nhận
Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền, làm con
nuôi.
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi
đánh Thái Bình. Ngô Xương Văn thuyết phục được 2
tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẫn quân
quay lại lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua.
Xương Văn không giết Dương Tam Kha, giáng làm
Chương Dương công.
Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn
Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người
đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách
trở về.
Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên
Sách Vương (951-954). Lúc đó cùng tồn tại hai vua
Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Lên ngôi
vương, Ngô Xương Ngập lấn át quyền hành của Ngô
Xương Văn khiến Xương Văn bất bình rút lui việc
chính sự.
Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 954, Ngô Xương
Ngập bị bệnh chết, chỉ còn một vua Nam Tấn vương
Ngô Xương Văn làm vua.

222 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lúc nhà Ngô suy yếu nội bộ lục đục quyền lực
phân chia, vua kém tài, 12 thủ lĩnh địa phương nổi
dậy cát cứ không thần phục triều đình gọi là “Loạn
12 sứ quân”
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Ngô Quyền anh dũng đánh tan quân
Nam Hán nhưng đó chỉ là 2 vạn quân mà thôi.
Nam Hán là một nước nhỏ bé nên trước kia Khúc
Thừa Mỹ mới áp dụng kế sách, thân xa bỏ gần mà
thân với nước Lương rộng lớn ở Trung Nguyên, gây
hấn với Nam Hán nước bé ở Quảng Châu tiếp giáp
Nam Việt. Chứ không phải là Đại Hán của Hán Cao Tổ.
Thế mới biết, lúc này ta cũng yếu mà lại gặp lúc
giặc còn yếu hơn nên đại sự thành công.
Ngoài ra, kế sách lợi dụng thủy triều, cắm cọc đáy
sông, đánh tan thuyền lớn, ta dùng thuyền nhỏ, nhẹ
nhàng uyển chuyển... là một kế sách tuyệt vời mà
nhiều đời về sau, có Lê Đại Hành đóng dọc sông Chi
Lăng mà đánh tan quân Tống, có Trần Hưng Đạo
đóng cọc sông Bạch Đằng mà đánh tan quân Nguyên
Mông.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 223


50.Loạn 12 sứ quân (944 - 968)

Loạn 12 sứ quân (944 - 968) là một giai đoạn các


vùng cát cứ quân sự giao tranh với nhau và tạo ra
loạn lạc trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội
thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ
hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị, bị
quản lý lỏng lẻo từ Trung Nguyên (khi đó Trung
Quốc cũng đang thời Ngũ Đại Thập Quốc, chia 5 xẻ
10) tạo ra sự phân tán cát cứ theo khu vực. Thực
chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành
quyền lực tối cao trên đất Tĩnh Hải Quân (tên gọi cũ
của Việt Nam thời này). 12 thủ lĩnh địa phương đứng
lên tranh giành quyền lãnh đạo khi nhà Đường suy
yếu, nhà Ngô yếu kém nội bộ mất đoàn kết.
Giai đoạn này có mầm mống từ đầu thế kỷ X và có
cơ hội phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha cướp
ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các
thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng, thậm chí xưng
Vương và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Giai đoạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944 -
968) và kết thúc khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất
nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt - nhà nước phong
kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Thông tin về 12 sứ quân:
1. Ngô Xương Xí chiếm Bình Kiều
2. Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm
3. Kiểu Tam Chế chiếm Phong Châu
4. Nguyễn Thái Bình chiếm Nguyễn Gia Loan
224 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
5. Đỗ Cảnh Thạc chiếm miền sông Đỗ Động
6. Nguyễn Lệnh Công chiếm Tây Phù Liệt
7. Tế Giang thì có Lữ Tá Đường
8. Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp
9. Siêu Loại có Lý Lãng Công
10. Hồi Hồ có Kiểu Lệnh Công
11. Đằng Châu có Phạm Phòng Át
12. Bố Hải có Trần Minh Công.
Vua Đinh Bộ Lĩnh một phen cất quân là dẹp yên,
bèn tự lập làm Đế tên gọi Đinh Tiên Hoàng Đế.
(Tham khảo từ: Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa
học Xã hội Việt Nam, 1985)
Lời bình: Như đã bàn ở trên, 1000 năm bắc thuộc
và chính sách đồng hóa An Nam của các triều đại
Trung Quốc đã khiến tâm của người dân nước Nam
không được vững vàng.
Một số người đã nhận nhằm nhà Hán là Tổ Quốc
nên lòng trung thành với Vua rất yếu, tâm dễ sinh
phản nghịch, dễ bị cướp ngôi, rồi lại bị dành lại ngôi,
anh em tranh nhau...
Ngoài ra thì nhà nước non trẻ, quản lý yếu kém,
Dương Tam Kha cướp ngôi nội bộ triều đình rối ren,
12 sứ quân cát cứ một vùng, có thế lực mạnh về chính
trị và kinh tế muốn đứng lên nắm quyền... tạo ra một
giai đoạn loạn lạc của đất nước Đại Việt trong 24
năm.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 225


51.Ðinh Bộ Lĩnh - Đinh Tiên Hoàng Đế (924 - 979)

Ở làng Đàm Gia, châu Đại Hoàng, có một người tên


Đinh Công Trứ, làm nhà tướng cho vị đầu mục
Dương Diên Nghệ, sau trở nên thứ sử đất Hoan
Châu. Về già, ông Trứ lui về quê cùng người vợ trẻ là
Đàm Thị.
Một hôm Đàm Thị đi tắm một mình ở dòng suối
gần nhà, để quần áo ở bụi cây trên bờ, toan bước
xuống nước bỗng thấy một con rái cá to lớn hiện lên
tiến về phía mình. Đàm Thị sợ hãi ngất đi, đến lúc
tỉnh dậy thì thấy mình nằm ở trên cỏ, bên cạnh có
con rái cá ủ ấp liếm tay bà. Bàng hoàng đứng lên, bà
vội mặc quần áo lại về nhà, dấu chồng việc lạ thường
đã xảy ra.
Cách đó ít lâu, Đàm Thị có thai, ngờ rằng con rái
cá kia là Thần Nước hiện ra đi lại với bà. Đến ngày,
bà sinh được một đứa con trai khỏe mạnh, khôi ngô
khác thường. Vài năm sau, ông Trứ chết đi, cũng
không hề biết rằng đứa con kia không phải là dòng
máu của ông.
Về sau, dân làng đánh bẫy bắt được con rái cá ở
suối, giết ăn thịt rồi vứt xương đi. Đàm Thị nhặt
xương con rái cá đem về gói lại treo ở bếp.
Đứa con trai lớn lên, tỏ ra sức khỏe, thông minh
hơn người, giỏi về bơi lặn, có thể ở lâu dưới nước
hàng giờ. Đàm Thị đặt tên con là Đinh Bộ Lĩnh.
Một hôm, có thày địa lý Tàu đến trong vùng tìm
đất có long mạch để táng cốt cha đem theo, tới gần
bờ suối nhận thấy có một ánh hào quang đỏ chiếu
thẳng lên sao Thiên Mã. Thày địa lý không biết lặn
226 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mới thuê người xuống đáy nước xem. Đinh Bộ Lĩnh
nhận lời lặn xuống dưới chỗ vực sâu nước chảy
mạnh, thấy một con ngựa đá đang trừng mắt há
miệng nhìn mình, hoảng sợ trở lên nói cho thày Tàu
hay. Y liền bảo Đinh Bộ Lĩnh lấy một nắm cỏ đem
xuống nhử vào mồm ngựa đá, thì ngựa há miệng ra
nuốt lấy.
Khi nghe Bộ Lĩnh lên kể lại rằng ngựa đã đớp lấy
cỏ, thày địa lý không dấu được nỗi vui mừng, kêu
lên:
- Đúng long mạch rồi! Ai táng cốt ông cha vào
đấy thì sẽ được phát đế vương.
Rồi y trao cho Đinh Bộ Lĩnh một gói xương bọc
trong cỏ bảo mang xuống cho vào ngựa đá. Đinh Bộ
Lĩnh cầm lấy lặn xuống nước, nhét gói xương dưới
một khe đá rồi trở lên bảo đã đưa cho ngựa nuốt rồi.
Thày địa lý Tàu tưởng thật mừng rỡ liền thưởng tiền
cho Đinh Bộ Lĩnh và hứa hẹn sau này lên làm Vua sẽ
ban cho nhiều vàng bạc nữa.
Đinh Bộ Lĩnh chạy về nhà thuật lại việc này cùng
mẹ rồi hỏi cốt cha ở đâu. Đàm Thị lúc bấy giờ mới
nói thật cho con hay rằng Đinh Công Trứ chỉ là cha
nuôi, và trao gói xương rái cá cho Đinh Bộ Lĩnh. Lĩnh
lấy cỏ bọc mớ xương rồi lặn xuống vực đưa cho ngựa
đá nuốt đi.
Từ đó Đinh Bộ Lĩnh sinh ra can đảm khác thường,
các trẻ chăn trâu bò đều nể sợ, bầu lên làm tướng.
Lĩnh bày trận giả, sai lũ trẻ bẻ hoa lau làm cờ, chặt
tre làm khí giới, rồi mấy đứa làm kiệu cho Lĩnh ngồi
đi đánh nhau với trẻ làng khác. Một hôm, Lĩnh hội

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 227


các trẻ ở ngoài đồng, bắt con trâu của chú sai đi chăn
bổ làm thịt để mở tiệc khao quân. Ông chú ở nhà
nghe tin vác gậy đi tìm, đến nơi chỉ thấy một chiếc
đuôi chôn chặt ở đất, hỏi trâu thì Lĩnh nói trâu đã
chui mất xuống đất rồi. Người chú tức giận đuổi
đánh, Lĩnh chạy đến khúc suối, bí đường nhảy xuống
nước, bỗng có con rồng vàng hiện ra cõng Lĩnh qua.
Về sau Đinh Bộ Lĩnh dấy lên ở Hoa Lư, dẹp loạn
các sứ quân, đánh đâu thắng đó, tự xưng là Vạn
Thắng Vương. Lời tiên đoán của thày địa lý Tàu thực
hiện: Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi làm Vua, gọi là Tiên
Hoàng, niên hiệu Đại Cồ Việt.
Tục truyền rằng thày địa lý Tàu trở sang đến nơi
thì đã thấy Đinh Tiên Hoàng dựng xong cơ nghiệp,
biết họ Đinh được đất ấy rồi, bèn lập mưu để phản
lại, mới xin vào triều, yết kiến:
- Tâu bệ hạ, ngài được ngôi đại địa, cũng bởi
phúc mà trời cho, nhưng có ngựa thì phải có
gươm mới tung hoành lâu dài được, vậy ngài
nên cho để một thanh gươm trên cổ ngựa mới
hay.
Rồi dâng lên Vua một thanh gươm trần hai lưỡi
rất sắc. Đinh Tiên Hoàng tưởng thật mới sai lấy
thanh gươm buộc trên cổ ngựa, không ngờ lưỡi
gươm theo sức nước cuốn dần dần cắm sâu vào cắt
lìa cổ. Ngựa đứt đầu lôi cuốn theo sự xụp đổ của
Đinh Tiên Hoàng, chấm dứt triều đại ngắn ngủi của
nhà Đinh.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)

228 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sử Thần Lê Văn Hưu bàn rằng: Tiên Hoàng nhờ
có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược
nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các
hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai
sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng
hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần
đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc
thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương
chăng?
Lời bình: Đinh Tiên Hoàng thần uy oai dũng một
trận đánh mà dẹp yên được 12 sứ quân, thu về lại
giang sơn. Cũng phải nói thêm rằng: thế lực của 12 sứ
quân này không thể bằng được giặc Tống giặc
Nguyên, nhà Đường nhà Hán. Nhưng thế cũng đủ
thống nhất đất nước, lưu sử nghìn thu.
Ngẫm oai hùng như Hai Bà Trưng, đánh tan 65
thành nhà Hán lấy lại đất Hùng Vương khi xưa, cả
đến các vùng Quảng Châu, Quảng Tây, Vân Nam
(ngày nay) mà không giữ được độc lập, thật cũng
không bằng được lúc này.
Vua Đinh Tiên Hoàng không tích được Đức bền lâu,
ở ngôi 11 năm thì bị sát hại bởi Đỗ Thích, vua mới còn
trẻ (Đinh Phế Đế 6 tuổi) vừa mới lên ngôi 979 mà biên
cương đã bị nhà Tống nhòm ngó (năm 960 Tống Thái
Tổ thống nhất Trung Hoa lập ra nhà Tống).
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được triều đình và
thái hậu ủng hộ, đứng lên làm vua, luyện quân chờ
giặc tới.
“Thời thế đổi thay, vương quyền hoán vị mà đất
nước hòa bình, lòng dân yên ổn” thật là tài tình vậy.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 229


52.Thanh kiếm Ngô Vương (897 - 944) và
thanh kiếm gỗ của Đinh Bộ Lĩnh (924 - 979)

Đinh Bộ Lĩnh sinh năm Giáp Thân (924), là con


trai của Đinh Công Trứ - giữ chức Thứ sử châu Hoan
(vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), thân mẫu là Đàm
Thị (không rõ tên), theo dân gian bà còn được gọi là
Thiềm Nương.
Trong số những người theo dưới cờ nghĩa của
Dương Đình Nghệ có Đinh Công Trứ, người động
Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là thôn Văn Bòng, xã
Gia Phương, huyện Gia Viễn, Ninh Bình). Đinh Công
Trứ không chỉ là một vị tướng của họ Dương mà sau
này ông có công trong việc đánh đuổi giặc Nam Hán,
làm quan triều Ngô, được vua Ngô Quyền cử giữ
chức Thứ sử châu Hoan.
Truyện tích: Thanh gươm báu của Ngô Vương
Năm Canh Tuất (940) quan Thứ sử Đinh Công Trứ
lâm bệnh mất ở trị sở, việc tang lễ vừa xong thì có
nạn hỏa tai, tư dinh bị cháy hết, chỉ còn đống tro tàn.
Trước tình cảnh ấy, Đàm phu nhân cùng con là
Đinh Bộ Lĩnh ra Bắc, tìm đường về kinh đô Cổ Loa để
xin mệnh của Ngô Vương (Ngô Quyền). Suốt hơn
một tháng trời vượt đường với bao gian khổ, hai mẹ
con đến được Cổ Loa xin vào bệ kiến nhà vua tâu
trình về chuyện chồng mình đã mất.
Nghĩ đến người từng cùng mình theo phò họ
Dương đánh giặc, lại là công thần của triều đình, nay
nghe chuyện về hoàn cảnh "vợ góa, con côi" của cố
nhân, Ngô Vương ngậm ngùi nói:

230 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Ta với tướng quân xưa cùng là tướng của
Dương Tiên Công, người giữ châu Ái, người
quản châu Hoan, tình thân lân quận, nghĩa
nặng đồng liêu. Sau tướng quân lại cùng ta dẹp
nội loạn, phá ngoại xâm. Nay ta đã định đô
dựng nước, tưởng chừng vua tôi cùng chung
hưởng thái bình, nào ngờ tướng quân hưởng
lộc chưa được bao lâu đã vội về trời. Thôi thì số
mệnh đã định, phu nhân đừng quá đau buồn, ta
ban cho phu nhân vàng lụa để về quê nhà làm
nhà tậu ruộng, nuôi Bộ Lĩnh cho khôn lớn để
sau còn ra giúp nước.
Ngô Vương lại truyền gọi Đinh Bộ Lĩnh đến gần
ngai vàng, nhà vua xoa đầu, vỗ về cậu rồi hỏi:
- Cháu có muốn xin ta điều gì không?
Đinh Bộ Lĩnh tâu rằng:
- Tiểu thần xin nhà vua ban cho một thanh gươm
ạ!
Ngô Vương ngạc nhiên hỏi:
- Cháu còn trẻ tuổi, không lo việc học đi, định
dùng gươm để làm gì?
Đinh Bộ Lĩnh đáp:
- Tâu đức vua, đến khi tiểu thần khôn lớn, trưởng
thành sẽ dùng thanh gươm ấy phò giúp nhà vua
đánh dẹp bốn phương, định yên nước nhà.
Ngô Vương nghe xong vui cười khen ngợi Đinh Bộ
Lĩnh tuổi nhỏ mà đã có khí phách anh hùng, rất xứng
đáng là con cháu dòng dõi nhà làm tướng. Sau đó
vua sai người hầu mang một thanh gươm quý ban
cho Đinh Bộ Lĩnh.
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 231
Thanh gươm này, Đinh Bộ Lĩnh coi là báu vật, giữ
gìn cẩn thận bên mình. Khi trưởng thành, dấy cờ
nghĩa dẹp loạn, thanh gươm ấy đã theo ông suốt
quãng thời gian dài chinh chiến gian khổ, để rồi:
“Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét thanh.
Trường Yên đầu dựng đô thành,
Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đây.
Nghìn năm cơ tự mới xây,
Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quan”.
(Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát, Phạm
Đình Toái)
Truyện tích: Thanh gươm gỗ “chém giả chết
thật”
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép về
Đinh Bộ Lĩnh như sau:
"Khi Công Trứ mất rồi, ngài hãy còn nhỏ, Đàm thị
đưa về ở động núi. Chăn trâu ngoài nội, chơi với đám
trẻ con, ngài được chúng chịu phục cả. Hễ ngài đi đâu,
chúng cứ phải tréo tay làm kiệu rước đi, giống như
kiệu thật; lại lấy bông lau làm cờ rước kèm hai bên
làm như nghi vệ thiên tử. Kéo nhau đi đánh trẻ con
thôn khác, đi đến đâu, ở đấy cũng phải phục tùng.
Đám thì kiếm củi, thổi cơm; đám thì nộp lương, giúp
việc".
Như vậy có thể thấy, bông hoa lau được dùng để
làm cờ khi lũ trẻ bắt chước nghi trượng của thiên tử
rước "chủ tướng" Đinh Bộ Lĩnh và hoa lau cũng
được vị vua tương lai dùng làm cờ lúc đánh trận giả,

232 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


chứ không phải là vũ khí như một số người nhầm
tưởng khi nhắc đến Đinh Bộ Lĩnh.
Truyền tụng tại Hoa Lư kể rằng Đinh Bộ Lĩnh khi
tập trận cùng lũ trẻ thường đeo gươm bằng gỗ, cung
bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng trông rất oai phong.
Sau mỗi buổi tập trận, lũ trẻ lại khoanh tay làm kiệu
rước Đinh Bộ Lĩnh với "nghi trượng" là bông lau làm
cờ, nón làm lọng. Dân gian có thơ rằng:
“Kiệu tay, lọng nón, cờ lau,
Phong lưu trong đám chăn trâu cũng vừa.
Mai ngày ta được làm vua,
Tán vòng, tán tía cũng thừa phong lưu”.
Thanh gươm gỗ mà Đinh Bộ Lĩnh sử dụng để chơi
trận giả được làm bằng gỗ sồi. Người ta đồn rằng vì
nằm trong tay người có "thiên mệnh đế vương" nên
thanh gươm gỗ đó không phải là đồ chơi trẻ con mà
nó có khả năng đoạt mạng người.
Ngọc phả đền Lăng (xã Liêm Cần, huyện Thanh
Liêm, Hà Nam) có viết về chuyện này như sau:
"Một hôm Bộ Lĩnh hứa với lũ mục đồng ở núi Mai
Viên rằng nay mai ta sẽ mổ trâu khao thưởng, ngày
ấy ai vắng mặt sẽ bị chém đầu. Đến ngày, ông sai mổ
ngay trâu của cậu mình khao quân. Có một tên mục
đồng đến muộn. Bộ Lĩnh cho là vi phạm mệnh lệnh, lôi
cổ ra dùng gươm gỗ chém đầu. Nào ngờ tên ấy chết
ngay, cả lũ mục đồng đều sợ xanh mắt, bèn mang xác
tên kia ra sườn núi mà chôn".
Thần phả Đinh Tiên Hoàng Đại thắng hoàng đế ở
đền Đặng Xá (huyện Kim Bảng, Hà Nam) cũng nhắc

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 233


đến chi tiết Đinh Bộ Lĩnh dùng gươm gỗ “chém giả
mà chết thật” như sau:
"Hàng ngày thường chăn trâu cho nhà cậu dưới
chân núi Mai Viên, cùng chơi đùa tập cưỡi ngựa bắn
cung với lũ trẻ bản động, lấy bông lau làm cờ, tre gỗ
làm gươm giáo, Ngài được lũ trẻ kính nhường, suy
tôn ngài làm chúa. Bấy giờ, chúng thường khoanh tay
làm kiệu, lấy bông lau, tre gỗ làm cờ quạt, gươm giáo
hai hàng mà rước Ngài để tượng trưng cho sự uy
nghi của Thiên tử. Một hôm Ngài họp lũ trẻ lại, hẹn
năm ngày sau cùng đến bên núi mổ trâu để khao
thưởng bộ hạ. Tới ngày đó, Ngài đem một con trâu
của cậu ruột giết thịt khao quân.
Bấy giờ có một tên đến muộn, Ngài tức giận nói:
- Kẻ trái lệnh phải chém.
Nói đoạn lấy gươm gỗ chém. Chẳng biết do trời hay
do mệnh, mà Đinh công vừa đưa một gươm, người đó
đã chết liền. Người đó chính là con của nhà họ Đàm ở
Mai Viên vậy. Ngài liền truyền cho lũ trẻ đem chôn ở
dưới chân núi. Cậu ruột là Đàm Thuyên rượt đuổi
Ngài. Đang đêm, Ngài phải trốn đi”.
Thanh gươm gỗ này Đinh Bộ Lĩnh đã bỏ lại khi
chạy trốn lúc bị người chú (có thuyết nói là cậu)
đuổi bắt nhằm trị tội giết trâu "khao quân" và làm
chết người. Thanh gươm gỗ đó là thanh gươm “đồ
chơi trẻ con” dùng đánh trận giả, nên nó không có số
phận tốt như thanh gươm báu của Ngô Vương ban
cho Đinh Bộ Lĩnh - thanh gươm báu Ngô Vương đã
giúp ông lập lên đại nghiệp trong việc dẹp loạn 12 sứ
quân, gây dựng cơ đồ.

234 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


(Tham khảo từ: Những điều lạ thời Ngô - Đinh -
Tiền Lê, (Trần Đình Ba) NXB VHTT - Tr.12-21)
Lời bình: Thanh kiếm gỗ trong tay bậc đế vương
giống như một sắc lệnh mà các thần trong cõi tâm
linh phải nghe lời.
Trong cuốn sách này không ít lần vua ban sắc
phong cho các thần. Tối đến vua nằm mộng thấy thần
nhân đi đến với mũ áo sắc phong cung kính bái lễ và
tạ ơn vua.
Nên dù vua Đinh còn trẻ chưa lên ngôi mà uy thần
đã có, một lời nói ra quỷ thần phải vâng lời.
Đoạn sau chúng ta sẽ gặp lại tích truyện tương tự
vào thời trẻ vua Lý Thái Tổ trong chùa Ứng Tâm
được sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi, nuôi dạy
chú nhỏ (Lý Thái Tổ) như sau:
“Một hôm, nhà sư sai mang oản lên chùa dâng
cúng, thì chú nhỏ đã khoét lấy ruột oản ăn trước. Đến
đêm ông Long Thần báo mộng cho nhà sư. Sáng mai,
nhà sư gọi mắng chú nhỏ ấy. Chú nhỏ hỏi:
- Ai nói với ông như thế?
Nhà sư kể sự Long Thần báo mộng, chú kia tức
lắm, lên chùa đánh vào cổ ông Long Thần ba cẳng tay,
rồi viết vào sau lưng bốn chữ rằng: “Lưu tam thiên ý”.
Đến đêm, ông Long Thần lại báo mộng cho ông sư
rằng:
- Hoàng Đế đã đuổi tôi rồi, thì ông ở lại để tôi đi.
Nhà sư thức dậy sớm, vội vàng lên chùa xoát xem,
thì thấy sau lưng ông Long Thần có mấy chữ ấy, mới
bắt tiểu lấy nước vào rửa, thì rửa làm sao cũng không
sạch. Nhà sư bảo chú nhỏ ấy rửa, thì chỉ nhổ ít nước
bọt chùi đi sạch ngay”

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 235


53.Đinh Tiên Hoàng (924-979), Đỗ
Thích (?-979)

Ngày trước, khi Vua Đinh Bộ Lĩnh còn hàn vi,


thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được
viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất
một góc.
Đêm ấy vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc
ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ
Vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư
chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, Vua nói thực và lấy
ngọc khuê cho xem.
Sư than rằng:
"Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc
phúc không được dài".
Lại vào năm Thái Bình thứ 5 (974), có lời sấm
ngữ:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh,
cạnh đầu đa hoành nhi,
đạo lộ tuyệt nhân hành.
Thập nhị xưng đại vương,
thập ác vô nhất thiện,
thập bát tử đăng tiên,
kế đô nhị thập thiên.
Bản dịch:
Đỗ Thích giết hai Đinh,
nhà Lê nỗi thánh minh,

236 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


tranh nhau nhiều hoành nhi,
đường sá người vắng tanh.
Mười hai xưng đại vương,
toàn ác không một thiện,
mười tám con lên tiên,
sao kế đô hai chục ngày.
Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên
cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là
điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết Vua. Đến đây, nhân
lúc Vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân,
Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương
Liễn. Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp, Thích
phải lén núp ở máng nước trong cung qua 3 ngày,
khát lắm, gặp lúc trời mưa thò tay hứng nước uống,
cung nữ trông thấy liền đi báo. Đinh quốc công
Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương,
băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước
ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai nuốt.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Có những hiện tượng kì lạ xảy ra là điềm
báo trước hiểm họa hoặc may mắn. Đặc biệt là khi
còn trong bụng mẹ hay khi sinh ra đời như:
Ngô Quyền mới sinh ra có ánh sáng lạ đầy nhà.
Lê Hoàn khi mẹ mang thai thì bà chiêm bao thấy
trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy
chia cho mọi người, còn mình thì không ăn.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 237


Lý Công Uẩn khi mẹ mang thai ở nhờ cổng tam
quan chùa Ứng Tâm làng Cổ Pháp. Có một đêm thơm
nức cả chùa. Nhà sư thức dạy trông ra tam quan, thì
thấy sáng rực lên. Và Lý Công Uẩn ra đời hai bàn tay
có 2 chữ son: “Sơn Hà - Xã Tắc”. Người mẹ bị chết, Sư
nhận Công Uẩn làm con nuôi.
Còn ở đây vua Đinh khi còn trẻ đánh cá kéo lưới
được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt
mất một góc. Mà gặp vị sư già đoán được đúng ý của
trời đất thật kì lạ thay.
Thế mới biết, vận số đã được định đoạt. Một nhà
Huyền môn học giỏi thì không cần điềm báo mà chỉ
cần nhìn nhân tướng, hoặc xem tử vi ngày tháng sao
chiếu mệnh bấm quẻ mà đạt.
Tưởng chừng thấy được vận số đã là giỏi nhưng
thật ra đó vẫn chỉ là thường, cải được số mệnh mới
gọi là khó.
Thế mới biết Nhân Quả là tuyệt đối. Nhân đã gieo
thì Quả báo ắt sẽ đến. Trước khi Quả báo đến luôn
luôn có những điềm báo đến trước. Điều này là lẽ tự
nhiên của trời đất giống như trước mỗi cơn mưa thì
bầu trời thường u ám mây mù vậy. Một người giỏi
nhìn vào nhân tướng, nhìn vào tử vi, hoặc nhìn vào
điềm báo Hung (xấu) Cát (tốt) mà đoán chính xác
Quả báo đến như vậy.
Phật và Bồ Tát không làm sai Nhân Quả. Ai gieo
nhân gì ắt sẽ gặp quả báo, chỉ khác nhau là trước hay
sau, nhanh hay chậm mà thôi. Nên những ai còn thời
gian khi Nghiệp Quả chưa đến mà biết tạo Phúc thật
cao dầy để hóa giải Nghiệp Quả thì sẽ thành công.

238 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Và đây là chìa khóa để hoán cải số mệnh: “Làm
Phúc tạo Đức sẽ thay đổi số mệnh khi còn thời gian và
Nghiệp chưa đến”. Còn như Nghiệp đã đến cửa (Định
Nghiệp) thì Phật cũng không thể cứu (Trong Kinh
Phật có nói về Tam bất năng: 1- Định nghiệp Phật
không thể cứu, 2- Không có duyên với Phật, Phật
không thể cứu, 3- Chúng sinh quá nhiều Phật không
biết hết).

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 239


54.Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) răn đe
phản loạn

Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên


ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt. Ông cũng ban thưởng phẩm bậc
đầy đủ cho các công thần như Nguyễn Bặc, Lưu Cơ,
Trương Ma Ní và Lê Hoàn...
Bộ máy nhà nước dần được hình thành nhưng đội
ngũ các quan thường giỏi võ hơn văn vì thường xuất
thân từ võ tướng. Cũng vì thế mà trong lĩnh vực hình
pháp, các văn bản luật chính thống vẫn chưa xuất
hiện, triều đình xét xử dựa trên luật tục trong dân
gian là chủ yếu. Mãi đến thời Lý (1009-1225) bộ luật
thành văn đầu tiên mới ra đời, tên là Hình Thư
(1042).
Tất nhiên, vua Đinh Tiên Hoàng có chú ý đến vấn
đề này, ông cũng muốn hạn chế tối đa những tội
phạm lớn nhỏ, những vụ án cướp của giết người. Và
cuối cùng, đã có 1 phương án được đưa ra. Đại Việt
Sử ký Toàn thư có chép rằng:
"Vua (Đinh Tiên Hoàng) muốn dùng uy chế ngự
thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong
cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ
vạc dầu, cho hổ ăn".
Trong cuốn Việt Sử Toàn Thư cũng có lưu lại:
"Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều luật lệ rất khắt
khe. Ngài đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong
vườn, dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ
gian ác và phản bội".

240 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trong suốt chiều dài lịch sử nước ta, đặc biệt là
các triều đại sau nhà Đinh, có rất nhiều cách để thực
thi tội tử hình: Trảm (chém đầu), giảo (thắt cổ),
khiêu (chém rồi bêu đầu) hay đáng sợ như lăng trì
(tùng xẻo)... nhưng không một thời nào áp dụng vạc
dầu và hổ dữ, đó thực sự là những hình phạt vô cùng
hà khắc, nghiêm minh, có đôi phần tàn bạo nhưng
đặc biệt là mang tính răn đe cực mạnh.
Năm xưa, hành hình bằng vạc dầu cũng là cách ưa
thích của Tần Thủy Hoàng mỗi khi muốn trừng phạt
những kẻ chống đối hay mầm mống phản loạn. Khi
đó, nạn nhân sẽ bị bỏ vào vạc dầu lớn, sôi sùng sục
ngay giữa sân điện suốt mấy ngày mấy đêm khiến ai
ai cũng sợ hãi.
Đinh Tiên Hoàng quyết định sử dụng những hình
pháp nặng nề, nghiêm khắc không phải bởi sở thích
cá nhân mà muốn sử dụng biện pháp thật mạnh,
khiến dân chúng sợ mà không dám phạm phải.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử thời đại của Đinh Tiên
Hoàng, cách làm này không những hợp lý mà còn
đem lại hiệu quả lớn. Thời bấy giờ, đất nước vừa
thành lập, ngôi vị vừa ngồi lên, loạn 12 sứ quân vừa
dẹp, mầm mống, những tư tưởng phản loạn vẫn còn
đâu đó trên khắp đất nước.
Với hình phạt nghiêm khắc, Đinh Tiên Hoàng đã
chủ động dập tắt những mầm mống đó. Và lịch sử đã
chứng minh điều đó là đúng, trong suốt triều đại nhà
Đinh, chưa từng có trường hợp nào bị cho vào
chuồng hổ đói hay ném vào vạc dầu cả. Những biện
pháp mạnh của Đinh Tiên Hoàng chủ yếu là để đe
dọa, ngăn ngừa hơn là thực thi.
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 241
(Tham khảo từ: Những điều lạ thời Ngô - Đinh -
Tiền Lê (Trần Đình Ba) - NXB VHTT)
Lời bình: Phép trị quốc từ xưa đến nay luôn đi
theo 2 phương thức: Đức trị và Pháp trị.
Đức trị: là vị vua nước đó chăm lo giáo dục đạo
đức cho dân. Có thể dùng đạo lý Nhân Quả nhà Phật,
khiến dân tin sâu Nhân Quả mà sợ Quả Báo không
dám làm ác. Đời nhà Lý và nhà Trần nước Việt ta có
các vị vua tu theo Phật pháp và lãnh đạo đất nước đi
theo con đường này. Đất nước thịnh trị thái bình bền
vững.
Đức trị trong nho giáo là dùng đạo lý Khổng Tử, đề
cao hình mẫu người quân tử với ngũ thường: Nhân,
Trí, Tín, Lễ, Nghĩa làm gốc đạo đức trong dân. Dân tự
nấy những tấm gương đó mà hành theo, tự thấy
ngượng và nhục nhã khi không được là người Quân
tử. Nhà Hậu Lê nước ta đi theo con đường này. Đất
nước thịnh trị thái bình bền vững.
Pháp trị: là đề cao luật pháp, với những hình luật
ghê rợn để trấn áp tinh thần nhân dân khiến cho dân
sợ mà không dám làm sai. Đất nước rất dễ loạn. Tâm
người dân thì ác độc, tham, sân, si... đạo đức thì hèn
kém, nhưng chỉ cần giả dối và thể hiện ra ngoài là
người tốt, che mắt được luật pháp là thành công. Đất
nước đó là đất nước khuyến khích sự giả dối, toàn
dân vô nhân đạo, nhưng chỉ cần khéo che đậy hay tìm
được kẽ hở của pháp luật là thành công.
Đất nước đó không bền, các triều đại ngắn ngủi
của Việt Nam trước thời nhà Lý đều đi theo vết xe đổ
này và theo đúng một kịch bản như sau: “Có một vị

242 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


vua anh hùng đánh giặc cứu nước... Khi hòa bình thì
không chú trọng giáo dục đạo đức trong dân, không
quý trọng người hiền tài và đạo đức để cho làm
quan... cuối đời bị cấp dưới hãm hại (Đỗ Thích giết
Đinh Bộ Lĩnh, Dương Tam Kha cướp ngôi Ngô Vương,
Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ) cũng chỉ vì
lòng tham, sự vô đạo đức và không trung thành mà
ra... và đó cũng là hệ quả tất yếu của nước Pháp Trị.
Nhưng Pháp Trị lại rất cần ở giai đoạn đầu khi mới
thống nhất đất nước để trấn áp phản tặc. Nhưng
ngay sau đó phải chăm lo đạo đức cho dân thì mới
bền vững. (Trung Quốc ngày nay đang đi theo vết xe
đổ của nền Pháp Trị, dân trong nước đó vô đạo đức,
người lãnh đạo của nước đó không có Nhân, không có
Nghĩa, không có Tín, còn Lễ chỉ là hình thức ngoại
giao. “Thượng bất chính hạ tắc loạn” ắt hẳn đất nước
đó đang nuôi mầm mống phản loạn từ bên trong)
Ngày nay, Nhật Bản cả thế giới phải cúi đầu kính
nể không chỉ ở khoa học kỹ thuật mà ở Đạo Đức. Một
đất nước Sóng Thần và Động Đất chết mất 30.000
người và đe dọa toàn bộ dân của thành phố sẽ chết
đói, nhưng khi đi cấp phát lương thực cứu đói thì
người dân vẫn xếp hàng từ tốn đợi đến lượt, không
cảnh cướp bóc. Thật quá khâm phục về cái Đức của
người dân nơi đó.
Đạo Phật bây giờ ở Nhật gần như không còn. Chùa
chỉ là nơi thắng cảnh. Sư lấy vợ có con, gia đình ở
trong chùa và truyền đời quản lý chùa cho con trai cả.
Phật giáo ở Nhật Bản là đạo của người chết. Phật
giáo không giảng đạo đức, không nói về đạo đức mà

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 243


chỉ tổ chức ma chay. Đạo Phật xa vời đối với người
sống và đặc biệt đối với giới trẻ.
Nhưng đạo đức của Nhà Nho, cái sĩ diện khi không
được làm người quân tử: Nhân, trí, tín, lễ, nghĩa...
Lòng tự tôn dân tộc là con cháu của Thần Mặt Trời đã
ăn sâu vào tâm trí và hành động của mỗi người dân
Nhật. Lành thay, nó đã tạo ra được cái đạo đức khiến
cả thế giới khâm phục nước Nhật.

244 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


55.Cường bạo Đại vương (957 - ?)

Cường Bạo đại vương, tên thật Phùng Cường Bạo


hoặc Phùng Bạo, là một vị tướng thời Đinh và là một
nhân vật có thật được thần thánh hóa trong cổ tích
Việt Nam.
Ông xuất thân là một ngư dân ngang tàng, có sức
khỏe và tài năng chiêu dân chống lại thiên tai, được
triều đình nhà Đinh trọng dụng và ban thưởng. Ông
được xem là sinh ra ở làng Bối Tuyền, huyện Thiên
Bản (nay thuộc xã Bối La, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định), ngày nay vẫn còn đền thờ của ông
Vào thời loạn 12 sứ quân, họ Phùng ở làng Hoa
Thạch, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, Châu Ái
(Thiệu Hóa, Thanh Hoá) đã hai đời di cư ra Bối
Duyến (Vụ Bản, Nam Định) sinh sống, đến đời ông
Phùng Văn Cường, lấy bà Nguyễn Thị Duyệt vốn
người làng Lãng Tình, huyện Đồng Quan (nay thuộc
Đông Hưng, Thái Bình) đã lâu mà vẫn không sinh
con. Ông bà dốc sức vào việc tạc tượng, đúc chuông,
xây cầu dựng chùa… và làm điều phúc đức.
Lúc đó ở trên núi Bảo Đài thuộc huyện Phong
Doanh (nay là Ý Yên) có chùa Cực Lạc là một ngôi
chùa cổ nổi tiếng. Ông bà Cường biết tin, vội đem
tiền gạo đến công đức, thắp nhang làm lễ cầu xin đức
Phật ban phúc quả. Lễ song ông bà trở lại nhà. Đêm
đó khi ngủ bà mơ thấy có một người cao lớn, đang
hoàng mặt mũi khôi ngô, mắt sáng tinh anh, từ trên
không trung hạ xuống đứng thẳng trước mặt xưng:

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 245


- Thần là Duy Nhạc thần Tướng, theo lệnh của
Thượng đế, thấy ông bà là người phúc đức nên
xuống làm con của ông bà.

Quả nhiên từ đó bà mang thai. Đến ngày 8 tháng


chạp năm Đinh Tị (957), bà sinh được một con trai,
mặt mũi khôi ngô, mắt sáng như sao, tiếng như hổ
gầm chuông kêu, tướng mạo đường hoàng, đặt tên là
Bạo.
Bạo lớn nhanh, thông minh nhanh nhẹn hơn hẳn
các bạn trẻ cùng trang lứa và ăn rất khoẻ gấp năm
mười lần trẻ khác, bố mẹ nuôi Bạo rất vất vả. Nhưng
càng lớn Bạo càng ngang ngược, nghịch ngợm bố mẹ
răn dậy không được.
Bạo lên tới 9 tuổi thì lần lượt bố mẹ qua đời, chỉ
còn lại ông một mình, chuyên nghề ăn trộm. Trong
huyện có viên quản mục họ Trương giữ việc tuần
phòng. Trương rất gian ác, nhiều lần tìm mưu tính
kế hại ông để lập công với quan trên. Một đêm hắn
rình mò mãi mới bắt được ông Bạo. Hắn sai người
trói ông Bạo lại, bỏ vào một cái rọ lợn khiêng vứt
xuống hồ định dìm cho chết, nhưng may nhờ Thổ
công giúp ông nhờ thuỷ thần kéo ông lên được.
Dân làng khi ngủ đều mơ thấy Thổ công hiện lên
bảo:
- Ông Bạo chính là Duy Nhạc thần tướng giáng
sinh, có kẻ muốn làm hại ông Bạo muốn bỏ rọ
trôi sông. Muốn sống thì các ngươi mau đi cứu
ông Bạo, nếu không nghe thì dân sẽ chết hết
không còn một mống.
246 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Dân làng Bối La rước ông Bạo về làng, từ đó nghe
lời ông, làm theo mọi việc sắp xếp của ông. Ông Bạo
chủ chương tách Bối La thành một khu riêng biệt, lo
canh tác bảo vệ làng. Dân trong làng được nhờ ân
đức của ông.
Quan huyện Thiên Bản dâng sớ tâu với triều đình
nhà Đinh về sự mưu trí và dũng cảm của Phùng
Cường Bạo. Đinh Tiên Hoàng lại sai sứ thần về tận
làng Bối La, truyền lệnh cho Cường Bạo vào triều bệ
kiến.
Nhà Vua thử tài võ nghệ và trí dũng của ông và
cho rằng ông Bạo xứng đáng được nhận quan cao
chức trọng ở triều đình, bèn phong chức lưu lại triều
đình, nhà Vua phong cho ông chức Quan Nội hầu,
ban cho áo mũ và 100 hốt vàng, ban đất lộc điền
ngay tại quê nhà.
Nhà Vua khuyên ông từ nay phải cúng giỗ tổ tiên,
bố mẹ cho tròn chữ hiếu. Để nhắc nhở ông, nhà Vua
ban cho bố mẹ mỗi người 10 mẫu ruộng tự, truyền
cho dân làng Bối La quê nội và Lãng Tình quê ngoại
hàng năm đến ngày giỗ ông bà phải cùng lo ngày tế
tự.
Đinh Tiên Hoàng truyền cho dân sửa sang đình
phủ thành đền thờ chở đá về xây lăng miếu ngay nơi
mộ của ngài. Nhà Vua sắc phong cho ông là: “Cường
Bạo hiển linh Đại quan hầu đại vương”, cho phép
làng Bối La phụng thờ, xuân thu hai kì sai quan đến
tế, dân còn cho lập ban thờ thổ công ngay cạnh đền
thờ của ông.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 247


Truyện cổ tích: Cường Bạo đại vương đánh phá
thiên lôi
Do Cường Bạo mắc một số lỗi ở hạ giới làm
Thượng đế nổi giận, Thượng đế bèn truyền cho
Thiên Lôi thần xuống trị tội.
Thổ công nhà ông Bạo cũng có mặt trong buổi
chầu vội bay về báo tin cho ông Bạo biết trước.
Cường Bạo truyền cho dân làng mua thật nhiều dầu
lạc, dầu vừng và hái thật nhiều lá mùng tơi đem giã
nhuyễn, trộn với dầu rồi chưng lên, quét lên mái
nhà. Quả nhiên chiều hôm sau, đúng giờ mùi, trời
bỗng nổi cơn giông, mưa to gió lớn sấm chớp đùng
đùng. Ông Bạo biết Thiên Lôi sắp xuống, liền cắm
gậy đứng phục trong cửa. Thiên Lôi vâng lệnh Ngọc
hoàng sát khí đùng đùng, một tay cầm cờ, một tay
cầm búa từ trên trời bay xuống nhảy thẳng vào nóc
nhà nhà ông Bạo, định đứng đó tìm cách đánh ông
Bạo.
Bất ngờ mái nhà Ông Bạo trơn khiến cho Thiên
Lôi trượt ngã xuống đất, văng cả búa cờ ra xa. Từ
trong nhà ông Bạo nhảy bổ ra lấy gậy đánh Thiên Lôi
què chân, Thiên Lôi chống đỡ không được, cố bay
lên không trung lùi về Thiên đình tâu với Ngọc
Hoàng là bị ông Bạo đánh bại, lại bị tước cả búa và
cờ.
Ngọc Hoàng sai vị thiên Lôi khác. Ông Bạo sai
người nhặt nhiều ổi xanh, hạ mấy cây tre già, cưa
ống thành từng đoạn vứt xuống đầy sân. Khi Thiên
Lôi khác nhảy xuống sân bị ngã xoài trên mặt đất
văng cả cờ lẫn búa, ông Bạo đã lấp sẵn trong cửa,
xông ra lấy gậy đánh què chân.
248 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Thất bại hai lần Ngọc Hoàng càng tức giận, cho
rằng dân trong làng đã giúp Bạo đánh lại Trời, nên
sai thuỷ thần dâng nước dìm chết cả. Thổ công biết
vậy bèn về báo cho Cường Bạo, ông hợp dân lại bàn
cách chống lại.
Ngay hôm đó ông huy động dân chặt chuối làm bè,
mối bè kết 12 cây chuối vững trắc rồi xếp lúa gạo đồ
đạc lên trên, dân đưa gia đình lên bè ngồi mặc cho
nước dâng cao, đến gần cửa nhà trời, ông đánh
chiêng ầm ĩ, miệng thét lớn giữa tiếng hò vang rầm
rộ của dân chúng. Thượng đế vô cùng hoảng hốt, lại
truyền gấp cho thuỷ thần hạ nước xuống. thuỷ thần
vội sai hàng đàn rồng ra hút nước, nước rút nhanh
chóng, không bao lâu làng mạc lại hiện ra như cũ,
dân chúng khắp nơi đều kính phục.
Vào một buổi chiều hè, trời oi bức ông Bạo ra
miễu cây ở cánh đồng Lục, vừa hóng mát, vừa xem
thợ cấy cày trên đồng ruộng, không quên mang theo
cây gậy đề phòng thiên Lôi đánh lén nhưng do cắm
gậy đầu bờ để giúp một người dân cày ruộng mà để
Thiên Lôi lấp trong mây bay xuống, giáng búa đánh
lén vào người ông. Khi trời quang mây tạnh, người
dân chạy ra thì đã thấy mối đùn con trâu cũng đang
lấy sừng húc đất vun thành mộ lớn. Biết rằng ông
Bạo đã hoá, dân làng thương tiếc làm lễ tang trọng
thể. Tương truyền cái gậy của ông Bạo văng về tận
làng Lãng Tình, quê mẹ của ông. Còn con trâu sau
khi húc đất đắp mộ cho ông, đã chạy thẳng ra Bát Xã,
Đồ Sơn sát biển.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 249


(Tham khảo từ: Chuyện cổ tích Việt Nam và Thần
tích Việt Nam (Lê Xuân Quang) – NXB Thanh niên,
2007 )
Lời bình: Thần cũng phải từ con người thật, khi
sống làm nhiều Công Đức tích đủ Phúc Thần. Sau khi
“thăng” thì hóa thành vị thần Uy Lực.
Thần khi sống có công đức lớn giúp dân cả nước
đánh giặc ngoại xâm thoát khỏi cảnh nô lệ đày ải thì
Phúc Thần sẽ lớn, hiển linh rộng khắp trong cõi nước,
ứng hiện cứu giúp toàn bộ nhân dân trong cõi nước.
Sẽ thành vị Đại Phúc Thần bảo hộ đất nước.
Ở đây Cường Bạo Đại Vương, huyền tích thì kể là
Duy Nhạc Thiên Tướng đầu thai, nhưng đó không
khẳng định được Phúc Thần lớn hay nhỏ. Nhưng khi
sống ông có công giúp nhân dân trong làng Bối La
yên ổn làm ăn, phát triển kinh tế. Sau được vua Đinh
phong làm chức quan Nội Hầu chuyên giúp việc vua
thì lại không kể tiếp về chiến công của ông khi làm
quan để xét Phúc Thần.
Nhưng ắt hẳn ông đã lập công lớn nên sau đó vua
Đinh mới sắc phong thêm cho ông và ban ruộng đất
cho làng Bối La (quê bố) và Lãng Tình (quê mẹ). Rồi
lại phong thần xây đền miếu giao cho làng Bối La
hương hỏa thờ cúng.

250 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


56.Vôi Bột từ tà ma (968)

Ðể trừ tà ma, đuổi quỷ quái trong mấy ngày Tết,


người ta thường lấy vôi bột rắc quanh nhà, và dùng
vôi vẽ cung tên trước cửa. Tục lệ này được truyền từ
đời Vua Ðinh Tiên Hoàng (968), theo sự tích như
sau:
Khi Ðinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn sứ quân, giặc giã
vừa yên thì bệnh dịch hạch nổi lên. Người ta nói là
do ma quỷ quấy phá. Rất nhiều người chết.
Vua Ðinh Tiên Hoàng bèn cầu xin Trời Ðất can
thiệp, giúp Vua cứu muôn dân. Một vị thần đã hiện
ra, mách bảo rằng:
- Vua hãy cho dùng vôi bột rắc quanh mỗi nhà,
và dùng vôi vẽ cung tên trước cửa để xua đuổi
ma quỷ, sẽ tránh được tai họa cho dân chúng.

Vua Ðinh Tiên Hoàng nghe lời Sứ Trời, bèn ra


lệnh thi hành khắp nơi trong nước. Nhờ đó mà bệnh
dịch hạch biến mất. Từ đấy, có tục lệ vẽ cung tên
bằng vôi để trừ tà ma quỹ quái, trừ ôn hoàng dịch lệ,
hung thần và ác quỵ. Tục lệ này được dân chúng tin
tưởng, lưu truyền từ đời này sang đời khác.
(Tham khảo từ: Việt Sử Những câu chuyện
lạ kỳ (Lê Thái Dũng - NXB VHTT, 2013)
Lời bình: Các vị Vua lập quốc đa phần là Uy Đức
bao trùm thiên hạ, toàn bộ cõi đất và nhân dân đều
quy phục, đến cả các vị thần linh thổ địa nơi cõi đất ấy
cũng quy phục và vâng lời vua.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 251


Nên trong cuốn sách này không ít truyện tích vua
được các vị thần mách bảo đường đi nước bước mà
thành. Hoặc chính các vị thần đó, dẫn đạo thiên binh
cùng vua đánh giặc (vua Lê Đại Hành và Thái úy Lý
Thường Kiệt đánh Tống theo huyền tích là Đức Thánh
Tam Giang đã dẫn thiên binh cùng quân triều đình
đánh giặc và bài Nam Quốc Sơn Hà là do Thần đọc từ
trong đền thờ bên bờ sông Như Nguyệt).
Và đây, truyện tích này lại thêm một ví dụ.

252 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


57.Lê Hoàn - vua Lê Đại Hành (940 - 1005)

Trước kia cha Lê Hoàn là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi


mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen,
chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người,
còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên
do thế nào.
Năm Tân Sửu (940), mùa thu, tháng bảy, ngày 15,
sinh ra Vua Lê. Đặng thị thấy tướng mạo khác
thường, bảo với mọi người rằng:
- Thằng bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc
của nó.
Được vài năm thì mẹ chết, sau đó cha cũng qua
đời, trơ trọi một thân, muôn vàn cô đơn đói rét.
Trong thôn có viên quan sát họ Lê trông thấy lấy
làm lạ, nói:
- Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh
được.
Lại thấy là cùng họ nên nhận làm con nuôi, sớm
chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có
đêm mùa đông trời rét, Lê Hoàn úp cối mà ngủ. Đêm
ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan sát lén đến xem,
thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại
càng thêm quý trọng.
Lê Hoàn lớn lên theo giúp Nam Việt Vương Liễn,
tính tình tỏ ra phóng khoáng, có chí lớn. Vương Liễn
khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được
việc, bèn giao cho cai quản 1 nghìn quân sĩ, thăng
dần đến chức Thập đạo tướng quân điện tiền đô chỉ
huy sứ.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 253


Bấy giờ là vào năm 979, thì nhà Tống đã thống
nhất Trung Hoa kết thúc thời loạn lạc “Ngũ Đại Thập
Quốc” từ năm 960. Và ở Lạng Châu nghe tin quân
Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về.
Vua mới lên ngôi có 6 tuổi tên là Đinh Toàn con
thứ của Đinh Tiên Hoàng. Thái hậu Dương Vân Nga
nhiếp chính sai Thập đạo tướng quân Lê Hoàn chọn
dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là
Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân.
Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự
Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo giáp trận
đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng:
- Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép
sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng
còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để
chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai
biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập
đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn.
Quân sĩ nghe vậy đều hô "Vạn Tuế". Thái hậu thấy
mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo “long
cổn” (áo vua) khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi
Hoàng đế. (một câu chuyện về thay đổi vương triều
hòa bình nhất trong lịch sử)
Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là
Thiên Phúc năm 980, vua mới phong vua cũ là Đinh
Toàn làm Vệ Vương. Truy phong cha làm Trường
Hưng Vương, cho mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu.
Năm Tân Tỵ (981). Mùa xuân, tháng 2, Hầu Nhân
Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ
đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua Lê

254 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Đại Hành tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng
cọc ngăn sông Chi Lăng. Vua sai quân sĩ trá hàng để
dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tộ nghe tin
quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các
tướng danh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá
nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là
Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư.
Từ đó trong nước rất yên, mở đầu kỷ nguyên Đại
Việt bách thắng thế lực phong kiến phương Bắc, dù
rằng lúc này Bắc Quốc đang vào thời hùng cường.
Nhưng vận nước nam đã đổi, vượng khí đã thành
tựu, đất nước yên ổn trong nền độc lập. Đến 100
năm sau (1075) thì nhà Tống mới dám nhòm ngó bờ
cõi nước Nam ta. Và khi đó một nhân tài mới đã xuất
hiện đó là Thái úy Lý Thường Kiệt.
Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây
dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn chống
cát cứ, xây dụng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên
ngoài thì thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo
khôn khéo nhưng cương quyết bảo vệ nền độc lập
của đất nước. Ông là vị Vua nội trị, ngoại giao đều
xuất sắc.
Truyện tích Lê Hoàn gặp sứ thần nhà Tống:
Năm Canh Dần (990), Vua Tống sai Tống Cảo dẫn
đầu đoàn sứ mang chiếu thư sang phong cho Lê
Hoàn hai chữ "Đặc Tiến". Vốn biết nhà Tống hống
hách, ngạo mạn, Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông
sai Đinh Thừa Chính mang chín chiến thuyền và 300
quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc),
để đón sứ rồi bảo vệ đoàn sứ đến Đại cồ Việt. Tháng
10 năm đó, đoàn sứ Tông tới kinh đô Hoa Lư trong
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 255
cảnh tưng bừng khác lạ: dưới sông, chiến thuyền
tinh kỳ san sát; bên các sườn núi, quân lính võ phục
chỉnh tề, gươm giáo sánh lòa; trên các cánh đồng,
hàng trăm hàng ngàn trâu bò rong ruổi đen đặc, bụi
bay mù mịt. Sứ Tống không thể không thấy sự hùng
cường, giàu mạnh của nước Việt.
Theo nghi lễ của Tống triều, khi nhận chiếu thư
của "Thiên Triều", Vua các nước chư hầu phải "lạy".
Nhưng Lê Hoàn lấy cớ ngã ngựa, bị đau chân, không
chịu "lạy". Tống Cảo đành chấp nhận.
Sau bữa tiệc vui, Lê Hoàn cho người khiêng một
con trăn lớn, dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ
Tống:
- Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì Vua tôi sẽ cho
người làm cỗ để mời.
Sứ Tống khiếp đảm mà từ chối.
Lần khác, Lê Hoàn cho dắt tới hai con hổ dữ để sứ
thần thưởng ngoạn. Sứ thần lại một phen sợ toát mồ
hôi.
Trước khi bọn Tống Cảo về nước, Lê Hoàn bảo họ:
- Sau này, nếu có quốc thư thì nên giao nhận
ngay đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây
nữa.
Năm Quý Tị, nhà Tống sắc phong cho Vua Đại
Hành làm Giao Chỉ quận vương rồi năm Đinh Dậu
(977) là Nam Bình Vương.
Năm ất Tị (1005) Vua Lê Đại Hành mất, thọ 65
tuổi, làm Vua được 24 năm.

256 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
------
Sử Thần Lê Văn Hưu bàn rằng: Lê Đại Hành giết
Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng
Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài
năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng
dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có
người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa
rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc
ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người tống
thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao
gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người
suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì
Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài
hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư ? Đáp: Hơn thì không
biết, chỉ thấy Đức của họ Lý dày hơn Đức họ Lê, vì thế
nên nói theo họ Lý.
Lời bình: Thế mới biết, đất nước thịnh trị trường
tồn ăn nhau ở cái Đức của ông vua. Ông vua có Đức ắt
tìm cách dạy đạo đức trong dân. Khi dân có Đức thì
đạo đức là nền tảng của xã hội tạo nên ổn định cho
đất nước. Lương tâm của người có Đức sẽ tự thấy
ngượng, tự thấy nhục nhã nếu mình làm điều sai chứ
không cần luật pháp xét xử.
Toàn dân có Đức thì tạo thành Phúc và Phúc sẽ
đưa dân đến giàu có về vật chất, bình an của tâm hồn,
trường tồn của Đất nước.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 257


Vận khí của một nước xoay vần lúc xuy lúc thịnh
tùy theo Phúc chung của toàn dân nơi đó cao hay
thấp, nhiều hay ít mà thành.
Tài năng là Quả mà cái Nhân của nó là Đức. “Khi
kiêu ngạo nổi lên là nhiễm ô lối bước” hay “Kiêu ngạo
sinh u mê”, ngôn ngữ @ thời nay còn có câu: “Tự kiêu
là liều thuốc độc” hay “Thích thể hiện thì đi bệnh
viện”. Biết vậy nếu có Tài thì phải biết do Đức sinh ra
mà giữ nấy cái Đức thì tài mới bền.
An Dương Vương quá tài năng: đánh tan 50 vạn
quân tần, xây thành Cổ Loa 9 tầng cao vút, nỏ thần
Liên Châu... rồi được Thần Nhân giúp sức... Nhưng ỷ
vào tài năng mà sinh kiêu ngạo nên cuối đời có những
quyết sách u mê, Cao Lỗ khuyên can mà không được,
rồi để mất nước vì mưu kế của Triệu Đà, một quan
nhà Tần tạo phản án giữ đất Lâm Ấp liên tục bại trận
trước An Dương Vương.
Đến nay Lê Hoàn anh hùng cái thế nhưng Đức
không dày, không giữ lấy chữ Đức làm gốc để giáo
hóa nhân dân nên đời sau sinh Lê Ngọa Triều tàn bạo:
thích thấy cảnh sát sinh máu đổ đầu rơi làm vui thú,
thích thấy cảnh lăng trì tùng xẻo kêu than oán hận
mà làm trò cười, dóc mía trên đầu nhà Sư để coi
thường đạo lý và tâm linh.
Nhưng Vượng khí nước Nam chưa dứt. Phúc của
toàn dân nước Nam chưa đoạn. Vật đổi sao dời. Thần
linh bảo hộ Nam Quốc ắt tự phải lo mà tìm người có
Đức đưa lên ngôi.
Ứng với điềm báo 500 năm trước của Tam Tổ
Tăng Xám khuyên Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi: “Hãy

258 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


đến phương Nam mà giáo hóa, dân chúng ở đấy cần
ngươi...” hay mới đây 50 năm trước, Thiền sư La Quý
(đời thứ 10 dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi) đã nối liền
long mạch tạo vận khí khơi thông cho đất nước và đề
Sấm kí: tại đất Cổ Pháp sinh ra họ Lý làm vua, đất
nước thái bình, Đạo phật làm gốc của Đức để giữ hòa
dân chúng...

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 259


58.Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990)

Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990) (Đời thứ 10,


dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Đỗ, không rõ quê quán
ở đâu, xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư
Long Thọ Phù Trì. Sau khi đắc pháp, Sư nói lời nào
cũng phù hợp sấm ngữ.
Nhà Tiền Lê mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào
triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao. Khi quốc
thái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì thế,
vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không dám gọi tên,
chỉ gọi là Đỗ pháp sư. Nhà vua nhờ Sư trông coi việc
soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.
Năm Thiên Phước thứ bảy (986), nhà Tống sai sứ
là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Đại Hành.
Vua nhờ Sư cải trang làm lái đò để đón sứ. Trên
sông, bất chợt Lý Giác thấy hai con ngỗng bơi, cảm
hứng liền ngâm:
Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời.
Bản gốc:
(Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.)
Sư đang chèo, ứng khẩu ngâm tiếp:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Bản gốc:
(Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.)
260 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lý Giác rất thán phục.
Vua Đại Hành hỏi vận nước dài ngắn thế nào, Sư
đáp bằng bài kệ:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam sống thái bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
Bản gốc:
(Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.)
Về sau, Sư trụ trì chùa Cổ Sơn làng Thừ, quận Ải.
Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không
bệnh mà tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi tồn tại ở
Nam Việt từ sơ tổ đến nay đã được gần 500 năm và
phát triển rực rỡ trong giai đoạn này. Trong lịch sử
Thiền Sư Việt Nam có rất nhiều vị Thiền Sư đời thứ 8,
đời thứ 10, đời thứ 12 đã có công xây dựng Phật Giáo
ở Việt Nam. Các ngài bên cạnh tu Đạo Đức thì còn có
những Pháp Thuật chứng ngộ từ Chánh Pháp nên làm
thay đổi vận khí của nước Nam, tạo thành Vượng khí
phát đến 1000 năm sau cho đến ngày nay, khi tôi viết
lên cuốn sách này (2018).

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 261


Cho đến nay Đạo Phật vẫn là xương sống tâm linh
của dân tộc Việt Nam. Có ngài Thích Nhất Hạnh mang
thiền tông Việt Nam ra thế giới và được Thế Giới vinh
danh là người Đạo Phật có ảnh hưởng lớn thứ 2 trên
thế giới sau ngài Đại Lai Lạt Ma thứ 14. Có ngài Thích
Thanh Từ khôi phục lại Thiền Tông Việt Nam (dòng
phái Trúc Lâm của Giác Hoàng Tổ Sư Trần Nhân
Tông) và xây dựng 60 Thiền viện Trúc Lâm trên cả
nước.
Và vô vàn các Tứ Chúng Tăng Ni Phật Tử tinh tấn
tu hành xây dựng nền đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Tuy rằng ngày nay, ngọn của cái cây dân tộc vẫn có
ít sâu bọ, vẫn có ít lá héo và cành úa... nhưng hãy giữ
chữ Đức trong Phật giáo, đạo lý Nhân Quả của lương
tâm, Nhân Trí Tín Lễ Nghĩa của người quân tử để làm
cái gốc bền chặt. Nếu được vậy thì há sợ gì những con
sâu nhỏ bé hay một vài chiếc lá héo úa kia sao?

262 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


59.Lê Đại Hành (940-1005) và lễ tịch điền

Nước Nam ta là một vùng khí hậu nhiệt đới gió


mùa, đất đai chiêm trũng nhiều, hợp với nông
nghiệp lúa nước. Vua Lê Đại Hành sau khi lên ngôi,
đánh đuổi quân Tống xâm lược lần thứ nhất, dù là vị
vua xuất thân từ chiến trận, quen việc binh đao,
nhưng không vì thế mà ông quên quan tâm tới
nghiệp "dĩ nông vi bản" (coi nông nghiệp là gốc).
Để khuyến khích sản xuất, mùa xuân năm Đinh
Hợi (987), vua trút bỏ bộ long bào bước xuống cày
ruộng tịch điền ở núi Đọi. Hôm ấy, dân quanh Đọi
Sơn tụ tập về đông như trẩy hội để xem thiên tử
xuống ruộng làm nông (Đọi Sơn còn có tên núi Long
Đọi, tại xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam ngày
nay).
Lê Đại Hành trong trang phục quần lá tọa ống
thấp ống cao, bắp tay cuồn cuộn nắm chắc cày, giục
trâu "tắc tắc", "họ họ" như một lão nông thực thụ,
đường cày cứ thế thẳng tắp theo sự điều khiển của
vua. Từng mảng đất được lật lên của đường cày sau
úp lên đường cày trước trông thật thích mắt.
Đương lúc lưỡi cày liếm đất đi băng băng, thì
bỗng va vào một vật gì rất cứng, con trâu đang đi
phăm phăm là thế, cũng bị vật cản dưới lưỡi cày giật
ách mà đứng lại. Vua nhấc cày ra, lật đất lên xem,
hóa ra là một chiếc hũ nhỏ, cả đám đông tham dự ồ
lên ngạc nhiên.
Viên quan hầu được gọi đến, mở chiếc hũ sành,
vục tay vào, thì ra đó là những thỏi vàng. Vua dừng
cày ở Đọi Sơn, chuyển sang cày ở núi Bàn Hải, việc
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 263
lặp lại y hệt như trước, lưỡi cày cũng mắc vật cản,
đến khi lấy được chiếc hũ lên, thì ra đó là một hũ
nhỏ bạc. Vui mừng trước sự kiện lạ, vua Đại Hành
nhân đó đặt tên ruộng cày Tịch Điền đó là ruộng Kim
Ngân.
Thực ra, chẳng có hũ vàng, hũ bạc nào ở nơi ruộng
tịch điền vua cày mà có cả, đó chỉ là sự chuẩn bị
trước của vua ngụ ý cho thiên hạ biết rằng, coi trọng
nông nghiệp, siêng năng lao động thì ruộng sẽ cho
vàng cho bạc.
Biện pháp xướng xuất thiên hạ của vua Lê Đại
Hành là một tục lệ đẹp, khuyến khích người nông
dân yêu quý ruộng nương. Do đó, các đời vua về sau
cho đến tận đầu thời nhà Nguyễn, cày ruộng Tịch
Điền đã trở thành lệ quen.
Về sự kiện của vua Đại Hành, Đại Việt sử lược có
chép lại:
"Năm Đinh Hợi (987) là năm thứ bảy niên hiệu
Thiên Phúc vua bắt đầu cày ruộng (tịch điền) ở núi
Đọi bắt được hũ vàng. Lại một lần cày ở núi Bà Hối
bắt được hũ bạc. Do đó ruộng được mang tên là Kim
Ngân Điền".
Lễ cày Tịch Điền xuất phát từ Trung Quốc. Đó là
ngày hội xuân, vua quan lần lượt xuống ruộng cày
một vài đường đất nhằm khích lệ nông dân phát
triển nông nghiệp, đặc biệt là phát triển nông nghiệp
lúa nước. Sau khi đã làm lễ cúng Thần Nông, nhà vua
đích thân xuống cày ba luống. Thửa ruộng này sẽ
được chăm sóc và sản phẩm sẽ dùng để tế lễ năm
sau.

264 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tục cày ruộng tịch điền được sử thần Ngô Sĩ Liên
thời Lê sơ ngợi khen trong Đại Việt sử ký toàn thư:
"Tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho
thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi
muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân
đông, nên thay, nên thay".
Vua Minh Mạng thời Nguyễn sau khi cày ruộng
tịch điền đã cảm tác một bài thơ rằng:
“Bỉnh lỗi tam thôi than vị quyện,
Tùng canh cửu phản hãn như tương.
Nhân tư cần khổ lao thiên mẫu,
Viện giáng ân thi chiếu thập hàng”.
Nghĩa là:
“Ta cày ba đường thì chưa thấy mệt.
Quan cày chín đường thì mồ hôi đầm đìa.
Mới biết người dân nhọc nhằn thế nào.
Nên xuống chỉ ra ấn chiếu vào năm thứ mười”.
(Tham khảo từ: Những điều lạ thời Ngô - Đinh -
Tiền Lê (Trần Đình Ba) - NXB VH & TT)
Lời bình: Đây là phong tục đẹp của đất nước Việt
Nam. Ngày nay sau ngày tết Nguyên Đán, Chủ Tịch
nước Việt Nam vẫn giữ lễ này. Ngài xuống ruộng cày
những luống cày đầu tiên trong Lễ Tịch Điền mong
rằng đất nước bình an và một năm bội thu.
Bên cạnh đó, do thời buổi kinh tế được đề cao, nên
Ngài Chủ Tịch còn bấm nút mở màn sàn giao dịch
chứng khoán đầu năm và mong rằng đất nước phát
triển về kinh tế, thị trường chứng khoán là xương
sống lòng cốt để cấp vốn cho sự phát triển kinh tế.
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 265
60.Hoàng hậu Dương Vân Nga (?-1000)

Đại Thắng Minh hoàng hậu, dã sử xưng gọi Dương


Vân Nga (?-1000), là Hoàng hậu của hai vị Hoàng đế
thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử Việt Nam là Đinh
Tiên Hoàng và Lê Đại Hành (Hai vị vua này lệch nhau
16 tuổi). Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà
Tiền Lê.
Khi người con trai của bà với Đinh Tiên Hoàng tên
Đinh Toàn lên kế vị mới 6 tuổi, bà trở thành Hoàng
thái hậu nhiếp chính. Trong tình thế khó khăn của
đất nước trước giặc Tống và Hoàng vị con trai mình
còn quá trẻ, bà đã chủ động nhường Hoàng vị cho
Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn, trở thành Minh Càn
Quảng Hiếu hoàng đế lập ra nhà Tiền Lê. Lê Đế lại
lập Dương thị làm một trong các Hoàng hậu của ông,
tôn hiệu là Đại Thắng Minh hoàng hậu.
Vì là một người đàn bà quyền lực của hai triều đại
quan trọng, sử sách thường gọi bà với cái tên trang
trọng là Dương hậu hay Dương thái hậu.
Đoạn sử về sau: Công chúa Lê Phất Ngân, con gái
của Dương Hậu lấy Lý Công Uẩn và làm Hoàng Hậu
Lập Giáo khi Lý Thái Tổ lên ngôi (khi đó bà là mẹ của
Hoàng Hậu). Và Dương Hậu là bà ngoại của hoàng đế
Lý Thái Tông sau này. Năm bà mất cũng là năm vua
Lý Thái Tông sinh ra.
Bà là một người được đánh giá có công lao to lớn
với Đại Việt trong các giai đoạn luân chuyển vương
triều hòa bình và êm thấm: Nhà Đinh nhường ngôi
cho nhà Lê khi đất nước gặp họa ngoại xâm mà vua
266 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mới có 6 tuổi. Nhà Lê nhường ngôi cho nhà Lý khi
vua Lê Ngọa Triều thất đức và vô đạo mà chết trẻ,
lòng dân bất an không muốn theo nhà Lê mà ngả
theo người có Đức, đó chính là Lý Công Uẩn con rể
của Dương Hậu.
Hoàng thái hậu Dương Vân Nga được thờ cùng
với Vua Lê Đại Hành tại đền Vua Lê Đại Hành ở khu
di tích cố đô Hoa Lư và thờ cùng Vua Đinh Tiên
Hoàng tại đền Mỹ Hạ ở quê hương Gia Thủy, Nho
Quan và đình Trai xã Gia Hưng, Gia Viễn; tại khu di
tích đình - chùa Trung Trữ, Ninh Giang, huyện Hoa
Lư, bà còn được phối thờ cùng hai Vua.
Bà cũng được thờ cùng Vua Lê Hoàn tại vài nơi
khác ở Ninh Bình như ở đền Đồng Bến, thành phố
Ninh Bình, tương truyền là nơi bà đón Vua Lê Đại
Hành khi đánh thắng giặc Tống trở về; tại đền Vua
Lê ở xã Lai Thành, huyện Kim Sơn.
(Tham khảo từ: Giai thoại về phụ nữ Việt
Nam (Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi) NXB Phụ nữ,
1987)
Lời bình: Trong giai đoạn này bên cạnh các vĩ
nhân là Thần tướng Oai phong hay Quân Vương sáng
suốt ngàn năm có một đã liên tiếp xuất hiện để cùng
gìn giữ độc lập cho nước Việt. Thì còn có những con
người vĩ đại không kém nhưng đứng sau bức rèm.
Bằng tài năng, tầm nhìn xa trông rộng và bằng cái
tâm yêu thương dân chúng mà Dương Hậu đã sử
dụng quyền lực, sự tài tình quyết đoán, mưu kế khôn
ngoan để chuyển dời vương triều từ triều đại này
sang triều đại khác thuận lòng dân, triều thần ủng hộ.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 267


Thật là tài tình lắm thay. Chúng ta hãy xem tình
tiết lịch sử sau: Trong các Đại Việt sử ký toàn có chép:
“Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo
giáp trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người
rằng: “Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết
sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công
lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông
Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”.
Triều thần đều tung hô “vạn tuế”, Thái hậu lấy áo
long cổn khoác cho Lê Hoàn”.
Tại sao chuyển đổi vương triều lại đơn giản dễ
dàng như vậy? Tại sao lật đổ vua cũ lập lên vua mới
lại hòa bình êm thấm như vậy? Chắc chắn đã có một
kịch bản rất chi tiết và tinh vi đã diễn ra. Toàn bộ
triều thần đều đồng lòng nhất trí. Lúc này đây giống
như một nghi lễ lên ngôi hơn là một cuộc lật đổ
vương triều. Mà ai đủ quyền hành quyết định toàn bộ
truyện này nếu không ngoài Dương Hậu.
29 năm sau (Dương Hậu mất năm 1000), vào năm
1009 triều đình khi đó rối ren, vua Lê Ngọa Triều thất
đức ác độc lòng dân căm phẫn và mệt mỏi. Nhân khi
Lê Ngọa Triều mất sớm, lòng dân nghiêng về người có
Đức mà xa lìa họ Lê. Quan Chi nội Đào Cam Lộc họp
bàn cùng triều đình và nhất trí đưa quan Thân Vệ Lý
Công Uẩn lên ngôi và học theo đúng cách làm này của
Dương Hậu. Một cuộc lật đổ triều đại hòa bình và êm
đẹp lần thứ hai được diễn ra trong lịch sử Việt Nam.

268 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


61.Trương Hống và Trương Hát hiển linh (981)

Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành


(981), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân
Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân sang xâm lược nam
phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự
Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối
đá.
Đại Hành mộng thấy hai thần nhân ở trên sông vái
mà nói rằng:
- Anh em thần, một tên là Trướng Hống, một tên
là Trương Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương
cầm quân chinh phạt nghịch tặc mà lấy được
thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, Lý
Nam Đế (Lý Phật Tử) triệu hai anh em thần.
Bọn thần vì nghĩa không thể theo được, uống
thuốc độc mà tự tử. Thượng đế thương anh em
thần có công lại trung nghĩa một lòng, mới
phong làm quan tướng trong hàng các thần
linh, thống lĩnh quỉ binh. Nay quân Tống phạm
cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em
thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà Vua
đánh giặc này để cứu sinh linh.
Vua giật mình tỉnh dậy, mừng rỡ mà bảo cận thần
rằng:
- Có thần nhân giúp ta rồi vậy.
Bèn lập tức đốt hương ở trước thuyền ngự mà
khấn rằng:
- Nếu thần nhân có thể giúp ta làm công nghiệp
này, thì xin bao phong huyết thực muôn đời.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 269


Đoạn giết súc vật tế lễ, hóa mũ áo, voi ngựa, tiền
giấy. Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân mặc
mũ áo Vua ban đến bái tạ. Đêm sau lại thấy một
người dẫn đoàn quỉ áo trắng, tự phía nam sông Bình
Giang mà tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía
bắc sông Như Nguyệt mà lại, cùng xông vào trại giặc
mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối
đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh
hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng
ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư,
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm,
Hội kiến thịnh trần tận tảo trừ.
Bản dịch:
Sông núi nước Nam Vua Nam ở,
Trời xanh đã định trong sách trời,
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm,
Sẽ gặp cuồng phong đánh tơi bời.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy
tan, lầm giết lẫn nhau, ai lo chạy thoát thân người ấy,
bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống đại
bại mà về. Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng
công thần, và phong cho hai vị thần nhân, một là
Tinh mẫn đại vương lập miếu thờ ở tại ngã ba sông
Long Nhãn, sai dân ở Long Nhãn, sông Bình Giang
phụng thờ, một là Khước mẫn đại vương lập miếu ở
ngã ba sông Như Nguyệt, sai dân ở bờ sông Như
Nguyệt phụng thờ.

270 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thời Vua Nhân Tông nhà Lý, binh Tống nam xâm
kéo đến biên cảnh; Vua sai Thái uý Lý Thường Kiệt
dựa bờ sông Như Nguyệt đóng cừ để cố thủ. Một
đêm kia quân sĩ nghe trong đền có tiếng ngâm to bài
“Nam Quốc Sơn Hà”. Quả nhiên quân Tống chưa
đánh đã tan rã. Thần mộng rõ ràng, mảy lông sợi tóc
chẳng sai. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc
phong Như Nguyệt Khước Địch Đại Vương, năm thứ
tư gia phong Thiện Hựu Dũng Cảm.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Như ta đã bàn ở truyện tích về hai vị
tướng quân Trương Hống và Trương Hát (502-571)
của Triệu Việt Vương sau khi bị Lý Phật Tử dùng kế
gả con làm thông gia và ngầm lấy mất đâu mâu móng
rồng và bị đánh úp nên thua chạy cùng con gái. Con
gái ngồi sau vua thì rải lông ngỗng chỉ đường cho
chồng là giặc tìm đến. Thần Long hiện ra bảo vua
chém giặc ngồi sau (con gái) rồi Thần Long rẽ biển
đưa vua vào long cung... Lý Phật Tử dụ hàng Trương
Hống và Trương Hát nhưng hai vị một lòng trung
thành không thờ hai vua mà lại là giặc nên uống
thuốc tự tử giữa sông Như Nguyệt.
Thật ra những vị tướng quân khi còn sống lập
nhiều chiến công, cứu giúp được nhiều dân chúng
thoát khỏi cảnh khổ đau nô lệ Công Đức rất lớn. Khi
chết cái Phúc đó vẫn còn nên được ở cõi Thần sung
sướng hạnh phúc và có Thần Uy.
Khi còn sống Thần đã giúp dân và tạo duyên nợ với
dân nên tâm dân chúng ở nơi đó hay cảm ứng với
Thần. Thần cũng hay hiển linh giúp đỡ họ. Bù lại dân
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 271
tự sinh tâm xúc động và thương yêu đền thờ Thần. Họ
tự nguyện mang lễ vật đến để trả ơn các ngài một
cách tự nhiên.
Nhưng tâm thức trước khi chết của vị tướng ra
sao? Chí nguyện của họ đã hoàn thành viên mãn
chưa?
Vị tướng nào Công Đức lớn nhưng chết nhẹ nhàng
trong cảnh già yếu, chí nguyện đã hoàn thành thì họ
sẽ làm vị Thiện Thần (Ông Thiện) giúp dân làm ăn
kinh tế và khuyên dân Đạo Đức.
Vị tướng nào Công Đức lớn nhưng chết trong uất
ức căm phẫn, chí nguyện còn dang dở thì sẽ thành Ác
Thần (Ông Ác) thường hay hiển linh nơi trận mạc.
Vẫn yêu thương dân chúng có duyên nhưng lại căm
thù kẻ giặc quá đáng. Tâm thần tương ưng vào tâm
quân sĩ lúc lâm trận. Quân sĩ bị “say máu” muốn chém
đầu giặc ra bảy mảnh, hoặc băm cho xác giặc nát như
tương.
Tạm kể ra một số vị Thiện Thần nước Nam như:
Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), Đức Thánh
Nguyễn (Nguyễn Minh Không), Đức Thánh Mẫu (Liễu
Hạnh Công Chúa) luôn giúp dân hiền lành đạo đức,
giúp dân sinh kế yên ổn làm ăn.
Và một số vị Ác Thần hiện ra trong chiến tranh
giúp tướng lĩnh quân sĩ đánh giặc như: Đức Thánh
Tam Giang Trương Hống Trương Hát giúp Lê Đại
Hành và Lý Thường Kiệt đánh Tống ở sông Như
Nguyệt. Hiệu Phi Thiên Bồng - Chu Phúc Uy giúp Lý
Thái Tông đánh giặc Chiêm, giúp Trần Hưng Đạo
đánh Nguyên Mông. Uy Vũ đại tướng quân Chu Phúc

272 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Uy là tướng thời Lý Nam Đế được làm quan nước Vạn
Xuân cai quản vùng đất Hải Dương. Tại đây ông quan
tâm đến dân chúng, khuyến khích họ chăm nghề
trồng cấy, ban tiền bạc để mua, ruộng đất dùng vào
việc công, ai ai cũng đội ơn đức. Sau đó nhà Lương
phản công và nhà nước non trẻ Vạn Xuân thất thủ.
Trong trận chiến Phúc Uy tướng quân đã hi sinh anh
dũng ở Việt Yên năm 545.

Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 273


62.Quán Thánh Sóc Thiên Vương (980 - 1005)

Thời Lê Đại Hành, Khuông Việt thái sư Ngô Chân


Lưu thương lưu lạc tới làng Bình Lỗ (còn gọi là Vệ
Linh Sơn), mến thích phong cảnh thanh u đẹp đẽ ở
đây, bèn dựng một ngôi am mà ở.
Đêm, vào lúc canh ba, thái sư mộng thấy có vị
thần đeo qua vàng, cưỡi ngựa sắt, tay trái cầm cây
thương vàng, tay phải cầm bảo kiếm, theo sau với
hơn mười người, diện mạo đáng sợ, tới và nói rằng:
- Ta là Tỳ Sa Môn Đại Vương, kẻ theo sau đều là
thần Dạ Thoa. Thiên Đế sai ta tới Bắc Quốc để
bảo hộ hạ dân ở đó. Ta vốn có duyên với người,
cho nên tới báo để người biết.
Thái Sư kinh hoàng tỉnh dậy, nghe thấy trong núi
có tiếng thét, trong lòng vô cùng sợ hãi, bèn thân vào
núi, thấy một cây lớn có mây lành vây ở trên bèn sai
thợ tới đốn để tạc tượng thần như hình dạng trông
thấy trong mộng, rồi lập đền thờ, hương lửa cúng
vái.
Năm thiên phúc thứ nhất, quân Tống vào ăn cướp,
bên vua ta sai quân tới đền cầu khẩn. Khi ấy, quân
Tống đóng ở thôn Tây Kết, hai bên chưa giao chiến,
quân Tống trông thấy đã kinh hãi lui về giữ Đại
Giang, lại gặp lúc sóng nổi cuồn cuộn, giao long nổi
lên mặt nước, quân giặc tan vỡ.
Vua cảm sự anh linh của thần, bèn xây thêm miếu
vô, phong làm Sóc Thiên Vương để trấn phương bắc.
Đền ở xã Vệ Linh, huyện Kim Hoa, thường xuyên
phụng thờ không bao giờ ngớt. Có người cho rằng

274 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Phù Đổng Thiên Vương sau khi dẹp được giặc, cưỡi
ngựa sắt tới cây đa núi Vệ Linh thì bay lên trời, chỉ
để lại một cái áo. Tới nay người đời gọi cây này là
“cây thay áo”. Phàm khi thờ cúng, chỉ dùng những đồ
chay tịnh. Tới triều Lý để điện thờ cúng, mới xây đền
Vũ ở phía đông Tây Hồ để trấn phương Bắc, lại tôn
làm phúc thần. Ngày nay đổi tên đền Trấn Vũ sau đổi
tên là Quán Thánh ở đầu đường Thanh Niên, Hà Nội.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Lời bình: Đền Quán Thánh là một trong tứ trấn
của kinh thành Thăng Long cùng với các đền khác là
đền Bạch Mã thờ thần Long Độ hay thần Tô Lịch là
Thành Hoàng Thăng Long (76 hàng buồm), đền Kim
Liên thờ Cao Sơn Đại Vương là con của Lạc Long
Quân và Âu Cơ (cuối phố Xã Đàn, Đống Đa) và đền Voi
Phục thờ Hoàng Tử Linh Lang con vua Lý Thái Tông
có công đánh giặc Tống (ở trong công viên Thủ Lệ).
Vị thần Sóc Thiên Vương này không rõ gốc tích và
Phúc Đức khi còn sống ra sao? Tạo Phúc ở đâu, có
công lao gì giúp dân chúng, mới được làm Phúc Thần
cho dân thờ cúng? Truyện tích bị chép thiếu đoạn lập
công tạo Phúc. Nhưng nếu đã có sự hiển linh giúp
dân, giúp vua đánh giặc thì ắt hẳn là vị thần có Phúc
lớn, chẳng qua các nhà sử học hay dân gian bỏ sót
không ghi chép đó thôi.
Bình thường các thần khi hiển linh rất hay trình
bày rõ gốc tích tên gọi, công đức khi còn sống, sau khi
chết được ngọc hoàng hay thiên đế sai làm thần án
ngữ tại đây, giúp dân ra sao... để dân còn biết làm bia
Thần Phả đặt tại đền. Mỗi khi lễ bái và nghiên cứu
Chương 4: Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 275
Thần Phả thêm lòng tôn kính và cảm phục công đức
các Thần. Khi đó dân sẽ được Phúc hơn là mê tín tin
theo một thứ huyền ảo chẳng đâu vào đâu.

276 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chương 5: THỜI NHÀ LÝ

63.Lý Công Uẩn (974 - 1028)

Thái Tổ họ Lý tên là Công Uẩn (974 - 1028), người


làng Cổ Pháp tỉnh Bắc Ninh.
Tục truyền đời ông thân sinh ra ngài, nhà nghèo
khó, đi làm ruộng thuê ở chùa Tiêu Sơn, huyện An
Phong, phải lòng một người tiểu nữ có mang. Nhà sư
thấy thế đuổi đi chỗ khác. Hai vợ chồng mang nhau
đi đến chỗ rừng Bảng, mỏi mệt ngồi nghỉ mát. Chồng
khát nước xuống chỗ giếng giữa rừng uống nước,
chẳng may xẩy chân xuống giếng chết đuối. Vợ ngồi
chờ lâu không thấy, đến giếng xem thì đất đã đùn lấp
mất giếng rồi, ngồi khóc một hồi rồi vào ngủ trong
chùa Ứng Tâm ở gần đấy.
Ông sư chùa Ứng Tâm đêm hôm trước nằm mơ
thấy ông Long Thần báo mộng rằng:
- Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng Đế đến.
Nhà sư tỉnh dạy, sai tiểu quét dọn sạch sẽ, chực
đợi từ sáng đến chiều, chỉ thấy một người liền bà có
mang xin ngủ nhờ.
Nhà sư lấy làm lạ hỏi rằng:
- Chồng con quê quán ở đâu?
Người đàn bà liền kể tên họ nhà chồng, và nói lại
chuyện sa xuống giếng. Nhà sư cho ở nhờ ngoài cửa
Tam Quan. Được vài tháng, có một đêm thơm nức cả
chùa. Nhà sư thức dạy trông ra tam quan, thì thấy
sáng rực lên. Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm, thì
người liền bà ở nhờ đã sinh ra một đứa con giai. Bà
Chương 5: Thời nhà Lý 277
hộ chùa bế đứa bé vào chùa cho nhà sư xem, thì thấy
hai bàn tay có 4 chữ son: “Sơn - Hà - Xã - Tắc”. Xem
rồi bỗng nhiên trời nổi cơn mưa to nhớn. Đến lúc
người đàn bà hộ chùa trở ra thì người liền bà ở nhờ
đã chết rồi. Nhà sư sai đem chôn ở đàng sau vườn.
Từ đấy, nhà sư nuôi người con giai lên sáu tuổi đã
có khí phách thông minh. Một hôm, nhà sư sai mang
oản lên chùa dâng cúng, thì chú nhỏ đã khoét lấy
ruột oản ăn trước. Đến đêm ông Long Thần báo
mộng cho nhà sư. Sáng mai, nhà sư gọi mắng chú
nhỏ ấy. Chú nhỏ hỏi:
- Ai nói với ông như thế?
Nhà sư kể sự Long Thần báo mộng, chú kia tức
lắm, lên chùa đánh vào cổ ông Long Thần ba cẳng
tay, rồi viết vào sau lưng bốn chữ rằng: “Lưu tam
thiên ý”. Đến đêm, ông Long Thần lại báo mộng cho
ông sư rằng:
- Hoàng Đế đã đuổi tôi rồi, thì ông nghỉ lại để tôi
đi.
Nhà sư thức dậy sớm, vội vàng lên chùa xoát xem,
thì thấy sau lưng ông Long Thần có mấy chữ ấy, mới
bắt tiểu lấy nước vào rửa, thì rửa làm sao cũng
không sạch. Nhà sư bảo chú nhỏ ấy rửa, thì chỉ nhổ ít
nước bọt chùi đi sạch ngay.
Khi 8,9 tuổi nhà sư cho chú nhỏ ấy theo học ông
sư ở chùa Tiêu Sơn tên là Vạn Hạnh. Một khi học
không thuộc, phải ông thầy trói lại bắt nằm dưới đất
một đêm, mới ngâm một câu thơ rằng:
“Canh khuy không dám giang chân ruỗi
Vì ngại non sông, xã tắc xiêu”
278 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Vạn Hạnh thấy có khẩu khí Thiên Tử, tự bấy giờ
có lòng kính trọng lắm.
Ngài lớn lên, khảng khái có chí khí to, nhân có
công, làm quan thời vua Thiếu Đế nhà Lê. Khi vua
Thiếu Đế bị giết, thì ngài nằm ôm lấy thây vua mà
khóc. Vua Ngọa Triều khen là trung, nhắc lên làm Tứ
Tướng Quân Chế Chỉ Huy Sứ, thống lĩnh hết quân
thúc vệ.
Về sau vua Ngọa Triều băng hà, vua kế tự còn nhỏ,
quan Chi Hậu là Đào Cam Lộc và các quan trong triều
lập ngài lên làm Thiên Tử.
Ngài ở ngôi 18 năm thì mất.
Xét ngôi huyệt chỗ giếng trong rừng Bảng ấy,
những gò ở chung quanh, trông như hình cái hoa sen
nở ra 8 cánh, cho nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời,
bây giờ thuộc về làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh.
(Tham khảo từ: Nam Hải dị nhân liệt
truyện - Phan Kế Bính, 1930)
Lời bình: Trong tất cả các truyện tích về điềm báo
lành của Vua lập quốc thì truyện này có nhiều điềm
báo nhất và liên tiếp xảy ra từ đầu đến cuối truyện.
Từ khi bố bị chết dưới giếng trong rừng Bảng và mộ
kết, đến thần báo mộng cho Sư chùa Ứng Tâm Cổ
Pháp có thiên tử đến, rồi hào quang khi sinh ra, mùi
thơm tỏa khắp chùa, hai tay in dấu son “Sơn hà - Xã
tắc”, rồi thần hộ pháp bị vua đuổi khỏi chùa (khi đó
vua mới 6 tuổi và chưa làm vua ở dương gian), khi
nằm ngủ ngài sợ duỗi chân làm “xã tắc siêu” khiến sư
phụ Vạn Hạnh lấy làm nể phục.

Chương 5: Thời nhà Lý 279


Các truyện tích sau có rất nhiều các tích điềm báo:
cây gạo ở làng Cổ Pháp bị sét đánh hiện ra bài thơ
Sấm kí, Sư Vạn Hạnh giải nghĩa làm Lý Công Uẩn sợ
hãi phải dấu sư ở trong chùa. Nhưng rồi trong dân
vẫn lưu truyền Sấm kí. Lê Ngọa Triều nghe thấy ngầm
sai tìm người họ Lý mà giết đi vậy mà Lý Công Uẩn ở
ngay bên vua mà không nghĩ đến.
Chùa Ứng Tâm, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc
trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ "Thiên Tử".
Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm
thiên tử. Đến nay, Vua sinh năm Giáp Tuất lên làm
thiên tử, quả là ứng nghiệm.
Thế mới biết, vận số an bài. Nếu tâm tính bình hòa
thì cứ theo sự bình thường của trời đất (duyên) thì
cây cối ra hoa kết trái. Ví như: “tháng ba cây gạo nở
hoa, tháng bảy là mùa lúa chín”.
Nhưng: “tướng vị tâm sinh, tướng vì tâm diệt” Tâm
sinh tướng hóa vận. Tâm thay đổi thì tướng và vận sẽ
hòa đồng thay đổi. Ở đây Lý Công Uẩn luôn được nhắc
đến là người có trí lớn, khảng khái, tâm thành theo
Phật nên đạo đức hiền hòa và Uy Đức sáng ngời lòng
dân quy hướng... đó chính là cái nhân kiến tạo thời
vận.
Thời vận và điềm báo thật chỉ là biểu hiện bề ngoài
của cái Tâm và Đức bên trong Vua mà thôi. Các vua
đời trước Lý Công Uẩn thì ai sinh ra cũng đều có điềm
báo tốt lành vậy mà ở ngôi thì ngắn, truyền đời thì
cạn, một số thì chết yểu bởi phản tặc... Thật lành thay
cái Uy Đức của vua Lý Thái Tổ.

280 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


64.Vua nhà Lý lấy Đức để an dân (1009 - 1225)

Thời nhà Lý, vua Lý Thái Tổ là trẻ mồ côi, làm con


nuôi của Thiền Sư Lý Khánh Vân, làm đệ tử của
Thiền Sư Vạn Hạnh theo học đạo với thầy. Học vấn
uyên thâm, tài năng xuất chúng, Đức cao vọng trọng,
thần nhân báo ứng, thuận theo mệnh trời, dân chúng
quy tụ, Phúc Đức sâu dày, xây dựng đất nước thịnh
trị truyền 9 đời con cháu cả thảy 216 năm.
Vua lấy Đức để an dân, lấy đạo Phật làm gốc để
hòa đồng lòng dân, dân lành an ổn, đất nước thuận
hòa, trong nước không loạn lạc.
Đối với ngoại bang thì uy trấn phương Bắc, chủ
động dấn binh đánh Tống ngay trên đất Bắc và lui
binh về sông Như Nguyệt phòng thủ và đập tan ý
định xâm lăng của Phương Bắc. Đánh giặc Chiêm
Thành, bắt sống vua Chiêm, bình định cõi Nam.
Tất cả đều cốt lõi ở chữ Đức mà thành. Vua nhà Lý
dùng đạo lý Phật Pháp để an định dân chúng, tạo
thành Công Đức. Dùng Từ Bi Hỉ Xả làm gốc để trị vì,
dù rằng pháp luật còn lỏng lẻo nhưng trong nước
yên ổn, không cảnh cướp bóc. Dân chúng tin vào
Nhân Quả, sợ bị Quả Báo mà tự giác làm lành.
Vào thời nhà Lý, có vị đệ tử Thiền Sư tên là Lý
Công Uẩn xây dựng đất nước Đại Việt thịnh trị 219
năm. Vua lấy Đức để trị dân, lấy Từ Bi Hỉ Xả của đạo
Phật để làm luật pháp an dân.
Vào thời nhà Trần, có vị vua đi tu chứng quả là
vua Trần Nhân Tông (Giác Hoàng Tổ Sư Trúc Lâm
Yên Tử). Nước Đại Việt thịnh trị 175 năm. Vua Trần

Chương 5: Thời nhà Lý 281


cũng lấy Đức để trị dân, lấy Từ Bi Hỉ Xả của đạo Phật
để làm luật pháp an dân.
Vào thời nhà Hậu Lê, có vua Lê Lợi lấy Đức của
Khổng Tử để trị dân, lấy đạo quân tử ngũ thường
(nhân, trí, tín, lễ, nghĩa) để làm gốc an dân. Tổ chức
khoa thi, chọn người thực tài qua thi cử để làm quan,
xây dựng trường quốc học Quốc Tử Giám. Quốc Tử
giám trước kia chỉ là trường dạy học cho hoàng tử
đời Lý, Trần. Đến thời Hậu Lê mới thực sự thành
trường đại học của dân. Trong 56 vị Trạng Nguyên
Việt Nam 3 đời Lý, Trần, Lê thì đời Hậu Lê có 40 vị.
Và nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm.
Sử thần Ngô Sĩ Liên, tác giả “Đại Việt sử ký toàn
thư” bình về vua Lý Thái Tổ rằng:
“Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở
vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người
theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo
ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời
thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức,
nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận
mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân
thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp
phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên,
truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của
bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo
Lão là chỗ kém”.
Sử thần Lê Tung, tác giả “Đại Việt thông giám tổng
luận” bình về vua Lý Thái Tổ rằng:
“Lý Thái Tổ nhân Ngoạ Triều thất đức, hiệp điềm
tốt sét đánh thành chữ, ứng mệnh trời, thuận lòng

282 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


người, thừa thời mở vận; có đại độ khoan nhân, có
quy mô xa rộng, dời đô định vạc, kính trời yêu dân, tô
ruộng có lệnh tha, phú dịch có mức độ. Bắc Nam
thông hiếu, thiên hạ bình yên. Song thánh học chẳng
nghe, nho phong chưa thịnh, tăng ni chiếm nửa dân
gian, chùa chiền dựng đầy thiên hạ, không phải là đạo
sáng nghiệp truyền dòng vậy”.
Thật ra các vị Sử Thần Nho Gia Quân Tử học đó
bàn vậy thì tôi cũng biết là như vậy và nói lại với bạn
đọc là như vậy. Nhưng thử hỏi rằng: trước khi có
nhà Lý thì các vua tài giỏi như: Lý Nam Đế, Triệu
Việt Vương, Ngô Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành giữ được triều đại bao nhiêu năm? Nếu không
nhờ Uy Đức từ đạo Phật mà có, thì sao nhà Lý có thể
giữ và truyền đời được 216 năm?
Nhưng phàm cái gì quá thì đều không tốt. “Thái
quá thì bất cập”, “Bĩ cực thì thái lai”. Đạo Phật cũng
vậy, vua theo đạo Phật ban đầu tạo Uy Đức là tốt.
Dân chúng tin sâu nhân quả mà sợ làm điều ác bị
báo ứng thì là tốt. Luật pháp lỏng lẻo mà lòng dân
được an, không cướp bóc loạn lạc thì là tốt.
Nhưng phát triển lên thành “thái quá”: Xây dựng
sơn 500 chùa tháp cao to lộng lẫy như cung vua chỉ
để phục vụ lễ bái mà không có người thực tâm tu
hành đạo đức, Sư không tổ chức dạy đạo đức cho
dân. Thấy Sư sãi ngoài đường Vua còn cúi đầu, bảo
sao quan không nể sợ, dân phải cung kính... thế là
không tốt. Tăng Ni phải là đối tượng phục vụ dân,
nuôi dạy đạo đức trong dân, là hình mẫu về đạo đức
tu hành để cảm hóa lòng dân. Chứ Tăng Ni không
phải là đối tượng để dân phục vụ, chỉ có hình tướng
Chương 5: Thời nhà Lý 283
đầu trọc mặc áo cà sa là đã được dân tôn kính thư
thần thành. Chính vì do đó đời Lý nửa dân số là tăng
ni thì trong số đó cao bao nhiêu là tăng ni thật tu,
bao nhiêu là tăng ni giả tu, lấy hình tướng để tìm
kiếm quyền lực hay mượn đạo tạo đời... đó chính là
sự “bất cập”. Ngày nay, Đạo Phật Việt Nam cũng nên
lưu ý những bất cập này của đời xưa.
Đôi điều cảm nghĩ của Soạn Giả
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri

284 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


65.Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018)

Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018) (Đời thứ 12, dòng


Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ
Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã
thông minh khác thường, thông suốt Tam học và
nghiên cứu Bách luận, mà vẫn xem thường công
danh phú quí.
Năm hai mươi mốt tuổi Sư xuất gia, cùng Thiền sư
Định Huệ, thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục
Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi,
Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.
Sau khi Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này
và chuyên tập pháp “Tổng trì tam-ma-địa” lấy đó
làm sự nghiệp. Bấy giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng
đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính
Sư.
Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất (980), tướng
Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta,
đóng binh ở Cương Giáp, Lạng Sơn, vua Lê Đại Hành
mời Sư đến hỏi:
- Quân ta thắng bại thế nào?
Sư đáp:
- Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui.
Quả đúng như lời Sư đoán.
Có kẻ gian tên Đỗ Ngân âm mưu hại Sư. Biết trước
sự việc, Sư đưa cho y một bài thơ:
“Thổ mộc sanh nhau Cấn với Kim,
Vì sao ôm ấp lòng hận phiền?

Chương 5: Thời nhà Lý 285


Bấy giờ tôi biết lòng buồn dứt,
Thật đến sau này chẳng bận tâm.”
(Bản gốc: Thổ mộc tương sanh Cấn bạn Câm
Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm?
Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt
Chân chí vị lai bất hận tâm.)
Được thơ này gã Ngân hoảng sợ không tiến hành
mưu hại nữa.
Lúc vua Lê Ngọa Triều ở ngôi quá tàn bạo, mọi
người đều oán ghét. Khi ấy Lý Thái Tổ còn làm chức
Thân vệ, chưa lên ngôi. Bấy giờ trong nước có những
điềm lạ xuất hiện liên miên. Tùy theo chỗ thấy nghe,
Sư đều bàn giải phù hợp với triệu chứng nhà Lê sắp
mất, nhà Lý lên thay. (xem truyện tích cây gạo ở làng
Cổ Pháp bị sét đánh hiện ra bài thơ sấm ký và Sư Vạn
Hạnh giải nghĩa sau tích này)
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ
mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay:
- Thiên tử đã băng hà, Lý thân vệ đã khuất phục
trong thành nội, túc trực trong vài ngày Thân
vệ ắt được thiên hạ.
Và để chiêu an bá tánh, Sư ra yết thị rằng:
“Tật Lê chìm biển Bắc
Cây Lý che trời Nam
Bốn phương binh đao dứt
Tám hướng thảy bình an.”
Bản gốc:
Tật Lê trầm bắc thủy

286 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lý tử thọ nam thiên
Tứ phương qua can tịnh
Bát biểu hạ bình an.
Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày rằm
tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng nói kệ:
“Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ Xuân tươi, Thu đượm hồng,
Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.”
Bản gốc:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô.
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Nói xong, Sư lại bảo chúng:
- Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ
trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.
Ngừng giây lát, Sư tịch.
Vua Lý Thái Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt xá-
lợi xây tháp cúng dường.
Về sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư
rằng:
“Vạn Hạnh thông tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai)
Thật hợp lời sấm xưa.
Quê nhà tên Cổ Pháp
Dựng gậy vững kinh vua.”
Bản gốc:
Chương 5: Thời nhà Lý 287
Vạn Hạnh dung tam tế,
Chơn phù cổ sấm cơ (ky).
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Có một điều là Thiền sư chứng đạo thì
không ai nói là mình đã chứng đạo. Chỉ có những vị
chứng cao hơn đối đáp thiền ngữ với người thấp hơn
thì biết rằng đã chứng đến mức nào. Nên trong nhà
thiền có rất nhiều công án về thiền ngữ bí ẩn mà khi
ta tu thiền chứng đến mức độ nào đó mới có thể giải
nổi.
Ví như câu nói của Thiền sư Vạn Hạnh trước khi
mất:
- Các ngươi cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ
trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.
Thật ra đó là một thiền ngữ mà không có lời giải
thích, nếu ai chứng đến đó hoặc cao hơn thì ứng ra
một vế đối giải thích được câu nói đó thì thành.
Ngoài thiền ngữ ra thì phải chờ đến lúc Thiền sư
mất xem như thế nào? Nếu Sư ngồi thiền an nhiên mà
viên tịch không bệnh tật gì thì đó là ngài nhập định lìa
bỏ thân xác an nhiên tự tại: cấp độ 1.
Nếu thân xác đó giữ nguyên như vậy mà không hủy
hoại thì định của ngài vẫn còn giữ cho thân không
hủy, cấp độ 2.
Nếu thiêu ngài mà xương các ngài sau khi thiêu kết
tinh lại thành những viên ngọc Xá Lợi ngũ sắc thì cấp

288 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


độ chứng rất cao, cấp độ 3 (theo kiến thức của tôi
được học thì đây là cao nhất).
Và khi ngài nhập định thấy rõ quá khứ, hiện tại, vị
lai và các ngài cũng không nói rõ ra vì nói ra sẽ mất
duyên và việc sẽ không thành, nên các ngài hay làm
thơ Sấm kí với nhiều ẩn ý, một câu nói có hàng trăm
hàng chục cách giải thích khác nhau, chỉ khi sự việc
diễn ra rồi ta mới kiểm tra lại Sấm mới chọn được
một cách giải chính xác và hợp lý nhưng việc đã xong
rồi.
Đa phần các ngài thấy điềm báo về nghiệp sắp đến
và khuyên ta nên làm những việc mà những việc đó sẽ
tạo ra Quả Báo hóa giải nghiệp. Ví dụ: biết rằng ta
chuẩn bị gặp khó khăn về tiền bạc và túng quẫn nợ
nần. Các ngài khuyên ta lúc này đang kiếm được tiền
thì trích ra 5% đi làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo,
người bị túng thiếu. Nhân quả về sau ta vẫn bị túng
thiếu (chứ đừng nghĩ rằng nghiệp không đến) nhưng
tự dưng trong lúc túng quấn đó có người giúp đỡ.

Chương 5: Thời nhà Lý 289


66.Giải mã Sấm Ký trên cây gạo (1008)

Trước đây ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có


cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét
đánh thấy có chữ:
Thụ căn điểu điểu,
mộc biểu thanh thanh,
hòa đao mộc lạc,
thập bát tử thành,
đông a nhập địa,
mộc dị tái sinh,
chấn cung kiến nhật,
đoài cung ẩn tinh,
lục thất niên gian,
thiên hạ thái bình.
Bản dịch:
Gốc cây thăm thẳm,
ngọn cây xanh xanh,
cây hòa đao rụng,
mười tám hạt thành,
cành đông xuống đất,
cây khác lại sinh,
đông mặt trời mọc,
tây sao náu hình,
khoảng sáu bảy năm,
thiên hạ thái bình.
Sư Vạn Hạnh giải nghĩa:

290 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vua thì non yểu,
bề tôi thì cường thịnh,
họ Lê mất,
họ Lý nổi lên,
họ Trần và giặc phương Bắc,
họ Lê khác lại lên,
Thiên tử phương đông mọc
thứ nhân ở phương tây lặn,
khoảng sáu bảy năm nữa
thì thiên hạ thái bình.
Sư Vạn Hạnh giải nghĩa rằng: "Thụ căn điểu điểu",
chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là Vua, chữ điểu đồng
âm với yểu, nên hiểu là yếu. "Mộc biểu thanh thanh",
chữ biểu nghĩa là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh
âm gần giống với chữ thanh nghĩa là thịnh; Hòa, đao,
mộc ghép lại là chữ Lê; Thập, bát, tử là chữ Lý; Đông
A là chữ Trần; nhập địa là phương Bắc vào cướp:
"Mộc dị tái sinh" là họ Lê khác lại sinh ra. "Chấn cung
kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến là mọc ra;
nhật là thiên tử. "Đoài cung ẩn tinh", "đoài" là
phương tây, "ẩn" cũng như lặn, "tinh" là thứ nhân.
Mấy câu này ý nói là:
“Vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất,
họ Lý nổi lên, sau đến họ Trần, rồi bị phương Bắc vào
cướp, sau đó nhà Lê khác lại sinh ra. Thiên tử phương
đông mọc ra thì thứ nhân ở phương tây lặn mất, trải
qua 6, 7 năm nữa thì thiên hạ thái bình”.
Điều này rất ứng với tương lai lịch sử 500 kể từ
lúc đó: Sau thời Lê Hoàn (nhà Tiền Lê) đến nhà Lý
Chương 5: Thời nhà Lý 291
(216 năm), sau nhà Lý đến nhà Trần (174 năm) rồi
giặc Minh phương Bắc chiếm nước ta (13 năm). Lê
Lợi khởi nghĩa đánh tan giặc Minh lập lên nhà Hậu
Lê (Lê Sơ và Lê Trung Hưng kéo dài 360 năm).
Có lần Lê Ngọa Triều ăn quả khế lại thấy hột mận
(Chữ Lý nghĩ là cây Mận), nghe dân gian đồ lời sấm
ngữ thì tin ngay và ngầm tìm người họ Lý giết đi, thế
mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh, rốt cuộc vẫn không
biết để giết. Chắc có một sự bí mật nào đó giúp cho
Công Uẩn thoát khỏi họa này.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Tôi có nghe nhiều người bạn theo
“thuyết âm mưu” không tin vào lời Sấm này. Họ còn
nói rằng: “Đây là âm mưu của Lý Thái Tổ nhân một
hôm mưa gió sét đánh cây gạo và đã viết chữ lên đó
rồi phao tin cho mọi người tin rằng nhà Lý sẽ thay thế
nhà Lê. Chứ chẳng có truyện ông trời nào viết chữ lên
đó cả”.
Nếu được như vậy thì Lý Thái Tổ có khả năng bói
toán như thần vì có thể biết cả đến đời Trần, rồi giặc
Minh và Lê Lợi... đó là tương lai 500 năm của đất
nước. Và Sau khi Thiền sư Vạn Hạnh giải thích sấm
ký, Lý Công Uẩn hoảng sợ vì nếu bị lộ bài Sấm kí và lời
giải này, ắt Lê Ngọa Triều không để ông yên, nên ông
đem dấu Thiền sư Vạn Hạnh trong chùa.
Thật ra lời giải thích thời bấy giờ chỉ tiên đoán
được nhà Lý lên ngôi thôi, còn nhà Trần, giặc Minh,
nhà Hậu Lê thì chỉ sau khi chuyện xảy ra mà xét theo

292 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sấm mới thấy ứng nghiệm. Chứ lúc đấy không ai giải
thích nổi vì cũng một câu có hàng chục hàng trăm
cách giải thích khác nhau. Chỉ khi sự việc xong xuôi
mới chọn được 1 cách giải thích chính xác nhất ứng
với sự việc đã xảy ra.
Vì sao lại phải khó khăn thế? Vì rằng tương lai phụ
thuộc vào tâm và duyên. Tâm tính được thuần đạo
đức hiền hòa thì Phúc ắt sẽ tăng trưởng và Vượng số,
giàu có, bình an, hạnh phúc kéo đến. Tâm tính ác độc,
tham sân si thì Phúc sẽ giảm, nghèo đói, khổ sở chiến
tranh sẽ đến. Tâm và Đức chính là nhân sinh ra Phúc.
Nên có câu: “Tích đức tạo Phúc” là vậy.
Còn duyên là các yếu tố ngoại vi. Ví như ta gieo một
hạt mầm xuống đất tốt (chứ không phải là nền xi
măng) thì duyên là thời tiết, nắng, gió, độ ẩm thì cây
mới nảy mầm trưởng thành... đúng thời vụ thích hợp
mới có hoa và trái.
Tuy rằng ta biết gieo hạt cam thì sẽ có trái cam để
ăn nhưng các duyên trung gian khiến cho nhanh hay
chậm ra trái, mà cam chua hay ngọt vì thổ nhưỡng
khí hậu. Nhanh hay chậm, chua hay ngọt do Duyên
tác động rất lớn.
Các Thiền Sư tài giỏi khi thấy ta chưa gieo nhân thì
khuyên nên gieo nhân tốt. Nhưng nếu nhân đã gieo
rồi thì người chỉ dám tác động và duyên mà thôi. Nếu
nhiều người biết tương lai, tâm của họ thay đổi, phúc
của họ thay đổi vận nước cũng thay đổi theo.

Chương 5: Thời nhà Lý 293


67.Vua Lý Thái Tổ lên ngôi (1010)

Họ Lý, tên húy là Công Uẩn (974 - 1028), người


châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa
Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa,
sinh Vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974) thời
Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện
Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm
Vua, đóng đô ở thành Thăng Long. Ở ngôi 18 năm
(1010-1028), thọ 55 tuổi (974-1028), băng ở điện
Long An, táng ở Thọ Lăng. Vua Lý Thái Tổ ứng mệnh
trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận, là người
khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã, có lượng đế
vương.
Đại Việt sử ký toàn thư chép đoạn tích lên ngôi
rằng:
Người khởi dựng triều Lý là Lý Công Uẩn người
làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Hà Bắc), là con nuôi của thiền
sư Lý Khánh Văn từ năm ba tuổi.
Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn
Hạnh thấy, khen rằng:
"Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn
lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong
thiên hạ".
Và nhận làm đệ tử dạy dỗ đạo lý. Lớn lên, không
chăm việc sản nghiệp, chỉ học kinh sử qua loa, khảng
khái có chí lớn. Trong đời Ứng Thiên, xuất thân thờ
Lê Trung Tông (1005). Đại Hành băng, Trung Tông
bị giết, Công Uẩn ôm xác mà khóc, Ngọa Triều khen
là người trung, cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy
sứ, thăng đến chức Tả Thân Vệ Điện Tiền chỉ huy sứ.
294 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Đến khi Ngọa Triều băng hà, quan Chi nội Đào
Cam Mộc bảo Công Uẩn rằng:
"Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp
lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che
dấu được nữa. Chuyển họa làm phúc, chỉ trong sớm
chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn
nghi ngại gì nữa?".
Công Uẩn nói:
"Tôi đã hiểu rỏ ý ông, không khác gì ý của Sư Phụ
Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào
?".
Cam Mộc nói:
"Thân Vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người
chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân
không chịu nổi, Thân Vệ nên nhân đó lấy ân đức mà
vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy
chỗ thấp, có ai ngăn được!".
Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói
truyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo.
Ngay ngày hôm ấy, điều họp cả ở trong triều, bàn
rằng:
"Hiện nay, dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới
lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo
ngược, không muốn theo về Vua nối mà đều có lòng
suy tôn quan Thân Vệ, bọn ta không nhân lúc này
cùng nhau sách lập Thân Vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có
xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có giữ được cái đầu
hay không?".
Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện,
lập làm thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều
Chương 5: Thời nhà Lý 295
lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô "vạn tuế", vang
dậy cả trong triều.
Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu
Thuận Thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng,
xuống chiếu từ nay ai có việc tranh kiện cho đến
triều tâu bày, Vua thân xét quyết. Các quan dâng tôn
hiệu là:
"Phụng Thiên Chí Lý ứng Vận Tự Tại Thánh Minh
Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu
Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quang Trạch Chương
Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên
Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Tri Tắc Thiên Đạo
Chính Hoàng Đế”.
Trước ở viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm,
châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm
lông đen thành hình hai chữ "Thiên Tử". Kẻ thức giả
nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử.
Đến nay, Vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử,
quả là ứng nghiệm.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Thời cơ và vận nước đến thì sự việc diễn
ra tưởng chừng như không thể đơn giản hơn được
nữa. Nhưng biết đâu để có được thời cơ và vận hội
này thì phải trải qua bao nhiêu điều kiện đại nhân
duyên vì vận nước đâu phải là chuyện nhỏ. Ta không
bàn đến các nhân duyên đã bàn từ thời Khúc, Dương,
Ngô, Đinh, Tiền Lê hay giặc phương Bắc nữa. Mà ta

296 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


hãy bàn về nhân duyên gần dẫn đến việc lên ngôi nhà
Lý.
Nhân duyên 1: Thời điểm vô cùng thích hợp. Đúng
lúc Lê Ngọa Triều vô đạo khiến dân mệt mỏi và chán
ghét nhà Lê mất đi, thế tử thì quá bé không đảm
đương được việc nước, thì có một vĩ nhân Uy Đức
ngời sáng khiến lòng dân và triều đình đều hướng về.
Thời điểm này chỉ cần nhanh hoặc chậm 1-2 năm thôi
thì thế nước sẽ loạn.
Nhân duyên 2: Đạo đức Phật đà lúc này đã ngấm
sâu vào lòng dân tộc. Các vị Vua đã biết yêu mến đạo,
vua Lê Đại Hành rất nhiều lần hỏi ý kiến của các
Thiền Sư. Trong dân đạo đức đã tăng trưởng Phúc
của dân cũng đã tăng. Để đáp ứng cái Phúc cần có
cho dân thì đất nước không thể loạn lạc. Thần và Trời
tự phải đi lo tìm lấy vị vua Uy Đức cho dân.
Đến Ngô Sĩ Liên chẳng theo đạo Phật cũng phải
than rằng: “Có Đức tất có ngôi, bởi lòng người theo
về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược
mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm
chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì
còn biết theo ai!”, Khá khen cho câu: “... trời thường
tìm chủ cho dân...” của Ngô Sĩ Liên là vậy.
Còn các nhân duyên điềm báo của Vua thường nó
chỉ là ngọn, tôi không bàn đến. Quan trọng vẫn là một
chữ “ĐỨC”.

Chương 5: Thời nhà Lý 297


68.Đền Bạch Mã và sự tích Thăng Long (1010)

(Đền Bạch Mã đã có từ thời Cao Biền xây thành Đại


La (868), nhưng đến đời Vua Lý Thái Tổ thì được sắc
phong là: Quốc đô Định bang Thành Hoàng Đại
vương tức là Thành Hoàng của kinh thành Thăng
Long, các đời vua sau tiếp tục sắc phong là: Bạch Mã
Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần)
Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không
đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác.
Mùa thu, tháng 7, Canh Tuất (1010) vua Lý Thái
Tổ từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại
La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên
ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành
Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức,
thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Y.
Lý Thái Tổ, khi Vua dời đô về Đại La, muốn mở
rộng phủ thành nhưng đắp thành xong đều bị lở, bèn
cử người tới cầu thần ở đền Bạch Mã. Đêm đó, Vua
nằm mộng thấy thần đến chúc mừng rồi dặn nhà
Vua cứ theo dấu vó ngựa đắp. Có con ngựa trắng từ
đền đi ra, đi theo hướng Tây, vòng về hướng Đông,
trở về điểm xuất phát rồi biến vào đền. Nhà Vua y lời
thần, bèn cho đắp thành xây lũy theo vết chân ngựa
để lại, xây đến đâu chắc đến đấy. Lý Thái Tổ sai tạc
một con ngựa trắng để thờ và ban sắc phong cho
thần làm Quốc đô Định bang Thành Hoàng Đại
vương, tức Thành hoàng của cả thành Thăng Long.
Ngôi đền này vì thế cũng được gọi là đền Bạch Mã
(76 Hàng Buồm, Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội – Một trong Tứ
Chấn Thăng Long bây giờ, các Chấn kia là: đền Voi
298 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Phục (gần Bách Thảo), đền Kim Liên (Trung Tự), đền
Quán Thánh (phố Quán Thánh).
Các Vua đời sau cũng theo đó mà phong là: Bạch
Mã Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Con ngựa trắng trong mơ mà lại để lại
dấu chân thật ngoài hiện trường. Còn rồng hiện lên
mà trong huyền sử chưa bao giờ thấy xuất hiện rồng
ở Thăng Long.
Nên tôi xin có một số giả thiết đưa ra như sau:
Lý Thái Tổ là đệ tử Thiền Sư Vạn Hạnh và là một
Thiền Sư đắc đạo biết trước được quá khứ hiện tại vị
lại đến 500 năm, khi ngài viên tịch thiêu được Xá Lợi
Ngũ Sắc. Thì đệ tử của ngài Huyền môn học không
phải dạng vừa.
Nhìn thế đất thành Đại La thấy có thế Long cuộn và
dòng sông Tô Lịch chảy ngược là vận khí xung thiên
nên giống như là Rồng cuộn bay lên, nên gọi là Thăng
Long.
Chắc vua cũng được Thần Long Độ chỉ dẫn cách
thức xây thành nên mới lễ thần và trùng tu ngôi đền
Bạch Mã chứ chắc không phải là ngựa trong mơ mà
in dấu chân ngoài đời thực.

Chương 5: Thời nhà Lý 299


69.Thổ địa xứ Đằng Châu (1010)

Thần vốn là thổ thần ở ngôi miếu cổ đất Đằng


Châu. Lý Thái Tổ khi làm quan quản lĩnh thân binh,
có thực ấp ở Đằng Châu.
Một lần vua dạo chơi tới làng này, thuyền đang ở
giữa sông, bỗng gặp mưa to gió lớn, phải dừng lại.
Vua hỏi đền ở bờ sông là đền gì? Có linh ứng không?
Có kẻ đáp rằng:
- Đó là đền thần thổ địa đất Đằng Châu, người
trong châu cầu mưa đảo tạnh đều rất là linh
ứng.
Vua nói lớn rằng:
- Nếu như có trận mưa lớn mà nửa sông bên này
vẫn tạnh thì mới thật là anh linh.
Phút chốc, quả nhiên một nửa sông mưa, một nửa
sông tạnh. Vua kinh dị bèn sai tu sửa đền vũ, hương
lửa cúng thờ. Người trong thôn có bài thờ rằng:
“Mỹ hĩ Đại Vương hi vọng trọng
Đằng Châu thổ địa hiển thần linh
Khước giao bạo vũ vô sâm phạm
Ná nhất bàng đà giá nhất linh”
Dịch nghĩa:
Đẹp thay! Uy danh của Đại Vương rất lớn
Tỏ rõ linh thiêng ở đất Đằng Châu
Không cho mưa lớn tới xâm phạm
Nửa sông bên kia mưa, mà nửa sông bên này vẫn
tạnh.

300 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vua nghe thấy, có bụng tự phụ. Cho tới khi Lê
Ngọa Triều băng hà, vua muốn mưu đại sự, bèn tới
đền mặt cáo, chờ điềm linh ứng.
Đêm ấy mộng thấy có một dị nhân đến báo rằng:
- Có lòng muốn thì sẽ thành công, các phương
đều thuận phục, vạn quốc hưởng thanh bình, ba
năm dân an cư lạc nghiệp, bảy miếu chúa được
an linh.
Vua tỉnh mộng chưa hiểu ý tứ thế nào? Có người
đoán mộng cho là triệu tốt. Vua bèn thăng Đằng
Châu thành Thái Bình phủ, phong Thần làm Khai
Thiên Thành Hoàng Đại Vương.
Năm Trùng Hưng thứ nhất đời Trần, gia phong
cho mỹ tự là Khai Thiên Trấn Quốc. Đền thần ở phía
trong đê, thường bị nước lũ tràn ngập. Người ở làng
ven sông thường trông thấy có xe, dù, tán đi hầu một
người có vẻ như đi hộ đê, cho nên đê tuy thấp mà
nước không thể gây họa được. Trải qua năm tháng,
nước sông dâng cao áp tới đền thờ.
Năm Bính Tuất niên hiệu Thống Nguyên, dân làng
định lập đền ở trên mặt đê. Khi mọi người tới nơi đã
thấy chính tẩm dựng sắp xong. Quan huyện và dân
làng đều ngủ trên gò cỏ, nghe thấy có người tới
mang theo đồ để đào đất, lại nghe thấy tiếng gọi
nhau như kiểu trong thôn đi làm. Sáng ra, thấy
những đá tảng và cột chuyển dịch sang phía tả, cách
đê ba thước, thật là muôn phần linh ứng.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)

Chương 5: Thời nhà Lý 301


Lời bình: Quân thiên tướng quỷ dạ xoa ở cõi tâm
linh mà luân chuyển được cả ngôi miếu thờ ở dương
gian với những khối đá tảng và cột kèo sang phía tả,
lên cao trên đê ba thước thì thật là kì lạ.
Đấng Quân vương thì có thiên tướng theo hầu, nói
một lời mà thần linh thổ địa phải nghe theo, tâm khởi
niệm mong cầu là đêm được thần báo mộng. Thật là
Uy Đức của ngài vô cùng lớn. Cõi dương gian hay cõi
vô hình đều nhất tâm quy phục.

302 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


70.Lý Thái Tổ an định trời đất (1012)

Vua Lý Thái Tổ đích thân đi đánh Diễn Châu. Khi


về đến Vũng Biện gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm
dữ dội, Vua đốt hương khấn trời rằng:
"Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ
như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà
đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không
theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng
dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha
không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết
oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến
nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu
gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu
quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét".
Khấn xong, gió sấm đều yên lặng.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng: Vua Thang gặp tai
nạn hạn hán, lấy sáu việc tự trách mình mà mưa
xuống ngay. Nay Vua Lý Thái Tổ gặp nạn gió sấm, lấy
việc đánh dẹp tự trách mình mà gió bão ngừng ngay.
Trời và người cảm ứng nhau rất nhỏ nhạy, ảnh
hưởng rất chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời
không soi đến ta mà dám dối trời chăng?
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Người là phụ mẫu của dân đứng đầu
thiên hạ mà giữ được lòng khiêm hạ. Thấy trời đất
nổi giông tố mà không nghĩ đó là thường mà lại xét
lỗi của mình và xám hối hoàng thiên. Đi đánh giặc
cứu nước mà nghĩ đến những lỗi lầm của mình chẳng
Chương 5: Thời nhà Lý 303
may mắc phải. Đánh giặc nơi chiến trường mà lại
nghĩ có khi giặc cũng là những con người trung hiếu,
hiền lương vì trách nhiệm mà phải chiến đấu...
Thì thật là người đại Uy Đức vậy. Hoàng thiên phải
kính nể, trời đất phải chiều lòng. Gió lốc giông tố có
thể là thời tiết tất yếu thì cũng phải thay đổi để tránh
phụ lòng bậc Quân Vương.

304 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


71.Lê Phụng Hiểu (982 - 1059)

Vương họ Lê tên Phụng Hiểu, người làng Bang


Sơn (có chỗ gọi là Băng Sơn, bây giờ là xã Dương
Sơn, huyện Hoàng Hỏa) phủ Thanh Hóa (nay là tỉnh
Thanh Hóa). Có người bảo Vương là cháu Định Phiên
Hầu Đính; Vương thân hình cao đại, kỳ vĩ, mày râu
dài và rậm, sức mạnh hơn người.
Thời ông còn nhược quán, có kẻ nhà giàu ở Lương
Giang mướn người có sức mạnh để giành ruộng
Vương lấy tay nhổ cả khóm trúc mà đánh không một
người nào dám chống cự.
Sách Việt sử Bổ Di có chép:
Thiếu thời, Vương hùng dũng có hai làng Cổ Bi và
Đàm Xá tranh nhau địa giới, dùng đến gươm giáo
đánh nhau. Vương xắn tay áo bảo người làng Cổ Bi
rằng:
- Chỉ một mình ta có thể địch hàng vạn đứa.
Các phụ lão cả mừng mới dọn nhiều cơm rượu
mời Vương ăn uống no say. Vương ăn rất khoẻ, cơm
dùng đến ba mươi nồi đồng mới no, rượu uống
nhiều không kể được. Ngày ấy, các bác phụ lão
khoản đãi Vương ăn uống no say rồi, lập tức ra khiêu
chiến với người làng Đàm Xá. Hai thôn giáp chiến,
Vương xông mình đến trước, nhổ cả gốc cây, giơ tay
chỉ huy đến chỗ nào thời chỗ ấy bị tan tành; chúng bị
thương rất đông, người làng Đàm Xá cả kinh, trả
ruộng lại cho làng Cổ Bi.
Lý Thái Tổ tuyển mộ hạng người dũng lực để sung
vào quân Túc Vệ Cấm Bình; Vương ra ứng mộ đầu

Chương 5: Thời nhà Lý 305


tiên, cần lao đắc lực, rất hợp lòng Vua nên được
thăng chức Võ Vệ Tướng quân, cùng với Đàm Thản,
Quách Thịnh Dật, Lý Huyền Sư ngang hàng. Thái Tổ
băng, Thái Tông phụng di chiếu tức vị, Dực Thánh,
Võ Đức, Đông Chinh ba vương đều đem binh đến
mưu phản, đem vệ binh của doanh mình kéo thẳng
đến Đại Nội, chia cửa tranh nhau vào trước, đánh
nhau hỗn loạn; sự thế càng bức, Thái Tông hoảng sợ,
không biết tính làm sao bèn uỷ mệnh đại sự cho
Vương, bảo rằng:
- Trẫm nay tiến thối lưỡng nan, cho phép Khanh
được tiện nghi hành sự.
Vương phụng mệnh đem vệ binh trong cung phủ
kéo ra cửa cung Đại nội giáp chiến, quân lính hai bên
đã giáp nhau, thắng phụ chưa quyết; Vương phẫn nộ
tuốt gươm đến cửa Quảng Dương, lớn tiếng bảo Võ
Đức Vương rằng:
- Bọn Vương dòm dỏ Thần khí, miệt thị Tự quân,
trên thì vong ân tiên đế, dưới lại bội nghĩa thần
tử, thần là Phụng Hiểu xin đem gươm đến hiến.
Nói đoạn, chém ngay chân ngựa Võ Đức Vương.
Võ Đức Vương giục ngựa muốn đến đánh nhưng
ngựa đã què, bị Vương chém đầu. Binh ba phủ thua
chạy, quan quân đuổi giết không còn một mống, duy
chỉ Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương một mình
thoát nạn. Vương trở về tấu tiệp trước linh cữu Vua
Thái Tổ, và đến điện Càn Nguyên báo tin thắng lợi.
Thái Tông uỷ lạo và bảo rằng:
- Ta sở dĩ đội được nghiệp cả của tiên đế, toàn
được di thể của cha mẹ, đều nhờ sức của khanh.

306 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ta thường đọc sử nhà Đường, thấy Uất Trì Kỉnh
Đức giúp nạn Vua, tự bảo nhân thần đời sau
không ai sánh kịp, bây giờ khanh đây trung
dũng lại vượt quá Kỉnh Đức xa lắm.
Vương lại khóc mà than rằng:
- Bệ hạ đức cảm trời đất, oai dậy biên thuỳ, triều
nội trong ngoài theo gió mà lướt, các Vương
manh tâm dị đồ, quỷ thần trên dưới đều có thể
giết được cả, bọn thần có sức gì đâu?
Vua bèn phong cho làm Đô Thống Thượng Tướng
Quân, phong tước Hầu. Đến giữa năm Thiên Cảm
Thánh Võ, Thái Tông nam chinh Chiêm Thành,
Vương lãnh chức tiên phong đại phá binh giặc, tiếng
dậy nước Phiên. Sau khi khải hoàn, Vua định công
hành thưởng, chiếu lấy hơn nghìn mẫu công điền ở
núi Băng Sơn, cấp cho Vương làm tư điền, miễn cho
thuế lúa chước đao.
Sử Ký chép: Sau khi bình Chiêm về, Phụng Hiểu
không muốn tước thưởng, chỉ nguyện Vua cho phép
đứng trên núi Băng Sơn, quăng đai đao một cái, hễ
đao cắm đến chỗ nào thì cho làm biệt nghiệp đến
đấy. Vua nghe lời, Vương mới trèo lên chóp núi Băng
Sơn, xách dao ném một cái, dao đi xa hơn mười dặm,
cắm vào địa phận làng Đa Mê. Vua liền y cho Vương
tha thuế chước đao. Cho nên châu Ai về sau có ruộng
thưởng công, đều gọi là ruộng chước đao, là do tự
Vương làm trước vậy.
Vương tận trung thờ chúa, biết được điều gì là nói
hết; đi chinh phạt chỗ nào cũng thắng địch. Vương
được bảy mươi bảy tuổi mới chết; thổ nhân truy

Chương 5: Thời nhà Lý 307


niệm công đức, lập miếu thờ làm Phúc Thần; thôn
dân cầu đảo lập tức thấy linh ứng. Niên hiệu Trùng
Hưng năm đầu, sắc phong Đô Thống Vương, năm
thứ tư gia phong hai chữ Khuông Quốc. Năm Hưng
Lơn thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Tá Thánh,
đến nay miếu vũ nguy nga, hương hỏa không dứt.
(Tham khảo từ: 51 giai thoại thời Lý NXB Giáo dục)
Lời bình: Lê Phung Hiểu oai vũ thần uy làm ta nhớ
đến Lý Ông Trọng thời An Dương Vương bị cống sang
cho Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng thấy người
cao linh dị, liền cho trấn ải Hung Hô đánh tan quân
địch. Về sau Ông Trọng mất, Tần Thủy Hoàng cho
dựng tượng gỗ, hình dung như thật, bên trong có cơ
quan chứa được 10 người ở trong đó vận hành
chuyển động chân tay như người thật. Hung Nô nhìn
thấy mà khiếp vía không dám tiến đánh.
Nhưng ngoài sức thần thì Công Đức khi sống mới
tạo thành Phúc Thần khi mất đi. Lý Ông Trọng có
công với nhà Tần, giúp dân nhà Tần thì nếu thành
thần sẽ là Thần của nước Tần. Vì đã tạo ra duyên nợ
với dân nước đó.
Còn Lê Phụng Hiểu có công đức một tay dẹp loạn
tam vương, giữ yên vương quyền cho vua Lý Thái
Tông, giữ cho nước hòa bình không loạn lạc, dân yên
ổn. Sau này còn có công dẹp yên Chiêm Thành. Dưới
thời nhà Lý có 2 chiến công lớn là Phá Tống Bình
Chiêm là do công đức của Lý Thường Kiệt và Lê
Phụng Hiểu mới thành. Thật rằng, công đức là nhiều
lắm thay. Phúc Thần từ đây mà có. Lê Phụng Hiểu
mất khi tuổi đã già (77 tuổi), công thành viên mãn ắt
sẽ là vị Thiện Thần đức độ của dân chúng.
308 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
72.Lý Phục Man (1020)

Sách Sử Đỗ Thiên chép rằng: Vương họ Lý tên


Phục Man. Vua Lý Thái Tổ đi tuần phương đến sông
Sở Bộ Đầu, thấy giang sơn tù khí, phong cảnh thắng
du, nhà Vua tâm thần cảm hứng, mới rót ly rượu đổ
xuống tràng giang, vái rằng:
- Trẫm xem chỗ này non xanh nước biếc khác
hẳn mọi nơi, nếu có nhân kiệt u linh, xin hưởng.
Đêm ấy Vua mộng thấy một dị nhân cao đại, mặt
hổ râu rồng, y phục trang nghiêm, cân hài tề chỉnh,
đến trước nhà Vua cúi đầu lạy hai lạy mà tâu rằng:
- Thần vốn là người ở làng này, họ Lý tên Phục
Man, giúp Lý Nam Đế làm Tướng quân, nhờ sự
trung liệt được Vua biết tên, mới sai trấn thủ
hai giải sơn hà Đỗ Động và Đường Lâm, mọi lào
đều sợ không dám phạm biên, một phương yên
ổn. Đến lúc chết, Thượng đế thương kẻ trung
nên cho giữ chức như cũ. Nay thần xin kể một
vài truyện để Bệ hạ nghe thử: Thời Vua Tương
Vương nhà Đường, thần thường đem quỷ binh
theo Khâu Hòa phá được nghịch tặc là Nịnh
Tràng Chân ở cửa Giáp Sơn, thời Vua Túc Tông
lại phá được giặc Đại Thực Ba Tư ở cửa Thần
Thạch. Thời Vua Đại Tông lại phá giặc Côn Lôn
Đồ Bà ở Chu Diên. Cao Vương phá nước Nam
Chiếu; Ngô Tiên Chúa phá nước Nam Hán, Vua
Lê Đại Hành phá Tống Binh, mỗi lần xuất binh
chinh phạt, thần ở trên không đem quỷ binh ám
trở, thảy đều có công. Thần lại thường thống
suất quân binh quỷ thần, vâng theo mệnh Thiên
Chương 5: Thời nhà Lý 309
đế phá giặc Chiêm Thành ở trấn Giáp Sơn. Đến
khi thần mệnh một, u linh không tán, thôn dân
kính mến, lại sợ không ai phòng thủ, mọi Lào
đến cướp bóc, nhân đó lập đền thờ phụng; bởi
vậy, thần thường phảng phất ở khoảng trời
mây, phàm gặp khi có dụng binh, thần ở trên
không ám hộ, nghịch lỗ nhập khẩu thì đều hãm
ngự được. Bấy giờ gặp Bệ hạ loan giá quang
lâm, thần xin đến bái yết. Nói đoạn, ngâm bốn
câu thơ rằng:
“Thiên hạ toàn mông muội
Hãy tạm ẩn thanh danh,
Giữa trời nêu nhật, nguyệt,
Quang diệu ấy chân hình”.
Ngâm xong liền biến mất; Vua chưa kịp đối đáp,
hốt nhiên tỉnh dậy, nói lại với tả hữu; quan Ngự sử
Đại Phu Lương Văn Nhậm nói:
- Đó là lời thần muốn hiển linh để lập hình tượng.
Vua sai người xin keo, quả nhiên lập ứng. Vua sắc
cho người trong châu lập đền thờ, tạc tượng thần y
như đã trông thấy trong mộng, miếu mạo sum liệt,
làm Phúc thần một phương.
Trong thời Nguyên Phong, Thát Đát nhập khấu,
đến biên cảnh thì ngựa què không tiến được; thôn
dân biết có sức thần ám trợ mới đem dân chúng ra
cự chiến, chém được đầu giặc rất nhiều; giặc thua
chạy tán loạn, không dám trở lại dòm dỏ bờ cõi nữa.
Khấu tặc bình xong, sách phong Chứng An Nam
Quốc Công, chiếu cho thôn ấy đổi tên là Hộ Xá Chứng
An.
310 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, giặc Bắc lại vào
ăn cướp, mấy chỗ khác đều bị đốt cháy cả, duy có ấp
này như có phòng hộ, một mảy lông mùa thu cũng
không bị phạm tới. Giặc bình xong, sắc phong Chứng
An Vương, năm thứ tư gia phong hai chữ Minh Ứng,
năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai
chữ Tá Quốc, càng ngày càng thêm linh ứng vậy.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Thật không hổ danh là đệ tử Thiền sư
đắc đạo. Tâm linh thật minh mẫn. Nhìn cảnh đoán
tâm, linh cảm thần nhân. Cái Cảm của Vua thật khiến
ta nể phục. Nhờ có lời ngỏ của vua Lý Thái Tổ đã trợ
duyên cho tướng quân Lý Phục Man có đủ Phúc
Duyên hiện hình trong mộng và nói lên những nỗi
khúc mắc trong lòng.
Lý Phục Man khi thác còn nhỏ tuổi, tuy có chiến
công giữ vững một cõi bình yên giúp Lý Nam Đế
nhưng công đức chưa viên mãn, tâm sinh quyến
luyến. Được Thiên Đế sai tiếp tục làm thần trấn giữ
nơi cõi đất đó.
Thế mới thấy: Phúc thì rất lớn, tâm còn lưu luyến,
chí nguyện chưa thành khi thác sẽ làm Thần quanh
quẩn nơi hữu duyên, trợ giúp người hữu duyên. Lúc
sống làm tướng giết giặc thì khi thác cũng sẽ là vị
thần tướng cai quản âm binh mà giết giặc. Người đời
gọi đó là Phúc Thần bảo hộ.
Từ đời Lý Nam Đế (503) đến Lý Thái Tổ (1010) đã
trải qua 500 năm. Phúc giữ nước giúp dân 500 năm,
nay đã viên mãn được lập miếu thờ trang trọng, được
tạc tượng thờ uy nghi cũng là điềm lành cho nước.
Chương 5: Thời nhà Lý 311
73.Lý Thái Tông dẹp loạn tam vương (1028)

Sau khi Lý Thái Tổ băng hà, 3 vương tử là Đông


Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức hợp nhau làm phản, tính
lật đổ ngôi vị của thái tử Phật Mã, tức vua Lý Thái
Tông sau này.
Có một sự kiện rất đáng tiếc đã xảy ra trong cung
đình nhà Lý ngay sau khi vua Lý Thái Tổ mất (năm
Mậu Thìn – 1028), đã được sách Đại Việt sử kí toàn
thư (bản kỉ, quyển 2, tờ 11a-b và tờ 12-a) ghi lại như
sau:
Mùa xuân, tháng 2 Vua không khỏe. Tháng ba,
ngày mồng một là ngày bính thân, có nhật thực. Đến
ngày Mậu Tuất (tức 3-3), Vua băng hà ở điện Long
An. Bầy tôi đều đến cung Long Đức xin Thái tử (Phật
Mã) vâng di chiếu lên ngôi.
Tam Vương là Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức
nghe tin, đều đem theo quân ở phủ mình vào phục
sẵn trong cấm thành. Đông Chinh Vương phục ở
trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức
phục trong cửa Quảng Phúc, cùng đợi Thái tử đến thì
đánh úp.
Một lúc sau, Thái tử đi từ cửa Tường Phù vào, đến
điện Càn Nguyên thì biết có biến, bèn sai người hầu
đóng hết các cửa điện và sai vệ sĩ ở trong cung
phòng giữ. (Thái tử) nhân đó bảo tả hữu rằng:
"Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay
tam vương làm việc bất nghĩa, quên đi di mệnh của
tiên đế, muốn mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ
thế nào?".

312 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nội thị là Lý Nhân Nghĩa nói:
"Anh em với nhau, bên trong có thể hiệp sức bàn
mưu, bên ngoài có thể cùng nhau chống giặc. Nay tam
vương làm phản, thì là anh em hay là kẻ thù? Xin cho
chúng thần được đánh một trận để quyết được thua".
Thái tử nói:
"Ta lấy làm xấu hổ là tiên đế mới mất, thi thể chưa
quàn mà cốt nhục đã đánh nhau, há chẳng để cho
muôn đời chê cười sao?".
Nhân Nghĩa nói:
"Thần nghe rằng, muốn mưu xa thì phải quên ân
gần, giữ đạo công thì phải dứt tình riêng, đó là việc
Đường Thái Tông và Chu Công Đán bất đắc dĩ phải
làm. (Ý muốn chỉ việc Đường Thái Tông giết hai anh,
Chu Công Đán giết em là Quản Thúc để giữ ngôi vua
cho Đường Thái Tông và cho Chu Thành Vương).
Nay, điện hạ có cho Đường Thái Tông và Chu Công
là chăm mưu xa và giữ đạo công chăng? Hay (hai
người ấy) chỉ là tham công gần và đắm tình riêng
chăng? Điện hạ biết theo dấu cũ của Đường Thái
Tông và Chu Công thì đời sau ca tụng công đức còn
chưa hết, còn đâu mà chê cười?".
Nhân Nghĩa lại nói:
"Tiên đế cho điện hạ là người hiền, đủ để nối được
chí, có tài để làm nổi việc, nên đem thiên hạ phó thác
cho điện hạ. Nay giặc đến vây bức cửa cung mà ẩn
nhẫn như thế, thì đối với sự phó thác của tiên đế ra
sao?".

Chương 5: Thời nhà Lý 313


Thái tử in lặng hồi lâu rồi bảo Nhân Nghĩa và bề
tôi trong cung là bọn Dương Bình, Quách Thịnh, Lý
Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng:
"Ta há lại không biết việc làm của Đường Thái, Chu
Công hay sao? Chỉ vì ta muốn che giấu tội ác của tam
vương, khiến họ tự ý rút quân chịu tội để đươc vẹn
toàn tình cốt nhục là hơn".
Khi ấy, phủ bình của tam vương vây bức càng gấp,
Thái tử liệu không thể ngăn được, liền nói:
"Thế đã như vậy, ta còn mặt mũi nào trông thấy
tam vương nữa. Ta chỉ biết làm lễ thành phục (lễ mặc
đồ tang) đến hầu tiên đế, ngoài ra đều ủy thác cho các
khanh cả".
Bọn Nhân Nghĩa đều lạy hai lạy, nói:
"Chết vì vua gặp nạn là chức phận của chúng thần.
Nay đã được chỗ đáng chết, còn từ chối gì nữa".
(Nói xong), bèn ra lệnh cho vệ sĩ trong cung mở
cửa ra đánh, ai cũng vui lòng xông phá, có sức một
người chọi với cả trăm người. Khi quân đánh nhau
chưa phân được thua, Phụng Hiểu tức giận rút gươm
chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc, hô to rằng:
"Bọn Vũ Đức Vương ngấp nghé ngôi báu, không coi
vua nối dõi vào đâu, trên quên ơn tiên đế, dưới trái
nghĩa tôi con, vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem
thành gươm này để dâng".
Nói rồi, xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức
Vương. Vương quay ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị
Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của tam vương thua
chạy, quan quân đuổi theo chém chết không sót một

314 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


tên nào, chỉ có hai vương là Đông Chinh và Dực
Thánh chạy thoát được.
(Tham khảo từ: 51 giai thoại thời Lý (trang 11-
13) NXB Giáo dục)
Lời bình: Dẫu là người dưng mà chém giết nhau
để giành quyền cao chức trọng, cũng đã đủ để tiếng
xấu muôn đời, huống chi là anh em ruột thịt, nồi da
nấu thịt. Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức làm sao
có thể gọi là hợp mưu để giết Phật Mã được?
Ngôi vua thì chỉ có một, dẫu có giết được Phật Mã
đi chăng nữa, chẳng lẽ sau đó, cả ba lại cùng nhau
làm vua? Cả ba chỉ lừa nhau, liên minh giả dối với
nhau để rồi kẻ thắng thế duy nhất cũng chính là kẻ
nham hiểm cao tay nhất.
Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát lưỡi gươm
đương thời, nhưng làm sao thoát được lời búa rìu
khinh ghét của muôn đời.

Chương 5: Thời nhà Lý 315


74.Mỵ Ê - Hoàng hậu Chiêm Thành (1044)

Phu Nhân không rõ họ gì, người nước Chiêm


Thành, tên là Mỵ Ê, vợ Vua Chiêm Thành tên là Sạ
Đẩu. Triều Vua Thái Tông nhà Lý, Sạ Đẩu không tu
chức cống, thất lễ phiên thần, Vua Thái Tông thân
hành đem quân nam chinh (1044). Sạ Đẩu bày tượng
trận ở sông Bố Chính, dần dần bị vương sư đánh
phá; Sạ Đẩu tử trận, các cung phi thê thiếp của Sạ
Đẩu đều bị bắt sống đem về. Thuyền về đến sông Lý
Nhân, Vua thấy Phu Nhân có sắc đẹp mới mật sai
quan Trung sứ vời Phu Nhân đến chầu Ngự thuyền.
Phu Nhân không giấu được sự phẫn uất, chối từ
rằng:
- Vợ hầu mường mọi, y phục xấu xí, ngôn ngữ quê
mùa, không giống các bậc phi tần Trung Hoa,
nay quốc phá phu vong, chỉ nguyện có chết là
thỏa lòng, nếu áp bức hợp loan sợ ô uế long thể.
Rồi Phu Nhân mật lấy tấm chăn quấn kín mình lại,
nguyện phó tính mạng cho dòng sông. Một tiếng
đánh ầm, hình bóng mỹ nhân đã cuốn theo dòng
nước mất tích. Thái Tông kinh dị, tự hối và cho
người cấp cứu nhưng không kịp nữa. Chỗ ấy về sau,
mỗi khi đêm vắng sông êm, trăng thanh sao sáng,
thường nghe có tiếng đàn bà khóc than, dân trong
thôn lấy làm lạ mới làm đơn xin lập đền thờ tự; từ
đấy không nghe có tiếng than khóc nữa. Sau Vua
Thái Tông ngự đến sông Lý Nhân, thuyền chèo giữa
dòng thì trông thấy trên bờ có đền thờ. Vua lấy làm
lạ mới hỏi tả hữu; tả hữu đem truyện Phu nhân tâu

316 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


cho Vua nghe. Vua ngồi lặng thinh hồi lâu mới bảo
rằng:
- Không ngờ man nữ lại có bậc u trinh như thế,
quả là một hạng gái phi thường, thế nào ả cũng
báo Trẫm.
Đêm ấy đã canh ba, trời gần sáng, hốt nhiên nghe
một trận gió thơm, khí lạnh buốt người, thấy một
người đàn bà vừa lạy vừa khóc rằng:
- Thiếp nghe đạo làm đàn bà là tòng nhất nhi
chung, Tiên quốc vương của thiếp tuy chẳng
dám cùng Bệ hạ tranh xung nhưng cũng là một
bậc nam tử, một phương kỳ tài, thiếp được lam
dự khăn lược, ân ái thao vinh: bất hạnh quốc
phá phu vong, thiếp đêm ngày thê lương chỉ lo
đồ báo, nhưng quần thoa yếu ớt biết tính làm
sao? May nhờ hồng ân Bệ hạ sai sứ đưa thiếp
xuống tuyền đài cùng chồng hội diện, sở nguyện
của thiếp được thỏa mãn rồi còn có linh gì mà
dám đến đây đường đột?
Nói đoạn biến mất. Vua thất kinh tỉnh vậy, thời là
một giấc chiêm bao. Vua truyền đem lễ vật và rượu
đến đền cúng tạ, phong Hiệp Chính Vương. Về sau xa
gần cầu đảo, đều có linh ứng. Niên hiệu Trùng Hưng
năm đầu, sắc phong Hiệp Chánh Hựu Thiện Phu
Nhân, năm thứ tư thêm hai chữ Trinh Liệt. Năm
Hưng Long hai mươi mốt gia phong hai chữ Chân
Mãnh, đến nay vẫn còn phụng sự, càng thấy linh ứng.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)

Chương 5: Thời nhà Lý 317


Lời bình: Phàm cái tâm của con người ngay lúc
chết sẽ theo các hương linh trong cõi siêu hình. Nên
có những người chết trẻ trong sự oán hận quẫn bách
thì vong linh ai oán, quấy phá, thích trả thù đời và
khó siêu thoát. Có những người chết già, cuộc đời viên
mãn, con cháu đầy nhà, chí nguyện đã thành, chuyện
muốn làm đã làm xong thì ra đi nhẹ nhàng siêu thoát.
Dân gian cũng có câu: “Chết trẻ khỏe ma, Chết già
ma nhược” ý là ma chết trẻ thì hay hiện hình, trong
mơ hay thấy, gọi hồn thường ứng nghiệm. Còn ma
người già thì yếu đuối chết xong là siêu. Đặc biệt là
ma người con gái xinh đẹp trinh tiết, khi sống còn rất
yêu quý thân xác mình, chí nguyện chưa thành, còn
mơ tưởng kỳ vọng vào cuộc đời... sau khi chết họ rất
khó siêu thoát. Dân gian gọi là Bà cô tổ, hoặc Cậu bé
có duyên với gia đình đó. Họ luôn hiện ra trong mộng
báo cho người thân trong gia đình. Nếu gia đình nào
gặp phải trường hợp này thì nên cầu siêu cho họ để
họ sớm được siêu thoát. Họ bớt khổ và người dương
cũng bớt khổ. Có câu rằng: “Âm siêu dương thái”
người âm có siêu thoát thì người dương mới được
hưởng thái bình.
Do vậy có những nước vô thần, không tin vào tâm
linh và cõi âm. Họ nghĩ rằng chết là hết. Những lúc
gặp khó khăn quẫn bách đến mức cùng cực. Đáng lẽ
ra họ phải sống dũng cảm đối mặt với nó, chịu đựng
nó trong sự nhục nhã để trả nợ Nghiệp. Nhưng không,
họ chọn tự tử. Nhưng ở cõi tâm linh các vong tự tử
trong quẫn bách đó sẽ mang theo cái tâm đau khổ
quẫn bách đó hàng trăm năm không dứt và tạo thành
oán khí cho một ngôi nhà, một biệt thự, một tòa lâu
318 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
đài hay một vùng đất. Nên ở phương tây có rất nhiều
ngôi nhà ma ám hay biệt thự lâu đài bị quả ám, thậm
trí cả một vùng đất bị quỷ ám là vậy.
Ở nước Nam ta đất đai đa phần hiền lành dù rằng
có những khu đất được xây dựng bằng xác người như
Gò Đống Đa nhưng không bị quỷ ám hay ma ám. Đó là
vì có những đền thờ các hương hồn trong cõi âm đặt
ngay trên khu đất đó. Người âm được ăn uống hàng
ngày, được hưởng hương khói và phẩm vật, được
nghe tiếng Kinh Phật đó chính là lời khuyên nhủ về
đạo đức hiền hòa. Do vậy họ vẫn ở đó mà không quậy
phá. Họ bình an chờ đến giây phút siêu sinh thoát hóa.
Nếu như họ siêu thoát hết thì dù rằng khai quật lên
vẫn thấy xương cốt nhưng đó chỉ là đất mà thôi.
Ở các khu vực đường giao thông hay đoạn đường
tàu hỏa hay xảy ra tai nạn. Những vong ở đó bị chết
đột tử khi chí nguyện chưa thành. Họ muốn trả thù
đời nên gặp những người Tận Nghiệp (đã đến lúc
phải chết) thì tác động vào tâm để người đó tai không
nghe được tiếng còi tàu, mắt không nhìn thấy tàu
hỏa. Hoặc gặp những xe ôtô mà Nghiệp của những
người trên xe rất nặng thì họ tác động vào tâm tài xế
đến đúng đoạn đường đó sẽ bất cẩn như bị ai xúi hoặc
bị ai thúc ép khiến tai nạn xảy ra ở đó. Nếu vậy tại
khu vực này nên có một cái miếu nhỏ thờ cúng các
vong linh cho họ ăn dâng hương hoa lễ vật cho họ và
có tượng Phật Bà để nhờ Phật Bà khuyên bảo họ làm
điều lành thiện.
Quay lại truyện tích này, ta thấy Mỵ Ê là vị Hoàng
Hậu trinh tiết của vua Sạ Đẩu, quẫn tiết mà gieo mình
xuống sông tự tử thì tôi xin có một số nhận xét sau:
Chương 5: Thời nhà Lý 319
Cái Đức của Tiết Hạnh và Phúc của một Hoàng Hậu
sẽ tạo thành Phúc Thần sau khi thác. Phúc của Hoàng
Hậu thế nào thì Thần có uy lực như vậy.
Bà Tử Tử nơi dòng sông trong cái tâm thù hận vì
mất chồng con, gia cảnh tang thương, bị bắt tù binh,
bị làm nhục... thì sẽ là một vị thần dữ, quẫn bách và
căm hận. Khi hiển linh vị đó hay buồn rầu, khóc than,
thù hận. Và ai cúng cho mình ăn thì yêu thương có khi
mù quáng. Bảo sai làm gì thì làm lấy, ít phân biệt phải
trái đúng sai.
Nên có những ngôi đền không rõ thờ ai, chỉ biết
rằng thần rất linh, xin gì được nấy, xin trúng số thì
được trúng, xin thắng cá độ thì được thắng. Đây rất
có thể là các vong quẫn bách, bị ép tự tử hay bị giết
hại. Khi sống vong này cũng có Phúc (giàu có, chức
quyền) và có công đức lớn... Vong đó sẽ thành Thần
quyền năng nhưng Ác và mù quáng. Ai cúng lễ cho ăn
mà bảo gì làm nấy, ít xét đúng sai. Nhưng nếu làm sai
ý các ngài thì bị các ngài vật cho đau khổ.
Bình thường Vua đức độ thì hay có thần linh bảo
hộ, vong mà hiện ra báo mộng được cho vua thì cũng
là có duyên với vua. Vong xin vua cái này xin vua cái
khác mà vua đáp ứng: lập sắc phong thần, xây đền
thờ miếu mạo, giao cho dân chúng trong vùng hương
hỏa cúng lễ. Thì trong cõi vô hình, Vong cũng được
hưởng Phúc có chức tước quần áo mũ mão vua ban,
được ở nhà lầu gác tía, được hương hoa vật thực và
được hưởng sự cung kính của nhân dân.
Vong mà quấy phá được ông vua, làm cho vua điên
đảo thì Đức của vua đã mất và vị thần bảo hộ cho Vua
đã bỏ đi. Đa phần vị thần bảo hộ cho vua chính là vị
320 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Phúc Thần của đất nước. Khi đó Phúc Thần đất nước
bỏ đi để tìm người khác đủ Đức độ mà phò tá lên ngôi
Vua khi vận nước còn. Nếu vận nước suy mạt thì Phúc
Thần cũng mất hết uy quyền.

Chương 5: Thời nhà Lý 321


75.Mục Thận cứu Vua (1028 - 1054)

Xét Sử ký và đời truyền: Ông họ Mục tên Thận, lấy


việc chài lưới bắt cá làm nghề sinh nhai. Thời xưa Lý
Thái Tông có quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được
một người gia nô người Đại Lý, giỏi về thuật chú ảo,
hay biến hóa mây mù, khiến người thực hóa ra hình
beo, cọp. Văn Thịnh dỗ dành nó mà học được thuật
ấy rồi thiết kế giết đứa ở ấy đi, mưu tính việc chiếm
ngôi Vua.
Một hôm Vua Nhân Tông ngự ra Dâm Đàm (Hồ
Tây) xem cá; thuyền rồng thung dung, mái chéo
khoan nhặt, lượn chơi trên hồ rất vui vẻ, hốt nhiên
thấy mây ù kéo đến trên mặt hồ mù mịt, đối diện
không trông thấy nhau, vẳng nghe tiếng cọc chèo
vùn vụt lướt mù tiến đến, thấp thoáng có một con hổ
lớn đang há mồm nhe răng như muốn cắn, Vua trông
thấy cả kinh.
Lúc bấy giờ Mục Thận đang vung lưới bắt cá,
trông thấy rõ ràng mới nói:
- Việc gấp rồi.
Lập tức vung lưới chụp bắt được con hổ lớn, lại
hóa ra là Lê Văn Thịnh. Vua truyền lấy giây sắt trói
lại, cũi gỗ giam vào, rồi đẩy lên thượng lưu sông
Thao. Vua khen Mục Thận có đại công bảo hộ, phong
ông làm Đô Uý Tướng Quân, quan giai lần lần tới
Phụ Quốc Tướng Quân.
Ông mất, Vua tặng chức Thái Uý, dựng từ đường
và tạc tượng ông mà phụng sự. Đền thờ ông rất linh
dị, có con mãng xà ở trong lỗ cột đền, mỗi khi đến
ngày sóc vọng có kỳ tế lễ, nó từ dưới đá tảng bò lên,
322 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
khoanh tròn mà nằm; nhân dân vãng lai chẳng lấy gì
làm kinh hãi, nhưng người nào tà uế mà vào trong
đền thì liền bị nó cắn; đêm tối, nó lại chui xuống lỗ
cột mà ở. Đến nay, từ vũ thêm trang nghiêm, thôn
dân phụng làm Phúc thần. Niên hiệu Trùng Hưng
năm thứ tư, sắc phong Trung Tuệ Công. Năm Hưng
Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Võ Lượng.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế
Xuyên-1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Chỉ một hành động như ngày thường là
quăng lưới bắt cá. Chỉ khác là lần này trong lưới
không có cá mà là một con hổ. Mọi lần quăng lưới bắt
cá để cứu mình khỏi nghèo đói thì lần này quăng lưới
để cứu vua.
Hành động như vậy, động tác như vậy mà quả Phúc
một trời một vực.
Giống như hành động gieo hạt (Nhân) một người
có ít hạt lúa mạch và một người có ít hạt cỏ. Cũng
động tác gieo hạt xuống đất trải qua thời gian chờ
đợi cây lớn, nắng gió, dinh dưỡng nuôi cây và có trái.
Một người thu về toàn cỏ dại, một người thu về toàn
lúa mạch.
Tại sao vậy?
Vua Lý Nhân Tông là vị vua anh minh sáng suốt
đức độ. Dưới thời vua trị vì đất nước thịnh trị và
hạnh phúc. Công Đức của vua đối với muôn dân là rất
lớn. Mục Thận một hành động quăng lưới mà cứu
được đất nước khỏi cảnh loạn lạc, cướp ngôi. Công
đức là nhiều vô kể dù chỉ là hành động nhỏ nên Quả
Phúc là vô lượng.

Chương 5: Thời nhà Lý 323


Sau khi chết, Quả Phúc vẫn còn nên sẽ thành Phúc
Thần che chở cho dân chúng một vùng. Còn chuyện
con mãng xà ở đền thờ của ngài cũng là một điềm
linh. Mãng xà là một linh vật có thần rất mạnh. Một
người yếu bóng vía nhìn trực tiếp vào hai mắt mãng
xà lập tức bị khuất phục tâm phát sinh sự sợ hãi. Tâm
linh của mãng xà cũng rất linh mẫn nên dễ cảm ứng
được với tâm của thần. Làng Lệ Mật (chuyên bắt rắn
làm món ăn) có truyền miệng rằng 10 bắt rắn thì
không sao, nhưng chỉ một lần đen đủi bắt nhằm mãng
xà linh làm thịt thì kể như gia đình đó lụi bại.

324 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


76.Phạm Cự Lượng (1028 - 1054)

Xét Sử Ký: Vương họ Phạm tên là Cự Lượng. Thời


Vua Thái Tông nhà Lý (1028 - 1054), nhân phủ Đô
Hộ có nhiều nghi án, quan sĩ sư không thể quyết
định được. Vua muốn lập đền thờ thần, cầu những vị
thần nào anh linh hiển hách, có thành tích rõ rệt ở
trần hoàn để cho những kẻ gian tà đến đền bái yết
thần không dám man trá. Vua mới tắm gội trai giới,
thiết đàn đốt hương trình cáo với Thượng đế. Đêm
ấy Thái tông mộng thấy một viên Sứ giả áo đỏ,
phụng lệnh chỉ của Thượng đế, sắc từ Phạm Cự
Lượng làm Đô Hộ Phủ Ngục Tung Manh Chủ. Vua hỏi
lại rằng:
- Thế thì là người nào, hiện giữ chức gì ở triều
ta?
Sứ giả nói:
- Ông ấy là quan Thái uý triều Vua Lê Đại Hành
đấy; làm tôi thì tận trung báo quốc, đích thị là
một bày tôi của xã tắc; ông là người ngay thẳng
dễ dãi, cử động gió sinh; sau khi mất, Thượng
đế xét hỏi thì trong trắng không có một lỗi nào,
hiện bổ chức Nam Tào Cuộc Trung Tuy Lệ Lộc
Quan.
Hỏi đến nhân duyên đời trước, có điều gì lầm lỗi
không thì đều thưa rằng:
- Ông ấy đúng là một người tốt lành, cháu nội
quan Châu Mục Võ An là Phạm Chiêm, con quan
Tham Chính là Phạm Man; em quan Đô Uý là
Phạm Dật, Phạm Chiêm giúp Ngô Tiên Chúa có
công khai quốc, phong chức Đồng Giáp Tướng
Chương 5: Thời nhà Lý 325
Quân; Phạm Man giúp Nam Tấn Vương làm
quan Tham Chánh Đô Hộ; Phạm Dật giúp Vua
Đinh Tiên Hoàng và Vua Lê Đại Hành rất nhiệt
liệt, làm quan Đô Thống Quân Hiệu; Cự Lượng
giúp nhà Đinh sau về nhà Lê, có công tá mệnh,
làm chức Đô Chỉ Huy Sứ, hộ giá qua nam đánh
Chiêm Thành chém được đầu Vua giặc, được
phong Thái Uý. Phụ tử huynh đệ đời này qua
đời khác đều có tiếng khen.
Vua Thái Tông rất lấy làm phải, bèn phong tước
Hoàng Chính Đại Vương, sau đổi lại là Hồng Thánh
Đại Vương. Đêm ấy, Vua mộng thấy Vương đội mũ,
mặc áo, đai lưng, rảo bước đến lạy trước long trì.
Vua lấy làm lạ sai quan văn thần chạm đá làm bài ký
để chép tích lạ. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc
phong hai chữ Khuông Quốc, năm thứ tư gia phong
hai chữ Trung Võ. Năm Trung Hưng thứ hai mươi
mốt, gia phong hai chữ Tá Trị.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Vua anh minh đức độ thì thần nhân quy
hướng. Vua Lý Thái Tông muốn thỉnh thần linh để
phong vương án ngữ nơi cõi tâm linh cho vận nước
được xung, khí nước được thông thì liền ứng hiện.
Lần này không phải trực tiếp thần đến trình báo
mà là vị Sứ giả áo đỏ đến trình tâu lên vua (trong
mộng). Vua nghe lời tâu cho là phải liền tương ứng
lời tâu, sắc phong Thần. Đêm đến vua mơ thấy Thần
mình mặc mũ áo sắc phong đến lạy vua mà cảm tạ.

326 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thế mới biết, vua cõi người, người dân nhìn thấy
chỉ là phần thân xác của vua thôi. Tâm linh và Đức độ
của vua cảm ứng cõi trời. Thần nhân đều chịu sắc
phong, đều chịu làm thuộc hạ và nghe theo y mệnh
của vua. Đức độ của vua, oai thần của vua Lý Thái
Tông thật là lớn lắm thay.
Đến các đời vua sau, uy đức bị giảm, hôn quân vô
đạo, chỉ tham nhục dục, hưởng thụ vật chất, dân
chúng khổ cực, đói kém liên miên (từ đời vua Lý Cao
Tông) thì tâm linh vua giảm sút, không cảm ứng được
với thần. Và các thần cũng xa lánh vua mà lo đi tìm
người có đức để lên thay, giữ gìn cội gốc cho dân tộc
Việt và nhà Trần xuất hiện.

Chương 5: Thời nhà Lý 327


77.Lý Nhật Quang - Uy Minh Vương (?-1057)

Uy Minh Vương Lý Nhật Quang (?-1057) là hoàng


tử thứ năm của vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), thân
mẫu là hoàng hậu Trinh Minh họ Lê con của Dương
Hậu và Lê Đại Hành. Về năm sinh của Uy Minh
Vương, cho đến thời điểm hiện tại chưa có tài liệu
nào ghi chép một cách chính xác, còn năm mất của
ngài là 1057, sau 15 năm làm Tri châu Nghệ An.
Trong thời gian vua Lý Thái Tổ trị vì (1009-1028),
hoàng tử Lý Nhật Quang vẫn học tập, rèn luyện cũng
như hưởng những đặc quyền ở kinh thành của vua
cha.
Năm 1041 (đời vua Lý Thái Tông 1028-1054), lúc
này hoàng tử Lý Nhật Quang đang giữ tước Uy Minh
Hầu (năm 1044, vua phong tước Vương), được tin
tưởng giao cho việc thu tô thuế ở vùng biên viễn
phía Nam (vùng đất Nghệ An và một phần phía Bắc
Hà Tĩnh ngày nay) vốn là địa bàn trọng yếu của quốc
gia Đại Việt trong quá trình xác lập vương pháp và
vương quyền nhà Lý.
Trong thời bình, chính sách của ông là khoan thư
sức dân, chăm lo luyện tập. Học tập các bậc tiền
nhân, ông thực hiện chính sách Ngụ binh ư nông
(gửi một phần quân lính ở nhà dân, giúp dân sản
xuất, khi cần thiết thì huy động chiến đấu để cơ
động, tránh áp lực quân lương cho quốc khố).
Ngoài ra, ông còn quan tâm chuẩn bị lương thảo,
quyết định thắng lợi trong những lần hành binh bình
Chiêm của tướng sĩ nhà Lý. Đây là tài thao lược, cũng

328 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


là công lao trận đầu không hề nhỏ của Lý Nhật
Quang trước khi xung trận diệt giặc.
Trong cuộc hành binh tiến đánh Chiêm Thành bảo
vệ biên giới phía Nam của vua Lý Thái Tông, cùng
tham chiến, Uy Minh Hầu đã góp nhiều chiến công
vào "ca khúc khải hoàn" năm 1044 (trong trận này,
tướng sĩ nhà Lý chém được vua Chiêm là Sạ Đẩu).
Trên đường trở về kinh thành Thăng Long, qua
đất Nghệ An, tại hành dinh đóng tại huyện Đô Lương
ngày nay, Uy Minh Hầu được phong tước Vương và
cờ Tiết việt, tiếp tục cai quản và giữ chức Tri châu
Nghệ An.
Truyền thuyết dân gian kể rằng:
"Trong trận cuối cùng tử chiến với giặc Lão Qua
(Chiêm Thành) bảo vệ biên cương phía Nam Đại Việt,
Ngài bị trọng thương. Tuy bị giặc chém mất đầu, xong
Uy Minh Vương vẫn tiếp tục đặt đầu lên cổ, cưỡi ngựa
trở về.
Khi đến vùng đất xã Lam Sơn (Nghệ An ngày nay),
gặp một bà bán hàng (là bà Bụt hóa thân thành).
Ngài hỏi xin một mảnh đất an nghỉ, bà lão nói cứ ven
theo vệ cỏ may, ngựa chạy đến đâu thì đất của ông
đến đó.
Ngựa của ngài chạy đến vùng đất thuộc xã Bồi Sơn
(Đô Lương, Nghệ An ngày nay) thì quỳ xuống, Lý Nhật
Quang ngã ngựa, đầu lìa khỏi cổ. Ngay lập tức mối
đùn lên thành mộ kết, dân gian gọi là thiên táng.
Nhân dân lập đền thờ Quả Sơn tại đây".
Nhưng Chính Sử lại chép rằng:

Chương 5: Thời nhà Lý 329


Sau khi từ chức Tri châu, Uy Minh Vương vẫn ở lại
Nghệ An, cho đến cuối đời, ra đi thanh thản: Vương
đang nằm, bỗng dưng không bệnh mà chết. Đó là
năm 1057.
Công lao của Uy Minh Vương là rất to lớn. Ông đã
tổ chức lãnh đạo dân chúng, tù binh khai mở được 5
châu, 27 trại, 56 sách tập trung chủ yếu ở đôi bờ
sông Lam (Nghệ An); sông La (Hà Tĩnh); Nam Đàn,
Con Cuông, Tương Dương,… (Nghệ An).
Đồng thời, ông còn chỉ huy đắp đê sông Lam, sông
Đa Cái, phân bố lại dân cư, khuyến khích trồng lúa,
nuôi tằm dệt vải, nuôi trâu bò, ngựa, động viên nhân
dân ven sông, ven biển đóng tàu ra khơi. Để thúc đẩy
giao thương, nhiều chợ cũng được lập ra thời kỳ này.
Theo thống kê, tại Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh
Hoá, có hơn 50 đền thờ Lý Nhật Quang, Trong đó
ngôi đền chính nổi bật nhất là đền Quả tại huyện Đô
Lương với lễ hội tạ ơn bà Bụt vào ngày 19 đến 21
tháng Giêng hàng năm. Đền Quả được Le Breton (tác
giả của "An Tĩnh cổ lục") mệnh danh là "một trong 4
ngôi đền đẹp nhất xứ An Nam" và đi vào câu nói đầy
tự hào của nhân dân Nghệ Tĩnh về những di tích lịch
sử của mảnh đất xứ Nghệ: "nhất Cờn, nhì Quả, tam
Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng".
(Tham khảo từ: Uy Minh Vương Lý Nhật Quang
trong tâm thức người Nghệ (Nguyễn Quang
Hồng), Nxb Nghệ An 2015, Tr 12, 27-55)
Lời bình: Thế mới biết, Công Đức khi còn sống to
lớn bao nhiêu thì khi chết thành Thần hưởng Phúc
Lộc lớn bấy nhiêu. Và những vị Thần này khi đã có

330 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


duyên với đất này, với những con người này thì vẫn
thường hằng hộ trì ban phúc cho dân chúng vùng đó.
Ở Nghệ An có đền thờ Ông Hoàng Mười, ngày nay vẫn
tấp nập khách thập phương đến dân cúng. Có nhiều
truyền thuyết về gốc tích của ông. Có thuyết cho rằng
ông là con của Bát Hải Động Đình quan của vua trời
Đế Thích (Ngọc Hoàng Thượng Đế). Có thuyết cho
rằng ông là người trời giáng sinh thành Nguyễn Xí là
vị khai quốc công thần phò tá vua Lê Lợi đánh giặc
Minh. Và có thuyết cho rằng Ông Hoàng Mười chính
là Uy Minh Vương - Lý Phật Quang vì ông là người có
duyên với đất Nghệ An.

Chương 5: Thời nhà Lý 331


78.Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm (1069)

Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, là vị vua


thứ 3 của nhà Lý, sau Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông.
Cũng giống như cha mình, Lý Thánh Tông văn võ
song toàn, thương dân như con, là vị minh quân đức
độ trong lịch sử Việt Nam.
Đại Việt Sử ký Toàn thư có miêu tả ông như sau:
"Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng
việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục
người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa
sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh,
đáng gọi là bậc vua tốt".
Không những thế đến ngày giá rét, vua Thánh
Tông có bảo các quan hầu cận rằng:
- Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo
hồ cừu mà còn rét thế này. Huống chi những tù
phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm
không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có
người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ,
nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm.
Sau đó ban cho tù nhân trong ngục chăn chiếu và
ngày được hưởng 2 bữa ăn. Quả thật, đây là bậc
minh quân, yêu dân thực lòng, lấy nhân từ mà cai trị
đất nước nên được trăm họ mến phục. Hơn nữa, thời
kỳ Lý Thánh Tông cai trị giặc giã, can qua, chiến
tranh cũng ít, nhân dân có cơ hội làm ăn, phát triển
kinh tế.
Lý Thánh Tông phá Tống - bình Chiêm

332 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lại nói đến việc bình Chiêm, lúc bấy giờ, quan hệ
giữa nước ta và nhà Tống không mấy tốt đẹp. Nhà
Tống riết ráo chuẩn bị để xâm lược nước ta. Không
chỉ tập trung lực lượng, tích trữ lương thảo mà còn
phái nhiều sứ giả đến các nước lân bang, xíu giục họ
phối hợp, quấy phá, tấn công Đại Việt.
Điển hình chính là Chiêm Thành. Họ không chỉ
đoạn tuyệt giao hảo với Đại Việt mà còn âm thầm bắt
tay, thần phục nhà Tống với mưu đồ tạo thành thế
gọng kìm, trên đánh xuống, dưới đánh lên.
Trước tình hình lúc bấy giờ, nhà Lý buộc phải
nhanh chóng đưa ra đối sách và đi đến quyết định sẽ
lần lượt đối phó, bẻ gẫy từng bên một, từ đó, đập tan
toàn bộ âm mưu xâm lược của nhà Tống.
Đầu năm Kỉ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân
chinh dẫn đại quân chinh phạt Chiêm Thành, giao
quyền khiển chính cho Nguyên phi Ỷ Lan và thái sư
Lý Đạo Thành.
Thực tế Chiêm Thánh thời bấy giờ không phải
nước lớn nhưng địa hình hiểm trở, dễ thủ khó công,
để thắng được cũng không phải dễ dàng gì. Đại Việt
Sử ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý, quyển III chép rằng:
“Vua đánh chiêm thành mãi không được, nên rút
quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên Phi giúp
việc nội trị, lòng dân cảm hoá hoà hợp, trong cõi vững
vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là Phật Bà Quan
Âm, vua nói: "Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như
thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?".
Bèn đưa quân quay lại đánh nữa, thắng được".

Chương 5: Thời nhà Lý 333


Sau trận này, quân ta bắt được vua Chiêm Thành
là Chế Củ cùng hơn 5 vạn tù binh. Vua Chiêm buộc
phải dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (hiện
nay là tỉnh Quảng Nam) để chuộc tội mới được tha
cho về nước.
Chiêm Thành thua trận, gọng kềm với nhà Tống
cũng mất, sau này quân ta còn phá tan quân xâm
lược nhà Tống trong trận chiến trên dòng sông Như
Nguyệt lịch sử do Thái Úy Lý Thường Kiệt lãnh đạo
và bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” là bài tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của nhà nước Đại Việt tuyên bố với
Phương Bắc.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999, tr. 25-26)
Lời bình:
Vua Lý Thánh Tông chợt thấy mình thua kém, thua
kém ai còn được, thua vợ mình thì còn ra thể thống gì
nữa. Thánh Tông vì sĩ diện mà đánh đến cùng. Chiêm
Thành thua, gọng kềm phía Nam tan nát... Chút sĩ
diện ấy đáng yêu, đáng quý biết ngần nào.
Lịch sử nhà Lý có chiến Tích huyền thoại Phá Tống
- Bình Chiêm sánh ngang với nhà Trần ba lần đại phá
quân Nguyên Mông ở thế kỷ 13 vậy.
Nhưng nếu không có một người đàn bà đứng sau
Vua hỗ trợ hậu cần, chăm lo việc nước, lòng dân yên
ổn, trong nước thái bình và qua truyện tích này ta còn
thấy thêm một ý nữa đó là: “Khiến vua cảm thấy
ngượng” mà sinh quyết tâm đánh giặc, thì có được
như vậy không?

334 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


3 năm sau 1072 nhà Tống nhân cơ hội vua cũ băng
hà, vua mới còn trẻ (Lý Nhân Tông mới 7 tuổi) liền
đêm quân đánh Đại Việt.
Một lần nữa Nguyên Phi Ỷ Lan lúc này là Hoàng
Thái Hậu buông rèm nhiếp chính quản lý nội bộ trong
nước khiến cho triều đình yên ổn, trong nước hòa
bình. Để Thái Úy Lý Thường Kiệt và Tông Đản yên
tâm đánh phá giặc Tống 1075-1076
Nguyên Phi Ỷ Lan muôn đời được ghi lại trong lịch
sử cũng vì những công đức âm thầm này của bà.

Chương 5: Thời nhà Lý 335


79.Hậu Thổ Phu Nhân (1069)

Truyện Báo Cực chép rằng: Nguyên Quân tức là


Nam Quốc Chủ Đại Địa Thần.
Xưa kia, Lý Thánh Tông nam chinh Chiêm Thành
(1069), đến cửa biển Hoàn Hải thoắt bị gió to mưa
lớn, sóng cuộn ầm ầm, long thuyền dao động cơ hồ
muốn chuyển; nguy cấp không ngờ, Vua rất lo sợ.
Giữa lúc đang bàng hoàng, Vua bỗng thấy một
người con gái ước độ hai mươi tuổi, mặt tựa hoa
đào, mày đậm màu dương liễu, mắt sáng như sao,
miệng cười như hoa nở; nàng mặc áo trắng, quần
lục, lưng mang đai, dịu dàng bước đến bạch với Vua
rằng:
- Thiếp là tinh của đại địa Nam Quốc, thác cư
trên cây ở làng Thuỷ Vân đã lâu lắm, xem thời
mà ra nếu gặp được lúc tốt. Bây giờ gặp được
Long nhan, chí nguyện sinh bình được thỏa, cúi
xin Bệ hạ chuyến đi này nên hết sức mẫn cán,
toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy là bồ liễu
mong manh cũng nguyền đem sức mọn mặc
nhiên phù tá Bệ hạ; ngày khải hoàn, thiếp xin
trực đây để bái yết.
Nói đoạn biến mất. Vua kinh hãi tỉnh giấc, nhưng
lại hoan hỉ ngay mới triệu tả hữu đến, thuật truyện
trong mộng cho mọi người nghe; Sư Tăng thống Huệ
Lâm Sinh tâu rằng:
- Thần có nói là thác sinh trên cây, ở làng Thuỷ
Vân, bây giờ nên tìm ở cây hoặc giả có linh
nghiệm gì chăng?

336 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vua cho là phải, mới bảo người tuỳ tùng đi tìm ở
các bãi sông quả nhiên được một cái cây, đầu rất
giống người, hình như có dấu sơn cũ giống như đã
trông thấy trong mộng. Vua mới lập hiệu là Hậu Thổ
Phu Nhân, đặt hương án ở trong ngự thuyền, tự
nhiên sóng gió êm lặng, cây cối hết lay chuyển. Kịp
lúc Vua đến Chiêm Thành, trong khi giáp trận như có
Thần giúp, quả được đại thắng. Ngày khải hoàn, ngự
thuyền đậu lại chỗ cũ, sắc lệnh lập đền, gió mưa lại
nổi lên như xưa. Sư Huệ Lâm tâu:
- Để xin một keo, về Kinh Sư sẽ lập đền.
Xin một keo liền được ngay; gió mưa lại êm lặng.
Về đến kinh đô, Vua bảo thầy xem đất, xây đắp đền
thờ ở làng An Lãng, rất có linh ứng, hễ có người nào
phỉ báng nguyền rủa, lập tức mắc phải tai họa.
Thời Vua Anh Tông, nhân trời đại hạn, quần thần
xin đắp một cái đàn hình tròn ở Nam Giao để tế trời,
thỉnh Nguyên Quân làm đàn chủ. Nguyên Quân nói
rằng:
- Bản bộ có Thần Câu Mang làm mưa rất giỏi.
Vua lấy làm mừng mới hội nghị quần thần lại,
định rước thần Hậu Tắc phồi với trời, thần Hậu Thổ
phối với đất, lập đàn ở Nam Giao mà đảo. Quả nhiên
được mưa to xối xả.
Vua cả mừng, sắc hạ rằng:
- Hậu Thổ Phu Nhân và Câu Mang Thần Quân là
chủ về việc mùa xuân; từ nay về sau phàm đến
lễ Lập Xuân có con trâu đất phải đem về nạp ở
đền thờ.

Chương 5: Thời nhà Lý 337


Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hậu
Thổ Thần Địa Kỳ Nguyên Quân. Năm thứ tư, gia
phong hai chữ Nguyên Trung. Năm Hưng Long thứ
hai mươi mốt, gia phong bốn chữ Ứng Thiên Hóa
Dục.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Vua anh minh thì thần nhân linh ứng.
Vua dựa vào Uy thần mà làm nước được yên. Thần
dựa vào Phúc vua mà được phong Vương lập Điện.
Vua cai quản cõi dương. Thần cai quản cõi âm. Vua
Thần giao cảm, Âm Dương hài hòa thì đất nước yên
là vậy.
Qua tích này ta còn thấy: Các đời vua anh minh
nhà Lý luôn được các Thần dõi theo từng bước chân.
Vua sống có tâm và cũng rất khiêm tốn. Vua biết rằng
mình là vua cõi nước đứng đầu thiên hạ nhưng trên
mình còn có các Thần chứng giám. Mỗi hành động
nhỏ cũng đều cảm ứng thần linh nên không dám sai.
Ví như, vua Lý Thái Tổ thấy mưa to gió lớn thì
ngẫm lại lỗi của mình mà xám hối hoàng thiên, sấm
dừng mưa ngớt.
Vua Lý Thánh Tông đi đánh giặc thì được thần hiển
linh và tạ ơn, nhờ vua mới được thỏa mãn trí nguyện
giúp vua đánh giặc. Lý Thánh Tông đánh thắng giặc
thì tạ ơn Thần vì nhờ thần giúp mới mã đáo thành
công.
Thần được sắc phong và điện thờ uy nghi cũng nhờ
Phúc vua. Gặp khi hạn hán thì vua lại được nhờ Uy
Thần mà cứu giúp được dân.

338 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thật là Âm Dương hài hòa, vận nước hưng long là
vậy.
Chú ý: Các vị vua thời Lý đi đánh giặc luôn có một
vị Pháp Vương là Sư tu hành chân chính, Đức cao
vọng trong đi theo để trợ giúp phần tâm linh. Nhưng
đến đời vua Lý Nhân Tông không còn có vị Pháp
Vương là Sư nữa. Nên vua Lý Nhân Tông tin theo lời
thầy bói, bói Kinh Dịch nổi tiếng vùng Vân Mộng gieo
quẻ bằng đốt cỏ thi và khuyên vua nên làm lễ cúng Hà
Bá sông Tô Lịch bằng mạng người thì bệnh đau mắt
sẽ khỏi. Vua nghe theo đã làm điều thất đức với ông
bà Dầu, cơ nghiệp nhà Lý từ đây lụi bại.

Chương 5: Thời nhà Lý 339


80.Lý Thường Kiệt phá Tống (1075-1076)

Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, mất năm 1105, là


người làng Cơ Xá, Quảng Đức, nay là Phúc Xá Ba
Đình. Ông tên thật là Ngô Tuấn, tự Thường Kiệt, con
trai của Sùng tiết tướng quân Ngô An Ngữ. Theo Phả
hệ họ Ngô ở Việt Nam, ông là con cháu của Thiên
Sách Vương Ngô Xương Ngập, con trưởng của Ngô
Quyền.
Văn ôn võ luyện từ nhỏ, lớn lên lại lập nhiều công
trạng nên Lý Thường Kiệt rất được nhà vua trọng
dụng. Ví như năm 1069, ông được vua Lý Thánh
Tông cử làm tướng tiên phong trong trận đánh với
Champa; lập được công lớn, Ngô Tuấn được phong
Phụ quốc Thái úy, tước Khai quốc Công và ban cho
họ Lý nên có tên Lý Thường Kiệt
Đến những năm 1075, nhà Tống gặp nhiều rối ren
do cải cách của tể tướng Vương An Thạch không
đem lại hiệu quả, chúng mong tìm lối thoát bằng
cách xâm lược nước ta.
Mãnh tướng tài giỏi bậc nhất lịch sử Việt Nam và
lối đánh táo bạo khiến kẻ địch ngơ ngác! - Ảnh 1.
Lý Thường Kiệt dẫn quân đánh Tống.
Nhận thấy mưu đồ đó, vua tôi nhà Lý hội đàm tìm
đối sách. Trong lúc này, Lý Thường Kiệt tự tin đưa ra
ý kiến:
"Ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước
để chặn các mũi nhọn của giặc".

340 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ông cũng là viên tướng đầu tiên trong lịch sử
nước ta đề ra và thực hiện đối sách đó. Bên cạnh
chiến lược "Tiên phá chế nhân", Lý Thường Kiệt chủ
động lập lại đoàn kết trong triều, đề nghị Linh Nhân
thái hậu cho gọi Lý Đạo Thành về trao chức Thái Úy,
cùng bàn việc chính sự.
Những chiến thuật, cách đánh táo bạo của Lý
Thường Kiệt
Đến năm 1075, Lý Thường Kiệt chỉ huy 10 vạn đại
quân, chia thành 2 đạo, đánh thẳng sang đất Tống.
Trong đó, đạo quân bộ sẽ do phó tướng Tôn Đản chỉ
huy đánh thẳng Ung Châu (Quảng Tây) còn thủy
quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp dẫn đầu, theo
đường biển đổ bộ Liêm Châu, Khâm Châu (nay là
Quảng Đông).
Tuy rằng đem quân sang tiến đánh nhà Tống
trước nhưng Lý Thường Kiệt cũng thể hiện được
tấm lòng nhân đức của mình khi ra quân lệnh, tuyệt
đối không được động tới cái kim sợi chỉ của người
dân.
Trong các trận đánh phải công thành, Lý Thường
Kiệt dùng cách đánh cường công kết hợp với nhiều
chiến thuật khác như đánh chặn, tiến công bao vây,
tập kích, đột kích và đặc biệt là cho quân đào hầm,
đánh từ dưới đất chui lên... khiến cho quân địch
hoang mang, ngơ ngác, không biết phải chống chọi
như thế nào.
Kết quả, Lý Thường Kiệt nhanh chóng chiếm được
châu Liêm và châu Khâm, rồi nhanh chóng hội quân
ở Ung Châu cùng phó tướng Tôn Đản quyết chiếm

Chương 5: Thời nhà Lý 341


châu Ung bởi đây chính là cứ điểm quan trọng nhất
của cả chiến dịch. Sau hơn 42 ngày vây hãm, Ung
Châu cuối cùng không thể chịu được sự công phá
mãnh liệt của quân ta và chịu thất thủ.
Mãnh tướng tài giỏi bậc nhất lịch sử Việt Nam và
lối đánh táo bạo khiến kẻ địch ngơ ngác! - Ảnh 2.
Trận đánh sông Như Nguyệt vang danh sử sách
của quân dân nhà Lý.
Nhận thấy chiến dịch đã đạt được thành quả như
mong muốn, Lý Thường Kiết cho rút quân về nước
và chuẩn bị chu đáo cho công tác chống giặc sắp tới.
Trước khi về, ông không quên ra lệnh cho binh lính
đốt sạch quân lương, hủy sạch kho tàng của quân
địch tại đây.
Với chiến thắng áp đảo đó, Lý Thường Kiệt đã đẩy
nhà Tống từ thế chủ động rơi vào tình cảnh thất thế
ngay trong giai đoạn chuẩn bị tiến công. Bên cạnh
đó, chính chiến thuật này đã buộc kẻ địch phải kéo
dài thời gian chuẩn bị, vô hình chung giúp quân, dân
Đai Việt có thêm nhiều thời giờ chuẩn bị hơn.
Nhận đòn đau, đến 9/3/1076, vua Tống sai Quách
Quỳ, Triệu Tiết thống lĩnh đại quân sang xâm lược
nước ta.
Bên phía nước ta, Lý Thường Kiệt chủ động dựa
vào địa hình hiểm trở, núi non sông nước để xây
dựng phòng tuyến phòng thủ. Cụ thể, ông cho xây
dựng thành đất kiên cố ở bờ Nam sông Như Nguyệt
(sông Cầu ngày nay), bên ngoài là cọc tre dày đặc, và
lực lượng thủy quân sẵn sàng chiến đầu nếu kẻ địch
muốn vượt sông.

342 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Cuối năm 1076, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem theo
hơn 30 vạn quân, trong đó có 10 vạn bộ binh, 1 vạn
ngựa chiến và 20 vạn dân phu, Với đoàn quân hùng
hậu kết hợp với dụ dỗ, quân Tống nhanh chóng vượt
qua các tù trưởng miền núi, tiến sâu vào đất Đại Việt.
Nhưng thế công ào ạt đấy bất ngờ bị chặn đứng tại
sông Như Nguyệt. Tại đây, Quách Quỳ không vội tấn
công mà chờ thủy quân để kết hợp đánh cùng.
Nhưng đoàn thủy binh đó bị quân ta chặn đánh tại
trận Đông Kênh, không thể tiến sâu được.
Mãnh tướng tài giỏi bậc nhất lịch sử Việt Nam và
lối đánh táo bạo khiến kẻ địch ngơ ngác! - Ảnh 3.
Do không thể chờ đợi hợp quân, Quách Quỳ 2 lần
tổ chức vượt sông. Không những không hiệu quả mà
chúng còn bị tổn thất nặng nề. Hắn thất vọng đến
mức ra lệnh: "Ai bàn đánh sẽ chém".
Sau 2 tháng phòng ngự thông minh kết hợp với
các chiến thuật phục kích, tập kích, khiến quân địch
mệt mỏi, đầu năm 1077, Lý Thường Kiệt quyết định
mở cuộc phản công trên quy mô lớn và đã giành
thắng lợi vang dội, quân Tống đại bại, thương vong
tới 5,6 phần.
Nhận thấy đại cục đã ổn, Lý Thường Kiệt chủ động
giảng hòa, kết thúc chiến tranh, tránh cảnh lầm than
cho con dân Đại Việt. Sau chiến công này, Lý Thường
Kiệt được vua Lý Nhân Tông ban hiệu Thiên Tử
Nghĩa Đệ.
Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào
theo dọc sông Như Nguyệt để cố thủ. Một đêm quân
sĩ chợt nghe ở trong đền thờ Đức Thánh Tam Giang -
Chương 5: Thời nhà Lý 343
Trương Hống và Trương Hát tướng quân có tiếng
đọc to rằng bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Bản dịch:
Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ!

(Tham khảo từ: Các đại công thần trong lịch sử


Việt Nam - NXB Lao Động - Tr 34 đến 50)
Lời bình: Bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” là một bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam trước
giặc Phương Bắc. Nhưng chúng chưa bao giờ từ bỏ
dã tâm thôn tính đất nước Nam ta từ 4000 năm
trước đến nay.
Trong bài thơ, Chủ quyền đất nước được khẳng
định là của “Nam Đế”. Địa giới đất nước được khẳng
định là “Nước Nam”. Tâm linh cũng được khẳng định:
“Phân định ở sách trời”. Với ba sự khẳng định chi tiết
và rõ ràng đó, không thể một nước nào có thể xâm
chiếm được nước ta.
Và điều đặc biệt Bản Tuyên Ngôn đó lại do Thần
Thánh Phương Nam lập ra và đọc từ trong đền Đức
Thánh Tam Giang và cả trong 2 lần quân nhà Tống
tiến đánh Đại Việt 981 và 1075.
344 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Nhưng lần này, Đại Việt “hơi bị hỗn”, chủ động đẫn
binh tiến đánh châu Khâm, Liêm, Ưng, Đô, ải Côn Lôn
(Quảng Tây ngày nay) giết chết hơn 10 vạn quân
địch, và bắt sống người mang về Đại Việt 1 vạn, khiến
cho giặc hoảng sợ. Đây cũng là điều mà trong Sử Việt
từ xưa đến nay chưa từng có.
Một năm sau, đại quân Tống tiến đánh Đại Việt.
Nhưng do bị thiệt hại quá nửa quân ở 4 châu và bị
mất nguồn vũ khí lương thực. Nên đại Quân Tống bị
thua trận thảm bại. Tổng thiệt hại của hai trận chiến
nhà Tống bị mất gần 30 vạn quân và dân phu, thiệt
hại về vật chất (ngựa xe, vũ khí, lương thực, tiền
vàng) nhiều vô kể. Từ đó đến hết đời nhà Tống cũng
không dám sang xâm lược Việt Nam.
Hãy xem lại lịch sử chiến tranh Việt Nam và Trung
Quốc:
1766 TCN - 1122 TCN, Thánh Gióng đánh giặc Ân
(lãnh đạo bởi Ân Vương), Ân Vương chết, không rõ số
quân, Việt Nam thắng.
218 TCN, An Dương Vương đánh 50 vạn quân Tần
Thủy Hoàng, Việt Nam thắng.
111 TCN, Tể tướng Lữ Gia lãnh đạo nhà Triệu đánh
với Đại quân nhà Hán (? Số quân), vua tôi và tướng
lĩnh nhà Triệu (khi đó đa phần là gốc người Hán) đều
dâng nước quy hàng. Việt Nam thua và chìm trong
1000 năm Bắc Thuộc.
Năm 938, Ngô Quyền đánh 2 vạn quân Nam Hán ở
sông Bạch Đằng, Việt Nam thắng.
Năm 981, Lê Đại Hành đánh Tống lần 1 (3-4 vạn
quân Tống), Việt Nam thắng.
Chương 5: Thời nhà Lý 345
Và đến năm này 1075-1076 Lý Thường Kiệt đánh
Tống cả trên đất Tống và trên đất Việt. Nhà Tống
thiệt hại 30 vạn quân và dân phu trên tổng số 50 vạn
quân xâm lược. Đại Việt có 10 vạn quân. Việt Nam
thắng.
Về sau, 1258,1085,1088 Nhà Trần đánh với 100
vạn quân Nguyên Mông. Đại Việt có 30 vạn. Việt Nam
thắng.
Năm 1406, Nhà Hồ đánh giặc Minh (40 vạn đánh
40 vạn) Việt Nam thua và chìm trong 20 năm Bắc
Thuộc.
Năm 1427, Nghĩa quân Lam Sơn từ con số 0 đã
đánh tan 30 vạn quân Minh xâm lược ra khỏi nước ta.
Việt Nam thắng.
Năm 1788, nhà Tây Sơn đánh giặc Mãn Thanh (20
vạn). Việt Nam thắng.
Năm 1979, 60 vạn quân Trung Quốc xâm lược Việt
Nam, trong khi đó ở biên giới Việt Nam chỉ có 10 vạn
quân chính quy và 15 vạn dân quân địa phương. Việt
Nam thắng. Đây là cuộc chiến tranh chính quy và ác
liệt nhất lịch sử Thế giới kể từ sau thế chiến thứ II.
Trong suốt 4000 năm lịch sử của Việt Nam thì
chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc là dai dẳng và âm
ỷ nhất. Và có lẽ là nhất cả Thế Giới. Hễ khi Nam quốc
có loạn, vận nước yếu kém, lập tức bị Bắc Quốc chớp
thời cơ đánh chiếm và đến nay vẫn vậy nó vẫn đang
diễn ra ở trên biển Đông.
Nhưng đó là chiến tranh xâm lược phương Bắc
xuống phương Nam. Chứ không phải đánh nhau trên
võ đài 5 ăn, 5 thua, quá bán là thắng. Mà ở đây, 10
346 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
trận đại thắng không bù đắp nổi 1 trận thua. Chỉ cần
thua một trận là nước Nam bị mất. Và thật sự là vậy,
Bách Việt trước kia có 15-20 nước nhỏ thuộc các tộc
người Việt ở phía nam sông Dương Tử, nay chỉ còn
mỗi nước Việt Nam. Thế mới biết vận nước luôn luôn
ở trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Chương 5: Thời nhà Lý 347


81.Lê Văn Thịnh đòi vua Tống
đất đai (1084)

Sau chiến tranh Việt-Tống (1075-1077), quân


Tống dù bại trận nhưng suýt chút nữa chúng đã
chiếm giữ sáu huyện biên giới nếu không có sự tài
trí của vị trạng nguyên Lê Văn Thịnh.
Sau khi thống nhất đất nước, nhà Tống phải đối
mặt trước sự xâm lược của nhà Liêu và Tây Hạ ở
phương bắc. Để hòa hoãn, nhà Tống buộc phải cống
nạp nhiều của cải và cắt một phần lãnh thổ cho
những nước này. Mong muốn bù đắp lại những gì đã
mất, nhà Tống quyết định Nam tiến đánh chiếm Đại
Việt.
Bàn bạc hồi lâu, Lý Thường Kiệt nhận thấy, quân
Tống trước mắt mới tập trung quân lương tại Ung
Châu sau đó mới dồn quân tiến lên phía trước tấn
công Đại Việt.
Nếu như quân ta sớm triệt phá địch ngay từ hậu
phương, sẽ khiến chúng mất đi nguồn nuôi dưỡng
sức mạnh của mình.Sau đó, nếu địch có dồn quân
đánh xuống nước ta thì sẽ chẳng thể trụ được lâu vì
đã mất đi căn cứ hậu cần.
Đúng như Lý Thường Kiệt tính toán. Sau khi đem
10 vạn đại quân đánh thẳng vào Liêm châu, Khâm
châu và đặc biệt là hạ được căn cứ quan trọng của
địch - Ung Châu. Nhà Tống vô cùng tức giận, ngay lập
tức dồn 10 vạn quân chiến đấu, 20 vạn phu dịch và 1
vạn ngựa, quân đánh xuống Đại Việt với phương
châm đánh nhanh thắng nhanh.

348 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trước thế giặc mạnh nhưng bằng bản lĩnh và sự
mưu lược của mình Lý Thường Kiệt chỉ mất 10 ngày
từ ngày 8/1/1077 tại trận đánh đầu tiên ở ải Nam
Quan (Lạng Sơn) cho đến ngày 18/1/1077 trong
trận cuối cùng tại sông Như Nguyệt, khiến quân
Tống đại bại, không dành nổi một chiến thắng nhỏ
nào trong toàn bộ cuộc chiến với Đại Việt.
Sau khi thắng lợi, Đại Việt chủ động nghị hòa với
quân Tống. Đem 10 vạn quân, 20 vạn phu đi đánh
Đại Việt, nay chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm
đau,lương ăn đã cạn, nhà Tống buộc phải chấp nhận
giảng hòa.
Tháng 3 năm 1077, nhà Tống rút quân về nước,
quân Tống rút đến đâu, quân Đại Việt theo sau
chiếm lại đến đó. Nhưng khi đến Cao Bằng, quân
Tống không chịu rút quân nữa mà chiếm giữ luôn
năm châu là Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Môn
và Quang Lang.
Trước tình hình đó, nhà Lý buộc phải dùng vũ lực
ép quân Tống phải trả lại 5 châu đó vào năm 1079.
Dù bị đánh bại liên tiếp nhưng quân Tống vẫn cố
chiếm giữ sáu vùng đất ven biên giới với lý do:
“Một số tù trưởng trước khi nổ ra chiến tranh năm
1075 đã nộp cho nhà Tống để xin quy phục”.
Không muốn tiếp tục phải sử dụng vũ lực với nhà
Tống. Lý Thường Kiệt quyết chọn con đường ngoại
giao để đòi những phần lãnh thổ còn lại.
Trong triều lúc đó có Lê Văn Thịnh là vị trạng
nguyên đỗ đầu trong khoa thi nho học đầu tiên của
Đại Việt. Lại là người có tài đối đáp hơn người, rất

Chương 5: Thời nhà Lý 349


thích hợp dẫn đầu phái bộ nước ta sang nhà Tống
thương thuyết.
Trong sách danh nhân Hà Nội do NXB Hà Nội xuất
bản năm 2004 có ghi lại cuộc đối đáp của Lê Văn
Thịnh với đặc phái viên nhà Tống trong cuộc họp
bàn về vấn đề biên giới như sau:
Tháng 6 năm giáp tý, Lê Văn Thịnh sang nhà Tống
đòi lại những đất ấy. Cuộc họp diễn ra vô cùng căng
thẳng, nhiều lập luận vô cùng đanh thép được đưa
ra.
Tống Thần Tông nói:
- Những đất mà quân ta chiếm thì đáng trả cho
Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ
mang nộp để theo ta thì khó mà giả lại.
Lê Văn Thịnh liền đáp lại:
- Đất thì có chủ. Các viên quan coi giữ mang nộp
mà trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ.
Việc chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không thể
tha thứ. Mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật
cũng không cho phép. Huống chi nay chúng lại
mang đất trộm dâng thiên triều để làm nhơ bẩn
sách sổ nhà vua (Tống) thì lại càng không thể
chấp nhận!
Nghe vậy, biết rằng đuối lý, dù không muốn, Tống
Thần Tông vẫn phải trả lại cho Đại Việt 6 huyện đang
chiếm giữ trái phép là: Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đinh,
Phỏng, Cận và hai động Túc, Tang.
Với chiến công này, chỉ ít tháng sau vào năm
1085, Lê Văn Thịnh được phong chức Thái sư, tức
chức quan đứng đầu triều đình.
350 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
(Tham khảo từ: Danh Nhân Hà
Nội – NXB Hà Nội năm 2004, Tr 111-112)
Lời bình: Đôi khi chỉ bằng lời nói đúng lý, đúng
tình của vị quan Văn mà lấy lại được đất của tổ tiên.
Công đức ấy ước chừng hơn cả đại chiến đao binh nơi
chiến trường của ba quân tướng sĩ.
Thế mới biết Văn là nhu (âm) mà Võ là cương
(dương). Lấy nhu chế cương thì nhẹ nhàng và không
vất vả. Lấy cương chế cương thì máu đổ đầu rơi.
Nhưng, cái lý thì có chân. Mà cái chân lý chỉ dành
cho những người muốn nghe và hiểu lý. Khi đó nhà
Tống đã chịu thua nhục nhã, thế cương của quân sĩ
Tống đã không còn nên mới phải cúi đầu chịu phục
trước ba tấc lưỡi của Trạng nguyên Lê Văn Trịnh.
Thử hỏi rằng, nếu nhà Tống không thua trận và 50
vạn quân không cúi đầu khuất phục thì nhà Tống có
mở lòng mà nghe đạo lý này hay không?
Tình hình khi đó thật ra Đại Việt ta đã chủ động
cầu hòa và chịu cống lễ hàng năm, vẫn gọi Tống là
Đại Quốc và tự nhận mình là Tiểu Quốc. Do vậy nhà
Tống mới ra oai tạm chiếm lấy vùng đất đấy để giữ
lại thanh thế Đại Quốc. Nhưng thấy tình hình căng
thẳng thì nhà Tống đành trả lại đất cho nước Nam và
đòi đổi lấy tù binh đang bị Đại Việt bắt. Trước khi trả
về, nhà Lý cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở
lên ba chữ "Thiên tử binh", đàn ông từ 20 tuổi trở lên
thích chữ "Đầu Nam Triều" và vào cánh tay trái đàn
bà con gái hai chữ "Quan Khách" để làm nhục nhà
Tống. (Theo: những mẩu chuyện bang giao trong lịch
sử VN tập I, Nguyễn Thế Long NXB GD).

Chương 5: Thời nhà Lý 351


82.Lý Nhân Tông (1072 - 1128)và
ông bà Dầu

Vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) bị bệnh đau mắt.


Mấy ông thầy thuốc chuyên môn chữa mắt ở trong
kinh thành cũng như ngoài nội thành đều được vời
vào cung chạy chữa, trong số đó cũng có những
lương y nổi tiếng, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô
hiệu. Cặp mắt của vua cứ sưng húp lên, đêm ngày
nhức nhối rất khó chịu. Đã gần tròn hai tháng vua
không thể ra điện Kinh Thiên coi chầu được. Triều
đình vì việc vua đau mắt mà rối rít cả lên. Những
cung giám chạy khắp nơi tìm thầy thuốc, và lễ bái
các chùa đền, nhưng mắt của thiên tử vẫn không
thấy bớt.
Một hôm có hai tên lính hầu đưa vào cung một
thầy bói từ núi Vân Mộng về. Ông thầy chuyên bói
dịch nổi tiếng trong một vùng. Sau khi gieo đốt mấy
cỏ thi, ông thầy đoán:
- Tâu bệ hạ, quẻ này có tượng vua rất linh
nghiệm. Quả là bệ hạ bị "thuỷ phương càn tuất"
xuyên vào mắt cho nên bệ hạ không thể bớt
được, trừ phi trấn áp nó đi thì không việc gì.
Vùa bèn sai hai viên quan trong thành. Thuở ấy ở
phía Tây bắc thành Thăng Long có hai con sông nhỏ:
Tô Lịch và Thiên Phù đều hợp với nhau để thông ra
sông Cái ở chỗ cứ như bây giờ là bến Giang Tân. Họ
tới ngã ba sông dựng đàn cúng Hà Bá để cầu thần về
bệnh của hoàng đế.
Đêm hôm đó, một viên quan ăn chay sẵn nằm
trước đàn cầu mộng. Thần cho biết:
352 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
- Đến sáng tinh sương ngày ba mươi cho người
đến đứng ở bên kia bến đò, ai đến đó trước tiên
lập tức bắt quẳng xuống sông phong cho làm
thần thì trấn áp được.
Nghe hai viên quan tâu, vua lập tức sai mấy tên
nội giám chuẩn bị làm công việc đó. Một viên đại
thần nghe tin ấy, khuyên vua không làm việc thất
đức, nhưng vua nhất định không nghe. Con mắt của
hoàng đế là rất trọng mà mạng của thường dân thì
có đáng kể gì. Hơn nữa sắp sửa năm hết tết đến, việc
đau mắt của vua sẽ ảnh hưởng nhiều đến nghi lễ
long trọng và quan hệ ngoại giao của triều đình.
Ở làng Cảo thuộc về tả ngạn sông Tô hồi ấy có hai
vợ chồng làm nghề bán dầu rong, người ta vẫn quen
gọi là ông Dầu bà Dầu. Hàng ngày hai vợ chồng buổi
sáng đưa dầu vào thành bán, buổi chiều trở ra: vợ
nấu ăn chồng đi cất hàng.
Hôm đó là ngày ba mươi tháng một, hai vợ chồng
định bụng bán mẻ dầu cho một số chùa. Vào khoảng
cuối năm, người ta cần dùng nhiều dầu để thắp Tết.
Họ dậy thật sớm, chồng gánh chảo, vợ vác gáo cùng
tiến bước đến ngã ba Tô Lịch- Thiên Phù. Đến đây họ
vào nghỉ chân trong lò canh đợi đò. Đường vắng
tanh chưa có ai qua lại. Nhưng ở trong chòi thì vẫn
có hai tên lính đứng gác. Vừa thấy có người, chúng
xông ra làm cho hai vợ chồng giật mình. Họ không
ngờ hôm ấy lại có quân cấm vệ đứng ở đây. Tuy thấy
mặt mũi chúng hung ác, nhưng họ yên tâm khi nghe
câu hỏi của chúng:
- Hai người đi đâu sớm thế này?

Chương 5: Thời nhà Lý 353


Họ cứ sự thật trả lời. Họ có ý phân bua việc bán
dầu hàng ngày của mình chỉ vừa đủ nuôi miệng.
Chúng cứ lân la hỏi chuyện mãi. Chúng nói:
- À ra hai người khổ cực như thế đó. Vậy nếu có
tiền thừa thãi thì hai người sẽ thích món gì nào.
Nói đi! Nói đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách giúp
cho.
Thấy câu chuyện lại xoay ra như thế, ông Dầu bà
Dầu có vẻ ngạc nhiên. Nhưng trước những lời hỏi
dồn của chúng, họ cũng phải làm bộ tươi cười trả lời
cho qua chuyện:
- Tôi ấy à? Người chồng đáp. Tôi thì thấy một đĩa
cơm nếp và một con mái ghẹ là đã tuyệt phẩm.
Người vợ cũng cùng ý như chồng nhưng có thêm
vào một đĩa bánh rán là món bà thèm nhất.
Thấy chưa có đò, hai vợ chồng lấy làm sốt ruột.
Nói chuyện bài bây mãi biết bao giờ mới vào thành
bán mẻ dầu đầu tiên cho chùa Vạn Thọ. Hai người
bước ra nhìn xuống sông. Hai tên lính từ nãy đã rình
họ, bấy giờ mới bịt mắt họ và lôi đi sềnh sệch. Họ
cùng van lên:
- Lạy ông, ông tha cho chúng cháu, chúng cháu
chẳng có gì.
Nhưng hai tên lính chẳng nói chẳng rằng, cứ cột
tay họ lại và dẫn đến bờ sông. Chúng nhấc bổng họ
lên và cùng một lúc ném mạnh xuống nước. Bọt tung
sóng vỗ. Và hai cái xác chìm nghỉm. Rồi đó, hai tên bỏ
chạy.
Lại nói chuyện mắt vua sáng mồng một tháng
chạp tự nhiên khỏi hẳn như chưa từng có việc gì.
354 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Nhưng ông Dầu bà Dầu thì căm thù vô hạn. Qua hôm
sau, hai tên cấm vệ giết người không biết vì sao tự
treo cổ gốc đa trong hoàng thành. Rồi giữa hôm
mồng một Tết, lão chủ quán ở bên kia Giang Tân phụ
đồng lên giữa chùa Vạn Thọ nói toàn những câu
phạm thượng. Hắn nói những câu đứt khúc, nhưng
người ta đều hiểu cả, đại lược là:
- Chúng ta là ông Dầu bà Dầu đây... Chúng mày là
quân tàn ác dã man, chúng mày là quân giết
người lương thiện... Chúng mày sẽ chết tuyệt
diệt... Họ Lý chúng mày sẽ không còn một mống
nào để mà nối dõi... Chúng tao sẽ thu hẹp hai
con sông Tô Lịch và Thiên Phù lại... Chừng nào
bắt đầu thì chúng mày đừng hòng trốn thoát...
Những tin ấy bay về đến tai vua làm cho nhà vua
vô cùng lo sợ. Vua sai lập một đền thờ ở trên ngã ba
Giang Tân và phong cho hai người là phúc thần. Mỗi
năm cứ đến ba mươi tháng một là có những viên
quan bộ Lễ được phái đến đây cúng ông Dầu bà Dầu
với những món ăn mà họ ưa thích.
Những ngôi báu nhà Lý quả nhiên chẳng bao lâu
lọt về tay nhà Trần. Dòng họ Lý quả nhiên chết tuyệt
diệt, đến nỗi chỉ người nào đổi qua họ Nguyễn, hay
ra hải ngoại mới hòng trốn thoát.
Sông Thiên Phù quả nhiên cứ bị lấp dần, lấp dần
cho mãi đến ngày nay chỉ còn một lạch nước nhỏ ở
phía Nhật Tân. Sông Tô Lịch cũng thế: ngày nay chỉ
là rãnh nước bẩn đen ngòm. Duy có miếu thờ ông
Dầu bà Dầu thì hàng năm dân vùng Bưởi vẫn mang
lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào
ngày ba mươi tháng mười một.
Chương 5: Thời nhà Lý 355
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: Các đời vua Lý trước, luôn thấy có các vị
Quốc Sư Thiền Sư chuyên lo việc tâm linh giúp vua,
ngự ở bên vua. Nếu có những việc liên quan đến tâm
linh đều dùng đạo lý đạo đức và nhan quả của nhà
Phật để giải quyết êm thắm, không mang lại hậu họa
về sau.
Đến đời Lý Nhân Tông thì không thấy nữa, thay
vào đó là một vị thầy bói chuyên bói kinh dịch ở núi
Vân Mộng. Có thể nào, đây chính là nguồn gốc của tai
họa. Lúc này đây, có thể Phúc đức của vua đã giảm
nên các bậc hiền thánh bắt đầu xa lìa. Phúc đức của
vua giảm tự sinh ra những quyết sách u mê và thất
đức, hiền thần can ngăn mà không được.
Bàn về Ông bà Dầu: vốn chỉ là người bán Dầu cho
các nhà chùa quanh khu vực. Nghe tưởng là công việc
bình thường bằng đạo lý của nhà Phật thì đây lại là
một công đức lớn.
Tiền cúng dường để phục sự công việc của chùa
được gọi là “Tiền giọt dầu”. Cúng dường Phật đúng
nghĩa là cúng: “giới hương định hương giữ tuệ
hương, giải thoát giải thoát tri kiến hương, quang
minh vân đài biến pháp giới, cúng dường Thập
phương Tam Bảo Tiền”.
Để cúng dường “Hương” cho phật thì Tâm phải giữ
Giới, Định, Huệ và biểu hiện ra ngoài là Hương thơm
ngát của mùi dầu thơm. Ngày nào các Sư cũng phải
dùng dầu thơm thắp nên để cúng hương cho Phật.
(Ngày nay hương được xe tròn thành nén đốt để tạo
ra mùi thơm cúng dường Phật).

356 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Hóa ra công đức của ông bà Dầu là từ đây mà có.
Cả đời bán dầu cho các chùa tạo hương thơm cúng
dường Phật đã tạo thành công đức lớn. Khi chết có
thể là vị thần quyền lực hoặc tái sinh thành người
giàu có hạnh phúc. Nhưng không may cho ông bà lại
bị chết trong quẫn bách bởi bức tử. Nên hóa thành vị
Ác Thần mà nguyền rủa nhà Lý tuyệt diệt và nguyền
rủa hai con sông Thiên Phù và Tô Lịch bị hẹp mãi lại.
Thật ra là bệnh là do nghiệp quá khứ của mình, để
hóa giải Vua phải sửa cái tâm của mình. Phải làm lễ
xám hối trời đất như vua Lý Thái Tổ thấy trời nổi
giông bão vần vũ mà nghĩ đến tội lỗi của mình ngài
thành tâm xám hối. Thì có thể là giông bão theo lẽ tự
nhiên phải ngừng để không phụ lòng vua. Đấy mới gọi
là “Đức độ cảm hóa trời đất” hay “ Đức trọng quỷ
thần kinh”.
Hoặc chỉ cần vua tạo công đức lớn (làm phúc, bố
thí, cúng dường) sau đó hồi hướng cho bệnh tình của
mình bình phục thì với Đức của một ông vua thì lập
tức bệnh sẽ lành.
Nhưng vua lại dùng Huyền môn dị thuật lấy cắp
hạnh phúc của người khác để điều trị nỗi đau khổ của
mình. Tuy rằng bệnh cũng khỏi nhưng quả báo về sau
thật thê thảm: Phúc dòng họ Lý bị mất và toàn bộ
dòng họ Lý bị tuyệt diệt.
Còn sao ông bà Dầu lại trù oán 2 con sông Thiên
Phù và Tô Lịch để nó hẹp mãi rồi biến mất? Có khi nào
liên quan đến Long Mạch Thăng Long và Thế rồng
bay lên của dòng sông Tô Lịch chảy ngược không?

Chương 5: Thời nhà Lý 357


83.Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? - 1115)

Sư họ Từ tên Lộ, tự là Đạo Hạnh (? - 1115). Thiền


sư đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Sư ở chùa
Thiên Phúc, núi Phật Tích, cha tên là Vinh, làm chức
tăng quan đô sát ở triều Lý, thường qua chơi làng An
Lãng, lấy con gái người họ Lỗ tên là Loan, nhân thế ở
lại đó. Lộ tức là con bà họ Lỗ vậy.
Thuở niên thiếu, thích giao du hào hiệp, phóng
khoáng, có chí lớn, hành động ngôn ngữ không ai có
thể lường được, thường cùng kẻ nho giả Mãi Sinh,
đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người con hát là Phan Ất kết
bạn. Đêm thì mải miết đọc sách, ngày thì thổi sáo
đánh cầu, vui sự chơi bời. Cha mẹ thường trách là
trễ nải, một đêm ghé dòm qua khe cửa vào trong
phòng thấy ngọn đèn gần tàn, sách vở chồng chất, Lộ
gục xuống án mà ngủ, tay vẫn chưa rời khỏi sách; do
đó cha mẹ không còn lo nghĩ nữa. Sau Lộ dự kỳ thi
tăng hương thí, đỗ khoa Bạch Liên.
Không bao lâu, cha dùng tà thuật làm phật ý Diên
Thành hầu, Diên Thành sai Đại Điên thiền sư dùng
phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác
trôi tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành
hầu, hốt nhiên đứng dựng lên ở đấy suốt một ngày
không trôi đi. Diên Thành hầu sợ hãi nói với Đại
Điên, Đại Điên đến và hét lên rằng:
- Người đi tu không được phép giận quá một
ngày.
Dứt lời thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ nghĩ việc báo
thù cho cha nhưng chưa nghĩ ra mưu kế.

358 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Một hôm, rình Đại Điên ra ngoài, gây sự định
đánh, bỗng nghe thấy trên không trung có tiếng thét
ngăn lại. Lộ sợ hãi quăng gậy mà đi. Muốn sang chùa
Ấn Quốc cầu phép lạ để đánh Điên, đường đi qua đất
rợ Kim Sỉ (răng vàng) thấy hiểm trở bèn quay về, ẩn
cư ở núi Phật Tích, thường ngày đọc kinh Đại-bi-đà-
la-ni, đọc trọn mười vạn tám nghìn lần.
Một hôm, thấy có thần nhân đến trước mặt mà nói
rằng:
- Kẻ đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm phục
thầy có công trì kinh nên lại đây để thày sai
khiến.
Lộ biết là đạo pháp đã thành, thù cha có thể rửa,
bèn thân đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở tay
ném xuống dòng nước chảy xiết. Gậy đi ngược dòng
nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại. Lộ mừng mà
nói rằng:
- Phép của ta thắng được Đại Điên rồi!
Bèn đến thẳng chỗ Điên ở, thấy Điên nói rằng:
- Mày không nhớ truyện ngày trước sao?
Nói rồi nhìn lên không trung, tịnh không thấy gì,
bèn đánh liền. Điên phát bệnh mà chết. Từ đó, thù
xưa đã rửa, tục lự nguội dần mới du ngoạn các miền
rừng rú để tìm dấu Phật.
Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, Sư thân
đến tham vấn. Sư nói kệ hỏi về Chân tâm:
“Lẫn lộn phàm trần chưa hiểu vàng
Chẳng biết nơi nào phải chân tâm?
Cúi mong chỉ thẳng bày phương tiện

Chương 5: Thời nhà Lý 359


Thấy rõ như như hết khổ tầm.”
Bản gốc:
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim)
Bất tri hà xứ thị chân tâm?
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.
Trí Huyền đáp:
“Trong ngọc ẩn thanh diễn diệu âm,
Nơi kia đầy mắt bày thiền tâm.
Hà sa cảnh là Bồ-đề cảnh,
Nghĩ đến Bồ-đề cách vạn tầm.”
Bản gốc:
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm,
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm.
Hà sa cảnh thị Bồ-đề cảnh,
Nghĩ hướng Bồ-đề cách vạn tầm.
Sư vẫn mờ mịt chẳng hiểu, lại tìm đến pháp hội
của Thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân. Đến đây,
Sư cũng lặp lại câu hỏi:
- Thế nào là Chân tâm?
Sùng Phạm đáp:
- Cái gì chẳng phải Chân tâm?
Sư hoát nhiên nhận được. Lại hỏi:
- Làm sao gìn giữ?
Sùng Phạm bảo:
- Đói ăn, khát uống.
Sư liền lễ bái rồi lui.
360 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Sau, Sư trụ trì chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích,
Tăng chúng tìm đến tham vấn. Có vị Tăng hỏi:
- Đi đứng nằm ngồi thảy đều Phật tâm, thế nào là
Phật tâm?
Sư nói kệ đáp:
“Có thì muôn sự có,
Không thì tất cả không.
Có, không trăng đáy nước,
Đừng mắc có cùng không.”
Bản gốc:
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Sư lại tiếp:
“Nhật nguyệt tại non đầu
Người người tự mất châu.
Kẻ giàu sẵn ngựa mạnh
Bộ hành chẳng ngồi xe.”
Bản gốc:
Nhật nguyệt tại nham đầu
Nhân nhân tận thất châu.
Phú nhân hữu câu tử
Bộ hành bất kỵ câu.
Khi ấy vua Lý Nhân Tông không có con, tháng ba
năm Hội tường Đại khánh thứ 3, có người ở phủ
Thanh Hoa nói rằng:
Chương 5: Thời nhà Lý 361
- Ở bãi bể có đứa trẻ kỳ lạ, mới khoảng lên ba, tự
xưng là hoàng đế, lấy hiệu Giác Hoàng, phàm
vua làm điều gì đứa trẻ ấy cũng biết, đó chính là
Đại Điên hóa sinh.
Vua sai quan trung sứ tới xem, thấy đúng như lời
nói, bèn đón về kinh sư, cho ở chùa Báo Thiên. Vua
thấy đứa trẻ thông minh, rất lấy làm yêu dấu, muốn
lập làm kẻ kế tự, quần thần đều cố khuyên can là
không thể được, và nói:
- Nếu kẻ kia thực là linh dị, tất phải thác sinh ở
nơi cung cấm, sau mới có thể lập được.
Vua nghe theo. Bèn mở đại hội bảy ngày đêm cho
đầu thai.
Pháp Lộ nghe tin, nói với chị gái rằng:
- Đứa trẻ kia là yêu tà mê hoặc người ta quá
đáng. Ta há chịu ngồi yên mà không cứu, để nó
làm mê hoặc lòng người, rối loạn chánh pháp
sao?
Nhân sai chị gái giả đò làm người đi xem hội, mật
đem mấy tấm bùa của Lộ treo ở trên rèm. Hội tới
ngày thứ ba thì Giác Hoàng bị bệnh nói với mọi
người rằng:
- Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây
che, tuy muốn thác sinh, sợ không có lối vậy.
Vua nghe có kẻ phá mất bùa chú, bèn sai người đi
tìm, quả nhiên bắt được Lộ ở Hưng thánh lâu, trói
lại, họp quần thần lại để xét xử. Vừa lúc đó Sùng
Hiền Hầu đi ngang qua, Lộ năn nỉ nói:

362 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Xin ra sức cứu bần tăng khỏi phải chịu tội, ngày
sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công
đức này.
Hầu gật đầu.
Sau ngày hội, quần thần tâu với vua rằng:
- Bệ hạ vô tự, nên cầu kẻ kia thác sinh, thế mà tên
Lộ cuồng dại dám tự ý giải chú, thật là đắc tội.
Hầu tâu rằng:
- Thiết tưởng nếu Giác Hoàng có thần lực thì tuy
có trăm tên Lộ giải chú, há đâu có hại được ru?
Nay lại trái hẳn, Lộ hơn hẳn Giác Hoàng, thần
trộm nghĩ nếu như giết, chẳng thà cho nó thác
sinh.
Vua bằng lòng. Lộ đến thẳng phủ đệ nhà Hầu,
nhằm chỗ phu nhân tắm, nhìn khắp cả. Phu nhân
giận quá, mách với Hầu. Hầu vốn hiểu ý, để mặc
không hỏi đến. Phu nhân vì thế có thai. Lộ dặn Hầu
rằng đến lúc phu nhân lâm bồn phải báo cho biết
trước. Đến kỳ lâm bồn. Lộ được người báo tin, bèn
tắm rửa sạch sẽ, thay đổi y phục, gọi các môn đồ đến
dạy:
- Túc nhân của ta chưa hết phải còn sanh lại thế
gian này tạm làm vị quốc vương. Sau khi mạng
chung ta lại sanh lên cõi trời thứ ba mươi ba
làm Thiên chủ. Nếu thấy thân ta bị hư hoại thì
ta mới thật vào Niết-bàn, chẳng còn trụ trong
vòng sanh diệt này nữa.
Môn đồ nghe lời dạy này ai nấy đều buồn thảm rơi
lệ. Sư nói kệ dạy:
“Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay,
Chương 5: Thời nhà Lý 363
Cười lạt người đời luống xót vay.
Thôi! Hỡi môn nhân đừng lưu luyến,
Thầy xưa mấy lượt hóa Thầy nay”
Bản gốc:
Thu lai bất báo nhạn lai qui,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỷ độ tác kim Sư.
Nói xong, Sư an nhiên mà hóa, mãi đến sau này
thân xác vẫn còn. Đến năm Vĩnh Lạc nhà Minh, bị
giặc Minh đốt cháy. Người làng ấy đắp tượng để thờ
như cũ.
Hình xác Lộ nay còn ở hõm đá trong chùa Thiên
Phúc, núi Phật Tích, huyện Ninh Sơn (nay là chùa
Thầy, núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây).
Nơi sinh Thiền sư Đạo Hạnh có lập chùa Chiêu
Thiền cũng gọi là chùa Láng để thờ Ngài. Chùa Láng
ở làng Yên Lãng, huyện Từ Liêm, kinh thành Thăng
Long, hiện nay là phường Láng Thượng, quận Đống
Đa, Hà Nội. Ca dao có câu:
“Nhớ ngày mồng bảy tháng ba
Trở về chùa Láng, trở ra hội Thầy”
Hầu phu nhân bèn sinh con trai, đặt tên là Dương
Hoán. Khi lên ba, vua nhân tông nuôi ở trong cung,
lập làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng hà, thái tử
tức vị, ấy là vua Lý Thần Tông do Lộ thác sinh ra vậy.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)

364 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời bình: Thiền sư Từ Đạo Hạnh truyện tích kể thì
nhiều và dài nhưng đọc từ đầu đến cuối tuyệt nhiên
không thấy Sư tạo công đức gì? Chỉ nhờ niệm chú Đà
Na Ni (mật tông) mà thành tựu pháp thuật đánh Đại
Điên bệnh mà chết. Trả được thù cha thì ngài tìm
thầy học đạo cũng không biết mức độ chứng đạo đến
mức nào. Thiền định thâm sâu đến đâu?
Vậy mà được quả Phúc vô cùng to lớn: tái sinh
được làm vua (Lý Thần Tông), rồi sau tái sinh lại
được làm Vua trời tam thập tam thiên (tầng trời có
33 vị thiên chủ). Rồi hóa thân của ngài không bị hủy
hoại. Nếu hóa thân bị hủy hoại thì nhập niết bàn (tức
là chứng đạt quả vị A La Hán là vô thượng bồ đề là
mức độ giác ngộ cao nhất trong đạo Phật mới được
nhập Niết Bàn).
Với những kết quả đó ta có thể kết luận, tích truyện
chép thiếu rất nhiều bí mật trong đời của Sư. Đặc biệt
là vấn đề tạo Phúc và Đức như thế nào mới được quả
báo to lớn như vậy. Nhưng thiết nghĩ đó chính là Mật
Hạnh của Sư, sự chứng đạo đó nằm trong tâm của Sư
mà hiếm có người nào thông hiểu được.

Chương 5: Thời nhà Lý 365


84.Thiền sư Nguyễn Minh Không (1076 - 1141)

Thiền sư Minh Không (1076 - 1141) (Đời thứ 12,


dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư tên Nguyễn Chí Thành, sanh ngày 14 tháng 8
năm Bính Thìn (1076) tại làng Loại Trì, huyện Chân
Định, tỉnh Nam Định, thường cùng với Giác Hải, Đạo
Hạnh làm bạn thân. Năm hai mươi chín tuổi, Sư cùng
hai vị ấy sang Thiên Trúc học đạo với thầy Sa-môn,
được phép Lục trí thần. Trở về quê, Sư tạo ngôi chùa
Diên Phước, ở đó chuyên trì chú Đại bi.
Kíp tới khi Đạo Hạnh sắp tạ thế bảo Minh Không
rằng:
- Xưa tôn sư tu đã tròn quả phúc mà còn bị cái
nạn “Thiên đao Mã mạch”, huống chi ở cái thuở
mạt thế huyền vi này, há có thể tự giữ mình
được sao? Ta nay sắp xuất thế, ở cái địa vị làm
thầy người ta (thiên tử), bệnh trái kiếp sau
quyết là khó tránh nổi. Ta với người có duyên,
20 năm sau hãy cứu giúp Ta.
(Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bị 2 cái nạn: Bị đao trời
hiện ra chém chảy máu chân gọi là Thiên Đao, vào
một mùa khóa hạ cả tăng đoàn bị bỏ đói phải ăn lúa
là thức ăn cho ngựa gọi là Mã Mạch để sống qua mùa
hạ. Nên gọi là nạn: Thiên Đao Mã Mạch)
Đạo Hạnh đã hóa, Minh Không trở về chùa cũ cày
ruộng.
Bấy giờ, Sư muốn tạo Đại Nam tứ khí (tượng Phật,
hồng chung, cái đỉnh, cái vạc) không nệ nhà nghèo
sức mọn. Một hôm, Sư suy nghĩ: “Nước Tống ắt có

366 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


nhiều đồng tốt, có thể dùng đúc được.” Nghĩ xong, Sư
thẳng đường sang Bắc triều (Trung Quốc). Trước
nhất, Sư ghé trọ một nhà trưởng giả xin mảnh đất
bằng chiếc ca-sa để lập Kỳ Viên. Trưởng giả cười
bảo:
- Xưa kia Thái tử nhà Lương muốn lập Kỳ Viên,
khoảng đất rộng đến ngàn dặm, lấy vàng lót
đất. Tại sao ông chỉ xin mảnh đất bằng áo ca-sa,
chỉ bằng chuồng gà mà làm gì?
Đêm ấy, Sư trải chiếc ca-sa khắp mười dặm đất.
Trưởng giả thấy Sư có phép thần liền dẫn vợ con ra
lễ bái, từ đây cả nhà đều qui y Tam Bảo.
Hôm khác, Sư đắp y mang bát chống gậy trước
thềm rồng đứng khoanh tay. Vua Tống vào triều, bá
quan văn võ tung hô xong, xem thấy vị Sư già bèn
triệu vào, hỏi:
- Thầy già ốm này là dân phương nào, tên họ là
gì? đến đây có việc chi?
Sư tâu:
- Thần là kẻ Bần tăng ở tiểu quốc, xuất gia đã
lâu, nay muốn tạo Đại Nam tứ khí, mà sức
không tùy tâm, nên chẳng sợ xa xôi lặn lội đến
đây, cúi mong Thánh đế mở rộng lòng thương
ban cho chút ít đồng tốt, để đem về đúc tạo.
Vua Tống hỏi:
- Thầy đem theo bao nhiêu đồ đệ?
Sư tâu:
- Bần tăng chỉ có một mình, xin đầy đãy này quảy
về.

Chương 5: Thời nhà Lý 367


Vua bảo:
- Phương Nam đường xa diệu vợi, tùy sức Sư lấy
được bao nhiêu thì cho bấy nhiêu, đủ quảy thì
thôi.
Sư vào kho đồng lấy gần hết sạch mà chưa đầy
đãy, quan giữ kho le lưỡi lắc đầu, vào triều tâu việc
ấy cho Vua. Vua ngạc nhiên hối hận, nhưng lỡ hứa
rồi, không biết làm sao.
Sư nhận đồng xong, vua Tống sai bá quan tiễn Sư
đưa về nước. Sư từ rằng:
- Một đãy đồng này, tự thân Bần tăng vận sức
quảy nổi, không dám làm phiền nhọc các Ngài
tiễn đưa.
Nói xong, Sư bước ra lấy đãy máng vào đầu gậy
nhẹ nhàng mang đi. Đến sông Hoàng Hà, Sư lấy nón
thả xuống nước sang sông chỉ trong khoảng chớp
mắt đã đến bờ.
Về nước, Sư đến chùa Quỳnh Lâm huyện Đông
Triều, tỉnh Hải Dương đúc một tượng Phật Di-đà
thật cao lớn. Tại kinh đô nơi tháp Báo Thiên, Sư đúc
một cái đỉnh. Ở Phả Lại, Sư đúc một quả đại hồng
chung. Tại Minh Đảnh, Sư đúc một cái vạc.
Phần còn dư, Sư đem về chùa quê làng đúc một
đại hồng chung nặng ba ngàn ba trăm cân, và đúc
một đại hồng chung ở chùa Diên Phước Giao Thủy
nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, Sư làm bài
tán rằng:
“Nón nổi vượt biển cả,
Một hơi muôn dặm đường.

368 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Một đãy sạch đồng Tống,
Dang tay sức ngàn ngựa.”
Bản gốc:
Lạp phù việt đại hải,
Nhất tức vạn lý trình.
Tống đồng nhất nang tận,
Phấn tý thiên câu lực.
Thời vua Lý Nhân Tông kiến tạo điện Hưng Long
cả năm mới xong, điện cực kỳ tráng lệ. Bỗng trên nóc
có hai con chim cáp đậu kêu to, tiếng vang như sấm.
Vua lo buồn chẳng vui, quan chỉ huy thấy thế tâu:
- Điềm này chỉ có Minh Không mới trừ được.
Vua bèn sai ông đi thỉnh Sư, ngày rằm tháng
giêng, ông đến trước am Sư. Sư hỏi:
- Quan chỉ huy sao đến chậm vậy?
Ông hỏi lại:
- Sao Thầy biết trước chức của tôi?
Sư đáp:
- Ta cỡi trăng đạp gió chợt vào thành vua, sớm
đã nghe biết việc này.
Liền hôm ấy, Sư đến kinh đô, thẳng đến điện Hưng
Long, Sư tụng chú thầm, hai con chim lạ ấy nghẹn cổ
chẳng kêu, giây lát sau liền rơi xuống đất. Vua
thưởng cho Sư một ngàn cân vàng và năm trăm
khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa và phong
chức Quốc sư.
Năm vua Lý Thần Tông hai mươi mốt tuổi, bỗng
nhiên mắc bệnh biến thành cọp, ngồi xổm chụp

Chương 5: Thời nhà Lý 369


người, cuồng loạn đáng sợ. Triều đình phải làm cũi
vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân
Định hát rằng:
“Nước có Lý Thần Tông,
Triều đình muôn việc thông.
Muốn chữa bệnh thiên hạ,
Cần được Nguyễn Minh Không.”
Triều đình sai quan chỉ huy đi đón Sư. Đến am, Sư
cười bảo:
- Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?
Quan chỉ huy hỏi:
- Sao Thầy sớm biết trước?
Sư bảo:
- Ta đã biết việc này trước hai mươi năm.
Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo:
- Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để
một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi Vua
lại gần đó.
Sư lấy tay mò trong đảnh lấy một trăm cây kim
găm vào thân Vua, nói:
- Quí là trời.
Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân Vua
hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn Sư một ngàn cân vàng
và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa,
ruộng này không có lấy thuế.
Đến năm Đại Định thứ hai (1141), Sư qui tịch.

370 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Hiện nay tại Hà Nội, trước đền thờ Lý Quốc Sư vẫn
còn tượng Sư và có bia ký. Dân chợ Tiên Du muôn
đời hương khói phụng thờ.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình:
Lý Quốc Sư là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà
Lý ban cho ghép với chức danh pháp lý cao nhất của
một vị thiền sư từng là dược sư, pháp sư, đại sư rồi
quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không. Ông là một vị
cao tăng đứng đầu tổ chức phật giáo của triều đại
nhà Lý trong lịch sử, được xem là vị thiền sư sáng lập
nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam (trên 500 chùa)
và được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng.
Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho Vua và nhân
dân, xây dựng chùa tháp chấn hưng Phật giáo, duy trì
đạo đức trong dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo,
là những nhân vật lịch sử có thật, sau này được người
Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn (Nguyễn Minh
Không), đức thánh Trần (Trần Hưng Đạo). Một số ghi
chép xưa xếp ông là vị thánh trong tứ bất tử (Sau
thay ông bằng Thánh Mẫu Liễu Hạnh).

Chương 5: Thời nhà Lý 371


85.Nguyên Phi Ỷ Lan (? - 1117)

Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063) Lý Thánh Tông


đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để
truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua
bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu
mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo
lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt.
Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu
(tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở
hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào
dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ
các làng đều ra rước vua.
Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận
nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh
đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc
ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô
gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu
qua.
Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con
gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề
gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung
dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu:
- Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu
tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám
mong đi xem rước và nhìn mặt rồng.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ
đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân
minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua
đã từng gặp.

372 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo
long giá về kinh đô. Cô gái làng quê được đón về
cung vua ấy là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na của
làng Siêu-Loại (Sủi).
Nhưng Lý Thánh Tông là ông vua chăm việc nước,
luôn luôn thân chinh dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự
tới cung ỷ Lan. Đương lúc cung ỷ Lan vắng tiếng đàn,
tiếng sáo, thì bỗng một hôm sau khi Thánh Tông đi
trảy hội chùa Thổ Lỗi, cung ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn
xưa.
Yến Cô Nương nhờ "thông minh vốn sẵn tư trời"
được học tập, trau dồi đã trở thành một cung phi
"nổi danh tài sắc một thời" kinh sử làu thông, văn
chương uyên bác. Lý Thánh Tông đem lòng yêu mến,
phong làm Ỷ Lan phu nhân, lấy tên cung Ỷ Lan và
cũng có ý kỷ niệm cô gái đứng tựa bên gốc lan, khi
tuân lệnh đến bệ kiến buổi đầu ở làng Sủi (Siêu
Loại).
Sau đó (1066), Ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử
lấy tên là Kiền Đức. Kiền Đức trán cao, tay dài quá
gối, thông minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến
Loan được tôn là Ỷ Lan Nguyên Phi - đứng đầu các
cung phi, sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.
Năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi
đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lý Thường
Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan nguyên phi đảm
đang, chăm lo quốc sự, trị nước điều khiển có kỷ
cương khiến thần dân thán phục, cõi nước được yên
vui.

Chương 5: Thời nhà Lý 373


Lý Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh trận lâu
ngày không thắng, chán nản rút quân quay về. Về
chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu Cư Liên (Tiên
Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên phi Ỷ Lan ở nhà trị
nước rất giỏi, lòng dân cảm hóa, được suy tôn là
Phật Bà Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách mình:
- Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta
là đàn ông há thua sao!
Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng
trận. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải
hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền
lụa, thóc cho dân nghèo.
Ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở
thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân
giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi
người kính phục.
Năm Nhâm Tý (1072) tháng giêng mùa xuân, Lý
Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử Kiền
Đức lên ngôi vua, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy vua
mới lên 7 tuổi, tôn mẹ là Ỷ Lan nguyên phi lên làm
Linh Nhân hoàng thái hậu.
Ỷ Lan vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm vụ
bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua còn thơ ấu, Ỷ Lan
điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường
Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần
quân Tống đến (1075, 1077) vua Lý Nhân Tông chưa
quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo
việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ
quốc lâm nguy Ỷ Lan đã cùng Lý Thường Kiệt giữ

374 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


vững giang sơn, xã tắc; công ấy đời sau còn nhắc
mãi.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường đại
khánh năm thứ 8 (1117) đời Lý Nhân Tông, bà mất,
được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân
Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức.
Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm
Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
(Tham khảo từ: Giai thoại về phụ nữ Việt Nam
(Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi) NXB Phụ nữ, 1987)
Lời bình: Nguyên Phi Ỷ Lan là một người đàn bà
Sắc Hương Tài Đức đều vẹn toàn. Nếu trước tôi đã
nói câu: “Vận nước Hưng long Trời sinh Thiên tướng”
thì nay phải tiếp là: “Quốc gia Vượng phát, Quý nhân
Phù trợ”.
Quý nhân giúp nước ở đây không có nghĩa chỉ là
vua uy đức hay quan tướng tài giỏi mà còn cả những
người đàn bà hiền thục và tài năng. Trong tay có uy
quyền mà biết vì nước vì dân sử dụng tài năng uy
quyền đó một cách phải đạo. Vận nước hưng long mới
được như vậy. Thật là khéo léo, thật là tài tình.

Chương 5: Thời nhà Lý 375


86.Thái Úy Tô Hiến Thành (1102 - 1179)

Tô Hiến Thành (1102 - 1179) người đất Ô Diên


(nay là xã Hạ Mỗ, huyện Ðan Phượng, Hà Tây). Từ
nhỏ, Tô Hiến Thành đã có tiếng là người thông minh
cương trực, văn võ đều hay.
Khi làm quan trong triều, tài văn võ kiêm toàn và
đức tính cương trực, vị nghĩa của ông khiến các bạn
đồng liêu kiêng nể và Vua Lý tin dùng. Dưới triều Lý
Anh Tông, ông được phong đến chức thái phó và thái
úy.
Khi sắp mất, Anh Tông đã gọi riêng ông đến bên
long sàng di huấn cho ông làm Thái sư phụ chính,
căn dặn ông phải hết lòng phò tá Thái tử Cáp ở ngôi
Vua.
Anh Tông mất. Ông làm đúng di huấn của Anh
Tông, dốc sức giúp rập Vua mới còn nhỏ tuổi. Vợ Vua
Anh Tông là Hoàng Thái hậu muốn bỏ thái tử Cáp mà
lập thái tử Long Xưởng là người vì hư đốn, đã bị
truất quyền nối ngôi.
Ông cương quyết không nghe. Hoàng Thái hậu
mới cho người mang lễ vật vàng bạc rất hậu đến
biếu bà họ Lã, vợ Tô Hiến Thành, ý đồ mượn tay vợ
để thuyết phục ông. Ham của, vợ ông nhận lời. Ngày
đêm, bà ráo riết tìm mọi dịp ỏn thót, lôi kéo ông. Ông
vẫn nhất định không nghe. Sau thấy vợ nói mãi, ông
mới bực mình nói thẳng:
- Kẻ làm quan phải vâng mệnh Vua. Tiên đế đã có
di huấn cho ta, lẽ nào ta lại vì hám lợi mà trái
lệnh Vua. Nếu ta làm điều bất trung bất nghĩa

376 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


ấy, sau này ta còn mặt mũi nào nhìn tiên đế
dưới suối vàng nữa.
Suốt thời kỳ làm quan trong triều, ông luôn giữ
tính cương trực, trọng nghĩa khinh tài, một lòng
trung thành vì dân, vì nước. Trước những xáo động
dữ dội do bọn quí tộc phong kiến thối nát gây nên,
ông vẫn vững như cột đá giữa dòng, mưu trí chống
đỡ, giữ cho việc nước việc dân khỏi bị bọn gian thần
lũng đoạn.
Cuối đời Tô Hiến Thành nằm bệnh, Tham trì chính
sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu bên cạnh, Gián nghị
đại phu Trần Trung Tá vì bận việc không lúc nào rỗi
để tới thăm hỏi.
Đến khi bệnh nặng, thái hậu thân đến thăm, hỏi
rằng:
- Nếu có mệnh hệ nào thì ai là người có thể thay
ông?.
Hiến Thành trả lời:
- Trung Tá có thể thay được.
Thái hậu nói:
- Tán Đường hàng ngày hầu thuốc thang, sao
không thấy ông nhắc đến?.
Hiến Thành trả lời:
- Vì bệ hạ hỏi người nào có thể thay thần nên
thần nói đến Trung Tá, còn như hỏi người hầu
dưỡng thì phi Tán Đường còn ai nữa?.
Thái hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng
lời ấy.

Chương 5: Thời nhà Lý 377


Sử thần Ngô Sỉ Liên bàn rằng: Tô Hiến Thành nhân
việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí
khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng vững
như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu dưới thuận,
không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa. Huống
chi đến lúc sắp chết còn vì nước tiến cử người hiền,
không vì ơn riêng, thái hậu không dùng lời nói của
Hiến Thành là việc không may cho nhà Lý vậy.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Cây ngay giữa sóng xô gió giật vì gốc
được bền sâu. Gốc được bền chặt là do chữ Đức đã
thành. “Hiền tài là nguyên khí quốc qia” do vậy Tài và
Đức làm thay đổi vận nước.
Nếu một quốc gia có vị Vua bên cạnh việc chăm lo
phát triển kinh tế khoa học kỹ thuật mà còn chăm lo
dạy đạo đức trong dân thì vận khí nước thịnh.
Đức là gốc mà Tài là ngọn. Gốc mà mất thì ngọn
xụp đổ. An Dương Vương tài vậy mà kiêu ngạo sinh
ngu để mà mất nước. Các đời Khúc, Dương, Ngô,
Đinh, Tiền Lê tài năng như vậy mà Đức không dầy
nên tuổi đời ngắn ngủi.
Nước Nhật ngày nay khiến cả thế giới ngả mũ
ngưỡng mộ không chỉ ở khoa học kỹ thuật (Nói về
khoa học kỹ thuật Nhật chưa chắc đã hơn Mỹ hay
Đức). Mà vì trong hoàn cảnh khó khăn do Sóng Thần
khiến 30.000 người bị chết, người còn sống thì đói
khổ. Vậy nhưng khi phát đồ ăn nước uống, dân Nhật
ở đó vẫn đứng xếp hàng nghiêm túc, không cảnh sát

378 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


hỗ trợ, không cảnh chen lấn xô đẩy, không cảnh cướp
đồ ăn. Với suy nghĩ của Tôi thì đây chính là chữ Đức
được xây dựng từ gốc rễ của dân tộc Nhật. Điều này
khiến cho đất nước họ không tài nguyên, đất đai khí
hậu không thuận lợi cho nông nghiệp, lại nằm trên
vành đai bão tố núi lửa động đất... mà có thể vươn lên
thành một nước giàu mạnh nhất nhì thế giới.

Chương 5: Thời nhà Lý 379


87. Dương Tự Minh - Thánh Đuổm (1105-
1150)

Dương Tự Minh còn gọi là Đức Thánh


Đuổm hay Cao Sơn Quý Minh, dân tộc Tày, người
làng Quan Triều tỉnh Thái Nguyên (nay là
phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên). Ông
làm thủ lĩnh phủ Phú Lương xưa, gồm các châu:
Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm
Hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa (thuộc Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang và một
phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn ngày nay) trong
suốt ba đời Vua nhà Lý: Lý Nhân Tông (1072-
1128), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh
Tông (1138-1175).
Vào triều đại nhà Lý dưới chân núi Đuổm có một
bản nghèo là bản Doanh. Bản có mươi nóc nhà gianh
tre đơn sơ, khuất dưới tán cây rừng, trong đó có một
túp lều nhỏ tuềnh toàng không ai ngờ, đó là nơi hưu
trí của một viên quan châu mục từng nổi tiếng một
thời - cha của Dương Tự Minh.
Quan châu mục họ Dương, một dòng tộc đầy thế
lực của người Tày ở vùng phủ Phú Lương. Ông từng
là thủ lĩnh trong vùng, lập nhiều chiến công chống
quân Tống xâm lược lần thứ hai trên chiến tuyến
sông Cầu. Ông vốn người trung hậu, giàu lòng nhân
từ có bao nhiêu bổng lộc đều chia sẻ cho mọi người
nên về già không có nhà cao cửa rộng và của riêng.
Mãi năm ông bà ở tuổi 70 mới sinh cậu con trai.
Lúc bà sinh con, bỗng thấy từ túp lều bừng lên sáng
rực, lấp lánh như ánh hào quang, ánh sáng ấy như
380 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
tỏa ra từ đứa con trai. Do đó ông đặt tên con là Tự
Minh (tự mình sáng lên).
Năm Dương Tự Minh ngoài 20 tuổi, trong vùng
bọn phỉ tặc hoành hành cướp phá, dân tình vô cùng
khốn khổ. Dương Tự Minh thành lập đội dân binh,
hàng trăm trai tráng trong vùng nô nức gia nhập đội.
Đội dân binh do Dương Tự Minh chỉ huy đã chặn
được sự hung hãn của bọn phỉ tặc, làng bản trở lại
yên bình.
Vào năm Đinh Mùi (1127) Vua Lý Nhân Tông liền
mời Dương Tự Minh về triều ban thưởng nhiều của
cải vàng bạc, gả con gái là Công Chúa Diên Bình cho
và tổ chức đám cưới tại Kinh đô, phong cho chức
Châu mục vùng thượng nguyên và trấn trị cả phủ
Phú Lương rộng lớn, một vị trí chiến lược quan
trọng trong công cuộc bảo vệ biên cương đất nước.
Ông chăm lo xây dựng phủ Phú Lương ngày càng
phồn thịnh và có công lớn giữ yên bờ cõi phía bắc
Đại Việt. Dương Tự Minh là người thông minh lanh
lợi, tài năng, đức độ, thẳng thắn trung thực, có sức
khỏe hơn người, được nhân dân khắp vùng biên
cương yêu mến, triều đình tin cậy.
Năm Đại Định thứ 5 (1144) có kẻ yêu thuật người
nước Tống là Đàm Hữu Lượng trốn sang châu Tư
Lang, tự xưng là Triệu tiên sinh nói là vâng mệnh đi
sứ để dụ dỗ nước An Nam. Các khe động dọc biên
giới có nhiều người theo, Đàm Hữu Lượng đem đồ
đảng đến cướp châu Quảng Uyên. (Lúc này Dương
Tự Minh đang bị giam trong ngục chờ ngày xét xử,
phạm tội vì quá lo cho dân bản ở vùng đất phía Bắc

Chương 5: Thời nhà Lý 381


bị đói rách sau những năm bị nhà Tống chiếm giữ
nên phạm tội).
Cả triều đình lo lắng, nhà Vua cho người đi cầu
hiền tài cứu nước. Dương Tự Minh xin được gặp nhà
Vua để xin xung phong ra chiến trường diệt giặc cứu
nước. Đích thân nhà Vua trao cho ông thanh Thượng
phương bảo kiếm và phong cho chức Đô đốc Thống
binh, giao cho 3 vạn binh mã cùng văn thần Nguyễn
Như Mai, Lý Nghĩa Vinh đi tiên phong cự chiến.
Dương Tự Minh chia quân thành hai đạo, trận
chiến diễn ra theo thế gọng kìm, quân Lý tiến công
như vũ bão và giết chết Đàm Hữu Lượng. Sau khi
dẹp yên giặc, Dương Tự Minh cho củng cố lại các
vùng biên ải, ổn định tinh thần nhân dân, rồi dẫn
đoàn quân chiến thắng về kinh đô.
Vua Lý sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10
dặm để đón, nhân dân khắp các bản làng, phố thị mở
hội khao quân. Vua Lý Anh Tông thiết triều ban yến
và tác thành Dương Tự Minh cùng Công Chúa Thiều
Dung tài sắc vẹn toàn. Sau đó ông cũng được điều về
kinh thành Thăng Long phò Vua giúp nước.
Tháng 9 năm 1138, Vua Lý Thần Tông băng hà lúc
23 tuổi, hoàng thái tử Thiên Tộ nối ngôi báu khi đó
mới 3 tuổi, hiệu là Anh Tông Hoàng đế, tôn mẹ là
Hoàng hậu Lê Cảm Thánh làm Thái hậu. Lê Thái hậu
lại tư thông với Thái úy Đỗ Anh Vũ, cho nên phàm
việc gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ Anh Vũ quyết
đoán cả. Đỗ Anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm,
kiêu ngạo và khinh rẻ đình thần, ức hiếp Vua, uy
hiếp quan lại trong triều.

382 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Năm Đại Định thứ 11 (1150), các tướng lĩnh chỉ
huy các đội quân cấm vệ, một số thân vương như Vũ
Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Phò mã Dương
Tự Minh thấy Đỗ Anh Vũ lộng quyền quá độ, lo trừ
đi, nhưng sự không thành lại bị giết hại cả, Dương
Tự Minh bị bắt đi lưu đày, ông sống những năm
tháng cuối đời ở chân núi Đuổm và mất ở đây.
Nhà Lý sau này truy phong ông làm Uy viễn đôn
tỉnh cao sơn quảng độ chi thần, nhiều triều đại
phong kiến Việt Nam ban sắc phong là Thượng đẳng
thần, còn nhân dân thì tôn ông làm Đức Thánh, xây
đền thờ ông ở làng Đuổm mà sau này được gọi là
đền thờ Đức Thành Đuổm.
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: Một vị tướng có công giúp 3 đời vua làm
đến chức phò mã. Có công đánh Tống, dẹp quân phản
loạn mà bị giam cầm tạo công lớn rồi phục chức rồi bị
đi đày nơi xa mà chết thì thật là buồn.
Vương triều nhà Lý bắt đầu thấy sự loạn và thối
nát từ trong ra ngoài. Mẹ vua mà gian dâm với quan.
Thế mới biết, mọi thời loạn đều xuất phát từ Đạo đức
suy giảm mà thành.
Về phần sắc phong thần thì vua căn cứ vào công
đức khi sống để tạo lập sắc phong, nhưng các đời vua
sau tiếp tục phong thì là do sự hiển linh giúp dân thực
tế có mới phong.
Điều đó chứng tỏ rằng Công Đức của ngài rất lớn
và được ghi chép trong sổ Thiên Đình, nên mới được
làm Phúc Thần hiển linh phù hộ cho dân. Cũng vì có

Chương 5: Thời nhà Lý 383


Phúc nên ngài mới được vua ban mũ áo, quan tước và
có nhà cao cửa rộng, hương hoa vật thực và sự lễ bái
của dân.

384 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


88. Lý Anh Tông (1136-1175) anh minh sáng suốt

Lý Anh Tông là hoàng đế thứ 6 của triều Lý, tên


thật là Lý Thiên Tộ, lên ngôi ngày 01 tháng 10 năm
Mậu Ngọ (1138) khi mới 2 tuổi.
Trong thời gian trị vì của Lý Anh Tông, đất nước
có một số biến loạn nhưng nhờ được triều thần giúp
đỡ nên ngôi báu vẫn vững vàng.
Làm vua 37 năm (1138-1175), ông tỏ ra là người
biết quản lý, điều hành chính trị, được sử sách ca
tụng. Đại Việt sử ký toàn thư (thời Hậu Lê) chép
rằng:
"Về mặt giữ dân, giữ nước, việc làm đáng khen.
Vua lại đặt Xạ Đình, sai các quan văn võ hàng ngày
luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa binh nhung,
giảng võ bị, quy mô đã thấy rõ".
Việt giám thông khảo tổng luận (nhà Nguyễn)
chép rằng:
"Vua đặt ra trường Giảng Võ để nghiêm võ bị, làm
miếu Khổng Tử để chấn hưng văn phong, cày ruộng
Tịch điền, lập đàn Nam Giao, xét về mặt chính trị cũng
là kỹ càng".
Lý Anh Tông có hai con trai, con trưởng là Long
Xưởng không có chí, lại ham chơi, hiếu sắc hoang
dâm nhưng vua nghĩ còn có thể dạy dỗ được nên bỏ
qua những lỗi trước đây.
Ai ngờ những cung nữ được vua sủng ái, yêu dấu,
Long Xưởng đều tìm cách thông dâm, điều đó khiến
Lý Anh Tông nổi giận xuống chiếu phế Lý Long

Chương 5: Thời nhà Lý 385


Xưởng làm thứ dân và bắt giam vào tháng 9 năm
Giáp Ngọ (1174).
Tháng 7 năm Ất Mùi (1175) vua ốm nặng, hoàng
hậu vào cung xin lập Lý Long Xưởng trở lại ngôi Thái
tử. Vua khước từ và nói rằng:
- Làm con bất hiếu còn trị dân sao được.
Trước khi mất, Lý Anh Tông lập di chiếu truyền
ngôi cho con thứ là Lý Long Cán và cử Thái úy Tô
Hiến Thành giúp, công việc quốc gia nhất nhất tuân
theo phép cũ.
Đánh giá về chuyện này, sử sách khen ngợi vua.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
"Không mê hoặc lời nói đàn bà, ký thác được người
phụ chính hiền tài, có thể gọi là không hổ thẹn với
trách nhiệm gánh vác".
Long Xưởng bị phế, Lý Anh Tông chọn con thứ 6
là Lý Long Cán lập làm Thái tử khi mới hơn 1 tuổi.
Tháng 7 năm Ất Mùi (1175) Lý Anh Tông mất, Thái
tử lên kế vị (tức Lý Cao Tông), mẹ đẻ là Đỗ Thụy
Châu được tôn làm Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái
hậu, buông rèm nhiếp chính. Muốn dụ Tô Hiến
Thành bỏ vua trẻ lập vua mới nhưng không được.
Tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179), Thái úy Tô Hiến
Thành mất, một quan phụ chính khác là Lý Kính Tu
lên thay chức vụ. Đến năm Nhâm Dần (1182) ông
này được ban danh hiệu đế sư (thày của vua), Khâm
định Việt sử thông giám cương mục chép rằng:
"Kính Tu trong thì hầu vua ở nơi màn trướng,
ngoài thì dạy dân theo đạo trung hiếu. Từ đó, Chiêu

386 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Linh thái hậu không dám manh tâm tính chuyện phế
lập nữa".
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó tin về
các vị vua Việt Nam, tr.101-105, NXB Hồng Đức)
Lời bình: Vua sáng suốt yêu thương dân thì đất
nước được bền. Nghe lời nói quấy của vợ làm theo thì
nước mất nhà tan. Quan thì đời nào cũng vậy luôn có
gian thần và các quan đức độ. Đến như đời thịnh trị
Lý Thái Tông mà còn chịu nạn tam vương nên cũng
dễ hiểu.
Chỉ khác nhau, nếu đức vua sáng thì phúc vua bền
mà gian thần phải sợ hãi quy thuận. Nếu đức vua
kém, ăn chơi vô độ thì gian thần tác quái. Mà gian
thần ở đây lại là Mẹ vua thì thật là nguy cho đất
nước. Mẫu nghi thiên hạ mà lại ra thế này thì đất
nước làm sao mà bền được.

Chương 5: Thời nhà Lý 387


89.Lý Cao Tông (1176 - 1210) thời suy mạt

Lý Cao Tông (1173 - 1210), tên thật là Lý Long


Trát, còn có tên khác là Lý Long Cán, Lý Long Hãn, là
con thứ 6 của Lý Anh Tông, mẹ là bà hoàng hậu Đỗ
Thụy Châu (sau được phong là Chiêu Thiên Chí Lý
hoàng thái hậu).
Lý Cao Tông lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175)
khi đó mới hơn 2 tuổi, là một trong những vị vua lên
ngôi sớm nhất trong lịch sử nước Việt.
Lúc còn nhỏ, Lý Cao Tông là người ngoan lành, lại
được các trung thần tài năng như Tô Hiến Thành, Đỗ
Kính Tu phù giúp nhưng khi lớn lên bắt đầu trực tiếp
cầm quyền trị nước lại sinh ra ham mê săn bắn,
chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây
nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch
nên trộm cướp nổi lên khắp nơi.
Là vị vua thích ưa thích phô trương, ông sai xây
dựng và sửa chữa nhiều cung điện, lầu gác sao cho
thật to đẹp, lộng lẫy như điện Vĩnh Ninh, gác Kính
Thiên, cung Nghênh Thiềm, lại "xây và hành cung
hơn 100 nơi" (Đại Việt sử lược).
Bên cạnh đó, Lý Cao Tông thường xuyên du
ngoạn, thích thăm thú, đi chơi khắp nơi trong nước,
lên phía Bắc thăm Sơn lăng, xuống phía Nam săn voi
nhưng không phải để cổ vũ tinh thần thượng võ mà
để thỏa mãn sự hiếu kỳ của mình.
Ông cũng rất thích các trò phương thuật, nghe nói
ai có tài gì ông đều bắt đến biểu diễn để mua vui
hoặc xem có pháp thuật gì lạ không. Có lần vua sai

388 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


mang hổ ra để cho một nhà sư làm phép giáng hổ,
lần khác cho một sủng thần trổ tài trị sấm…
Để có tiền thỏa sức ăn chơi, Lý Cao Tông đã trở
thành vị vua duy nhất của triều Lý công nhiên cho
mua quan bán tước; tệ tham nhũng, hối lộ trong
những năm cuối ở ngôi của ông diễn ra tràn lan.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:
"Vua thì thích làm tiền, các quan phần nhiều bán
quan chức, buôn hình ngục…" và “Vua chơi bời không
điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong,
đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém".
Còn sách Đại Việt sử lược cho biết:
"Vua rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan
buôn ngục làm chính sự. Hai người nào mà tranh
nhau ruộng đất, sản vật, hễ một người đem dâng nạp
rồi thì vua chẳng hỏi tình lý phải trái thế nào đều tịch
thu sung công cả. Vì thế mà kho đụn của nhà nước
của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán
thán".
Tích truyện trong sử chép rằng:
Vào năm Bính Dần (1206) trong nước mất mùa,
đói kém xảy ra khắp nơi khiến người chết rất nhiều
còn vua thì vẫn rong chơi vô độ, xây đền đài không
ngớt, nghe ngoài cung nhiều việc nhiễu nhương vẫn
không để tâm lo lắng.
Một lần Lý Cao Tông ngự giá đi dạo trên hoàng
thành bỗng khi ấy phía dưới chân tường xảy ra vụ
cướp trắng trợn giữa ban ngày. Người mất của kêu
la mong mọi người giúp đỡ nhưng vào thời buổi loạn
lạc, người hay sợ kẻ gian nên chẳng ai dám làm gì.
Chương 5: Thời nhà Lý 389
Tiếng gào khóc cứ thế càng thảm thiết hơn, một
đại thần trong đoàn hộ giá thấy cả vua và các quan
đều chỉ chú tâm ngoạn cảnh mà lờ đi vờ như không
nghe thấy tiếng kêu ai oán của dân mới tâu rằng:
- Nay trộm cướp ngày càng nhiều, khắp nơi
chúng ngang nhiên làm bậy. Xin bệ hạ cho
người đi lùng bắt, dẹp bọn thảo tặc để dân
chúng được nhờ.
Vua nghe thế không nói gì, phất tay áo ra hiệu cho
đoàn rước tiếp tục đi đến điểm vui chơi khác.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại ngắn gọn
việc này như sau: "Bấy giờ vua xây dựng không ngớt,
ngao du không chừng mực, hàng ngày cùng cung nữ
dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp, lờ
đi giả cách không biết".
(Tham khảo từ: Những điều thú vị về các
vua triều Lý (Lê Thái Dũng) – NXB Laođộng, 2009)
Lời bình: Phàm việc gì đến cũng đều có nguyên
nhân. Lý Nhân Tông đã dùng tà pháp thất đức mà cắt
mấy cái mạch sinh khí nhà Lý (hiến tế sinh mạng Ông
bà Dầu). Để rồi đến đời con là Lý Thần Tông có vợ
thông dâm với quan Thái úy Đỗ Anh Vũ. Cháu là Lý
Anh Tông có vợ phản nghịch muốn bỏ vua cũ lập vua
mới. Rồi đến đời chắt là Lý Cao Tông thì nước loạn,
dân đói kém, vua ăn chơi vô độ, quan thối nát, triều
đình rối ren vô đạo đức. Đó cũng là một chỗi dài từ
Nhân biến thành Quả mà thôi.
“Thượng bất chính, Hạ tắc loạn”
Đất nước loạn đều bắt nguồn từ trên xuống và từ
trong ra. Trên xuống là từ vua quan bất chính, tham
390 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
lam ích kỷ không còn yêu thương dân chúng. Trong ra
là từ Phúc và Đức bị hao tổn kiệt quệ do ác độc, ham
hưởng khoái lạc, hoang dâm vô độ và thích làm điều
ác.
Nhưng vận nước có suy nhưng chưa vào vận mạt.
Bởi lẽ khi nước ta loạn thì nhà Tống cũng đang loạn
và Chiêm Thành thì quá sợ hãi Đại Việt nên biên
cương yên ổn.
Khi vua thất đức thì Phúc đã mất mà uy Thần cũng
giảm. Vận nước chưa kiệt nên Phúc Thần đất Việt
phải tự lo mà tìm người hiền tài minh chủ thay thế.
Và trong cái loạn lạc này xuất hiện một vị anh hùng
tuấn kiệt đủ tài, đủ trí, đủ quyết đoán nên đã giữ được
độc lập cho nước Nam đó là Trần Thủ Độ. Thật là tài
tình lắm thay.

Chương 5: Thời nhà Lý 391


90.Chùa Một Cột (1049)

Vào đời Vua Lý Thái Tông là một tín đồ nhiệt


thành của Ðạo Phật, theo phái gọi là Vô Ngôn Thông.
Thời bấy giờ, đạo Phật đang cực thịnh, ảnh hưởng
nhiều đến văn hoá Việt. Riêng ở triều đại này, nhà
Vua truyền lệnh xây 95 ngôi chùa mới, trùng tu tất
cả các tượng Phật. Trong các dịp lễ lớn, Vua đều ban
lệnh tha thuế cho dân.
Vào năm 1049, một hôm, Vua Lý Thái Tôn nằm
mộng thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra, đưa nhà Vua
đến một toà sen rạng ngời ánh sáng. Sau khi tỉnh
dậy, Vua thuật lại giấc chiêm bao cho triều thần hay.
Vị sư đã hướng dẫn nhà Vua trên đường tu đạo
hạnh, là thiền tăng Thuyền Lão đã bàn cùng Vua
dựng nên một ngôi chùa để nhớ ơn Ðức Phật Bà
Quan Âm.
Ðó là chùa Diên Hựu. Chùa đã được dựng lên theo
hình hoa sen, đặt trên một cái cột lớn độc nhất. Chùa
được đặt giữa một cái ao trồng toàn là hoa sen đào,
ở gần kinh đô nhà Lý Ðây là một kiến trúc đặc biệt,
có một không hai, xây theo mỹ thuật Ðại La thời Nhà
Lý, tục gọi là Chùa Một Cột.
Ngày nay, chùa vẫn còn hiện hữu ở đất cố đô
Thăng Long (gần Lăng Bác), ghi nhớ cuộc gặp gỡ
chiêm bao kỳ ảo giữa vị Vua Lý Thái Tôn mộ đạo với
Phật Bà Quan Âm.
(Tham khảo từ: Di tích lịch sử và danh thắng
Hà Nội (Doãn Đoan Trinh)
Lời bình: Tâm có cảm thì thần nhân mới ứng hiện.
Lý Thái Tông có cảm được với Quan Âm Bồ Tát thì Bồ
392 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tát mới ứng hiện. Chùa Một Cột là công trình nhỏ,
đẹp và tinh tế từ trong ý nghĩa đạo lý cho đến chi tiết
đường nét kiến trúc. Đến nay Chùa một cột và Cổng
Khuê Văn Các là hai biểu tượng kiến trúc của Thăng
Long ngàn năm văn hiến đã đi sâu vào tâm hồn người
Việt. Một biểt tượng cho tâm linh Đạo Phật, một biểu
tượng cho ý chí ham học hỏi tu dưỡng đạo đức con
người. Thật là món quà đầy đủ và ý nghĩa là vậy.

Chương 5: Thời nhà Lý 393


91.Cao Ly Tướng Quân (Triều Tiên-Hàn Quốc)

Vị 1: Hoa Sơn Tướng Quân - Lý Long Tường


Sau khi Trần Thủ Độ bày mưu đoạt lấy cơ đồ nhà
Lý. Lý Long Tường là hoàng tử triều Lý Đại Việt sang
tị nạn ở Cao Ly (Triều Tiên) và là Tổ của dòng họ Lý
Hoa Sơn ở Triều Tiên.
Lý Long Tường là con thứ 7 của Lý Anh Tông, ông
được phong tước: Thái sư Thượng trụ quốc, Khai
phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại
đô đốc hải quân, tước Kiến Bình vương.
Để bảo toàn tính mạng trước mưu đồ tiêu diệt tận
gốc con cháu nhà Lý của Trần Thủ Độ, Lý Long
Tường đã bí mật về Kinh Bắc, vái lậy tạ biệt lăng
miếu Đình Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài vị,
các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn cùng sáu ngàn gia
thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển
Đông trên ba hạm đội (năm 1226).
Tương truyền rằng trước đó Vua Cao Tông của
Cao Ly nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ
phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho chính quyền
địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long
Tường ở lại dung thân.
Tại đây, Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc
trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi. Ông cho mở Độc thư
đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và Giảng võ
đường dạy võ (binh pháp, võ thuật). Học trò theo
học rất đông, lúc nào cũng trên nghìn người.
Năm 1232, Đại hãn Oa Khoát Đài đem quân tiến
đánh Cao Ly bằng hai đường thủy bộ. Về đường

394 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


thủy, quân Nguyên Mông vượt biển tiến đánh tỉnh
Hoàng Hải nhưng bị Lý Long Tường lãnh đạo tướng
sĩ, gia thuộc và quân dân địa phương đẩy lui. Khi ra
trận, ông thường cưỡi ngựa trắng đôn đốc quân sĩ,
nhân dân gọi ông là Bạch Mã Tướng quân.
Năm 1253, Đại hãn Mông Ca lại đem quân đánh
Cao Ly lần thứ hai. Quân Nguyên Mông do Đường Cơ
chỉ huy tấn công Hoàng Hải cả đường thủy lẫn
đường bộ. Lý Long Tường lãnh đạo quân dân trong
vùng chống trả quân Nguyên Mông suốt 5 tháng
ròng bằng binh pháp của Đại Việt do ông truyền dạy.
Sau chiến công này, Vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn
thành Hoa Sơn, phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn
Tướng Quân. Nơi quân Nguyên Mông đầu hàng gọi là
Thụ hàng môn và Vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây
để ghi công ông (di tích này hiện nay vẫn còn).
Vị 2: Biệt Tướng Cao Ly - Lý Nghĩa Mẫn
Lý Dương Côn tự Nguyên Minh, là Hoàng tử thứ
ba con vua Lý tên là Càn Đức được nhà Tống phong
là Nam Bình Vương. Đối chiếu với chính sử Việt
Nam, có thể các định đó là vua Lý Nhân Tông (1072-
1128) tên là Càn Đức, con trưởng vua Lý Thánh
Tông (1054-1072) và Nguyên Phi Ỷ Lan.
Sau khi nhập cư vào Cao Ly, cháu đời thứ 6 là Lý
Nghĩa Mẫn (Lee Uimin) trở thành một nhân vật lịch
sử được chính sử Cao Ly ghi chép rõ ràng. Theo “Cao
Ly sử”, ông là người khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, được
tuyển vào quân đội bảo vệ kinh thành. Vua Cao Ly
lúc đó là Nghị Tông (Ui-Jong, 1146-1170) yêu mến
ông, phong làm Biệt tướng.

Chương 5: Thời nhà Lý 395


(Tham khảo từ: 800 năm hoài cố
hương, báo Tuổi trẻ 2006)
Lời bình: Với lời nguyền của ông bà Dầu thì vận
trong nước của nhà Lý bắt đầu suy từ vua Lý Nhân
Tông, nhưng Công Đức xây dựng đất nước của Lý
Thái Tổ truyền đời con cháu, hay công cuộc Phá Tống
Bình Chiêm của Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông là vô
cùng vĩ đại nên Phúc nhà Lý vẫn dày.
Những thế hệ con cháu nhà Lý đi ra hải ngoại
không bị lời nguyền chi phối thì Phúc đó tự nó mà
phát. Tài đó tự nó đến mà đến. Và đời con cháu nhà
Lý Hải Ngoại vẫn được hưởng Phúc Lộc của ông cha
để lại. Cảm nghĩ là vậy.

396 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chương 6: THỜI NHÀ TRẦN

92.Đại thắng Nguyên Mông


(1258, 1285, 1288)

Đế Chế Nguyên Mông - một đế chế thiện chiến


nhất thế giới thế kỷ XIII. Một đế chế có diện tích lục
địa lớn nhất trong lịch sử loài người cho đến nay.
Một đội quân đã đánh chiếm toàn bộ Trung Hoa,
Cao Ly (Triều Tiên) phía đông mở rộng đến Thái
Bình Dương. Phía tây đánh chiếm hết Đế Quốc hồi
giáo tồn tại hơn 500 năm mà trung tâm là thành
Baghdad. Sau đó tiếp tục đánh chiếm toàn bộ đông
âu, trung âu, bao vây thành La Mã của đế quốc La Mã
thần thánh (nhưng do nhận được tin Đại Hãn Mông
Cổ chết nên rút quân).
Một hướng mở rộng khác nữa về hướng Nam và
gặp Đại Việt. Sau ba lần thất bại bởi vua tôi nhà Trần
với tổn thất trên 100 vạn quân (1 triệu quân)
Nguyên Mông đã hoàn toàn từ bỏ ý định mở rộng
xuống phía nam (Khi đó toàn bộ dân Đại Việt khoảng
4 triệu, quân số Đại Việt vào khoảng 30 vạn).
Có ba yếu tố quyết định đến thành bại trong mọi
sự và binh pháp cũng không nằm ngoài đó: Thiên
thời - Địa lợi - Nhân hòa.
Yếu tố thứ nhất Thiên Thời:
Theo tài liệu lịch sử ghi chép, Hưng Đạo Vương là
người đọc và thông hiểu nhiều sử sách của Trung
Hoa bấy giờ, nắm rõ được sở trường cũng như sở
đoản của quân đội địch.

Chương 6: Thời nhà Trần 397


Ông biết được, Phục Ba tướng quân Mã Viện (thế
kỷ I), khi thống lĩnh đại quân sang đàn áp cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng (40-43) đã rất âu lo và rối trí về
vấn đề thời tiết, khí hậu của vùng phía Nam (Đại
Việt). Chính sự khác biệt về thủy thổ này đã gây ra
những cái chết "kỳ lạ", bởi người chết vì chiến trận
thì ít, mà chết vì bệnh hoạn thì nhiều.
Tướng Mã Viện phải cay đắng thừa nhận một thực
tế "Trên đất Giao Chỉ (tên gọi của Đại Việt trong con
mắt của nhà Hán lúc bấy giờ) có cái nóng hun mây
cháy đá, chim đang bay trên trời bị khí độc phải sa
xuống thì con người đâu có mình đồng da sắt để chịu
đựng được nổi nóng lạnh ghê gớm của xứ này".
Hiểu rõ nhược điểm của quân sĩ phương Bắc,
Hưng Đạo Vương lợi dụng yếu tố khí hậu: cái nóng oi
bức, cái lạnh thấu xương, lam sơn chướng khí của
Đại Việt mà không ham đánh. Ông chủ trương lấy
nhu chế cương, đánh lâu dài (trì cửu chiến), quan
niệm rằng một trận thắng địch chưa kết thúc được
chiến tranh. Quân Mông Nguyên muốn đánh, Đại
Việt lại không đánh, kéo dài thời gian, đánh vào ý chí
chiến đấu và điểm yếu hậu cần của đạo quân khổng
lồ này.
Đại Việt chỉ tiến quân khi chắc thắng, đồng thời
triệt để sử dụng chiến pháp "mượn trời giết giặc",
nghĩa là mượn thời tiết oi ả của mùa Hạ và lạnh giá
của mùa Đông, và khí hậu nhiệt đới ẩm thấp, côn
trùng phát triển gọi là “lam sơn chướng khí” làm
quân địch mệt nhọc, đau yếu, bệnh tật, từ đó sinh ra
chán nản, tinh thần chiến đấu sa sút. Đúng lúc thời
cơ thuận lợi đến, tướng sĩ nhà Trần mới dốc toàn bộ
398 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
lực lượng quyết tử với lực lượng này và giành thắng
lợi.
Ngoài ra, yếu tố thiên thời còn thể hiện ở một giai
đoạn của dân tộc tự dưng xuất hiện vô vàn những vị
tướng tài giỏi, đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt
lại chính là các tướng trong hoàng tộc Nhà Trần. Dù
xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc
Nhà Trần, ngoài lòng yêu nước và bảo vệ quyền lợi
dòng tộc số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn
võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài
nổi bật và nhiều chiến công như Nhà Trần, đặc biệt
là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông,
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên
tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam đó là chưa kể tới
Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản... Điều
này chỉ có thể đổ tại vào “Thiên Thời” mà thôi.
Yếu tố thứ hai Địa Lợi:
Lợi dụng địa hình đồi núi, sông ngòi, kênh rạch đa
dạng và phức tạp của Đại Việt. Quân Mông Cổ
chuyên nghiệp trong chiến đấu trên thảo nguyên với
sức mạnh vó ngựa thần tốc nhưng đến Đại Việt địa
hình bị chia cắt, đồi núi sông ngòi đầm lầy phức tạp.
Lại bị Trần Hưng Đạo áp dụng chiến tranh du kích,
ngày ẩn nấp, đêm đánh giặc, lựa chọn những vùng
đầm lầy, bến sông, rừng rậm hoặc đồi núi để đánh
giặc.
Ngoài ra kế sách “vườn không nhà trống” đã khiến
giặc bị chết đói nhiều vô kể. Do quân Nguyên phải đi
chiến đấu xa nên đi đến đâu cướp bóc lương thực
đến đó thì đến Đại Việt gặp kế “vườn không nhà
trống” không còn lương thực để ăn nên đói khát,
Chương 6: Thời nhà Trần 399
thời tiết mùa hè oi nóng nồm ẩm vô cùng khó chịu
sinh bệnh tật. Do vậy quân Nguyên đã thua ngay từ
trong ý chí.
Yếu tố thứ ba Nhân Hòa:
Toàn dân Việt đồng lòng hướng về nhà Trần, tin
yêu nhà Trần, quyết tâm đánh giặc và tin tưởng vào
chiến thắng.
Có một điểm giống nhau của nhà Trần và nhà Hồ
là cướp ngôi vua và tận diệt dòng họ triều trước.
Nhưng kết quả hoàn toàn khác nhau: Nhà Trần thì
thu phục được lòng dân, toàn dân tin yêu nhà Trần
đồng lòng đánh bại 100 vạn giặc Nguyên tan rã. Nhà
Hồ thì bị dân ghét, giặc Minh lấy chiêu bài “Phù Trần
diệt Hồ” thì lòng dân ngả theo giặc Minh và làm tai
mắt giúp giặc Minh đánh nhà Hồ.
Tại sao Nhân Hòa lại quan trọng nhất?
Có phải do “thiên thời”, “địa lợi” mà nhà Trần và
nhà Hồ khác nhau? Hoàn toàn không phải vì khí hậu
thời tiết, địa hình sông núi nước Nam thời đánh
Nguyên Mông hay đánh giặc Minh đều như nhau.
Câu trả lời đơn giản nhất đó là: “Nhân hòa khác
nhau”.
Trong 225 năm nhà Lý trị vì, Vua Lý Thái Tổ là
đứa trẻ mồ côi từ khi mới sinh được Thiền Sư Lý
Khánh Vân nhận làm con nuôi, lên 10 tuổi được
Thiền Sư Vạn Hạnh nhận làm đệ tử và dạy dỗ thành
tài. Toàn bộ vương triều nhà Lý đều Quy hướng Đạo
Phật, có vị sư là Không Lộ Thiền Sư làm đến chức Lý
Chiều Quốc Sư xây dựng trên 500 ngôi chùa ở Việt

400 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nam. “Toàn dân Quy Y đạo Phật nên Phật Giáo đã ăn
sâu vào tâm lý tình cảm của người dân Việt”.
Đến thời nhà Trần cướp ngôi nhà Lý. Trần Thủ Độ
bằng kế sâu thâm hiểm đã tiêu diệt toàn bộ con cháu
dòng họ Lý. Dân vô cùng phẫn nộ. Nhưng từ khi có
truyện tích: Vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phản
đối Trần Thủ Độ, đêm khuya một mình đi lên Yên Tử
Quy y với Sư Phù Vân. Bị Trần Thủ Độ tìm khắp nơi
và bắt về. Vua nhất quyết không về, Trần Thủ Độ nói:
- Hoàng Đế ở đâu thì Kinh Thành ở đó!
Và cho người cắm mốc xây dựng Kinh Đô ngay
trên núi Yên Tử. Khi đó Trần Thái Tông mới đau khổ
buộc phải trở về làm Vua. Truyện tích đó rầm rầm
lan nhanh trong dân chúng khiến cho toàn bộ tình
cảm của người dân thay đổi 180 độ. Toàn dân đều
quy phục vua Trần Thái Tông, một lòng thờ nhà
Trần. “Nhà Trần đã có được Nhân hòa, được lòng dân
vì Vua Trần tin yêu Phật Giáo hơn cả ngai vàng”
Và đó hoàn toàn không phải là thuyết âm mưu của
nhà Trần để lấy lòng dân. Dẫn chứng là: các vua Trần
đa phần đi tu hoặc nương nhờ cảnh chùa khi lên làm
Thái Thượng Hoàng. Trần Thái Tông tu ở am Thái Vi
ở vùng rừng núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư khi ngài làm
Thái Thượng Hoàng. Vua Trần Nhân Tông đã tu
hành đắc đạo và là vị tổ Giác Hoàng Tổ Sư Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, khi hóa thiêu ngài được
trên 3000 viên xá lợi ngũ sắc.
Đến nhà Hồ, không được lòng dân vì không lấy tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân làm vũ khí để thu
phục tâm hồn. Mà lại dùng kế sách Pháp Trị (hoặc

Chương 6: Thời nhà Trần 401


nghe lời hoặc tù ngục) nên đã mất lòng dân. Ngoài
ra, Hồ Quý Ly còn áp dụng quá nhiều cải cách cho
đến nay chúng ta thấy là hiện đại khoa học, nhưng
thời đó thì không hợp lòng dân. Hồ Quý Ly còn cho
xây dựng Kinh Thành mới (Thành nhà Hồ) ở Thanh
Hóa tốn rất nhiều sức người và của cải gây bức xúc
trong dân. “Nhà Hồ đã không được Nhân hòa nên
thất bại”.
Nhà Lý và nhà Trần là ví dụ điển hình của lấy Đức
trong Đạo Phật để an dân. Lấy đạo lý Nhân Quả (ai
làm tốt thì sẽ được tốt báo đáp, an làm ác thì sẽ bị
điều ác kéo cổ) trong Đạo Phật làm luật pháp nhân
tâm để dân thực hành. Các đời này đều thịnh trị và
tồn tại bền lâu (nhà Lý 216 năm, nhà Trần 175 năm).
Trong nước yên ổn, vang trấn ngoại bang, nhà Lý
phá Tống bình Chiêm, nhà Trần 3 lần phá tan
Nguyên Mông. Khiến ngoại bang khiếp sợ bờ cõi
bình yên.
Nhà Hậu Lê là ví dụ điển hình của lấy Đức trong
Đạo Khổng để dạy đạo đức làm người, với triết lý
của người quân tử: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín để an
dân. Lấy đạo học để làm căn bản pháp luật: chọn
người tài qua thi cử đỗ đạt làm quan. Nho giáo và
đạo học đã đi sâu vào dân chúng mà tạo ra Uy Đức
vương triều. Đất nước thịnh trị tồn tại được 360
năm.
Nhà Hồ là ví dụ điển hình của lấy Pháp Trị dân:
thay đổi luật pháp, sưu cao thuế nặng và đặc biệt bắt
ép dân xây kinh thành mới cho vua... đã khiến lòng
dân căm ghét. Khi có giặc Minh thì nhà Hồ “trăm vạn
quân không đồng lòng” mà bại. Dân chúng ghét nên
402 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
ngả về theo giặc Minh dẫn đến thời kỳ bắc thuộc lần
4 (kéo dài 20 năm).
Đôi điều cảm nghĩ của Soạn Giả
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri
Trong phần ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng
Nguyên Mông Sách Giáo Khoa Lịch Sử lớp 7, tr.66-
67-68 có viết:
Thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân
Mông - Nguyên đã đập tan tham vọng và ý chí xâm
lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ được độc
lập toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của dân
tộc, đánh bại một kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo nhất
thế giới bấy giờ, trong bối cảnh nhiều nước đã bị
đánh bại và nô dịch, so sánh lực lượng giữa ta và
địch rất chênh lệch.
Thoát Hoan dẫn 30 vạn quân đánh Đại Việt, 2 năm
sau thất bại thảm hại, buộc phải rút lui
Điều đó càng khẳng định sức mạnh của dân tộc
Việt Nam, có ý nghĩa nâng cao lòng tự hào, tự cường
chính đáng cho dân tộc ta, củng cố niềm tin cho nhân
dân.
Thắng lợi đó đã góp phần xây đắp nên truyền
thống quân sự Việt Nam, truyền thống chiến đấu của
một nước nhỏ nhưng luôn phải chống lại những kẻ
thù mạnh hơn nhiều lần đến xâm lược.
Thắng lợi đó đã để lại bài học vô cùng quý giá, đó
là củng cố khối đoàn kết toàn dân trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là sự quan tâm của nhà nước đến
toàn dân, dựa vào dân để đánh giặc.

Chương 6: Thời nhà Trần 403


Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Khoan thư sức dân,
để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ
nước".
Thắng lợi trong ba lần kháng chiến chống quân
xâm lược Mông - Nguyên không những bảo vệ được
độc lập của Tổ quốc mà còn góp phần ngăn chặn
những cuộc xâm lược của quân Nguyên đối với Nhật
Bản và các nước phương Nam, làm thất bại mưu đồ
thôn tính miền đất còn lại ở châu Á của Hốt Tất Liệt.

404 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


93.Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278)

Ất Dậu (1125), mùa ông, tháng 10. Điện tiền chỉ


huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong
ngoài thành thị. Cháu gái Thủ Độ bằng chú là Trần
Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu, Trần Thiêm
làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ. Cảnh lúc
ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài.
Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế
vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa,
mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy
Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy
tóc, hoặc đứng lên bóng.
Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu
Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh
rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy
khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói
ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói:
- Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay
bị diệt tộc đây?
Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném
cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói:
- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng
mệnh.
Chiêu Hoàng cười và nói:
- Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn
đó.
Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc tiết lộ
thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân
thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và
Chương 6: Thời nhà Trần 405
các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu
không được vào. Thủ Độ loan báo rằng:
- Bệ hạ đã có chồng rồi.
Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu.
Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng.
Xuống chiếu rằng:
- Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị
thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời,
có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn
hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh,
không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy,
sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ
xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi
trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người
giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà
giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức
khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm
người hiền lương quân tử để cùng giúp chính
trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực
rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi
không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu
thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có
Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể
cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng,
có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao
Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được.
Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên
nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng
lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp
vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo
thiên hạ để mọi người điều biết.
406 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng
mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các
quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu
Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi
hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ 1, đại
xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng, sau đổi là Văn
Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực
Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ
Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị
trong nước.
Thủ Độ nói:
- Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng.
Đoàn Thựng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ
mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng
chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng
nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi,
mới uỷ thác cho Nhị Lang (Trần Cảnh). Nhưng
Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự
nhiều chỗ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân
chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là
chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải
rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không
gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm
coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất
thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang.
Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ Trần
Thừa nhiếp chính. Sau đó truyền cho Trần Cảnh lấy
tên là Trần Thái Tông ở ngôi 33 năm (1226-1258),
nhường ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi (1218-1277) băng
ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng. Vua Trần Thái
Tông khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho
Chương 6: Thời nhà Trần 407
nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng
cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Song quy
hoạch việc nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn
buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng: "Đến thời Huệ
Tông, cái độc hại cho thiên hạ đã ăn sâu lắm, mà Vua
không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp
nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa cái độc đã
sâu thì làm thế nào được. Huống chi Vua lại bị chứng
hiểm, chữa không khỏi, lại không có con trai để nối
nghiệp lớn, thế là điểm nguy vong đã hiện ra rồi”.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Lại một cuộc chuyển ngôi êm thấm như
những lần Lê Đại Hành lên thay cho Đinh Phế Đế
trước nạn ngoại xâm nhà Tống. Hay Lý Công Uẩn lên
ngôi khi Lê Ngọa Triều hôn quân vô đạo và chết trẻ.
Lần này vua Lý không có con trai phải để con gái lên
làm vua. Mà phận gái thì phải có Lang quân, quy phục
nơi chồng, ngàn xưa vẫn vậy. Theo lẽ tự nhiên, Ngôi
sẽ đổi chủ, nhà Trần lên nắm quyền đất nước.
Chỉ có khác những lần trước là nhà Đinh ở ngôi 12
năm truyền được 2 đời. Nhà Tiền Lê ở ngôi 29 năm
truyền được 3 đời. Con cháu không đông và lòng dân
chưa thuận. Đến nay nhà Lý ở ngôi 216 năm truyền
được 9 đời. Con cháu đông đúc và lòng dân đã thuận
theo về họ Lý. Nay thời vận đất nước chuyển sang họ
Trần thật nhiều điều khó khăn hơn xưa.

408 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Để giữ vững kỉ cương, giữ nước không loạn, phòng
tránh hậu họa ắt phải giảm thế lực họ Lý. Vậy phải
làm sao đây?
Thật rằng, cái việc tuyệt diệt nhà Lý của Trần Thủ
Độ làm đời sau có đôi điều e ngại. Nhưng đối với vận
nước lúc bấy giờ thật chẳng có cách làm nào khác.
Có chăng vua mới phải tích được cái Đức thật dày,
cái Phúc thật lớn thì cái nghiệp sát sinh mới hòng
thuyên giảm mà hưởng nước được bền.
Những may cho Đại Việt ta, vua Trần là bậc Đại
đức. Vua thuận theo đạo lý nhà Phật, một lòng quy y
hướng Phật mà sửa cái Đức tích cái Phúc. Cuối đời
xuất gia quy y cửa Phật lòng dân cảm mến.
Vua tôi quan tướng nhà Trần lại là bậc đại Phúc
với Chiến công đánh giặc Nguyên Mông oai hùng bất
khuất. Thần dân cả nước Đại Việt đời đời thọ ơn. Vì
thế, vận nước lại đến hồi Hưng Long.
Tuy vậy, nghiệp sát sinh tuyệt diệt dòng họ Lý cũng
không thể vì thế mà hết, có chăng chỉ làm giảm nhẹ
hoặc kéo dài thời gian mà thôi. Cái luật Nhân Quả là
quy luật tự nhiên và vô cảm cảm, không tốt xấu,
không thiện ác. Nó là quy luật vũ trụ giống như bao
quy luật vật lý khác mà thôi. Làm ác phải chịu nghiệp
ác, làm Phúc thì hưởng phúc, chẳng thể bù trừ cho
nhau được.
Nhà Trần sau 175 năm truyền đời hưởng Phúc rồi
cuối đời cũng bị nhà Hồ tuyệt diệt dòng họ. Nhân Quả
thật là tuyệt đối, thật khó ai tránh khỏi.

Chương 6: Thời nhà Trần 409


94.Trần Thủ Độ (1194 - 1264)

Trần Thủ Độ (Trung Vũ đại vương) tuy không có


học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan Triều
Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được
thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông
được nhà nước dựa cậy, quyền át cả Vua.
Năm 1258, tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Quân
Nguyên Mông đã chiếm Kinh Thành đã mất, vua tôi
phải lưu lạc, lòng người âu lo.
Ở vào thời khắc lịch sử này, lão tướng Trần Thủ
Độ khẳng khái tâu với vua Trần Thái Tông, giữa ba
quân tướng sĩ:
- Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!
Lời lẽ ngắn gọn, đanh thép, hùng hồn khẳng tinh
thần bất tử trước họa ngoại xâm, tâm thế lạc quan
vào tiềm lực của quốc gia và chiến tranh chính nghĩa.
Có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói
rằng:
- Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả Vua,
xã tắc rồi sẽ ra sao?.
Thái Tông lập tức lệnh xe ngự đến dinh Thủ Độ,
bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những
lời người ấy nói cho Thủ Độ biết.
Thủ Độ trả lời:
- Đúng như những lời hắn nói.
Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.
Linh từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua thềm
cấm, bị quân hiệu ngăn lại,về dinh khóc bảo Thủ Độ:

410 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh
nhờn đến thế.
Thủ Độ tức giận, sai đi bắt. Người quân hiệu ấy
nghĩ rằng mình chắc phải chết.
Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người
quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời.
Thủ Độ nói:
- Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta
còn trách gì nữa.
Lấy vàng lụa thưởng cho rồi cho về.
Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu, quốc mẫu
xin riêng cho một người làm Câu Đương. Thủ Độ gật
đầu, rồi ghi họ tên quê quán của người đó.
Khi xét duyệt đến xã ấy, hỏi tên mỗ ở đâu, người
đó mừng rỡ, Thủ Độ bảo hắn:
- Ngươi vì có Công Chúa xin cho được làm Câu
Đương, không thể ví như những Câu Đương
khác được, phải chặt một ngón chân để phân
biệt với người khác.
Người đó kêu van xin thôi mãi mới tha cho. Từ đó
không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa.
Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ
là An Quốc làm tể tướng. Thủ Độ tâu:
- An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì
thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc
thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm
tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?.
Vua bèn thôi. Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi
việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên
Chương 6: Thời nhà Trần 411
vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất.
Thái Tông có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc
biệt quý mến ông. Thế nhưng cái tội giết Vua và
thông dâm với hoàng hậu thì khó lẩn tránh với đời
sau vậy.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Qua các truyện tích này ta, càng cảm
nhận được sự vĩ đại của Trần Thủ Độ. Một vị tướng
quân tài giỏi đánh đông dẹp bắc, một vị Thái Sư công
minh lỗi lạc không một chút tình riêng. Công đức của
ngài thật nhiều lắm thay.
Còn việc giết Vua Lý Huệ Tông để diệt trừ hậu họa.
Lấy hoàng hậu là Trần Thị vốn là người yêu cũ thời
thơ ấu. Đối với các sử gia phong kiến thì việc giết Vua
đoạt vợ là đại nghịch bất đạo.
Nhưng không có Trần Thủ Độ thì đất nước Đại Việt
ta sẽ trầm luân dưới vó ngựa Nguyên Mông khát
máu. Cái ơn cứu nước đó nhân dân Đại Việt ngàn đời
khắc ghi.
Còn cái nghiệp của Trần Thủ Độ đã tạo ra khi tuyệt
diệt họ Lý thì ngài phải tự mình gánh chịu, chứ không
ai có thể chịu thay cho Ngài. Phúc thì hưởng, tội thì
đền đó là đạo lý trời đất không thể nghi ngờ.

412 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


95.Trần Thái Tông (1225-1258)
trốn lên Yên Tử

Năm Đinh Dậu (1237). Mùa xuân, tháng giêng.


Trần Thủ Độ lập Công Chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ
của Hoài Vương Liễu, anh Vua, làm hoàng hậu Thuận
Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm Công Chúa.
Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận
Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ
và Công Chúa Thiên Cực bàn kính với Vua là nên
mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau, cho nên có lệnh
ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn.
Vua Trần Thái Tông trong lòng áy náy không đồng
thuận, nhưng sợ thế lực của Trần Thủ Độ, ban đêm,
ra khỏi kinh thành đến chỗ Quốc Sư Phù Vân (Quốc
Sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại
đó không về.
Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời Vua trở
về kinh sư.
Vua nói:
- Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng
năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ
trông cậy, nên không dám giữ ngôi Vua mà làm
nhục xã tắc.
Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được Vua
nghe, mới bảo mọi người rằng:
- Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó.
Thế rồi Thủ Độ cắm nêu trong núi, chỗ này là điện
Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây
dựng.
Chương 6: Thời nhà Trần 413
Quốc Sư Phù Vân nghe thấy thế bèn, tâu rằng:
- Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm
hại sức dân.
Trần Thái Tông bèn trở về kinh đô.
Được hai tuần, Trần Liễu tự lượng thế cô, khó
lòng đối lập được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm
người đánh cá, đến chỗ Vua xin hàng. Trần Thái
Tông và anh cùng ôm nhau khóc.
Thủ Độ cầm gươm đi đến, Thái Tông vội vàng bảo
Thủ Đô:
- Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu cũ
của Liễu hồi còn nhà Lý) đến hàng mà?
Rồi lấy thân mình che đỡ cho Liễu.
Thủ Độ tức lắm, ném gương xuống sông nói:
- Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các
người thuận nghịch thế nào?.
Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Lấy
đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên
Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất được
phong, mà Liễu có tên Hiệu là Yên Sinh Vương. Binh
lính theo Liễu làm loạn ở sông Cái đều bị giết để răn
đe ba quân.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Trong khi vận nước Đại Việt ta đang
chuyển thời thì ở biên cương Phương Bắc. Nhà Kim
nhà Tống đã bị Nguyên Mông tiêu diệt. Phía đông

414 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nguyên Mông đã chiếm toàn bộ Trung Quốc và Triều
Tiên (Cao Ly) ra đến bờ biển Thái Bình Dương.
Phía Tây trải rộng hết Tây Á. Thôn tính xong Đế
chế hồi giáo thánh địa là thành Baghdad, chiếm qua
Đông Âu, Trung Âu, bao vây thành La Mã (Rome) ở
Tây Âu và đến tận biển Địa Trung Hải.
Dã tâm của Nguyên Mông là sẽ đánh chiếm Việt
Nam mở rộng biên cương xuống phía nam.
Vậy mà chỉ trong vòng 30 năm xây dựng đất nước
(1226-1256) Vua tôi nhà Trần đã đưa đất nước Đại
Việt từ kiệt quệ về nhân lực, ý chí yếu kém, giặc rã nổi
loạn và nghèo đói thành một đất nước hùng mạnh,
toàn dân đồng một lòng hướng nhà Trần.
Cũng trong hoàn cảnh tương tự nhà Hồ chiếm ngôi
nhà Trần và quân Minh nhân cơ hội đó mang quân
sang xâm lược nước ta và nhà Hồ thì thua trận.
Có phải là do Hồ yếu và Trần mạnh không? Xin
thưa: không. Mà còn ngược lại. Trước khi đánh giặc
quân nhà Trần 30 vạn, nhà Hồ 40 vạn.
Có phải là do Hồ kém và Trần giỏi không? Xin thưa:
không. Mà còn ngược lại. Chính sách trị dân nhà Hồ
quá là khoa học, quá là tài giỏi. Đến thời hiện đại này,
các nhà nghiên cứu còn phải phục.
Có phải là do Nguyên yếu và Minh mạnh không?
Xin thưa: không mà còn ngược lại. Quân Nguyên 100
vạn quân bách chiến bách thắng trên toàn thế giới.
Còn quân Minh 40 vạn quân chưa đánh giặc xa bao
giờ.
Cái gốc là ở Đức và một chữ Nhân, chứ không phải
là Tài và Giỏi. Được lòng dân và toàn dân ủng hộ thì
Chương 6: Thời nhà Trần 415
sức mạnh tăng lên gấp bội. Mất lòng dân thì dù rằng
đang ở trong dân mà vẫn như ở trong lòng kẻ thù.
Nhân có hòa thì Thiên Thời sẽ thuận, Địa Lợi sẽ
thành.
Lý do đó là: dân Việt suốt thời nhà Lý hơn 216 năm
quy hướng đạo Phật, Đạo Phật đã ăn sâu vào máu trở
thành tình cảm của người dân. Nên khi Trần Thái
Tông lên núi Yên Tử đi tu và từ chối ngôi Vua, bị Trần
Thủ Độ dọa xây Kinh Đô ở Yên Tử mới đành phải trở
về. Thì lòng dân đã thay đổi, từ là thù ghét nhà Trần
đã trở thành yêu thương nhà Trần. Nên thế mà đại sự
được thành công là vậy.

416 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


96.Vua Thiền Sư Trần Thái Tông
(1225 - 1258)

Do nhiều nỗi khổ và lòng ray rứt bất an, lúc mười
giờ đêm ngày mồng ba tháng tư năm 1236, vua Thái
Tông bỏ ngai vàng, trốn lên núi Yên Tử đi tu.
Vua đem theo một số tùy tùng, nói đi để nghe dư
luận dân gian, biết rõ sự thật cho dễ bề trị nước.
Sang sông, đoàn người đi về phía đông. Bây giờ Vua
mới nói rõ ý định đi tu với các người tùy tùng và bảo
họ trở về. Mọi người đều ngạc nhiên và khóc lóc.
Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau Vua đến bến đò
Đại Than ở núi Phả Lại. Trời sáng, sợ người nhận ra,
Vua lấy vạt áo che mặt mà qua đò, rồi theo đường tắt
lên núi.
Đến tối, Vua vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi
sáng lại đi. Khó khăn trèo núi hiểm, lội suối sâu, con
ngựa đã yếu không thể lên núi được nữa, Vua phải
bỏ ngựa vịn vào các tảng đá mà đi. Khoảng hai giờ
trưa mới đến chân núi Yên Tử.
Sáng hôm sau, Vua lên thẳng đỉnh núi và vào tham
kiến Thiền sư Trúc Lâm (có lẽ Thiền sư Đạo Viên).
“Thấy Trẫm, Quốc sư mừng rỡ. Người ung dung
bảo Trẫm: Lão tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương
cứng mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước
suối, vui cảnh núi rừng đã quen, lòng nhẹ như đám
mây nổi, cho nên mới theo gió mà đến đây. Nay Bệ hạ
bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng
núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở đây cho nên mới đến,
phải không? Trẫm nghe lời thầy hỏi, hai hàng nước
mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng: Trẫm còn thơ ấu,
Chương 6: Thời nhà Trần 417
đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có
nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế
vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới
vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chớ chẳng muốn
tìm gì khác. Thầy đáp: Trong núi vốn không có Phật,
Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất
hiện, đó chính là Phật. Nếu Bệ hạ giác ngộ được tâm
ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi
tìm cực khổ ở bên ngoài.”
(Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam)
Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi Yên
Tử đón Vua về kinh. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam,
Thái Tông viết:
“Thấy Trẫm, Trần Công thống thiết nói: Tôi chịu lời
ủy thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua trong việc
làm chủ thần dân. Nhân dân đang mong đợi Bệ hạ
như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay các
vị cố lão trong triều đều là họ hàng thân thích, sĩ thứ
trong nước ai nấy đều vui vẻ phục tùng, đến đứa trẻ
lên bảy cũng biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái
Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa
ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng, thế mà Bệ hạ
đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí
riêng của mình. Tôi dám nói rằng Bệ hạ vì sự tự tu
cho riêng mình mà làm vậy thì được, nhưng còn quốc
gia xã tắc thì sao? Nếu để lời khen suông cho đời sau
thì sao bằng lấy ngay thân mình làm người dẫn đạo
cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần
chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong
ngày hôm nay, quyết không trở về.

418 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trẫm nghe Thái sư và các quần thần bô lão đều
không chịu bỏ Trẫm, cho nên mới đem lời Thái sư mà
bạch lại với Quốc sư, Quốc sư cầm tay Trẫm mà nói:
Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm
tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về, Bệ hạ
không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển
xin Bệ hạ đừng phút nào quên.
Bởi vậy Trẫm với mọi người trong triều mới trở về
kinh, miễn cưỡng mà lên lại ngôi báu. Ròng rã trong
mười năm trời, mỗi khi có cơ hội việc nước nhàn rỗi,
Trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền.
Các kinh điển của các hệ thống giáo lý chánh, không
kinh nào là Trẫm không nghiên cứu. Trẫm thường
đọc kinh Kim Cang, một hôm đọc đến câu ‘Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm’, buông kinh xuống chiêm nghiệm,
bỗng hoát nhiên tự ngộ...”
(Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam)
Sau cuộc chiến, đất nước thái bình, Trần Thái
Tông nhường ngôi cho con năm 1258 lên làm Thái
thượng hoàng. Từ đây Thái Tông vừa làm cố vấn cho
con, vừa lo nghiên cứu tu thiền. Đến lúc vua Trần
Thánh Tông đủ sức đảm đương việc nước, ông lui về
lập am Thái Vi ở vùng rừng núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư
để an dân lập ấp và tu hành.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Thật may thay ngoài hệ thống dữ liệu sử
của các triều đại vua chúa Việt Nam thì còn tồn tại

Chương 6: Thời nhà Trần 419


một dòng sử trong nền Phật Giáo Việt Nam. Và cũng
vì duyên may tôi tìm thấy được.
Thật rằng, các vị sử thần phong kiến nho gia như
Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Lê Quý Đôn...
đều theo về Nho học nên các ngài không tin vào tâm
linh Đạo Phật vốn là mạch sống của dân tộc Việt
Nam...Trong sử của các ngài không bao giờ thấy được
những tình tiết sau:
Trước thời nhà Lý 500 có vị Sơ Tổ Sư Thiền gây
nền Phật Giáo ở Phương Nam để rồi 10 đời sau tạo
nên những vị thiền sư pháp thuật tài năng đã hoán
cải vận số nước Nam.
Có ngài đổi tên Pháp Cổ, trấn 10 món bảo vật, tay
đề sấm kí. Có ngài nối liền long mạch án ngữ đuôi
rồng đợi người có Phúc. Có ngài khi mới sinh ra làm
trẻ mồ côi nhưng được ở bên Phật, thấm nhuần đạo
đức, từ ái thương dân, trí nguyện thành tựu, vận
nước hưng long, oai trấn ngoại bang.
Đến đời nhà Trần này cũng vậy. Cái gốc gây dựng
nên nền đạo đức vững trắc cho triều đại nhà Trần
đánh tan Nguyên Mông lại được tìm thấy trong sử
học Thiền Tông. Chứ trong chính sử Việt Nam không
hề nhắc đến.
Những tình tiết vô cùng quan trọng trong Sử Thiền
Tông như: “Trần Thái Tông gặp Thiền Sư Đạo Viên ở
Yên Tử mà phát nguyện đi tu vì mộ đạo Phật ngán
cảnh chiều đình” chứ không phải lên đó để gặp bạn là
Quốc Sư Phù Vân để trốn tránh công việc.
Hay đoạn: “mỗi khi có cơ hội việc nước nhàn rỗi,
Trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền.

420 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Các kinh điển của các hệ thống giáo lý chánh, không
kinh nào là Trẫm không nghiên cứu. Trẫm thường
đọc kinh Kim Cang, một hôm đọc đến câu ‘Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm’, buông kinh xuống chiêm nghiệm,
bỗng hoát nhiên tự ngộ...” được ghi rõ ràng trong
“Thiền Tông Chỉ Nam” vậy mà các sử gia bỏ qua.
Cái Đức mà vua Trần tạo dựng được trong lòng
mỗi người dân Việt chính là từ đạo Phật mà thành.

Chương 6: Thời nhà Trần 421


97.Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278)

Vua Trần Thái Tông có 6 người con: Thái tử


Hoảng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu
Quốc vương Trần ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật và các Công Chúa Thiều Dương và Thụy
Bảo.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng
(sinh 1240) nên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông
(1258 - 1278).
Thánh Tông là vị Vua nhân từ, trung hậu. Vua hay
nói với tả hữu:
- “Thiên hạ là của cha Ông để lại nên để cho anh
em cùng hưởng phú quý”.

Bởi vậy trừ các buổi thiết triều Vua mới phân biệt
trên dưới, còn thường ngày Vua cho các hoàng thân
vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, thật hòa
hợp thân ái.
Đối nội, Vua dốc lòng xây dựng đất nước thái
bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hóa dân,
khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi
chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy dưới triều
Vua Thánh Tông, không chỉ có các ông hoàng hay
chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc
Đĩnh Chi. Bộ Đại Việt sử bộ quốc sử đầu tiên của ta
được Lê Văn Hưu hoàn thành năm Nhâm Thân
(1272).
Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra
lệnh cho các vương hầu phò mã chiêu tập những
người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang,
422 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
lập trang bộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm
làm Vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân
chúng yên ổn làm ăn.
Đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong
nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Đại
Việt. Khi Vua Thái Tông, Vua Mông Cổ sai sứ sang
phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không
còn bắt Đại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể
chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt Vua ta cứ 3 năm
phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói,
thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3
người cùng các sản vật: sừng tê, ngà voi, đồi mồi,
châu báu vật lạ khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan
Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Đại Việt,
thật ra là để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương
thường cho các nước láng giềng. Vua Trần Thánh
Tông thừa biết dã tâm xâm lược của nhà Nguyên,
nên tuy bề ngoài thần phục nhưng vẫn tích cực
chuẩn bị binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó.
Năm Bính Dần (1266), Vua Nguyên cho sứ sang
giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn
việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám trị. Vua
Nguyên bằng lòng việc cống người nhưng lại bắt
tuân thủ 6 điều khác: Vua phải thân vào chầu, phải
đưa con em sang làm con tin, nộp sổ hộ khẩu, phải
chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ
đặt quan giám trị.
Vua Đại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm
Tân Mùi (1271), Vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt nhân
đổi quốc hiệu Đại Nguyên đòi Vua Thánh Tông vào
chầu. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Chúng cho
Chương 6: Thời nhà Trần 423
sứ sang tìm Cột đồng trụ mà Mã Viện dựng ngày
trước, Vua Thánh Tông trả lời rằng: “cột ấy lâu ngày
đã mất”.
Nhìn chung, dưới thời Vua Trần Thánh Tông thực
hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên
quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, năn chặn
từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà
Nguyên.
Trong thời gian làm Thái Thượng Hoàng, nhà
Nguyên phải liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh
xâm lược vào các năm 1285 và 1287, toan làm cỏ
nước Nam. Trong hai lần kháng chiến này, Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông và Vua Trần Nhân Tông đã
trở thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân
dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi huy hoàng.
Năm Đinh Sửu (1277), Thái thượng hoàng Trần
Thánh Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc).
Năm sau, Vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là
Thái tử Khâm (Trần Nhân Tông) rồi về ở phủ Thiên
Trường làm Thái thượng hoàng.
Vua Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái
thượng hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.
(Tham khảo từ: Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa
học Xã hội Việt Nam-1985)
Lời bình: Quả là một đức vua anh minh khiến 21
năm dân chúng hưởng bình an không loạn lạc đói
kém. Và cũng là quãng thời gian vô cùng quan trọng
để chuẩn bị luyện tập binh sĩ, chuẩn bị lương thảo,
sản xuất vũ khí. Tướng lĩnh chăm chỉ luyện rèn binh

424 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


sử, học chiến lược chiến thuật nơi thao trường. Để
bước vào một trận chiến kinh hoàng với 80 vạn quân
Nguyên Mông hùng mạnh thiện chiến “ăn trên ngựa
và ngủ cũng trên ngựa”.
Cùng thế hệ thứ 2 của vua Trần Thánh Tông, vận
nước lâm nguy nhưng vượng khí vẫn còn nên tự dưng
“trời sinh thiên tướng”. Toàn bộ các hoàng tử nhà
Trần sinh ra đều là các vị tướng tài ba lỗi lạc ngàn
năm có một mà đều ở trong giai đoạn này như: Trần
Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần
Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt
Nam. Đó là chưa kể tới: Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư,
Trần Quốc Toản... Thật may mắn lắm thay, thật tài
tình lắm thay.

Chương 6: Thời nhà Trần 425


98.Vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293)

Vua Trần Thánh Tông có 3 người con: Thiên Thụy


Công Chúa, Thái tử Khâm và Tả Thiên vương Đức
Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm kế vị ngôi
Vua, hiệu là Nhân Tông (ngài sinh 1258).
Trần Nhân Tông là vị Vua anh minh, quyết đoán,
được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước. Thời
gian Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua
những thử thách ghê gớm.
Ngay sau khi Nhân Tông lên ngôi Vua, nhà Nguyên
phải liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh xâm lược
vào các năm 1285 và 1287, toan làm cỏ nước Nam.
Trong hai lần kháng chiến này, Nhân Tông đã trở
thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân dân
Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi huy hoàng.
Sau 14 năm làm Vua, Nhân Tông nhường ngôi cho
con là Anh Tông rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu,
trở thành thủy tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một
phái thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư
tưởng Việt nam. Nhân Tông thực sự là một triết gia
lớn của Phật học, giúp triết học Phật giáo Việt Nam
phát triển rực rỡ thể hiện được đầy đủ trí tuệ, bản
lĩnh Việt Nam. Tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu và táo bạo.
Có tích kể rằng:
Khi làm Thượng Hoàng, Trần Nhân Tông có lần
làm chuồng hổ ở thềm Vọng Lâu, sai quân sĩ đánh
nhau với hổ, thượng hoàng ngự trên lầu để xem, thái
hậu và phi tần đều theo hầu.
426 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lầu thấp, song chuồng hổ và thềm cũng thấp, hổ
bỗng nhiên thoát khỏi chuồng trèo lên lầu. Người
trên lầu đều tan chạy cả. Chỉ có Thượng hoàng và
Thái hậu cùng 4, 5 thị nữ còn ở đó.
Thái hậu nghĩ không khỏi bị hại. Nhưng Hổ lên lầu
gầm rống rồi nhảy xuống không vồ hại ai cả.
Lại một lần khác, Thượng Hoàng ngự điện Thiên
An xem đấu voi ở Long Trì. Con voi bỗng nhiên xổng
thoát, xông tới, định lên điện, tả hữu đều sợ hãi tan
chạy cả, chỉ có Thượng Hoàng và Thái hậu vẫn ở đó,
nhưng voi lại lui ra không tiến đến.
Năm Mậu Thân (1308), mùa thu, tháng 11, ngày
mồng 3, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông băng hà ở
am Ngọa Vân núi Yên Tử.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư Trúc Lâm
Thiền Phái Trần Nhân Tông là vị tổ khai sáng dòng
thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đặc thù Việt Nam. Với
đạo lý nhà Phật kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn nơi
chiến trường đánh giặc Nguyên Mông và kinh nghiệm
lãnh đạo đất nước của một vị Vua yêu thương dân
chúng. Ngài đã là vị tổ sư uy đức sáng ngời sáng lập
ra dòng Thiền mang đậm văn hóa Phật giáo Việt
Nam.
Sử của các vị nho gia không đề cập nhiều đến công
đức tu hành và thành tựu trong đạo pháp. Các vị chỉ
kể lại những thành tựu về đời thật, việc thật và
những thứ cân, đong, đo, đếm được mà thôi.

Chương 6: Thời nhà Trần 427


Đoạn cuối có 2 truyện tích thể hiện được cái uy đức
của vua Trần Nhân Tông khiến hổ phải sợ, voi phải lùi
để thể hiện sự cảm phục của các sử thần nho gia đối
với vua.
Nhưng các sử gia có biết đâu, một Thiền Sư chứng
đạt đạo quả thì sẽ có thần thông, tâm linh ứng được
với cả trời đất. Cảm ứng được quá khứ, hiện tại và vị
lai. Nhưng trong đạo Phật, đạo đức khiêm hạ được đề
cao (có 3 đạo đức căn bản của người tu theo Đạo
Phật cần phải có là: Tôn Kính Phật, Từ Bi, Khiêm Hạ)
nên các ngài tuyệt đối không bộc lộ. Ta chỉ thấy được
sự chứng quả của ngài khi hóa thân và thiêu được Xá
Lợi Phật mà thôi. Đó là bí mật cuối cùng bị tiết lộ để
đảm bảo sự tu chứng. (Ngoài ra trong nhà Thiền còn
căn cứ vào Thiền Ngữ để đo được mức độ chứng ngộ,
nhưng chỉ có người cao mới đo được người thấp hơn
mình, người thường thường thì không làm nổi)

428 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


99.Trần Nhân Tông (1279 - 1293)
Sơ Tổ Trúc Lâm

Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông


từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng
thái tử, Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà vua cha
không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ
quốc mẫu cho Ngài tức là Khâm Từ thái hậu sau này.
Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài
vẫn thích đi tu.
Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn
đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông
Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá,
Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây
thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết
đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài
bất đắc dĩ phải trở về.
Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế
(1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ
mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến
chùa Tư Phước trong Đại nội tu tập. Một hôm nghỉ
trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng
lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có
người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói:
- Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến
Chiếu.
Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha. Vua
Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
Ngài thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh
Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài
trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo:
Chương 6: Thời nhà Trần 429
- Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con
lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự
nghiệp của Tổ tiên?
Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết
các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển
(sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền
khách bàn giải về Tâm tông (thiền) tham học thiền
với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ Thiền
tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.
Những khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải
xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn
kết quân dân, Ngài đã hai lần đuổi được quân
Nguyên giữ gìn trọn vẹn đất nước.
Năm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con
là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở
ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu
năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia.
Đến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299), Ngài xuất gia
vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập
theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân
Đại Đầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai
giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau
đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ
Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm.
Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi
ở đó.
Đến năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi
khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần
không chánh đáng), và dạy họ tu hành Thập thiện.

430 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu
thỉnh Ngài về Đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.
Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở
núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.
Mở đầu pháp hội, Ngài niêm hương báo ân xong
bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy v.v... rồi Ngài
nói:
- Thích-ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện
giữa cõi đời này, suốt bốn mươi chín năm
chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời.
Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa này, biết nói
chuyện gì đây?
Ngồi giây lâu, Ngài ngâm:
Thân như hơi thở ra vào mũi,
Đời giống mây trôi đỉnh núi xa.
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng,
Đâu phải tầm thường qua một xuân.
Bản gốc:
(Thân như hô hấp tỷ trung khí,
Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú,
Bất thị tầm thường không quá xuân.)
Bà chị là Thiên Thụy ốm nặng, Ngài xuống núi, tới
thăm và bảo:
- Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, thấy âm
phủ có hỏi thì trả lời rằng: Xin đợi một chút,
em tôi là Trúc Lâm đạo sĩ sẽ tới ngay.

Chương 6: Thời nhà Trần 431


Nói xong, Ngài trở về núi, dặn dò Thầy thị giả là
Pháp Loa các việc về sau, rồi bỗng nhiên ngồi thiền
nhập định và bỏ xác thân. Thiên Thụy cũng mất vào
hôm đó.
Pháp Loa thiêu xác Thượng Hoàng được hơn ba
ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở kinh sư.
Vua có ý ngờ. Các quan nhiều người xin bắt tội
Pháp Loa.
Hoàng thái tử Mạnh mới 9 tuổi, đứng hầu bên
cạnh, chợt thấy có mấy hạt xá lỵ ở trước ngự (hiện
ra trước mặt), đưa ra cho mọi người xem. Mọi người
kiểm lại trong hộp, thì đã mất một số ít hạt.
Vua xúc động đến phát khóc, trong lòng mới khỏi
nghi ngờ.
Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước
ngọc cốt xá lị về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở
chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang
Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều
Trúc Lâm Đầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ
Phật.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
-----------
Lời bình:
Ngài được làm vua là Phúc viên mãn.
Ngài lãnh đạo Đại Việt đánh tan giặc ngoại xâm
hùng mạnh mà cả thế giới khiếp sợ để bảo vệ dân tộc
Việt là Công Đức viên mãn.

432 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ngài tu hành thiền định thanh lọc nội tâm theo
trường phái nguyên thủy Khổ Hạnh Đầu Đà của tổ
Đại Ma Ha Ca Diếp thời đức Phật tại thế là Đức viên
mãn.
Ngài để lại rất nhiều kinh điển và nghiên cứu đạo
lý phật học cho đời sau đặc biệt là cho dòng Thiền
Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam là Đạo Quả viên mãn.
Cuối đời Ngài ngồi thiền nhập định bỏ lại xác thân,
hỏa táng thu lại được 3000 ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc là
Quả Vị viên mãn.
Thật lành thay Thiền Sư Trần Nhân Tông!

Chương 6: Thời nhà Trần 433


100. Trần Hưng Đạo (? - 1300)

Hưng Đạo Vương (? - 1300) ốm. Vua ngự tới nhà


thăm, hỏi rằng:
"Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại
sang xâm lược thì kế sách như thế nào".
Vương trả lời:
"Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, Vua Hán cho quân
đánh, nhân dân làm kế "thanh dã", đại quân ra Khâm
Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh
thì đánh úp phía sau.
Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi,
đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt
mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây
thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm
phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm,
Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì Vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc
phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.
Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.
Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của
binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như
gió thì thế dễ chế ngự.
Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng
chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền
biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội
quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại,

434 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước vậy".
Quốc Tuấn là con Yên Sinh Vương, lúc mới sinh ra,
có một thầy tướng xem cho và bảo:
- Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời.
Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh
hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. Yên Sinh
Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng,
mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ
để dạy Quốc Tuấn.
Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối
giăng rằng:
- Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết
dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không
cho là phải.
Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền
nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia
nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:
- Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để
lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há
chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin
chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan
mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm
thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi.
Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai
người.
Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ
Vương:

Chương 6: Thời nhà Trần 435


- Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con
cháu, con nghĩ thế nào?.
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng
một họ!.
Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Quốc
Tuấn đem truyện ấy hỏi người con thứ là Hưng
Nhượng Vương Quốc Tảng.
Quốc Tảng tiến lên thưa:
- Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã
thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Tên loạn thần là từ đức con bất hiếu mà ra.
Vương định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay
tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn
mới tha.
Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
- Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho
Quốc Tảng vào viếng.
Thánh Tông vì Quốc Tuấn có công lao lớn, gia
phong là Thượng quốc công, cho phép ông được
quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở
xuống, chỉ có tước hầu thì phong tước rồi tâu sau.
Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một
người nào.
Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà
giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ
làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực,
ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
436 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Khi sắp mất, ông dặn con rằng:
- Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng
xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san
đất và trồng cây như cũ, để người đời không
biết chỗ nào.
Quốc Tuấn giữ Đại Việt, người Nguyên hai lần vào
cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể
xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau
khi mất lại như thế đấy.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước,
như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự
công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần
Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ,
Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách
của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và
chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại
một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy.
Một lần Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng:
- Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi.
Quốc Tuấn trả lời:
- Xin bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng.
Giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng
Đạo Vương mà không dám gọi tên úy. Sau ông khi
mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn
bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi
khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ
tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng
lớn.
Canh Tý (1300), mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng
Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được
Chương 6: Thời nhà Trần 437
tặng Thái sư thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ
Hưng Đạo Đại Vương.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697, Lê
Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB VHTT,
2006)
Lời bình: Thần Tướng giỏi cốt ở cái Đức. Một lòng
trung với vua là Đức của một vị quân thần. Vì thương
dân mình đau khổ mà quyết tâm đánh giặc giữ nước
là Đức của một vị hiền tướng. Có toàn quyền năng và
thế lực nhưng không lợi dụng để trục lợi cá nhân là
Đức của người quân tử.
Từ Đức làm gốc sẽ sinh ra tài năng, phúc, lộc, phú
quý và sự bình an, trường tồn. Khi mất thì Phúc vẫn
tồn tại trong ngài để đưa ngài lên cõi Thần Linh hộ trì
đất nước. Nơi những con người và vùng đất đã mang
nặng ơn nghĩa của ngài.

438 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


101. Thiên Tướng giúp Trần Hưng Đạo (1284)

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, khi nghe


tin vua Nguyên ra lệnh cho Thái tử Thoát Hoan
chuẩn bị dẫn 50 vạn quân xâm lược nước ta, tháng 8
năm Giáp Thân (1284) triều đình sai Trần Hưng Đạo
"điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông
Bộ Đầu, chia các quân đóng giữ Bình Than và những
nơi xung yếu khác".
Ngày 26 tháng 12 năm đó, quân Nguyên bắt đầu
tấn công đánh chiếm các cửa ải ở biên giới, quân ta
chống không nổi phải lui về giữ Vạn Kiếp.
Tại đây Trần Hưng Đạo tích cực rèn luyện quân sĩ,
cho xây dựng phòng tuyến chống giặc, đóng thuyền
bè, rèn đúc thêm vũ khí…
Tháng giêng năm Ất Dậu (1285) Trần Hưng Đạo
đã tập hợp 20 vạn quân ở Vạn Kiếp, nhưng một vấn
đề đáng lo nhất là còn thiếu rất nhiều chiến thuyền
để cấp do thủy quân trong khi việc đóng thêm không
kịp, khi đó theo tin báo về, cánh quân tiên phong của
giặc Nguyên đã sắp đánh vào Vạn Kiếp.
Một hôm, khi đêm đã về khuya, vị Quốc Công Tiết
Chế vẫn thức để suy nghĩ về phương kế đánh giặc,
rồi sau mệt quá thiếp đi trên bàn làm việc lúc nào
không hay. Trong giấc mơ, ông thấy có một vị thần
tướng mạo khác thường, mắt sáng như sao, mặc áo
bào đỏ tiến tới và nói:
- Tôi là Phi Bồng Đại Tướng quân, biết tướng
quân hiện nay không có đủ thuyền cho đội thủy
quân bày trận chống giặc nên đến giúp. Sáng
mai tướng quân cho người đến bến Lục Đầu, tôi
Chương 6: Thời nhà Trần 439
sẽ cấp đủ số thuyền mà tướng quân cần. (Xem
tích Chu Phúc Uy hiệu Phi Bồng Đại Tướng mất
năm 545 đời Lý Nam Đế ở trên)
Nói xong vị thần biến mất. Trần Hưng Đạo giật
mình tỉnh giấc mới hay đó là một giấc mơ nhưng
hình dáng và lời nói của vị thần đó vẫn còn nhớ rõ.
Ông liền ra sân vái thiên địa và cầu xin thần linh hộ
quốc, phù giúp việc chống giặc, sau đó vào trướng
nằm nghỉ.
Sáng sớm hôm sau, khi mới thức dậy Trần Hưng
Đạo thấy một viên tùy tướng vào báo:
- Bẩm Quốc công, quân lính đi tuần thấy chuyện
vô cùng kỳ lạ. Đêm qua không rõ thuyền ở đâu
kéo về đậu kín cả bến sông.
Hưng Đạo Vương vội đến xem xét, ông tin rằng vị
thần trong giấc mộng đã giúp mình số thuyền này
nên thầm cảm tạ rồi giao cho binh tướng dưới quyền
phân chia, sắp xếp thuyền cho đội thủy quân để bày
trận chống giặc.
Vào tháng 5 năm đó (1285) quân ta đã đánh tan
đạo quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tại đây.
Sau khi quét sạch giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ
cõi, đất nước trở lại thái bình, Trần Hưng Đạo ra
lệnh cho đoàn chiến thuyền kéo về đậu ở bến Lục
Đầu. Tiếp đó ông sắm sửa lễ vật, trước ba quân
tướng sĩ làm lễ khấn tạ rằng:
- Nhờ Phi Bồng Đại Tướng quân cho mượn
thuyền chống giặc. Nay giặc đã tan, Trần Quốc
Tuấn tôi xin hoàn trả lại ngài.

440 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Đêm hôm đó trời bỗng nổi cơn mưa gió, sóng
nước cuộn dâng, đoàn thuyền tự nhiên biến mất.
Sáng hôm sau trên dãy núi Phượng Hoàng xuất hiện
hai vệt đường. Ngày nay, khi đến thăm khu di tích
lịch sử đền Kiếp Bạc, nếu đi từ hướng Đông Nam,
nhìn về phía bên tay phải, du khách sẽ gặp một dãy
núi chạy dài.
Trên sườn núi có 2 vệt màu xanh lam chạy dọc
theo dãy núi, tương truyền rằng đó chính là đường
kéo thuyền, một đường Phi Bồng Đại Tướng quân
kéo thuyền xuống giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc,
còn đường kia là đường Ngài kéo thuyền về.
(Tham khảo từ: Đền Kiếp Bạc sự tích, truyền
thuyết, giai thoại (Phạm Hồng sưu tầm)- BQL di
tích Côn Sơn – Kiếp Bạc)
Lời bình: Phi Bồng Tướng Quân tên thật là Chu
Phúc Uy (?-545) là viên tướng thuộc hạ của Lý Nam
Đế đã có công cùng Lý Nam Đế đánh giặc Lương và
dựng lên nhà nước Vạn Xuân.
Sau khi đánh đuổi giặc Lương, giành lại nền độc
lập, năm Giáp Tý (544) Lý Bí lên ngôi tự xưng là Nam
Việt Đế (sử quen gọi là Lý Nam Đế); vua đã phong cho
Chu Phúc Uy là Uy Vũ Đại tướng quân, lệnh cho trấn
giữ Hải Dương.
Tại đây ông quan tâm đến dân chúng, khuyến khích
họ chăm nghề trồng cấy, ban tiền bạc để mua, ruộng
đất dùng vào việc công…, ai ai cũng đội ơn đức.
Sau đó nhà Lương phản công và nhà nước non trẻ
Vạn Xuân thất thủ. Uy Vũ đại tướng quân đã hi sinh
anh dũng ở Việt Yên ngày 11 tháng 8 năm 545.

Chương 6: Thời nhà Trần 441


Đây là vị tướng khi sống có công đánh giặc cứu
nước, khi đất nước hòa bình ông có công khuyến
khích dân cày cấy, ban tiền bạc của mình mua ruộng
đất của dân tích lũy lương thực cho quân phòng khi
chiến sự.
Vào thời bắc thuộc đó dân chúng nước Nam vô
cùng khổ cực trước ách áp bức bóc lột của quan lại
Giao Châu. Cũng vì xa kinh đô nên dân không thể kêu
được với ai. Phúc của Uy Vũ Tướng quân từ đây mà
thành.
Nhưng là vị tướng oai dũng nơi chiến trường khi
còn sống. Hi sinh anh dũng nơi chiến trận. Do đó, các
Thần đa phần hiển linh nhằm khi vận nước có chiến
tranh và giúp đánh giặc vì đánh giặc vốn là sở trường
của các vị.
Các vị thiên tướng này đa phần cảm ứng với các vị
đại tướng thần uy trên thế gian vì tâm các vị tướng
đều giao cảm với nhau (có thể các vị đã là bạn của
nhau trên tiên giới trước khi đầu thai).
Ví như: Đức thánh tam giang Trương Tướng quân
giúp Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt đánh Tống và
chiến thắng vĩ đại. Đến nay Hưng Đạo Đại Vương lại
được Phi Bồng tướng quân cảm ứng giúp thuyền bè
thật là điềm lành cho nước Nam ta.

442 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


102. Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320)

Phạm Ngũ Lão người làng Phù Ủng, huyện Đường


Hảo, châu Thượng Hồng, lúc hơn hai mươi tuổi,
Hưng Đạo Vương thấy và cho là có kỳ tài, đem con
gái nuôi gả cho. Ngũ Lão nhân đó, làm gia thần cho
vương, được vương dạy bảo thêm, tài nghệ tuyệt
vời. Tích sử kể rằng:
“Nhà ông ở sát đường cái nên thường ngày ông
vẫn ra ngồi xếp bằng ở đó để vót nan, đan lát. Một
hôm, ông đang ngồi bên đường như thế thì Hưng Đạo
Vương từ Vạn Kiếp về kinh đô đã đi ngang qua. Lính
đi trước thấy ông thì quát đuổi, nhưng ông vẫn ngồi
im không đứng dậy. Quân lính lấy mũi giáo dí vào đùi,
ông vẫn cứ ngồi điềm nhiên. Lúc xe của Hưng Đạo
Vương đến, ngài lấy làm lạ, hỏi thì ông thưa rằng:
- Tôi đang mải nghĩ việc nên không để ý.
Hưng Đạo Vương nghe thế, càng lấy làm lạ hơn,
hỏi qua sức học thì thấy ông làu thông Kinh, Truyện
và Binh thư, ứng đáp rất trôi chảy. Ngài sai lấy thuốc
xức vào chỗ ông bị đâm, rồi cho lên ngồi ở xe sau và
đem về kinh”.
Vương tiến cử ông. Ngũ Lão xuất thân trong hàng
quân ngũ, nhưng rất thích đọc sách, là người phóng
khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không
để ý đến việc võ bị. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là
đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng. Ông có làm bài
thơ:
Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hồ khí thôn ngưu.

Chương 6: Thời nhà Trần 443


Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Bản dịch:
Vung giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu.
Trai chưa trả nợ công danh được,
Còn thẹn khi nghe truyện Vũ hầu.
Ông huấn luyện quân đội rất có kỷ luật, đối đãi
tướng hiệu tực như người nhà, cùng đồng cam cộng
khổ với binh sĩ, cho nên quân đi tới đâu, không ai
dám chống; tất cả chiến lợi phẩm thu được đều sung
vào kho quân, coi của cải như không, là bậc danh
tướng của một thời vậy.
Năm Canh Thân(1320) tháng 11, Điện súy thượng
tướng quân Phạm Ngũ Lão mất tại phũ đệ Vua ban ở
vườn cau trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5
ngày, đó là ân điển đặc biệt.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng: Tôi từng thấy các
danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học
vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy thì học vấn biểu
hiện ở câu thơ, không chỉ có truyện về nghề võ. Thế
mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công
là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi
các ông. Lê Phụ Trần thì dũng lược đứng đầu ba
quân, một mình một ngựa xông pha trong lúc gian
nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử.
Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài
năng của họ để trao trách nhiệm. Còn như quân Thiên
thuộc (tức là quân Thiên vũ) mà cấm không được vào

444 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


học. Giả sử có người văn võ toàn tài sinh ra ở trong
đó, thì chẳng bị kìm hãm lắm sao!
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Đất nước lâm nguy mà dân có đức, trời
sinh thiên tướng để thỏa lòng người là vậy.
Hưng Đạo Đại Vương thần uy rực rỡ, uy đức của
ngài đã khiến nhân tài khắp nơi trên đất nước đều
tìm đến và quy tụ như: Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ
Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm,
Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực... đều là
bậc đại tướng đại tài từ xưa đến nay hiếm có.
Từ xưa đến nay mọi người vẫn tôn vinh và ca ngợi
về chiến công của Trần Hưng Đạo có biết đâu vận khí
đang lên mà nước lâm nguy thì các vị thần tướng,
thiên tướng đang ngự trên thượng giới tự lo mà đầu
thai xuống để giúp nước giúp dân. Chứ đâu phải chỉ
một Hưng Đạo Vương tài giỏi mà thành.

Chương 6: Thời nhà Trần 445


103. Trần Thừa (cha của Trần Cảnh)
(1184 - 1234)

Trần Thừa sinh năm Giáp Thìn (1184), vị Thượng


hoàng đầu tiên của triều Trần và là con cả của Trần
Lý, anh ruột của Trần Tự Khánh và Linh Từ quốc
mẫu Trần Thị Dung.
Ông tổ của Trần Thừa là Trần Kính vốn gốc ở
Đông triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi
tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở
Tức Mạc (Nam định). Kính lấy vợ
Kính lấy vợ ở Tức Mạc sinh ra Trần Hấp tòm sang
Hải ấp (Thái Bình) nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và
sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú rồi định cư ở
đó. Nhờ có công phò tá triều Lý, khôi phục lại kinh
thành, năm Bính Tý (1216), Trần Thừa được Vua Lý
Huệ Tông phong làm Nội thị phán thủ. Năm Quí Mùi
(1223) khi Trần Tự Khánh mất, Vua phong làm Thái
úy phụ chính.
Khi Lý Chiêu Hoàng làm Vua, Trần Thủ Độ nghĩ
ngay tới việc truyền ngôi cho Trần Cảnh, con trai thứ
của Trần Thừa, bèn thưa với Trần Thừa truyện ấy.
Trần Thừa ngần ngại:
- Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ
họ ngoại chí thân, nay làm việc tranh đoạt ấy
tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.
Trần Thủ Độ phân trần:
- Tôi xem diện mạo Trần Bố (Trần Cảnh) mũi
cao, hai gò má trội đúng là là long chuẩn long
nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương nguời, có

446 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng thời
thế lúc này có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới
cứu vãn được vận nước suy vi. Trời cho mà
không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh
nên suy nghĩ kỹ.
Trần Thừa bảo Thủ Độ:
- Mọi việc tùy chú định liệu, làm sau cho thành
sự thì làm. Hoá nhà làm nước hay đến phải diệt
tộc cũng ở một truyện này đó.
Khi Trần Cảnh lên ngôi Vua, nhiều đảng loạn
mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên ngày càng
nhiều, Trần Thủ Độ mời Trần Thừa lên làm Thượng
hoàng, lo giúp Thái Tông điều khiển triều đình để
Thủ Độ rảnh tay dẹp loạn.
Không đầy mội năm, Thủ độ vừa đánh dẹp vừa
thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều
chính. Thuợng hoàng Trần Thừa yên vị có người tài
năng hơn mình trông coi việc nước, mặc sức lao vào
thú vui săn bắn. Vùng Từ Sơn còn lưu truyền câu
truyện tình của Thượng hoàng với cô thôn nữ xinh
đẹp có tên là Tần.
Sáng ấy, Trần Thừa cùng lính tùy tùng về châu Cổ
Pháp để săn chim. Xế chiều, Trần Thừa bắn trúng
một con bạch trĩ. Mũi tên không trúng vào chỗ hiểm.
Trần Thừa phi ngựa đuổi mãi đến nỗi đám lính tùy
tùng bị lạc. Đến khu rừng quang, không thấy bóng
chim nữa. Thất vọng định quay về thì thấy ở một đồi
sắn gần đó có cô thôn nữ khỏe mạnh, xinh đẹp đang
vừa làm vừa hát. Trần Thừa tìm đến. Khi thấy Trần
Thừa, cô gái sợ hãi, luống cuống về sự ăn mặc trễ

Chương 6: Thời nhà Trần 447


tràng của mình. Sự e lệ càng khiến cô gái thêm vẻ
quyến rũ. Cô biết Trần Thừa là người quyền quý.
Niềm tin vào người quyền quí khiến cô gái không
thấy sợ nữa. Vị Thượng hoàng đắm đuối ngắm nhìn
cô gái, hỏi thăm gia cảnh. Cô tên là Tần, cha cô mất
sớm, chỉ còn mẹ già. Trần Thừa giãi bày tình yêu
nồng nàn của mình. Cô gái phần vì khiếp nhược,
phần vì e lệ mà không dám trối từ. Chiều ấy đám lính
tùy tùng không tìm thấy chủ. Bởi vì, Trần Thừa đã về
nhà Tần, ép cô gái phải chiều chuộng mình.
Sáng hôm sau, Trần Thừa từ biệt gia đình lên
ngựa về kinh. Linh cảm có điều hệ trong sẽ xảy ra,
Tần chạy theo níu lấy áo Trần Thừa khóc như mưa.
Cô nói tới trách nhiệm của người đã làm chồng cô
một đêm. Trần Thừa thề thốt sẽ quay lại và để làm
tin, ông đã rút kiếm cắt một vạt áo tía của của mình
trao cho cô gái. Ông dặn dò nếu có bề nào hãy tìm
ông ở kinh sư.
Rồi năm tháng qua đi, Trần Thừa đã quên khu
rừng săn ấy. Còn Tần, cô đã lo đúng điều đã xảy ra,
cô đã mang thai. Chịu búa rìu dư luận nhưng cô
không về kinh sư tìm Trần Thừa vì cô biết rằng nếu
vị Thượng hoàng yêu cô thì đã quay trở lại. Rồi cô
sinh được một bé trai khỏe mạnh. Đứa bé được đặt
tên là Trần Bà Liệt. Lớn lên Trần Bà Liệt theo học
một lò vật và khỏe mạnh ít người địch nổi.
Năm ấy kinh sư có giải vật lớn nhằm tuyển chọn
nhân tài ra giúp nước. Vua Thái Tông và Thượng
hoàng thân đến xem. Đô Liệt cũng về dự. Sau cả tuần
thi vật, đô Trâu (khỏe như trâu) đã lần lượt hạ hết
các đối thủ. Đô Liệt xin vào tỉ thí. Ngay từ đầu đô
448 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Trâu đã phải gờm sức khỏe của Đô Liệt. Trống thúc
đồn dập, keo vật sôi động. Bỗng sau miếng đánh
trượt, Đô Liệt bị đô Trâu dùng miếng hiểm vít được
cổ xuống, mong giết chết một địch thủ đáng gờm.
Trong lúc điên cuồng để thoát khỏi chết ngạt, chiếc
khăn trên đầu đô Liệt tung ra. Một vạt áo tía rất lạ
nằm trên thảm cỏ bê bết đất. Thượng hoàng Trần
Thừa đã nhận ra vạt áo ấy. Ông hạ lệnh ngừng ngay
keo vật, quên hẳn địa vị của mình đến ôm lấy Liệt,
đứa con mà ông đã phũ phàng bỏ rơi mẹ nó. Trần Bà
Liệt được giữ lại ở kinh sư và được nhận làm con
Thượng hoàng.
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó
tin về các vị vua Việt Nam (NXB Hồng Đức)
Lời bình: Dưới bàn tay đạo diễn tài ba của Trần
Thủ Độ thì đất nước yên bình chỉ trong có 1 năm. Từ
một đất nước loạn lạc, trộm cướp và tệ nạn mua
quan bán chức, dân tình nghèo đói và mất mùa mà
chỉ sau 1 năm nước ta đã yên ổn thái bình. Thật là
thần kì, thật là tài giỏi.
Bên cạnh tài năng về quản lý đất nước, làm tướng
chỉ huy đánh giặc dẹp loạn thì Trần Thủ Độ còn là
một con người tài giỏi về xem tướng và thiên mệnh.
Thuật Huyền môn của ngài thật đáng nể. Điều này ta
thấy rất rõ qua lời đối đáp của Thủ Độ và đoạn miêu
tả về nhân tướng của Trần Cảnh.
Với câu nói của Trần Thủ Độ: “Vả chăng thời thế
lúc này có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu vãn
được vận nước suy vi. Trời cho mà không lấy sẽ phải
chịu tai ương”.

Chương 6: Thời nhà Trần 449


Thì sẽ thấy tâm tình của Thủ Độ không phải là
người ích kỉ tư lợi mà ngài là một người yêu dân, yêu
nước, biết lo lắng cho vận nước đang suy vi trong tay
nhà Lý mà không thể cứu vãn được trừ phi chuyển
ngôi sang nhà Trần. Thủ Độ đoán biết được thiên
mệnh thì phải thuận lòng trời mà làm.
Công đức ngài đối với nhân dân Đại Việt thì muôn
đời không thể nào quên, nhưng tội lỗi tuyệt diệt dòng
họ Lý dẫn đến sự căm hận, oán hờn thì ngài và dòng
họ Trần phải trả trong tương lai.
Còn truyện tích về Trần Thừa cũng thật là thừa khi
mang ra bàn ở đây.

450 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


104. Trần Nhật Duật (1255 - 1330)

Trần Nhật Duật (Chiêu Văn vương) thích chơi với


người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà
Già (thôn này hồi Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm
Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng
Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly, sau gọi sai thành "Bà
Già") có khi ba, bốn ngày mới về.
Lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói truyện với
nhà sư người Tống, ở lại đến hôm sau mới về.
Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến
nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần,
truyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người
các Man khác, thì đều theo phong tục nước họ mà
tiếp đãi.
Đời Nhân Tông, sứ nước Sách Mã Tích sang cống,
không tìm được người phiên dịch. Chỉ có Nhật Duật
là dịch được. Có người hỏi vì sao ông biết tiếng nước
họ, ông trả lời rằng:
- Thời Thái Tông, sứ nước ấy sang nhân có giao
du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ.
Nhân Tông từng bảo:
- Chiêu Văn Vương có lẽ là kiếp sau của người
phiên lạc, nên giỏi tiếng các nước đó.
Ngày ấy, Vua quan Triều thần được tin chúa đạo
Đà Giang (thuộc miền Tây Bắc ngày nay) Trịnh Giác
Mật tụ họp phe đảng nổi lên nổi lên cự lại triều đình.
Tin dữ trong nước đến cùng lúc nhà Nguyên đang
sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần phải dẹp ngay
mối bất hòa trong nước. Người đảm đang trọng

Chương 6: Thời nhà Trần 451


trách này không ai hơn Trần Nhật Duật. Thế là vị
vương trẻ 27 tuổi dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang"
làm lễ ra quân lên đường.
Hay tin, chúa Đà Giang họp đám hầu mục bàn kế
cự chiến. Trịnh Giác mật định ám hại viên tướng trẻ
triều Trần nên sai người đưa thư dụ Nhật Duật:
- Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu
ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra
hàng ngay.
Muốn thu phục được Giác Mật, Nhật Duật mặc các
tướng can ngăn, một mình một ngựa đến trại Giác
Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu.
Thản nhiên đi giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính
sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật,
Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và
theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:
- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai
trái, vào đây thì nóng tai phải.
Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sững sờ kinh
ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Nhật
Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo
mắt thách thức, đưa tay mời, Chỉ có quả bầu cắt đôi
sóng sánh rượu và dĩa thịt nai muối. Nhật Duật
không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa
ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết
sức thành thạo.
Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên:
- Chiêu Văn Vương là anh em với ta.
Nhật Duật từ tốn:
- Chúng ta xưa nay vẫn là anh em.
452 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Rồi sau đấy, theo lệnh Nhật Duật, tiểu đồng mở
tráp lấy ra những chiếc vòng bạc sáng lóa trao cho
từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo
Đà Giang chỉ còn biết: hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết
nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay viên tướng triều
đình mà họ vừa nhận làm anh em. Chúa đạo Đà
Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc như được
nhân lên.
Khi đã làm tể tướng, ông thường qua nhà Trần
Đạo Chiêu là người Tống, ngồi bên nhau nói truyện
phiếm hàng giờ mà không mỏi. Anh Tông nghe biết
truyện bảo ông:
- Tổ phụ là tể tướng. Đạo Chiệu tuy là người
Tống, nhưng đã có Hàn lâm phụng chỉ, há nên
ngồi nói truyện với hắn?.
Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang, phải sai người biết
tiếng để phiên dịch, tể tướng không được nói truyện
trực tiếp với họ, sợ lỡ có sai sót gì thì đỗ lỗi cho
người phiên dịch.
Nhật Duật thì không thế, khi tiếp sứ Nguyên, ông
thường nói truyện thẳng với họ mà không mượn
người phiên dịch. Đến khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay
cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn vẫn quen
biết.
Sứ Nguyên hỏi ông:
- Ông là người Chân Định tới làm quan ở đây chớ
gì ?.
Nhật Duật ra sức bác lại, nhưng họ vẫn không tin
vì hình dáng và tiếng nói của ông đều giống người
Chân Định.
Chương 6: Thời nhà Trần 453
Anh Tông muốn tuyên Tôn Từ hoàng thái hậu làm
Thái hoàng thái hậu, nhưng chưa biết gia tôn thế
nào. Khâm Từ hoàng thái hậu đem việc ấy hỏi ông,
ông trả lời là tôn làm thái hoàng thái hậu.
Anh Tông có hai chiếc mũ võ, là mũ đội khi duyệt
và giảng võ mà chưa có tên gọi. Khi đi đánh Chiêm
Thành, định đội đi, sai Nhật Duật đặt tên, Nhật Duật
liền đặt tên một chiếc là Vũ Uy, một chiếc là Vũ Đức.
Đến các tên"Toát Trai", "Tư thiện đường" của Đông
cung (nhà học của hoàng thái tử gọi là Tư thiện
đường, nhà học của Đông thái tử gọi là Toát trai)
cũng đều là do ông đặt tên cả.
Những tiết tấu âm nhạc, khúc điệu múa hát cũng
do Nhật Duật sáng tác.
Cuối niên hiệu Thiệu Bảo, ông giữ trại Thu Vật ở
Tuyên Quang. Giặc Hồ vừa xâm phạm bờ cõi, Chiêu
Quốc tâu với Vua rằng:
- Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi
giặc sang rồi! (Nhật Duật thích chơi với người
Tống nên Chiêu Quốc nói thế ).
Khi Tuyên Quang thất thủ, Nhật Duật thuận dòng
rút về xuôi, quân giặc theo hai bên bờ sông đuổi ông.
Nhật Duật ngoảnh lại thấy giặc đi thong thả, bảo
quân lính:
- Truy kích thì phải nhanh, nay chúng lại đi thong
thả, sợ có quân phía trước đón chặn.
Vội sai người dò xem, quả nhiên thấy giặc đã chặn
ngang ở hạ lưu. Ông liền lên bộ chạy thoát.
Ông là người hòa nhã, độ lượng, mừng giận không
lộ ra sắc mặt, trong nhà không bao giờ chứa roi vọt
454 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
để đánh nô lệ. Nếu có đánh thì cũng kể tội lỗi sau rồi
mới đánh.
Có lần ông sai gia đồng giữ thuyền, tên này bị gia
đồng của Quốc phụ đánh, có người đến mách. Nhật
Duật hỏi:
- Có chết không?.
Người đó trả lời:
- Chỉ bị thương thôi.
Ông nói:
- Không chết thì thôi, mách làm gì!.
Lại có người kiện gia tùy của ông với Quốc phụ.
Quốc phụ sai gia đồng tới bắt. Người gia tùy chạy
vào trong phủ, người gia phủ chạy đến nhà giữa, bắt
trói ầm ỹ. Phu nhân khóc lóc nói với ông:
- Ân chúa là tể tướng, Bình chương cũng là tể
tướng, vì ân chúa nhân từ, nhu nhược nên
người ta mới coi khinh đến nước này.
Nhật Duật vẫn ung dung không nói, chậm rãi sai
người bảo kẻ gia tỳ rằng:
- Mày cứ ra đi, ở đâu cũng đều có phép nước.
Ông lại thiệp liệp sử sách, rất hâm mộ huyền giáo,
thông hiểu xung điển, nổi tiếng đương thời là người
uyên bác. Hồi Thượng hoàng còn nhỏ, bị ốm, từng
sai ông làm phù phép trấn áp cho yên. Ông mặc áo
lông đội mũ, trông như đạo sĩ.
Vợ ông là Trinh Túc phu nhân từng có việc xin
riêng với ông, ông gật đầu. Đến khi ra phủ, người thư
ký đem việc ấy trình lên ông, ông lại không cho.

Chương 6: Thời nhà Trần 455


Ông là bậc thân vương tôn quý, làm quan trải bốn
triều, ba lần coi giữ trấn lớn, trong nhà không ngày
nào không mở cuộc hát xướng, làm trò, mà không ai
cho là say đắm. So với Quách Tử Nghi tột cùng xa xỉ
mà không ai chê, ông cũng gần được như thế.
(Tham khảo từ: Danh Nhân Hà
Nội – NXB Hà Nội năm 2004 – Tr.193 - 197)
Lời bình: Trần Nhật Duật, Một đại tướng triều
đình văn võ song toàn, tài năng ngài thật chẳng dám
bàn. Tôi chỉ dám mạn phép bàn về công đức của ngài
mà thôi.
Một ngựa đi vào giữa chốn ba quân của địch mà
lòng không nao núng, dùng đúng nghi thức văn hóa
địa phương mà đối xử với Chúa đạo Đà Giang Trịnh
Giác Mật như người anh em bản địa. Thật rằng cái uy,
cái tài đấy mấy ai đạt được. Nhờ công đức đó của
ngài mà bao nhiêu máu đã không đổ, bao nhiêu hận
thù đã xóa sạch, chỉ còn lại sự cảm phục và tình đoàn
kết dân tộc trước 100 vạn quân Nguyên. Cái Công
Đức đó, nào ai có thể tính bàn.
Phàm rằng, một nhà cầm binh giỏi đánh đâu thắng
đó, dẫu có là chiến tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc
thì cũng phạm tội sát sinh, cũng tạo đầu rơi máu đổ.
Công Đức gây tạo được dù có lớn lao vô cùng, có Phúc
thì vẫn hưởng, nhưng cái nghiệp sát sinh đó rồi cũng
lúc phải gánh chịu.
Nhưng một nhà ngoại giao tài giỏi bằng tài năng
và khôn kéo, thể hiện cái uy thần của mình khiến kẻ
địch khiếp sợ, thể hiện cái thiện trí và mong muốn hòa
bình của mình để kẻ địch quy phục. Thật chẳng tốn

456 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


một giọt máu, chẳng tốn một sinh mạng mà công đức
đó lại không ẩn bên trong niềm oán hận, không tạo
nghiệp sát sinh.
Công đức của nhà ngoại giao thiên tài thật “Thập
toàn viên mãn” làm sao !

Chương 6: Thời nhà Trần 457


105. Trần Quang Khải (1241 - 1294)

Thượng Tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương


Trần Quang Khải (1241-1294) là con trai Vua Trần
Thái Tông (Trần Cảnh).
Dưới triều Vua Trần Thánh Tông (Anh ruột Quang
Khải), Trần Quang Khải được phong chức tước Chiêu
Minh đại vương. Năm Giáp Tuất (1274), ông được
giao chức Tướng quốc thái úy. Năm Nhâm Ngọ
(1282), dưới triều Vua Nhân Tông, Trần Quang Khải
được cử làm Thượng tướng thái sư, nắm toàn quyền
nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần thứ hai và thứ ba, Trần Quang Khải là vị
tướng chủ chốt thứ 2, sau Trần Quốc Tuấn và có
nhiều công lớn. Chính Trần Quang Khải đã chỉ huy
quân Trần đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương
và Thăng Long, những trận then chốt nhằm khôi
phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm ất Dậu
(1285).
Lúc mới sinh, ông phát chứng động kinh suýt chết,
Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm
báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông:
- Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này.
Đến khi sống lại, Thái Tông nói:
- Gươm báu truyền quốc, không thể trao bừa, chỉ
ban cho áo của Thượng hoàng thôi.
Quang Khải có học thức, hiểu tiếng nói của các
phiên. Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc,
Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc
có sứ phương Bắc đến.

458 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới
bảo:
- Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy
khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc.
Quốc Tuấn trả lời:
- Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn
như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám
vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa,
Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong
chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn,
sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải.
Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng
chưa muộn.
Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì
hai người vốn không ưa nhau. (Xin nhắc lại tích:
Quang Khải là con Trần Cảnh, Quốc Tuấn là con Trần
Liễu, Trần Liễu có mối thù bị Trần Cảnh cướp vợ (do
Trần Thủ Độ ép buộc) nên đã rắp tâm tìm thầy giỏi
dạy cho Quốc Tuấn và bảo Quốc Tuấn tìm cơ hội trả
thù. Quốc Tuấn ghi nhớ nhưng không cho là phải.
Quang Khải và Quốc Tuấn có đôi điều ngượng ngập
cũng từ đó mà ra)
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải
xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về.
Lại truyện, Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn
thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
- Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm.
Rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm
cho ông và nói:
- Hôm nay được tắm cho Thượng tướng.
Chương 6: Thời nhà Trần 459
Quang Khải cũng nói:
- Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho.
Từ đó, hai nhà (Trần Liễn và Trần Cảnh) bỏ qua
mối thù xưa, đồng tâm giúp Vua giữ nước. Trong
chiều có hai vị Đại Thần quan văn, Đại Thần quan võ,
giúp việc nhà Vua, hai ông đứng hàng đầu.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697 (Lê
Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB VHTT,
2006)
Lời bình: Lại thêm một truyện tích khiến ta nể
phục Trần Hưng Đạo cũng như cũng như các vị đại
tướng quân là hoàng tử nhà Trần. Hiếm có một triều
đại nào trên thế giới mà chỉ trong vòng 33 năm kể từ
khi lấy được vương triều nhà Lý (1225-1258). Mà nhà
Trần, tự nhiên các thế hệ hoàng tử sinh ra toàn là bậc
Nhân tài kiệt xuất cả về văn võ và đức độ như vậy:
Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải,
Trần Nhật Duật.
Và rồi thế hệ tiếp sau như: Trần Khánh Dư (con
nuôi của Trần Thánh Tông), Trần Quốc Toản (Cháu
nội Trần Thái Tông) đều là bậc anh hùng kiệt xuất.
Hay khai quốc công thần Thái sư Trần Thủ Độ 1 năm
bình yên thiên hạ, dẹp yên phản loạn trong nước,
khiến nước yên ổn, kỷ cương vững chắc chắc...
Thật là tài tình, đúng là “hữu duyên tương hợp”.
Vận nước đang hưng “trời sinh thiên tướng” chính là
giai đoạn lịch sử này.

460 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


106. Trần Khánh Dư (1240 - 1340)

Trần Khánh Dư thật sự là bậc đa tài nhưng cũng


đồng thời là người lắm tật. Thư tịch cổ không ngớt
lời ca ngợi ông, nhưng cũng không quên ghi chép
khá tỉ mỉ về những lần ông đã mắc lỗi (đáng lẽ ông
phải tội chém đầu nhưng vua vẫn tiếc cái tài của ông
nên vẫn giữ).
Bị tội lần thứ nhất:
Vào năm nào chưa rõ, chỉ biết là sau năm 1258 và
trước năm 1282. Bấy giờ, ông đã thông dâm với
Công Chúa Thiên Thụy là con dâu của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn. Vua Trần Thánh Tông vì sợ
mất lòng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nên đã
hạ lệnh cho quân sĩ đem ông ra Hồ Tây đánh cho đến
chết mới thôi.
Nhưng, cũng chính vua Trần Thánh Tông lại ngầm
nói với quân sĩ, rằng chỉ đánh mấy roi rồi thả cho
ông đi. Trần Khánh Dư chạy về Chí Linh và sau đó thì
kiếm sống bằng nghề buôn bán than củi. Gia sản của
ông bị triều đình tịch thu hết.
Bị tội lần thứ hai:
Ngay khi ông được lệnh trấn giữ ở Vân Đồn. Tại
đây, ông vừa bắt quân sĩ dưới quyền mình phải đội
nón Ma Lôi để khỏi bị nhầm với quân Mông Nguyên
rồi bị giết hại, lại vừa mật sai người nhà đem nón Ma
Lôi đến bán với giá cắt cổ. Nói khác hơn, ông đã bóc
lột ngay chính quân sĩ của mình nên ông bị quân sĩ ai
cũng ghét.
Bị tội lần thứ ba:

Chương 6: Thời nhà Trần 461


Vào năm 1296, tức là cũng trong thời gian ông
trấn giữ ở Vân Đồn, được tám năm. Bấy giờ là thời
thái bình, cũng như khá nhiều quý tộc khác, ông trị
dân một cách hà khắc và nặng lo vun quén cho cá
nhân mình, khiến dân oán hận, dư luận chê cười.
Lúc ấy, có người Trung Quốc đến làm ăn buôn bán
ở Vân Đồn, đã mượn việc làm thơ mừng Trần Khánh
Dư để chê bai ông. Bài thơ ấy có câu rằng: “Vân Đồn
kê khuyển diệc giai kinh” (nghĩa là: gà và chó ở Vân
Đồn đều khiếp sợ).
Quan Hành Khiển liền đem sự trạng tâu lên vua,
Khánh Dư nhân đó tâu rằng:
- Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để
nuôi chim ưng thì có gì là lạ.
Vua Anh Tông nghe vậy thì không hài lòng. Khánh
Dư bèn trở về Vân Đồn. Ông về chầu chưa quá bốn
ngày đã vội đi, vì sợ ở lại lâu sẽ bị Vua khiển trách.
Lỗi lầm của Trần Khánh Dư hẳn nhiên là không
nhỏ, nhưng ông nổi tiếng với đời hoàn toàn không
phải bởi lỗi lầm. Sinh thời, Trần Khánh Dư là một vị
tướng có tài, có nhiều đóng góp xuất sắc trong cả ba
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỉ thứ 14. Và
đây mới chính là lí do chủ yếu khiến cho tên tuổi của
Trần Khánh Dư trở nên bất diệt.
Công trạng của Trần Khánh Dư:
Trong cuộc chiến tranh lấn thứ nhất, có lẽ do còn
trẻ, Trần Khánh Dư chưa được trao phó một trọng
trách nào. Nhưng, cũng trong cuộc chiến tranh này,
chính ông đã hăng hái tham gia giết giặc lập công.

462 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trần Khánh Dư tổ chức một loạt trận đánh nhỏ,
bất ngờ và táo bạo, vừa góp phần tiêu hao sinh lực
định, vừa tạo ra mối lo sợ và khủng hoảng tinh thần
ngày càng lớn trong lực lượng quân xâm lăng.
Hoạt động của đạo quân nhỏ do Trần Khánh Dư
chỉ huy đã tạo ra những kinh nghiệm thực tiễn rất
phong phú. Khi tổ chức trận tập kích quyết định vào
quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu, ắt hẳn các tướng lĩnh
của nhà Trần đã chú ý đầy đủ đến bài học sinh động
này. Triều đình nhà Trần và đặc biệt là Trần Hưng
Đạo đánh giá rất cao về tài năng quân sự của Trần
Khánh Dư.
Việc ông được nhận làm Thiên Tử Nghĩa Nam,
được ban chức Phiêu Kỵ Tướng Quân là những biểu
hiện cụ thể của sự đánh giá rất cao này. Khi Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn biên soạn xong bộ Binh
thư yếu lược, chính Trần Khánh Dư là người có vinh
dự được viết lời đề tựa1. Mở đầu lời đề tựa này,
Trần Khánh Dư đã viết những câu thật độc đáo:
“Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận.
Người giỏi bày trận thì không cần phải đánh. Người
giỏi đánh thì không thua. Người giỏi thua thì không
chết”
Triều Trần xử phạt ông (mời bạn đọc xem lại
phần tội lần 1), nhưng triều Trần cũng quý trọng tài
năng của ông và chân thành muốn ông đem hết tài
năng của mình ra phò vua giúp nước.
Từ suy tính như vậy, tháng 10 năm Nhâm Ngọ
(1282), nghĩa là ngay trước khi hội nghị Bình Than

Chương 6: Thời nhà Trần 463


khai mạc, vua Trần đã tha tội và phục chức cho ông.
“Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” chép rằng:
“Lúc ấy, thuyền Vua đang đỗ ở bến Bình Than,
nước triều rút nhanh, gió thổi mạnh. Nhà vua thấy có
chiếc thuyền chở than củi, người lái thuyền mình mặc
áo ngắn, đầu đội nón lá… liền nói với thị thần rằng:
- Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó
sao?
Nói rồi lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi
theo. Đến cửa Đại Than thì vừa kịp, viên Quân Hiệu
liền gọi:
- Ông lái ơi! Có lệnh vua triệu!
Khánh Dư trả lời:
- Lão là người buôn bán, có việc gì mà vua phải
triệu?
Viên Quân Hiệu trở về tâu rõ sự thực với Vua. Nhà
vua liền nói:
- Đó đúng là Nhân Huệ Vương. Người thường
không ai dám nói như vậy đâu.
Và Nhà vua lại sai Quân Hiệu đi gọi Khánh Dư vẫn
mặc áo ngắn và đội nón lá mà đến. Vua nói:
- Đấng nam nhi mà phải đến nông nỗi này là
cùng cực rồi.
Khánh Dư bèn lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo
ngự, cho được ngồi ở hàng dưới các bậc vương tước
nhưng lại ở trên các vị hầu tước để bàn việc nước.
Ông nói được nhiều điều rất hợp ý Vua”.

464 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trong cuộc chiến tranh lần thứ ba, tên tuổi của
Trần Khánh Dư nổi bật hẳn lên “Đại Việt sử ký toàn
thư” chép rằng:
“Bấy giờ, quân Nguyên đánh vào Vân Đồn. Hưng
Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho Phó
Tướng đang đóng ở Vân Đồn là Nhân Huệ Vương
Khánh Dư. Khánh Dư bị bất lợi. Thượng Hoàng hay
tin, liền sai Thông Sứ ra để xiềng Khánh Dư giải về
kinh đô. Khánh Dư nói với Trung Sứ rằng:
- Nay nếu lấy quân pháp mà xử, tôi xin cam chịu
tội. Nhưng, tôi xin được khất vài ba ngày để
mưu lập công rồi về chịu trận búa rìu cũng
chưa vội gì.
Viên Trung Sứ cũng nghe theo lời xin đó. Khánh Dư
đoán rằng binh thuyền của giặc đã qua thì ắt đoàn
thuyền tải lương phải theo sau, bèn thu tập tàn binh
để đợi chúng.
Chẳng bao lâu sau đó, đoàn thuyền tải lương của
giặc quả nhiên xuất hiện. Khánh Dư đánh bại chúng,
bắt được quân lương và khí giới của giặc nhiều
không kể xiết. Tù binh cũng rất đông. Ông lập tức sai
người chạy ngựa đem tin thắng lợi tấu trình. Thượng
Hoàng liền tha tội cho, không hỏi đến nữa. Thượng
Hoàng nói:
- Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thực
và khí giới thì nay đã bị ta bắt được. Nhưng,
nếu chúng còn chưa biết thì có thể lại hung
hăng chăng?

Chương 6: Thời nhà Trần 465


Nói rồi bèn sai thả những tên lính giặc đã bị bắt
cho về doanh trại của quân Nguyên để chúng báo tin.
Quân Nguyên quả nhiên phải rút”.
Vết thương chiến tranh của Đại Việt ta lần này
không thê thảm như trước. Trần Khánh Dư có phần
công lao ở trong đó.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006) và (Danh tướng Việt Nam (Nguyễn
Khắc Thuần)
Lời bình: Một nhân vật duy nhất trong lịch nhà
Trần sống thọ 100 tuổi (Các vua Trần đa phần chết
trẻ khoảng 50 tuổi vì hôn nhân cận huyết). Và cũng là
một vị tướng lắm tài nhiệt tật nhất trong lịch sử Việt
Nam.
Lại bàn bề vận nước. Nếu như nước trong thời hòa
bình không chiến tranh thì một vị tướng xấu xa về
đạo đức như Trần Khánh Dư: thông dâm với con dâu
Hưng Đạo Vương, rồi thu vén lợi ích cá nhân bắt lính
phải mua mũ Ma Lôi đội, sau lưng thì cho lái buôn
mang mũ đến bán với giá cắt cổ, rồi nhiều mưu kế
trục lợi cá nhân ở Vân Đồn... thì nỗi nhục đó muôn đời
không thể rửa.
Vậy mà lúc này đây, con người tưởng rằng đạo đức
suy yếu đến vậy, nhưng đúng thời, đúng vận thì tài
năng có đất dụng võ khiến cho muôn đời về sau đều
cảm phục.
Một vị tướng mà Hưng Đạo Vương đã nhờ viết đề
bút mở đầu của Binh Thư Yếu Lược. Một vị tướng xây
dựng và hoàn thiện lối đánh du kích trước Nguyên

466 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Mông và là tiền đề cho các học thuyết chiến tranh du
kích của Việt Nam sau này (kể cả trong chiến tranh
hiện đại chống Pháp, Mỹ). Một vị tướng có công đánh
tan hậu cần của 50 vạn quân Nguyên Mông lần thứ 3
khiến giặc hoang mang lo sợ, tự phá vỡ đội ngũ mà
tan rã. Thật công đức vị ấy là không hề nhỏ. Nên
những khuyết điểm thời trai trẻ bồng bột cũng sẽ bị
xem nhẹ mà bỏ qua.

Chương 6: Thời nhà Trần 467


107. Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 -
1291)

Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện


Thái Vương Trần Liễu, là anh cả của Hoàng thái hậu
Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất,
Hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho
Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Lúc nhỏ, Thượng Sĩ đã tỏ ra bẩm chất cao sáng,
thuần hậu có tiếng. Được cử trấn giữ quân dân đất
Hồng Lộ, Ngài đã hai lần ngăn giặc Bắc xâm lăng, có
công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức
Tiết độ sứ trấn cửa biển Thái Bình.
Thượng Sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần
nhàn nhã. Lúc chưa xuống tóc, Ngài đã chuộng cửa
Không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở tinh xá
Phước Đường, Ngài lãnh hội được yếu chỉ, bèn dốc
lòng thờ làm thầy, lấy Thiền duyệt làm cái vui hằng
ngày, không lấy công danh làm chỗ sở thích, Ngài lui
về ấp Tịnh Bang do Vua phong cấp cho, đổi tên lại là
làng Vạn Niên.
Trộn lẫn thế tục, hòa cùng ánh sáng, trong việc đối
xử Ngài chưa hề phụ lòng ai, nhân đó tiếp mạnh hạt
giống pháp, dìu dắt được người sơ cơ. Người nào
đến hỏi han cũng được Ngài chỉ cho chỗ cương yếu
khiến tâm tánh họ ứng dụng được nhẹ nhàng, khi
hành cũng như lúc tàng, không gì nhất định cả.
Từ lâu, nhà vua nghe đồn đãi về Ngài bèn cho sứ
thỉnh vào cửa khuyết. Ngài hầu chuyện lời lời đều tỏ
ra siêu tục, nhân đó Vua tôn Ngài là Sư huynh, tặng
cho hiệu Thượng Sĩ.
468 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Thượng Sĩ với tư cách một cư sĩ thọ Bồ-tát giới,
sống đúng theo tinh thần Thiền nên tâm tư rất phiêu
dật phóng khoáng. Những điều luận bàn huyền diệu
của Ngài, cũng như câu chuyện gió mát trăng thanh,
hàng thạc đức đương thời đều kính trọng.
Sau, bệnh sơ sài, Ngài không nằm ở phòng riêng,
mà nằm ở Dưỡng Chân Trang. Tại đây, giữa nhà
trống, Ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết
tường, mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp
khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, sai lấy
nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng:
- Sống chết là lẽ thường, sao buồn thảm luyến
tiếc chi mà làm não Chân tánh ta.
Dứt lời, Ngài êm thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên
hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291) đời Trần Nhân
Tông, năm Tân Mão, ngày mùng một tháng tư, Ngài
thọ sáu mươi hai tuổi.
Vua Nhân Tông nhớ ơn Ngài dạy dỗ, sai thợ vẽ
chân dung để thờ và lấy đạo của Ngài truyền cho mà
tuyên dương, lập nên phái Trúc Lâm.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ), NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Là con đầu của Trần Liễu, là bác họ của
vua Trần Nhân Tông. Tuy ngài được phong là Sư
Huynh (Thượng Sĩ) nhưng thật ra ngài lại là vị thầy
trực tiếp giáo hóa cho vua Trần Nhân Tông. Ngài là
người có công đầu gây dựng lên Thiền Phái Trúc Lâm
Yên Tử của Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư Trần Nhân
Tông sau này.

Chương 6: Thời nhà Trần 469


Như tôi đã bàn trước đây: Để người thường biết
mức độ chứng đạo của một vị Thiền Sư là rất khó. Vì
rằng mức độ chứng đạo trong Thiền Định hay trong
Đạo Quả Phật Đà thì nằm sâu trong Tâm hay trong
Phúc Đức của các vị nên không ai có thể biết.
Chỉ một người chứng đạo ở mức độ siêu vượt so
với Thiền Sư kia, khi ngài nhập định, bằng thần giao
cách cảm thì tâm ngài ứng với tâm của Thiền Sư đó
ngài sẽ biết rõ về mức độ chứng.
Hoặc một vị chứng cao hơn nhưng chưa đạt đến
mức “tâm thấy tâm” thì phải bằng thiền ngữ đối đáp
mới sáng tỏ.
Người thường ta chỉ có thể nhìn thấy: thần thông
hoặc nhìn thấy sự “viên tịch” (sự chết) của các vị mà
có thể biết được mức độ chứng đạo mà thôi.
Mà thần thông nếu có thì các vị dùng rất khéo léo
không cho ai biết. Một người quân tử đạo đức sẽ
không khoe khoang là như vậy.
Cuối cùng chúng ta chỉ nhìn thấy sự viên tịch để
thấy mức độ chứng đạo Thiền Sư mà thôi: Sư Vạn
Hạnh viên tịch thiêu được xá lợi. Sư Nguyễn Minh
Không với vô vàn phép thuật thần thông thể hiện
trong suốt cuộc đời của ngài. Sư Từ Đạo Hạnh chết để
lại nhục thân đến khi giặc Minh phá hủy chùa (300
năm sau). Vua Trần Nhân Tông mất thiêu ngài được
3000 viên xá lợi ngũ sắc...
Ở đây Tuệ Trung Thượng Sĩ không được như các vị
thiền sư trên nhưng khi ngài mất thật bình an và
minh mẫn. Thật là đáng quý.

470 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


108. Yết Kiêu (1242 - 1301)

Có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ-bì làm


nghề đánh cá.
Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng
thấy trên bãi có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau
dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông
lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng
hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất
kinh ngạc đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn
ống thì thấy có mấy cái lông trâu dính vào đấy. Ông
mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi.
Từ đó sức khỏe của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người,
không một ai dám đương địch. Đặc biệt là có tài lội
nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta cứ
tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở
dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên.
Hồi ấy Nguyên Mông sang cướp nước ta. Chúng
cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn-
ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới.
Đi đến đâu, chúng cướp của giết người gây tang tóc
khắp mọi vùng duyên hải. Chiến thuyền nhà Vua ra
đối địch bị giặc đánh đắm mất cả. Nhà Vua rất lo sợ,
sai rao trong thiên hạ ai có cách gì lui được giặc dữ
sẽ phong cho quyền cao chức trọng.
Yết Kiêu bèn tìm đến tâu Vua rằng:
- Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho
lũ chúng nó vào bụng cá.

Vua hỏi:

Chương 6: Thời nhà Trần 471


- Nhà ngươi cần bao nhiêu người? bao nhiêu
thuyền bè?

Ông đáp:
- Tâu bệ hạ, chỉ một mình tôi cũng có thể đương
được với chúng nó.

Nhà Vua mừng lắm, liền phong cho ông làm Đô


thống cầm thủy quân đánh giặc.
Ông đến Vạn-ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi, chỉ bảo
họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa. Đoạn,
một mình ông lặn xuống đáy biển đi ra chỗ tàu giặc.
Ông tìm đến đáy tàu vừa khoan, vừa đục. Ông làm
rất lẹ và im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến
chiếc khác.
Trong một hôm, chúng bị đắm luôn một lúc hơn
hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng loạn cả
lên. Chúng sai những tên quân có tài bơi lặn lặn
xuống nước do thám. Mấy tên quân đó tìm mãi mới
thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc tàu. Bọn chúng
xông lại nhưng chúng đâu có phải là địch thủ của
ông, cho nên cuối cùng ông không để cho một đứa
nào trở về.
Quân giặc vô cùng sợ hãi. Mãi về sau tên tướng
giặc đem một cái ống dòm thủy tinh có phép nhìn
được thấu qua nước đến đáy biển. Chúng thấy ông đi
lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó
bằng sắt nhân lúc ông đang mải đục một chiếc tàu,
buông xuống chụp lấy ông. Nhờ thế chúng bắt sống
được Yết Kiêu.
Lập tức chúng tra khảo ông:
472 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
- Trong nước mày những người lặn như mày có
bao nhiêu người?.

Ông bảo chúng:


- Không kể những người đi lại dưới nước suốt
10 ngày không lên, còn như hạng ta thì một
trăm chiếc tàu của chúng bay cũng không thể
chở hết. Hiện giờ ở dưới đó hết lớp này xuống
lại lớp kia lên không mấy khi vắng người.

Nghe nói thế, bọn giặc kinh sợ cuối cùng chúng dỗ


dành:
- Mày muốn tốt phải đưa chúng tao đi bắt sẽ có
hậu thưởng, bằng không thì sẽ giết chết.
- Được, theo ta, ta chỉ cho!.

Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên
quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò
tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông nhảy tòm xuống nước
trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân
giặc đã bị thiệt hại khá nặng, lại nghe Yết Kiêu nói
nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng
chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy
nhiễu nữa.
Nhà Vua mừng quá, khen ngợi Yết Kiêu vô cùng,
phong ông làm đại vương. Sau khi ông mất, mọi
người nhớ ơn lập đền thờ ở cửa Vạn-ninh và ở nhiều
cửa biển khác.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)

Chương 6: Thời nhà Trần 473


Lời bình: Đây cũng là một vị thiên tướng có duyên
với nước Nam đầu thai xuống giúp dân Việt. Huyền sử
thì nó nhiều chi tiết thái quá, không hợp với đạo lý.
Thần thánh (ở đây là trâu thần) là nơi cõi tâm linh
vô tướng mà lại hiện ra thành hình tướng là điều khó
khăn. Thần thánh thì Phúc hơn con người hình dáng
phải đẹp đẽ oai hùng chứ không thể nào là súc sinh,
nếu hiện hình con vật thì ít nhất cũng phải là linh vật
trong tứ linh: Long Ly Quy Phượng. Mà nếu đúng đó
là sự thật thì Yết Kiêu cũng sẽ không khoe khoang kể
lu loa cho mọi người đều biết. Vậy tích thần trâu đánh
nhau ắt hẳn chỉ từ truyền thuyết dựng lên mà thôi.
Người có năng lực đặc biệt từ khi sinh ra mà nay
ta gọi là Dị Nhân cũng có nhiều, xưa đến nay đều có.
Ở Việt Nam có và các nước đều có nhưng đó là bí mật
quốc gia ít ai biết. Phàm người quân tử đạo đức thì
không khoe khoang mà nếu khoe khoang thì không
còn là đạo đức.
Nhưng để sử dụng đúng năng lực của họ vào giết
giặc cứu nước tạo ra chiến công hiển hách “Lưu sử
nghìn thu” thì không có nhiều. Và Yết Kiêu là một
trong những trường hợp hiếm hoi đó.

474 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


109. Bà chúa bơi, mẹ nuôi Yết Kiêu (? - 1285)

Chính sử không ghi chép gì về tên tuổi thật cũng


như quê quán, xuất thân của Yết Kiêu, mà trong Đại
Việt sử ký toàn thư chỉ chép ngắn gọn rằng:
- Hưng Đạo Vương có người gia nô là Yết Kiêu
và Dã Tượng, từng được đối đãi rất hậu.
Và lời khen tặng của Quốc công Tiết chế Trần
Hưng Đạo dành cho Yết Kiêu, Dã Tượng rằng:
- Chim Hồng Hộc bay được cao và xa là nhờ 6 cái
trụ lông cánh, nếu không có nó thì không khác
gì chim thường. Yết Kiêu, Dã Tượng là cánh
chim hồng hộc của ta.
Còn theo truyền tụng tại địa phương làng Hạ Bì,
huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là
thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải
Dương) thì Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, xuất
thân trong gia đình làm nghề đánh cá, từ nhỏ đã phải
lăn lộn trên sông nước, kiếm ăn nuôi gia đình. Nhờ
lập nhiều công lao mà Yết Kiêu được triều đình nhà
Trần ban danh hiệu:
"Trần triều đệ nhất đô soái thủy quân".
Theo Truyện tích Huyền Sử chép rằng:
"Yết Kiêu có sức khỏe, gặp lúc có hai con trâu húc
nhau trên bãi biển, ông dùng cái đầm đất mà đánh,
chúng chạy xuống biển. Khi nhìn lại, thấy có mấy cái
lông trâu dính vào cái đầm, ông cho là vật thiêng bèn
nuốt chửng, từ đấy lội xuống nước cũng dễ dàng như
đi trên đất bằng".

Chương 6: Thời nhà Trần 475


Truyện tích Huyền Sử có vẻ mơ hồ, huyền hoặc,
vậy theo tích dã sử thì ai dạy bơi cho Yết Kiêu?
Tại làng Kiến Xá ở xứ Sơn Nam xưa (nay thuộc xã
Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) có một
ngôi đền thờ gọi là đền "bà chúa Bơi".
Đền là nơi thờ phụng một phụ nữ, người ta không
rõ bà tên họ thật là gì, chỉ biết rằng bà là con nhà
nhiều đời làm nghề đánh cá trên sông nước nên từ
nhỏ đã rất giỏi bơi lặn.
Đồn rằng, bà có thể ở dưới nước cả ngày, lặn
xuống sông hàng giờ, không ít người đã thử tài đua
sức với bà trong việc bơi lặn nhưng cuối cùng đều
phải lắc đầu chịu thua, chính vì thế mà được mọi
người nể phục, tôn gọi là "bà chúa Bơi".
Cũng vì kính trọng "bà chúa Bơi" nên người dân
trong làng không ai gọi thẳng tên họ của bà, vì thế
qua nhiều đời tên tuổi của người phụ nữ này đã bị
mai một, quên lãng; người ta chỉ quen gọi là "bà
chúa Bơi".
Ngoài ra, vì thuở còn con gái, bà chúa hay mặc
yếm đỏ nên dân còn gọi là "bà chúa Đỏ" và cũng vì lý
do đó mà đàn bà, con gái làng Kiến Xá có tục kiêng
mặc yếm đỏ.
Tương truyền rằng, "bà chúa Bơi" chính là mẹ
nuôi của Yết Kiêu; khi còn hàn vi, Yết Kiêu thường
kiếm sống bằng nghề sông nước, nay đây mai đó ở
nhiều bến sông, cửa bể. Tình cờ Yết Kiêu gặp "bà
chúa Bơi". thấy cậu bé thông minh, nhanh nhẹn, tuổi
còn trẻ mà chịu khó, gan dạ nên lấy làm yêu mến, bà
đã nhận Yết Kiêu làm con nuôi và dạy dỗ thêm các kỹ

476 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


năng bơi lặn, nhờ đó mà sau này ông đã trở thành
một "kình ngư" lẫy lừng trong lịch sử, "nhập thủy
như phúc bình địa hỹ" (bơi dưới nước như đi trên
đất bằng).
Truyện tích kể rằng ông từng về làng Kiến Xá mời
mẹ nuôi tham gia đánh giặc và bà đã nhận lời, cùng
lên đường ra trận. Không may trong một trận ác
chiến, "bà chúa Bơi" bị tử trận, xác bà trôi theo dòng
sông Nhị Hà (sông Hồng) rồi về đến làng Kiến Xá
(quê hương của bà) thì dạt vào bờ.
Dân làng biết tin vội vớt xác bà lên làm lễ chôn cất
chu đáo, sau thấy có sự linh ứng, người dân đã xây
lăng mộ và lập miếu thờ. Hàng năm, vào ngày 24
tháng 8 âm lịch, dân làng Kiến Xá lại mở hội và
không thể thiếu tục bơi chải để tưởng nhớ "bà chúa
Bơi".
Khi giặc Nguyên Mông bị đánh bại, triều đình xét
công ban thưởng, theo lời tâu của Yết Kiêu, vua Trần
đã lệnh cho làng Kiến Xá xây dựng đền thờ, lại sắc
phong cho "bà chúa Bơi" là:
"Tuệ Thông trang tĩnh Huyền thiên công chúa đại
vương".
(Tham khảo từ: Các vị thần thời Trần (Vũ
Thanh Sơn)- NXB Quân đội nhân dân, 2011)
Lời bình: Tích về bà chúa bơi là mẹ nuôi của Yết
Kiêu này tôi nghĩ là hợp lý hơn so với tích “trâu thần”.
Một người có năng khiếu từ nhỏ nhưng nếu không
gặp môi trường thích hợp, không được giáo dục đúng
sở trường thì cũng không thể thành tựu. Yếu kiêu có
năng khiếu bơi lội nhưng nếu bị bắt đi làm đồng, cầy
Chương 6: Thời nhà Trần 477
cấy thì không thể có được "Trần triều đệ nhất đô soái
thủy quân" oai hùng được.
Mỗi con người chúng ta sinh ra phàm ai cũng có
một vài năng khiếu gì đó vượt trội hơn các kỹ năng
khác. Trong Đạo Phật gọi là “tiềm thức kiếp xưa”. Tức
là ở các kiếp sống trước, người này đã sống và trải
qua những kỹ năng này rồi. Dân gian còn gọi là “Tài
năng thiên bẩm”.
Do vậy mới có câu: “Non sông dễ đổi, bản tánh khó
dời”, ai tham lam, nhỏ nhen, đố kị, ác độc... ngay từ
khi sinh ra bản tính của họ đã vậy. Nếu gặp đúng môi
trường bố mẹ cũng tham lam ích kỉ và buông thả con
cái thì tính xấu càng phát triển. Nếu sinh ra ở môi
trường bố mẹ đạo đức biết kìm hãm và dạy đạo đức
cho con thì tính xấu giảm bớt nhưng khó khăn vất vả.
Chiều ngược lại: Ai bản tính tốt gặp phải môi
trường xấu thì sẽ xấu đi nhưng bản tính tốt vẫn ẩn
khuất sâu trong tâm. Nếu họ gặp phải môi trường tốt
thì thành một bậc Thánh giữa đời.
Một người cha (mẹ) giỏi phải tìm được ra thế
mạnh của con mình để uốn nắn, khuyến khích, tạo
dựng môi trường thích hợp đúng với năng khiếu thì
con cái phát triển.
Một vị thầy giỏi (ngày xưa vị thầy là thầy cả đời
của học trò sẽ dạy trò từ khi nhỏ đến khi thầy mất) sẽ
giúp trò phát triển đúng tài năng thiên bẩm của mình.
Nếu trẻ bị bố mẹ áp đặt mà chọn sai môi trường,
sai năng khiếu bẩm sinh thì rất khó để đạt được
thành công lớn và cuộc đời vất vả vì đi sai đường, sai
sở trường.

478 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


110. “Trạo Nhi” đặc công nước (1285)

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông


Nguyên lần thứ nhất (1258), nhà vua ra khẩu hiệu
cho cả nước chuẩn bị vũ khí, chuẩn bị tinh thần sẵn
sàng chiến đấu. Tống giam sứ giả phương Bắc, quyết
tâm bảo vệ độc lập dân tộc.
Khi được vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến về kháng
chiến chống giặc, lúc này quân Mông Nguyên đang
mạnh như vũ bão, chiếm được kinh thành Thăng
Long, Thái sư Trần Thủ Độ đứng trước triều đình tự
tin trả lời:
- Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo.
Câu nói ngắn gọn, dứt khoát ở tình thế nước sôi
lửa bỏng giúp củng cố tinh thần chiến đấu anh dũng
của nhà vua, quân và dân Đại Việt, góp phần vào
chiến thắng vang dội.
Đến cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần
thứ 2 (1285), quyết tâm đánh giặc của toàn Đại Việt
tập trung ở "Hội Nghị Diên Hồng" (bến Bình Than,
Chí Linh, Hải Dương) họp các vương hầu, trăm quan
cùng bô lão trong cả nước bàn kế đánh giặc.
Hội nghị nhất trí một lòng quyết tâm đánh giặc
"xin đánh, xin đánh". Khẩu hiệu "Sát Thát" (giết giặc
xâm lược Thát Đát-chỉ quân Mông Cổ) ra đời ngay
sau đó. Để cổ vũ tinh thần chiến đấu, hăng hái luyện
tập và lòng yêu nước của binh sĩ, Trần Quốc Tuấn đã
viết "Hịch tướng sĩ".
Lần thứ ba, khi quân Mông Cổ kéo vào biên giới
Đại Việt (1288), Hưng Đạo Vương lại nhận định tiếp:

Chương 6: Thời nhà Trần 479


- Năm nay, giặc đến dễ đánh
Và, thực tế lịch sử đã chứng minh cả hai nhận
định đều chính xác, quân Mông Cổ phần nhiều bỏ
mạng trong cuộc xâm lược lần thứ ba.
Một trong những sở trường và ưu thế của quân
đội nhà Trần là thủy quân. Từ năm 1246, nhà Trần
đã có lệ tuyển chọn lính chèo thuyền thành một
ngạch riêng, gọi là Trạo Nhi, đội quân này góp phần
to lớn và vai trò quan trọng trong các trận thủy
chiến của quân đội.
Các cuộc tập trận và di chuyển quân trong các
cuộc kháng chiến hồi thế kỷ XIII chủ yếu diễn ra trên
sông, trên biển. Những chiếc thuyền nổi tiếng của
quân đội thời Trần mang các tên như: Kim Phượng,
Nhật Quang, Nguyệt Quang,... là uy lực của Đại Việt
và nỗi khiếp sợ của lân bang.
Lực lượng thủy quân hùng mạnh và thiện chiến
lúc bấy giờ, đã giúp gia tăng sức mạnh quân đội và
phát huy sở trường của quân dân Đại Việt, đánh vào
điểm yếu của giặc và buộc giặc phải đánh theo lối
đánh của tướng sĩ nhà Trần đã bày binh bố trận.
Thực tế lịch sử kháng chiến chống quân Mông Cổ
thế kỷ XIII cho thấy, các chiến thắng lớn đều diễn ra
ở vùng sông nước và cửa biển.
Cùng với sự phối hợp nhịp nhàng với các đội quân
khác của Đại Việt, Trạo nhi đã thể hiện vai trò, sức
mạnh của mình trong kháng chiến. Quân đội nhà
Trần tập trung đông khi cần thiết, có chất lượng vào
bậc nhất lúc bấy giờ (binh cốt tinh không cốt đông).

480 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Và, tất cả đội quân đó được đặt dưới sự luyện tập
và chỉ huy của những nhà quân sự thiên tài, điển
hình nhất là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Trong cả ba lần kháng chiến chống quân Mông Cổ,
đội quân này đã góp những phần quyết định trong
việc cầm cự, phản công và giành thắng lợi quân sự,
làm thay đổi cục diện chiến trường và đi tới thắng
lợi cuối cùng.
Năm 1258, kịch chiến diễn ra trên vùng sông Cà
Lồ (Vĩnh Phúc ngày nay); sông Hồng (đoạn gần
thành Thăng Long), sông Thiên Mạc (Hà Nam ngày
nay), thủy quân đã đánh những trận đầu, cầm chân
giặc tạo cơ hội phản công ở giai đoạn tiếp theo.
Ngày 29/1/1258 Vua Trần Thái Tông đã cùng
Hoàng Thái Tử Trần Hoảng chỉ huy Lâu thuyền,
ngược dòng Thiên Mạc đánh tan quân giặc ở Đông
Bộ Đầu (Hà Nội), chiếm lại kinh thành Thăng Long.
Thắng lợi này buộc quân Mông Cổ phải rút chạy tháo
thân theo đường sông Hồng và không dám cướp bóc
như hồi mới sang, hiền lành như "Phật".
Năm 1285, thủy chiến tiếp tục diễn ra ở vùng Bình
Than (sông Lục Đầu ngày nay); sông Hồng (đoạn qua
huyện Đông Anh ngày nay); sông Thiên Mạc (Duy
Tiên, Hà Nam); sông Hồng đoạn qua Thường Tín (Hà
Nội).
Quân Mông Nguyên thua to, theo sử cũ ghi lại, để
bảo toàn tính mạng, tướng chỉ huy là Thoát Hoan sợ
hãi, phải chui vào ống đồng cho tàn quân đưa về
Trung Quốc.

Chương 6: Thời nhà Trần 481


Tiêu biểu hơn cả là chiến thắng đội quân của Ô Mã
Nhi trên sông Bạch Đằng trong lần kháng chiến thứ
ba. Sáng sớm 09/4/1288, đoàn thuyền binh của
Tướng Ô Mã Nhi và Phàm Tiếp (quân Mông Cổ) trên
đường rút lui về nước, qua địa phận sông Bạch Đằng.
Nước chiều lúc này cao, che lấp bãi cọc đã được
quân dân nhà Trần bày bố từ trước. Một đội lính
cảm tử "Trạo nhi" lãnh nhiệm vụ ra khiêu chiến nhử
quân Mông Cổ rồi vờ thua rút chạy.
Ô Mã Nhi và Phàm Tiếp dẫn binh thuyền đuổi
theo. Đến thời điểm nước triều bắt đầu rút nhanh,
đoàn thuyền quân Mông Cổ xô vào cọc, bị dồn lại.
Nhiều chiếc bị thủng và chìm, nhiều chiếc mắc kẹt
không di chuyển được.
Bất ngờ từ tứ phía, phục binh Đại Việt trên các
thuyền chiến vừa và nhỏ đổ ra thừa thế tiêu diệt.
Trận kịch chiến diễn ra trên Bạch Đằng giang lịch sử,
máu nhuộm đỏ một khúc sông.
Chỉ trong một con nước triều, đội thủy quân hùng
hậu của Mông Cổ bị đánh tan, tướng Ô Mã Nhi bị bắt
sống. Bạch Đằng một thủa Ngô Vương (938) và Tiền
Lê (981) lại sống dậy.
Trong hàng vạn nghĩa sĩ "Trạo nhi" cuối thế kỷ
XIII có người may mắn được chứng kiến ca khúc
khải hoàn, có người đã ngã xuống trước khi chiến
thắng vì non sông Đại Việt.
Trong số đó, lịch sử có ghi chép đến hai nhân vật
nổi tiếng, họ là hình mẫu, đại diện cho hàng ngàn,
hàng vạn lính thủy Đại Việt mãi sống trong tiềm thức
lịch sử dân tộc, đó là Yết Kiêu và Dã Tượng. Đây là

482 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


hai thần tướng của Hưng Đạo Đại Vương và cũng là
những người sở hữu tài bơi lội, lập được nhiều chiến
công, trung thành với chủ.
Theo sử cũ, trong một trận chiến đẫm máu chống
quân Mông Nguyên, khi Trần Quốc Tuấn ra trận, Yết
Kiêu giữ thuyền ở Bãi (trên bờ sông Lục Nam) đợi
chủ, còn Dã Tượng luôn theo sát bảo vệ chỉ huy. Diễn
biến bất lợi, thuyền quân Đại Việt đều tìm được rút
lui chiến lược, Hưng Đạo Vương định rút lui theo
đường núi để bảo toàn lực lượng, tìm cách phản
công lại khi có điều kiện. Lúc này, Dã Tượng quả
quyết:
- Yết Kiêu không thấy Đại Vương tất không rời
thuyền chỗ khác.
Nghe vậy, Ngài cùng quân lính quay lại bến
thuyền vẫn thấy Yết Kiêu đợi lệnh. Cảm kích trước
lòng trung của những người bề tôi, Hưng Đạo Vương
hết lòng khen ngợi:
- Chim hồng hộc bay được cao là nhờ ở sáu cái
lông cánh, nếu không có sáu cái lông ấy thì cũng
như chim thường mà thôi.
(Tham khảo từ: Những danh tướng chống ngoại
xâm thời Trần – NXB Giáo dục, 2008)
Lời bình: “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”
nói ra thì chỉ là một câu nói đơn giản nhưng để thực
hiện được thì vô cùng khó khăn vì nó đi ngược với quy
luật tự nhiên. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có
Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa.
Thiên thời: tận dụng tốt những yếu tố thuận lợi do
trời mang lại. Tận dụng thời cơ, hiểu rõ sở trường, sở
Chương 6: Thời nhà Trần 483
đoản, khó khăn và bất lợi của địch của ta. “Biết người,
biết ta, trăm trận trăm thắng”
Ở đây nhà Trần hiểu rõ Nguyên Mông là đánh
nhanh thắng nhanh, đánh trên thảo nguyên và cướp
bóc lương thực dọc đường. Nhà Trần dùng kế đánh
chậm, thắng chắc làm kiệt quệ ý chí giặc. Và bỏ thành
không, mang toàn bộ dân và lương thực vào trong
núi khiến giặc đói khát mà kiệt. Ngoài ra yếu tố thời
tiết “lam sơn chướng khí” ẩm thấp, nóng nồm khiến
quân xứ lạnh khổ sở, dịch bệnh, nạn ruồi muỗi côn
trùng khiến giặc nhụt chí.
Địa lợi: là các yếu tố về địa, địa hình bị chia cắt,
sông ngòi chằng chịt, khó đánh bằng kị binh vốn là
thế mạnh của Nguyên Mông. Chọn những nơi sông
nước mà đánh với quân đội thiện chiến thảo nguyên.
Lối đánh du kích “đêm đánh ngày nghỉ” và ẩn nấp núi
rừng, ẩn ở dưới nước, thoắt ẩn, thoắt hiện khiến địch
hoang mang.
Nhân hòa: “Vận nước hưng long, trời sinh thiên
tướng” đó là trời giúp về Nhân và một loạt tướng lĩnh
tài ba kiệt xuất ngàn năm có một đều đồng loạt xuất
hiện. Và Phúc Đức của từng người dân trong đất
nước đã lên cao nên không phải chịu cảnh nô lệ khổ
sở. Uy Đức của vua Trần là rất lớn mà có được từ chữ
Đức trong Đạo Phật. Dân yêu vua, nghe lời vua, Vua
lại thương dân, lo lắng cho đất nước. Đó chính là một
chữ “Nhân hòa” vậy.

484 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


111. An Tư Công Chúa (? - 1285)

Ngày ấy, khoảng đầu năm ất Dậu (1285), quân


Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long.
Thượng hoàng Thánh Tông và Vua Nhân Tông đã đi
thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa
ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng giặc. Nhưng
quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9/3, thủy quân
giặc đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai Vua. Chiến
sự buổi đầu bất lợi. Tướng Trần Bình Trọng lại hy
sinh dũng cảm ở bờ sông Thiên Mạc.
Trước thế giặc mạnh, nhiều tôn thất nhà Trần như
Trần Kiện, Trần Lộng kể cả hoàng thân Trần ích Tắc
đã mang gia quyến chạy sang trại giặc. Trần Khắc
Trung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân
của giặc không có kết quả. Trong lúc đó, cần phải có
thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu.
Bởi vậy, Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến
kế mỹ nhân. Vua sai dâng em gái út của mình cho
Thoát Hoan. Công Chúa còn rất trẻ. Vì nước, An Tư
từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình,
vĩnh biệt bè bạn để hiến dâng tuổi trẻ, đời con gái, kể
cả tính mạng mình. An Tư đã vào trận chỉ có một
mình, không một tấc sắt. Hiểu rõ nạn nước, cảnh
mình, nàng chấp nhận gian khổ, tủi nhục, kể cả cái
chết.
An Tư đi sang trại giặc không phải với tư cách đi
lấy chồng mà là vật cống nạp, dâng hiến, cũng là một
người nội gián. Do vậy, sự hy sinh ấy thật cao cả. ở
trại giặc, làm vợ Thoát Hoan, An Tư đã sống ra sao,
làm được những gì, không ai biết. Nhưng tháng tư

Chương 6: Thời nhà Trần 485


năm ấy quân Trần bắt đầu phản công ở hầu khắp các
mặt trận khiến cho quân Nguyên đại bại, Thoát Hoan
phải chui vào ống đồng trốn qua biên giới.
Sau chiến thắng các Vua Trần làm lễ tế lăng miếu
khen thưởng công thần, truy phong các tướng lĩnh.
Nhưng không ai nhắc đến An Tư. Vậy, Công Chúa còn
hay mất. Nàng được mang về Trung Quốc hay đã
chết trong đám loạn quân. Trong cuốn "An Nam chí
lược" của Lý Trắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo
chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong ở Trung
Quốc có ghi:
"Trước, Thái tử (chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái
nhà Trần sinh được hai con".
Người con gái họ Trần này phải chăng là Công
Chúa An Tư. Chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định
điều ấy. Dù triều Trần và sử sách có quên nàng thì
các thế hệ đời sau vẫn dành cho nàng sự kính trọng,
thương cảm. Khoảng trống lịch sử sẽ được lấp đầy
bằng tình cảm của người đời sau.
(Tham khảo từ: Tóm lược Tiểu thuyết
lịch sử An Tư Công Chúa, Nguyễn Huy Tưởng)
-
Lời bình: Có những sự hi sinh anh dũng nơi chiến
trường để lại bao giấy bút sử liệu xót thương. Nhưng
có những sự hi sinh âm thầm và lặng lẽ không kém
phần anh dũng đời đời tổ quốc mang ơn nhưng lại
không được sử nhắc đến. Đó là sự hi sinh của những
thân phận người con gái trong chế độ phong kiến vốn
là trọng nam khinh nữ.

486 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ở đây, Công chúa An Tư chỉ là một ví dụ điển hình
mà thôi. Còn biết bao nhiêu những liệt nữ anh hùng
vốn là vợ vua, vợ quan, vợ các vị tướng của bao thế hệ
trong lịch sử Việt Nam đã âm thầm đứng sau “sân
khấu lịch sử” sinh con, nuôi dạy con thành tài, thành
các vị tướng lĩnh nổi danh với chiến công hiển hách.
Nhưng họ, những người phụ nữ này, người vợ, người
mẹ này không ai nhắc đến, không một dòng sử nào
ghi chép về những chiến công thầm lặng của họ.
Có ai có thể nói cho tôi biết mẹ của Trần Hưng Đạo
là ai? Tên là gì? Quê quán ở đâu? Đã có công sinh
thành dưỡng dục như thế nào để tạo nên một vị
tướng thiên tài mà cả thế giới ngưỡng mộ không? Rồi
mẹ của các vị tướng khác: Trần Nhật Duật, Trần
Quang Khải... là ai và công trạng của họ như thế nào
không?
Thật ra, công trạng của người mẹ để nuôi dạy đứa
con từ khi sinh ra đến khi thành đạt thật là nhiều vô
kể. Nhưng không một ai nhắc đến, không một nhà sử
học nho giáo phong kiến nào chú ý để ghi vào sử. Âu
đó cũng là thiếu xót được hình lên từ chế độ phong
kiến xưa.

Chương 6: Thời nhà Trần 487


112. Nhị vị Công Chúa nhà Trần (? - 1285)

Vào thời nhà Trần có một ông Vua sinh được năm
nàng Công Chúa, trong đó có hai nàng xinh đẹp: một
người tên là Bảo Nương, một người tên là Ngọc
Nương.
Năm hai nàng đến tuổi lấy chồng, Vua cha toan hạ
chiếu kén rể nhưng cả hai đều từ chối. Họ chỉ thích
đi xem núi sông cảnh vật trong nước. Họ tâu với Vua
cha trong một buổi vấn an:
- Thưa phụ hoàng! Phong cảnh nước nhà thật
muôn phần cẩm tú. Chúng con chưa muốn lấy
chồng. Chúng con chỉ xin phép phụ hoàng đi
chơi một chuyến để xem cho thỏa thích.
Vua Trần không biết làm sao can ngăn được, đành
phải chiều ý hai con. Họ cải trang thành hai gã con
trai, mang theo một số người hầu hạ, và từ đấy, đoàn
du hành không quản gió sương, đi khắp mọi nơi
trong nước, đặt dấu chân ở nhiều danh lam thắng
cảnh.
Vào hồi đó, có giặc Nguyên sang cướp nước ta.
Quân của chúng rất hung ác, đi đến đâu thì cướp bóc
tàn phá đến đấy. Dưới tay chúng, những đình đài
miếu mạo cũng như nhà cửa dân cư đều lâm kiếp tro
bụi.
Nhà Vua phái bao nhiêu quân đội đến biên thùy
nhưng không sao ngăn được bước tiến của chúng.
Chẳng bao lâu, chúng đã chia nhau chiếm khắp đầu
gò cuối bãi một vùng hữu ngạn sông Thương, đóng
đồn la liệt, để rồi hãm hiếp, chém giết, đốt phá không
còn kiêng nể gì.
488 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Bấy giờ, hai nàng Công Chúa đang ở bên tả ngạn
sông Thương. Vì vùng Đa-mỗi có nhiều phong cảnh
đẹp, nên hai chị em sai làm nhà trên bờ sông để tiện
trú chân ngắm cảnh. Thấy đất nước và dân cư bị tàn
phá vì lũ giặc hung hãn, hai nàng xiết bao căm tức.
Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép Vua cha
một phen liều mình diệt giặc.
Cầm đầu lũ giặc lúc đó ở vùng Bắc Giang có hai tên
tướng tiên phong. Chúng lăm le vượt sông tiến
nhanh về phía Kẻ Chợ. Hai nàng bí mật bàn với các
phụ lão làng Đa-mỗi giúp cho mình thực hiện được
mưu kế.
Thấy họ quả quyết, các phụ lão đành vâng lời. Hai
nàng bèn trang điểm rất đẹp, giả làm hai cô gái bán
hàng ở chợ ben sông, cố làm cho giặc ở bên kia trông
thấy.
Quả nhiên, hai tên tướng giặc vừa nhác thấy bóng
hồng thì tâm thần mê mẩn, chúng liền rút lệnh tiễn
cho quân hầu sang sông, truyền lệnh cho lang Đa-
mỗi phải đưa sang dâng nạp hai người con gái đó,
nếu kháng cự thì dân làng sẽ không thoát được cái
vạ "làm cỏ" một khi quân "thiên triều" sang sông. Hai
nàng bảo chúng:
- Chị em chúng tôi vẫn có lòng chờ hai tướng
quân. Nhưng chúng tôi vốn là con Vua cháu
chúa cũng biết chút lễ nghĩa. Nếu hai tướng
quân có lòng thương thì cho sang đây hai chiếc
thuyền hoa, chọn ngày lành tháng tốt, đón về tử
tế. Nếu tính truyện "cẩu hợp" thì chị em chúng

Chương 6: Thời nhà Trần 489


tôi thà nhảy xuống sông phó cho dòng nước,
chứ không chịu để nhơ nhuốc tấm thân.

Quân hầu trở về tin lại. Hai tên tướng giặc bèn sai
lấy hai chiếc thuyền, trang sức đẹp đẽ, cho mười
quân hầu và thị nữ mang vàng bạc chèo sang đón về.
Thấy chúng đến, hai nàng đón tiếp rất tử tế, sai dọn
cỗ bàn mời chúng ăn.
Trong khi đó, có mấy người thợ mộc đã cắt đặt
sẵn, kín đáo lôi thuyền lên bãi dùng khoan đục mỗi
thuyền chừng vài chục lỗ nhưng chú ý đút nút kín
lại, rồi đưa xuống nước như cũ. Sau khi phái mấy
người thân tín phi ngựa về Kẻ Chợ báo tin cho quân
triều, hẹn ngày tiến quân, đồng thời gửi lời vĩnh biệt
của mình tới hoàng hậu, Vua cha và anh chị em
hoàng thân quốc thích, hai nàng quay ra bảo mấy tên
quân hầu của giặc:
- Các người về bẩm với hai tướng rằng chị em
chúng tôi đã chọn được ngày lành tháng tốt,
đúng giờ thân sẽ xin xuống thuyền sang sông.
Nhưng hai chị em chúng tôi phải lên chỗ muôn
tên nghìn giáo thì rất sợ hãi, chỉ mong hai
tướng quân cùng đi thuyền đến làm lễ hợp cẩn
ngay trên thuyền hoa này.

Đúng ngày hẹn, hai nàng Công Chúa xuống


thuyền. Sắp sang bên kia sông, hai nàng nhất định
bắt quân hầu cắm lại để đợi. Quả nhiên, hai tướng
giặc chờ không được phải thân hành đi thuyền đến.
Trông thấy hai nàng xinh đẹp, bọn chúng hết sức

490 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


thèm muốn. Cho nên sau chén rượu hợp cẩn, chúng
đã ra lệnh cho bao nhiêu thuyền khác lui ra xa.
Giữa lúc hai tên tướng giặc đang say sưa vì rượu
nồng gái đẹp thì những chàng trai làng Đa-mỗi đã
ước hẹn sẵn, lặn ra giữa sông, lần đến dưới đáy hai
chiếc thuyền hoa, tháo tất cả những cái nút to nhỏ ra.
Nước chảy mạnh vào thuyền và không mấy chốc đưa
tất cả xuống thủy phủ.
Bấy giờ quân triều đình đã bí mật kéo tới rất
đông. Khi được người Đa-mỗi kể lại tin đó, họ vượt
sông ba mặt tiến đến đánh úp. Bọn giặc không tướng
như rắn mất đầu nên tan vỡ rất chóng.
Cuối cùng, quân ta đã tiêu diệt được cả một cánh
tiên phong địch, chặn được bước tiến của chúng,
nhờ đó đủ thì giờ cho Vua quan và tướng sĩ rút lui
khỏi kinh thành.
Về sau, đến ngày đại quân của nhà Vua đuổi giặc
ra ngoài bờ cõi, người ra nhớ đến công lao hai nàng
Công Chúa Bảo Nương và Ngọc Nương nên dựng đền
tại nhà của họ ở Đa-mỗi để thờ.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Trong chế độ phong kiến xưa thì các vị
công chúa luôn là món quà mỹ nhân kế giúp nước
những lúc lâm nguy. Nhưng đến lúc đất nước hòa
bình thì vẫn là những món quà mỹ nhân kế để trao
đổi lấy những thỏa ước của các thế lực chính trị.
Ví như: Ngọc Hân Công chúa (1770-1799) lấy vua
Quang Trung để đổi lấy sự hòa hiếu, Huyền Trân Công
chúa (1306) lấy vua Chiêm thành là Chế Mân để đổi
Chương 6: Thời nhà Trần 491
lấy châu Ô, châu Rí. Công chúa Ngọc Vạn (1605 -
1658) lấy vua Chân Lạp, Công chúa Ngọc Hoa (1610)
lấy vua Chiêm Thành để đổi lấy nhưng quan hệ ngoại
giao lân bang.
Các nàng Công chúa này vì nước hi sinh thân mình,
nhưng trong chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ
xưa thì các vị sử thần nho giáo không hề chép về
những chiến công âm thầm của họ. Để giữ được nước
hòa bình, để giữ được ngoại giao lân bang hòa hiếu
không chiến tranh thật rằng công lao của các vị là vô
cùng lớn.
Một vị tướng quân ra trận oai dũng, lãnh đạo ba
quân không sợ mất mạng, không sợ đổ máu thì được
sử không ngớt lời ca ngợi. Nhưng những vị Công chúa
yếu đuối này ra trận chỉ có một mình, có thể phải chịu
nhục nhã tủi hổ trong chốn phòng the nơi bóng tối .
Thì chẳng ai ghi những chiến công của họ.

492 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


113. Công Chúa Phụng Dương (1244 - 1291)

Công Chúa Phụng Dương (1244-1291) là con


Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ, mẹ là phu nhân
Bảo Châu. Từ nhỏ, Phụng Dương đã nổi tiếng thông
minh và rất mực hiền hậu. Vua Thái Tông Trần Cảnh
yêu nên đem về cung nhận làm con nuôi, cho hiệu là
Phụng Dương. Từ đó Phụng Dương trưởng thành
trong hoàng cung như một nàng Công Chúa.
Lớn lên Phụng Dương được gả cho Thượng tướng
Thái sư Trần Quang Khải. Nghi lễ đúng lệ như con
gái Vua lấy chồng. Nhưng thật không may cho Phụng
Dương, lúc ấy Thái sư Trần Quang Khải đang say mê
một người thiếp nên nhạt tình với vợ mới. Truyện
đến tai Trần Thủ Độ khiến ông nổi giận cho gọi con
gái về hỏi han cặn kẽ rồi quyết định không cho phép
Quang Khải được làm như thế.
Ở phủ tể tướng, Quang Khải có nhiều thê thiếp
nhưng về danh nghĩa, Phụng Dương là chánh phi,
tuy nhiên, Phụng Dương đối xử với các thứ thiếp của
chồng hết sức bao dung. Bà ân cần chỉ bảo cho họ
cách làm ăn, khu xử. Hoặc họ làm điều gì khiến
Quang Khải la mắng thì Phụng Dương lại nhẹ nhàng
khuyên giải để họ biết lỗi mà sửa. Trần Quang Khải
bàn việc nước, bà lo quán xuyến việc nhà, cư xử với
người già người trẻ có phép tắc, sắp xếp công việc
đâu ra đấy, nên tiền tài không hao phí mà vẫn sinh
lợi khiến chồng rất hài lòng.
Đi lấy chồng nhưng Phụng Dương vẫn săn sóc,
phụng dưỡng cha mẹ chu đáo. Khi cha mất, bà đích

Chương 6: Thời nhà Trần 493


thân lo cơm nước hầu hạ mẹ hệt như một cô gái
thường dân nết na hiếu thảo.
Năm Giáp Thân (1284) quân Nguyên xâm lược
nước ta. Thái sư và bà xuôi thuyền cùng triều đình
về Thiên Trường. Thình lình nửa đêm có chiếc
thuyền bị bốc cháy. Nghe tiếng hoảng loạn, ai nấy
tưởng giặc đến nơi rồi. Bà bình tĩnh đánh thức Thái
Sư dậy, đưa lá mộc che tên cho chồng. Bà được Thái
sư thực sự yêu phục.
Cuối đời, Thượng tướng Thái sư về nghỉ ở trang
riêng tại phủ Thiên Trường. Bà về theo rồi mất ở đấy
năm 47 tuổi. Nhân cách bà được chính Thái sư đánh
giá:
“Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết
lưu danh, vượng phu ích tử”.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Những chiến công âm thầm nhưng
không kém phần quan trọng của những liệt nữ trong
lịch sử Việt Nam.
Thật ra cho đến này nay, khi lịch sử đã sang trang
và chế độ nam nữ bình quyền thì những vị học giả
mới tìm lại trong kho dữ liệu sử và đề cao hình ảnh
người nữ trong sử học. Còn trong Đại Việt sử ký toàn
thư hay Đại Việt thông sử rất ít được nhắc đến hình
ảnh người con gái. Cũng xin cảm ơn những vị học giả
thời hiện đại.

494 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


114. Bà chúa kho Lý Thị Châu (1225 - 1300)

Bà Chúa Kho tên thật là Lý Thị Châu (năm sinh? –


năm mất?), tục gọi là Châu Nương, là một viên quan
nhà Trần (1225-1300) trong lịch sử Việt Nam. Khi
mất, bà được xem là một bậc thần nhân.
Lý Thị Châu sinh ngày 12 tháng 2 âm lịch tại
phường Võ Trại trong kinh thành Thăng Long (nay
là phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội, Việt
Nam).Cha bà là Lý Quýnh, quê ở làng Cổ Pháp (nay
thuộc xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh),
làm chức Điện hộ binh lương đời nhà Trần, chuyên
giữ gìn kho lương cho quân lính. Khi đến đóng quân
trong kinh thành, ông cưới vợ ở phường Võ Trại, rồi
bà ra đời sau đó.
Thuở nhỏ, Lý Thị Châu theo học ở phường Bích
Câu. Theo sử liệu thì bà là người vừa có tài văn võ lại
vừa có nhan sắc.Năm bà 18 tuổi, cha bà mất. Đến
năm 22 tuổi, bà nhận lời về làm vợ một viên Thái
bảo họ Trần (không rõ tên), làm chức Đốc bộ ở Châu
Hoan (nay là Nghệ An & Hà Tĩnh).
Tháng 2 năm 1285, một đạo quân Nguyên do
tướng Toa Đô chỉ huy từ nước Chiêm Thành tràn vào
cướp phá Châu Hoan. Thái bảo Trần đem quân
chống ngăn không được, đành phải rút quân về giữ
Diễn Châu (thuộc xứ Nghệ An) và củng cố lại lực
lượng. Trước tình thế khó khăn này, Lý Thị Châu tự
nguyện đứng ra chỉ huy quân sĩ bảo vệ kho lương, lo
việc hậu cần cho binh si, để chồng yên tâm ra trận
mạc.

Chương 6: Thời nhà Trần 495


Cuối tháng 5 năm 1285, quân đội nhà Trần đánh
đuổi được quân Nguyên ra khỏi cõi bờ, hai vợ chồng
bà được triệu về kinh. Thái bảo Trần nhận chức Tiền
quân duệ thành có nhiệm vụ cai quản đạo quân bảo
vệ kinh đô, còn bà thì được cử coi sóc kho phủ
Phụng Thiên.
Cuối tháng 12 năm 1287, sau khi chỉnh đốn lực
lượng, quân Nguyên lại chia làm 3 cánh tiến đánh
Đại Việt. Nhận thấy thế và lực của đối phương quá
mạnh, Vua quan nhà Trần quyết định rời khỏi Thăng
Long để bảo toàn lực lượng. Ngay sau đó, Thái bảo
Trần được lệnh phải cố chặn quân Nguyên ở phía
sông Hồng, và ông đã tử trận sau nhiều ngày cầm cự
để Vua quan cùng quân sĩ rút lui được an toàn. Nghe
tin chồng đã mất, kinh thành sắp thất thủ, Lý Thị
Châu cố nén đau thương để làm nhiệm vụ của mình.
Ngay lập tức, bà sai quân chuyển kho, cất giấu của
cải và lương thực.
Khi mọi truyện đã thu xếp xong, bà lấy khăn hồng
thắt cổ tự vẫn theo chồng.
Cuối tháng 4 năm 1288, quân Nguyên tháo chạy
về nước. Khi xét thưởng, Lý Thị Châu được truy tặng
là Quản trưởng quốc khố Công Chúa, và cho lập đền
thờ bà ở Giảng Võ (Hà Nội) và các làng ở Diễn Châu
(có cả thảy 22 nơi lập miếu thờ), tức nơi bà cùng
chồng đóng quân khi xưa.
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: ngày trước khi còn trẻ, tôi thường nghe
về kế sách “vườn không nhà trống” của Đại Việt đánh

496 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


giặc Nguyên Mông. Vua tôi và toàn dân Đại Việt bỏ lại
kinh thành, di dời kho lương quyết chiến du kích và
khiến giặc không cướp được lương thực sẽ đói.
Nhưng đến này nay, tôi mới biết người lãnh đạo và
bảo vệ kho lương thực đấy là là một người con gái.
Quân Nguyên Mông với chiến thuật đánh nhanh
thắng nhanh cướp bóc lương thực để sống đã thành
công trên toàn thế giới. Phía Đông chiếm hết Cao Ly
(Triều Tiên Hàn Quốc) đến bờ Thái Bình Dương. Phía
Tây chiếm kết Tây Á, Đông Âu, Trung Âu, Tây Âu đến
bờ Địa Trung Hải. Nhưng đến Việt Nam đã chịu thua
trước một người con gái quản lý kho lương Đại Việt.
(đến lần đánh Đại Việt thứ 3 (1288) chúng đã rút kinh
nghiệm và mang theo lương thực thì bị Trần Khánh
Dư đánh chìm toàn bộ, vua Trần Nhân Tông lại dùng
kế thả hết tù binh để chúng báo tin mất lương thực
khiến giặc hoang mang sợ hãi).
Sau khi chiến thắng Nguyên Mông thì bà đã đi theo
chồng để được tận nghĩa thủy chung. Sau khi Bà mất,
Công lao to lớn của bà đã biến thành quả Phúc nơi cõi
âm, với sự ra đi quyết liệt của bà đã biến hành sự linh
ứng. Đến ngày nay, sau 700 năm kể từ khi bà mất mà
Quả Phúc của bà vẫn lớn, sự linh ứng của Bà vẫn rất
nghiệm. Đền miếu thờ Bà trên khắp miền Bắc Việt
Nam luôn luôn đông kín người lễ bái cầu xin được
Phúc, được Lộc của Bà.

Chương 6: Thời nhà Trần 497


115. Nguyễn Bá Linh (? - 1285)

Vương trị bệnh tà Phạm Nhạn rất linh nghiệm.


Phạm Nhạn miếu tại huyện Đông Hồ làng An Bài,
sông Lương Giang. Tục truyền rằng: Phạm Nhạn họ
Nguyễn tên Bá Linh, cha là khách buôn tỉnh Quảng
Đông, mẹ là người làng An Bài nước ta, đậu tiến sĩ
nhà Nguyên, giỏi thuật phù thuỷ, thường lén vào hậu
cung làm sự bất chính, bị bắt được, sắp đem đi chém
nhưng vừa gặp lúc nhà Nguyên qua đánh Đại Việt
nên Bá Linh tình nguyện xin làm hướng đạo để
chuộc tội. Nhà Nguyên thuận cho. Trận đánh sông
Bạch Đằng, Bá Linh bị Hưng Đạo Vương bắt sống,
đem chém ở làng mẹ (An Bài), quăng đầu xuống
sông; có hai người kẻ chài cứ chài được đầu lâu mãi,
mới van vái rằng:
- Nếu như có linh thì giúp bọn chúng tôi chài cá
cho thật nhiều, chúng tôi sẽ chôn cất hẳn hoi.
Quả nhiên ngày ấy họ chài được rất nhiều cá,
nhiều gấp mấy ngày thường, mới đem đầu lâu lên bờ
chôn cất. Hai người kẻ chái thường van vái mời Bá
Linh đi theo thuyền chài chơi, lâu thành ra quen. Bá
Linh thường chỉ đàn bà bảo hai người ấy ghẹo chơi
thì đều được cả. hai người mới lập đền thờ phụng.
Ngày trước lúc Bá Linh bị chém có hỏi Hưng Đạo
Vương rằng:
- Bây giờ Vương cho tôi ăn gì?
Hưng Đạo giận bảo rằng:
- Cho mày ăn sản huyết của đàn bà.

498 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sau khi chết, ấn chứng lời nói của Hưng Đạo, Bá
Linh đi khắp trong nước, hễ gặp chỗ nào có sản phụ
là theo ngay và tức thì người đàn bà ấy mê man bất
tỉnh, thuốc men không thể chữa được. Nhà bệnh đến
đền Ba Linh cầu đảo, lấy chiếu cũ ở trong đền đắp
lên người bệnh hay trải cho người bệnh nằm, và lấy
tàn nhang pha nước cho uống thì lập tức lành ngay,
có người mới đem chiếu về đến nhà là đã lành rồi,
anh linh kỳ nghiệm như thế cả.
(Tham khảo từ: Việt Điện U Linh (Lý Tế Xuyên-
1329), NXB Khoa học Xã hội -1972)
Lời bình: Có câu rằng:“Sống không thác thiêng”
khi còn sống thì khôn khéo minh mẫn thông hiểu đạo
lý huyền vi thì khi chết làm vong hồn thiêng. Khi còn
sống thì tâm tính dâm dục như thế nào thì chết tâm
dâm dục vẫn như thế nấy mà đến trăm năm sau vẫn
không đổi tính. Sao lâu vậy?
Vì rằng: khi sống còn có thầy, có bạn, có xã hội, có
sách vở, có học được điều hay hoặc nhiễm điều dở nên
tâm tính dễ thay đổi hoặc xấu đi hoặc tốt lên. Khi chết
rồi là vong linh cô đơn chẳng có ai dạy bảo khuyên
nhủ nên tâm tính rất khó đổi. Nếu vong có duyên gặp
được bạn và kết bè kết đảng thì cảm ứng và chiêu
cảm đồng tâm nơi cõi âm rất nhạy nên dù có 100
vong linh thì đều một cái tâm giống như nhau, nghiệp
giống nhau mà thôi.
Lời một vị tướng uy đức và công đức như Hưng
Đạo Đại Vương thì ở thế gian “người trần mắt thịt”
chúng ta chỉ thấy ngài là vị tướng tài giỏi. Nhưng ở
thế giới cõi âm Phúc của ngài khiến cho quỷ thần phải
khiếp sợ mà phục tùng nghe lệnh. Nên khi ngài sống
Chương 6: Thời nhà Trần 499
chỉ một câu nói “lỡ miệng” đã khiến cho Bá Linh trăm
năm bị cái nghiệp ứng đúng theo lời nói của Hưng
Đạo Vương.

500 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


116. Quốc sư Quán Viên (1293-1314)

Sư hiệu là Quán Viên ở chùa Đông Sơn, giới hạnh


thanh bạch, tuệ giải tròn đầy, mấy mươi năm mà
không xuống núi. (Không rõ ngày tháng năm sinh
năm mất của Sư, nên lấy theo niên hiệu vua Trần Anh
Tông)
Gặp khi vua Trần Anh Tông (1293-1314) đau mắt
đã hơn tháng, chữa trị không hiệu quả, ngày đêm
đau nhức. Bỗng Vua nằm mộng thấy một vị Sư lấy
tay xoa vào mắt. Vua hỏi:
- Sư từ đâu đến và tên gì?
Sư đáp:
- Tôi là Quán Viên, đến cứu mắt Vua.
Tỉnh mộng, mắt liền hết đau, qua vài ngày mắt
Vua khỏi hẳn. Vua cho người tìm hỏi trong giới tăng
sĩ, quả có người tên Quán Viên ở chùa Đông Sơn.
Nhà vua sai người mời đến, rõ ràng là vị Sư đã
thấy trong mộng. Vua rất lấy làm lạ, phong chức
Quốc sư, ban thưởng rất hậu. Sư đều đem phân phát
hết không để lại một đồng nào, vẫn mặc y vá trở về
núi, dường như chẳng quan tâm.
Từ đó về sau, Sư đi vân du khắp núi sông châu
huyện làng mạc, nếu ở đâu có miếu thờ thần không
chánh đáng, làm hại dân, đều bị Sư quở trách đuổi đi,
dẹp phá miếu đền.
Còn những thần lớn mạnh mẽ, phần nhiều hiển
hiện hay báo mộng cho dân chúng đón tiếp Sư và xin
qui y thọ giới, giảm bớt cúng kiến sanh vật và khiến

Chương 6: Thời nhà Trần 501


bảo vệ dân chúng, không ai dám xúc phạm. Người
đời sau vẫn kính trọng Sư.
Không biết Sư tịch lúc nào, ở đâu và thuộc hệ phái
nào.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ) NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Phàm một vị Thiền Sư đắc đạo sống ẩn
tu nơi núi rừng, chứng đạo một mình, viên tịch một
mình, một số người cực đoan lại cho thế là hay, thế là
thoát đời thấu đạt được lý Không trong Bát Nhã Tâm
Kinh (bài kinh vốn dĩ dành cho vị Đại Bồ Tát sau khi
đã viên mãn Lục độ Ba La Mật, câu đầu tiên của bài
Kinh là: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba
Đa Mật Đa thời...”, nghĩa là Vị bồ tát sau khi thực
hành viên mãn Bát Nhã Ba Đa Mật Đa rồi thì mới tu
tập vào Kinh).
Hoặc họ khen ngài đã chứng đạt viên mãn đạo lý
Xả trong bốn chữ Từ Bi Hỉ Xả. Nhưng họ biết đâu Từ
Bi Hỉ Xả là một cụm từ không thể tách rời và có ý
nghĩa trước sau tuần tự.
Để đi đúng đường thì phải đạt được Từ trước tiên:
tình yêu thương vạn vật luôn loài và con người. Sau
đó là Bi: Cảm nhận và đau khổ với nỗi đau của muôn
loài. Tiếp đó là Hỉ: Cảm nhận và vui với cái vui đạo
đức của người. Và cuối cùng, sau khi đạt được 3 điều
trên để đi sâu vào Thiền Định thì Thiền Sư sẽ phải bỏ
tất cả không nghĩ thiện, không nghĩ ác với tâm hoàn
toàn buông Xả. Xả chỉ có thể có sau khi đạt được Từ
Bi Hỉ.

502 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ở đây vị Thiền sư Quán Viên tu hành đắc đạo nơi
chốn núi rừng nhưng thấy duyên đã đến, thấy có
người cần giúp thì ngài đã không dùng đạo lý Xả hay
đạo lý Không. Ngài đã bằng thần giao cách cảm và
thuật huyền vi chữa trị cho Vua theo đạo lý Từ Bi.
Sau khi được trọng thưởng thì ngài lại dùng đạo lý
Xả để không chấp giữ tiền bạc tài sản.
Tùy theo duyên ngài đi khắp nơi để giúp dân thoát
khỏi nạn yêu ma nhiễu nhương, đó chính là đạo lý Có.
Nhưng tâm không chấp vào thành tích và phép thuật
của mình đó chính là đạo lý Không. Ngài là một người
thấu rõ đạo lý Không và đạo lý Từ Bi Hỉ Xả là vậy.

Chương 6: Thời nhà Trần 503


117. Trần Thì Kiến (1260 - 1330)

Trần Thì Kiến (1260 - 1330) người làng Cự Sa,


huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh
Quảng Ninh). Trần Thì Kiến được bổ dụng làm Kiểm
pháp quan, kiêm chức Đại an phủ Kinh sư. Chức vụ
Kiểm pháp quan của Trần Thì Kiến không phải ngẫu
nhiên mà có. Trước hết, bởi tính thanh liêm hiếm có
của ông.
Ông tính cương trực, trước kia là môn khách của
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, được Quốc Tuấn
tiến cử với vua Nhân Tông (1279-1293) cất nhắc
làm An phủ sứ Thiên Trường, kế đó đổi qua phủ Yên
Ninh.
Theo sử sách, ông là người sở trường về khoa
đoán quẻ Kinh dịch. Trước khi quân dân ta tiến hành
hai cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược Mông –
Nguyên lần thứ hai (1284-1285) và thứ ba (1287-
1288), ông đã dự đoán chính xác kết quả thắng lợi
của chiến tranh.
Đến tháng 4 năm Đinh Dậu (1279), Trần Thì Kiến
được bổ dụng làm Kiểm pháp quan, kiêm chức Đại
an phủ Kinh sư. Chức vụ Kiểm pháp quan của Trần
Thì Kiến không phải ngẫu nhiên mà có. Trước hết,
bởi tính thanh liêm hiếm có của ông.
Truyện tích như sau:
“Lúc đang làm An phủ sứ Thiên Trường, có người
trong hương nơi ông trị nhậm, nhân ngày giỗ đem
biếu ông mâm cỗ, Trần Thì Kiến hỏi vì cớ gì mà biếu.
Người ấy trả lời là vì ở gần trị sở nên đem biếu chứ
không có ý gì khác.
504 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tuy nhiên, mấy ngày sau khi biếu mâm cỗ giỗ ấy lại
có việc đến kêu xin, nhờ vả. Khi người ấy trình bày
việc vừa dứt, quan Thì Kiến liền móc họng mửa ra, ý
là trả cỗ hôm trước không nhận, làm cho kẻ kêu xin
muối mặt mà về, từ đó không dám ho he nhờ cậy
nữa”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên thời Lê khi nói về tích truyện
này của ông, cũng tấm tắc mà khen: "Thì Kiến hành
động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của
người bấy giờ, cũng như Án Anh tằn tiện quá mức để
uốn nắn cái thói xa xỉ tiếm lễ của Quản Trọng vậy".
Bởi việc liêm của ông, nên vua Anh Tông thăng
làm Kiểm pháp quan. Mỗi khi có kiện tụng, thì dùng
lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương pháp để ứng
phó.
Người đời đều khen ông là giỏi xét đoán kiện
tụng, lại có câu khen: "Khả dĩ chiết ngục" nghĩa là:
“trong cương vị một quan tòa có khả năng phân tích
hết mọi lẽ rồi mới kết tội”.
Tháng 12 năm Mậu Tuất (1298), vua Anh Tông lại
bổ dụng Trần Thì Kiến là Nhập nội Hành khiển hữu
gián nghị đại phu.
Nhà vua thấy Trần Thì Kiến là người cương trực,
nên ban cho cái hốt (có tên riêng là "thủ bản", vua
quan cầm trong lúc triều yết, có việc gì thì ghi chép
vào hốt để khỏi quên) và làm bài minh vào cái hốt
rằng:
“Thái sơn trinh cao,
Tượng hốt trinh liệt,
Lĩnh trĩ trãi giốc,
Chương 6: Thời nhà Trần 505
Vì hốt nan chiết.
Dịch nghĩa là:
“Thái sơn rất cao,
Hốt ngà rất cứng,
Linh trãi dâng sừng,
Làm hốt khó gãy”.
(Tham khảo từ: Những điều lạ thời Trần,
trang 87-89, NXB Văn hóa – Thông tin)
Lời bình: Vị quan thanh niêm chính trực, thấu rõ lý
đúng sai và hành động theo lẽ phải, không chút tư lợi.
Thật ra hình mẫu vị quan thanh niêm này nếu được
khai thác để viết thành tiểu thuyết dã sử thì có thể
hấp dẫn như truyện “Bao Công xử án”. Nhưng văn
chương Việt Nam không phát triển bằng Trung Quốc,
truyện bằng vân xuôi mãi đến thế kỷ 16, 17 mới bắt
đầu có.

506 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


118. Huyền Trân Công Chúa (1306)

Vua Trần Nhân Tông sau khi đã truyền ngôi cho


con là Trần Anh Tông, lên tu ở núi Yên Tử, mến cảnh
núi sông thường hay đi du ngoạn các nơi, vào đến
đất Chiêm.
Trong khi ở Chiêm Thành, Vua Chế Mân biết du
khách khoác áo cà sa là Thượng Hoàng nước Việt,
nên lấy tình bang giao mà tiếp đãi nồng hậu. Không
rõ Thượng Hoàng vân du có ý định mở mang bờ cõi
cho đất nước về phía nam không, hay vì cảm tình đối
với ông Vua trẻ tuổi Chiêm Thành mà hứa gả Công
Chúa Huyền Trân cho Chế Mân.
Vua Chiêm cử sứ giả Chế Bố Đài cùng đoàn tùy
tùng hơn trăm người mang vàng bạc, châu báu, trầm
hương, quý vậy sang Đại Việt dâng lễ cầu hôn. Triều
thần nhà Trần không tán thành, chỉ có Văn Túc Đạo
Tái chủ trương việc gả.
Vua Chế Mân tiến lễ luôn trong năm năm để xin
làm rể nước Nam, rồi dâng hai châu Ô, Rí (từ đèo Hải
Vân Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay)
làm sính lễ cưới Công Chúa Huyền Trân về nước.
Huyền Trân làm hoàng hậu nước Chiêm Thành
được một năm thì Vua Chế Mân mất. Thế tử Chiêm
phái sứ giả sang Đại Việt dâng voi trắng và cáo về
việc tang.
Theo tục lệ nước Chiêm, Vua mất thì cung phi
phải lên hỏa đàn để tuẫn táng. Vua Trần Anh Tông
hay tin Vua Chiêm mất, sợ em gái là Công Chúa
Huyền Trân bị hại, bèn sai võ tướng Trần Khắc
Chung hướng dẫn phái đoàn sang Chiêm Thành nói
Chương 6: Thời nhà Trần 507
thác là điếu tang, và dặn bày mưu kế để đưa Công
Chúa về.
Trần Khắc Chung trước kia đã có tình ý với Huyền
Trân, song rồi vì việc lớn, cả hai cùng dẹp bỏ tình
riêng, ngày nay lại được Vua giao phó nhiệm vụ đi
cứu Công Chúa.
Sang đến nơi, Trần Khắc Chung nói với thế tử
Chiêm Thành rằng:
- Bản triều sở dĩ kết hiếu với Vương quốc vì Vua
trước là Hoàn Vương, người ở Tượng Lâm,
thành Điển Xung, là đất Việt Thường: hai bên
cõi đất liền nhau thì nên yên phận, để cùng
hưởng hạnh phúc thái bình cho nên gả Công
Chúa cho Quốc vương. Gả như thế vì thương
dân, chứ không phải mượn danh má phấn để
giữ trường thành đâu! Nay hai nước đã kết
hiếu thì nên tập lấy phong tục tốt. Quốc vương
đây mất, nếu đem Công Chúa tuẫn táng thì việc
tu trai không người chủ trương. Chi bằng theo
lệ tục bản quốc, trước hãy ra bãi bể để chiêu
hồn ở trên trời, đón linh hồn cùng về rồi mới
hỏa đàn sau.

Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân biết rằng
Công Chúa sẽ bị hỏa táng, nhưng không biết làm thế
nào, thấy sứ Trần Khắc Chung tới mới hát lên một
câu ngụ ý cho sứ Nam biết mà lo liệu cứu Công Chúa
khỏi bị lên thang hỏa đàn:
“Đàn kêu tích tịch tình tang,
508 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Ai đem Công Chúa lên thang mà ngồi”.
Người Chiêm Thành nghe theo lời giải bày của
Trần Khắc Chung, để Công Chúa Huyền Trân xuống
thuyền ra giữa biển làm lễ Chiêu Hồn cho Chế Mân.
Trần Khắc Chung đã bố trí sẵn sàng, cỡi một chiếc
thuyền nhẹ trực sẵn, đợi thuyền chở Công Chúa ra
xa, lập tức xông tới cướp Công Chúa qua thuyền
mình, dong buồm ra khơi nhắm thẳng về phương
bắc.
Huyền Trân Công Chúa gặp lại người tình cũ đến
cứu mạng về, hoa xưa ong cũ ai ngờ còn có ngày tái
ngộ, đôi trai tài gái sắc kéo dài cuộc tình duyên trên
mặt biển, hơn một năm mới về đến kinh sư.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch
sử Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Công chúa Huyền Trân được ghi vào sử
Việt nhờ có công mở mang bờ cõi Đại Việt thêm hai
châu Ô, châu Rí trong hòa bình và thỏa hiệp. Công đức
này nếu so với những vị tướng quân hào hùng đánh
giặc Chiêm Thành cũng không kém phần oanh liệt.
Trong lịch sử cũng có nhiều vị công chúa được gả
cho vua nước lân bang để đổi lấy hòa hiếu (giống như
đi làm con tin, nếu có chiến sự xảy ra giữa hai nước
thì các vị sẽ là người đầu tiên bị giết). Nhưng vì không
có công trao đổi đấy đai nên không được ghi chi tiết
trong sử như Công chúa Huyền trân. Lịch sử còn ghi
nhận công lao mở nước của nhị vị công chúa con Sãi
Vương Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Vạn lấy vua
Chân Lạp, Công chúa Ngọc Hoa lấy vua Chiêm Thành.

Chương 6: Thời nhà Trần 509


119. Đoàn Nhữ Hài (1280 - 1335)

Đoàn Nhữ Hài làm Tham tri chính sự.


Vua sai Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành, Nhữ Hài xin
yết kiến Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí
Linh, suốt ngày không được gặp.
Một lát sau, pháp giá ra chơi, Nhữ Hài đến bái yết.
Thượng hoàng nói truyện với Nhữ Hài có đến một
giờ.
Khi trở về, Thượng hoàng bảo tả hữu:
- Nhữ Hài đúng là người giỏi, hắn được Quan gia
sai khiến là phải.
Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy
chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư.
Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để
lên trên án và nói với chúa Chiêm:
- Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên
tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở
chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi
phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau.
Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy,
chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có
chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý
là thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất.
Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ
Ni (bến cảng của Chiêm Thành, nơi tụ tập các thuyền
buôn), tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi viên coi
cảng đến bảo:

510 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Chỗ này người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là
bến tàu xung yếu, khó giữ gìn, sứ thần về rồi,
cất ngay bảng đi, đừng để mất.
Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã thần phục,
nhưng thực ra chưa chịu nội phụ, bảng cấm rốt cục
cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để
tự họ làm như thế.
Sau này, Đại Việt đi sứ Chiêm Thành, không lạy
chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài. Khi về nước, Vua
rất khen ngợi ông và quyết ý dùng vào chức to, cho
nên có lệnh này.
Tiếp đến là việc vua Chiêm Thành là Chế Mân mất,
theo phong tục thì hoàng hậu (Huyền Trân công
chúa) phải bị hỏa thiêu cùng chồng nhưng Công chúa
đã bỏ trốn làm cho triều đình nước Chăm nổi giận.
Vua mới nước Chăm bèn sai năm vạn quân mã đòi
lại châu Ô, châu Rí đã giao cho Đại Việt.
Bên Đại Việt không rõ tình hình công chúa đã bỏ
trốn nên chỉ phái tướng quân Đoàn Nhữ Hài mang
mấy ngàn quân vào dò động tĩnh nhưng lại gặp thế
giặc quá mạnh.
Một buổi chiều hè, quân Đại Việt đã tiến vào tới
sát bờ sông trong. Quân do thám về báo quân Chăm
đã kéo ra đông vô kể do một viên tướng mặt đen râu
xồm tên là Lồi hiện đang đóng trên mấy ngọn đồi ở
bên kia sông.
Thấy tình thế đã trở nên nghiêm trọng, Đoàn Nhữ
Hài lo lắng vì quân số chênh lệch. Đoàn tướng quân
vò đầu suy nghĩ.

Chương 6: Thời nhà Trần 511


Rồi người ta thấy quân lính Việt được lệnh cắm
trại rải rác suốt mấy dặm dài dọc theo bờ sông. Mỗi
trại chia ra từng nhóm quân, nhóm nào nhóm ấy
cắm cờ la liệt. Để khoa trương thanh thế, ban đêm
mọi nơi thắp đèn đuốc sáng choang, lại đánh trống
chiêng và hò reo rầm trời. Ban ngày có một toán
quân đã cắt đặt sẵn, vác gươm giáo sáng quắc, nai nịt
chỉnh tề đi quanh hòn núi nổi lên bên bờ sông.
Bên Chăm thấy bên Việt án binh bất động lại thấy
quân địch kéo qua núi liên miên không ngớt, nghĩ tới
oai hùng của những người đã chiến thắng trăm vạn
quân Nguyên Mông nên sinh khiếp sợ, cũng án binh
bất động và sai sứ giả đàm phán.
Kết quả, hai bên đi đến một đính ước:
- Trong một đêm hai bên đều khởi công, mỗi bên
đắp một bức thành cho suốt tới sáng, bên nào
hơn thì thắng. Bên thua lập tức lui binh nhường
đất, để khỏi giết hại sinh linh.
Trong khi quân Đại Việt còn đủng đỉnh nấu ăn coi
bộ chưa nghĩ tới cuộc đấu sức đã bắt đầu, thì quân
Chàm đã vội vã kẻ đào, người chuyền đất, đắp một
bức thành suốt dọc bờ sông vắt qua mấy ngọn đồi.
Tướng Lồi đốc thúc ráo riết. Trời chưa tối hẳn thì
quân Chàm đã đắp nổi một quãng khá cao.
Cho đến mờ sáng, cả tướng lẫn quân lấy làm
mừng rỡ vì mặt thành đã cao hơn trượng.
Chợt nghe một hồi trống đồng từ bên kia vọng
đến, quân Chàm bên này trông sang, thì kia, thăm
thẳm mấy dặm dài, thành của bên quân Đại Việt đã
xây xong từ bao giờ: tường cao dễ đến mấy trượng,

512 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


cổng thành với cái vọng lâu đồ sộ. Chẳng những thế,
trong thành lại còn nhà cửa mới xây rất nguy nga:
mái lợp ngói đỏ tường quét vôi trắng, trên mặt
thành voi ngựa, quân lính dàn ra không biết bao
nhiêu mà kể Hàng ngũ của họ rất chỉnh tề, đứng im
phăng phắc dưới bóng cờ như chỉ chờ lệnh là xông
ra.
Tướng Lồi ở trên chòi cao đưa mắt nhìn với một
vẻ ngơ ngẩn hãi hùng. Quân Việt quả là dồn tất cả lực
lượng vào đây. Trêu vào họ chỉ là chuốc lấy một thất
bại thảm hại. Khi nghe tiếng loa bên địch thét lên,
tướng Lồi nổi hiệu cho toàn quân rút lui khỏi vùng Ô,
Lý.
Sự thật Đại Việt đã xây thành bằng phên tre, nhà
cửa bằng nan ghép lại, quân sĩ voi ngựa đều bằng cỏ
bện hoặc bằng đất, những mái đỏ tường trắng, cỏ
xanh đều là màu thuốc tô điểm.
Ngày nay vẫn còn dấu vết bức thành do quân
Chàm đắp dở, thuộc địa phận mấy xã Dương Xuân,
Nguyệt Biều (Thừa Thiên). Người ta gọi là thành Lồi
để phân biệt nó với thành Phật Thệ ở gần đó và cũng
để nhắc nhở cái tên của tướng quân Chăm.
(Tham khảo từ: Việt Sử Những câu chuyện
lạ kỳ (Lê Thái Dũng - NXB VHTT, 2013)
Lời bình: Nếu mang hai vị quan văn và quan võ tài
năng ra so sánh với nhau. Xét theo công trạng nếu
thấy bằng nhau thì vị quan văn sẽ có công đức nhiều
hơn. Tại sao vậy? Vì cùng công trạng giữ vững đất
nước trước nạn ngoại xâm thì quan văn không gây đổ

Chương 6: Thời nhà Trần 513


máu, không tạo nghiệp sát sinh nên Công đức của
quan văn là hơn.
Huống chi Đoàn Nhữ Hài là xứ thần Đại Việt mang
lại cho đất nước ta uy thế là quốc gia lớn so với
ChămPa mà bỏ nghi lễ lạy vua Chăm thật là tài năng,
tâm phục khẩu phục.

514 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


120. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346)

Cùng với Phùng Khắc Hoan, Mạc Đĩnh Chi là Trạng


Nguyên của Đại Việt và Trung Hoa. Ông là nhà văn,
danh sĩ đời Trần Anh Tông, tự là Tiết Phu. Vốn người
làng Lan Khê, huyện Bình Hà, châu Nam Sách, lộ
Lạng Giang; sau dời đến làng Lũng Động, huyện Chí
Linh (nay thuộc tỉnh Hải Dương).
Năm 1304, ông đỗ Trạng nguyên. Vua thấy tướng
mạo xấu có ý chê, ông dâng bài phú "Ngọc tỉnh liên"
(sen giếng ngọc) khiến Vua khâm phục, bổ chức Nội
thư gia.
Ông làm quan trải ba triều Anh Tông, Minh Tông,
Hiến Tông; giữ các chức: Nhập nội hành khiển, Tả tư
lang trung, thăng Thượng thư Tả bộc xạ, kiêm Trung
thư coi việc quân dân, tước Ðại liêu ban. Tính ông
liêm khiết, được sĩ phu trọng vọng. Ông từng đi sứ
Trung quốc 2 lần, được các danh sĩ nước Trung Hoa
khen ngợi, khâm phục.
Ông là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển
Tích (khoa Bính Dần niên hiệu Quảng Hựu thứ 2
(1086), đời Lý Nhân Tông). Ðến đời Mạc Ðăng Dung
là cháu 7 đời của ông lên cướp ngôi nhà Lê xưng đế,
truy phong ông là Huệ Cảm Linh Khánh vương, có
lập điện Sùng Ðức để thờ ông tại phần mộ ở làng
Lũng Động.
Huyền sử có tích rằng:
Làng Lũng Ðộng có một khu rừng rậm, cây cối
bùm tum, lắm giống hầu (khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường
khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp. Về
nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn
Chương 6: Thời nhà Trần 515
con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị ông
kia chém chết bỏ thây tại đấy.
Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết,
thành gò mả.
Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Ðĩnh
Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ loắt choắt tựa như
giống hầu (dân gian còn gọi trạng là Trạng Khỉ)
Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên.
Đĩnh Chi người thấp bé xấu xí, người Nguyên
khinh ông.
Một hôm viên tể tướng mời ông vào phủ cho cùng
ngồi. Lúc ấy, đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ
có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu
cành trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ con chim sẻ thực, vội
chạy đến bắt. Người Nguyên cười ồ, cho là người
phương xa bỉ lậu.
Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người
đều lấy làm lạ hỏi tại sao?
Đĩnh Chi trả lời:
- Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ
chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ.
Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu
cành trúc với chim sẻ. Trúc là bậc quân tử, chim
sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để
tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu
nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì
thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân".
Mọi người đều phục tài của ông.

516 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Đến khi vào chầu, gặp lúc nước ngoài dâng quạt,
Vua Nguyên sai làm bài minh. Đĩnh Chi cầm bút viết
xong ngay, lời bài minh như sau:
“Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô,
nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương,vũ tuyết tái đồ,
nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu.
Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng,
duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù”.
Bản dịch:
Chảy vàng tan đá, trời đất như lò,
ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho.
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù,
ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo.
Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co,
chỉ ta cùng ngươi là thế ru!
Người Nguyên lại càng thán phục.
Khi bà hoàng hậu Nguyên mất, Vua Nguyên sai
ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc văn tế. Ðến lúc quì xuống
cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có
bốn chữ "nhất". Ðĩnh Chi không nghĩ ngợi gì, đọc
ngay rằng:
"Thanh thiên nhất đóa vân,
hồng tô nhất điểm tuyết,
Thượng Uyển nhất chi hoa,
Dao Trì nhất phiến nguyệt.
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết".

Chương 6: Thời nhà Trần 517


Nghĩa là:
“Một đám mây trên trời xanh,
một giọt tuyết trong lò đỏ,
một cành hoa vườn Thượng Uyển,
một vầng trăng ao Dao Trì.
Than ôi, mây rã, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết”.
Bài văn này còn chép vào sử Trung Hoa. Người
Tàu ai cũng chịu tài ứng biến nhanh.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: Thế mới biết vị tướng thống lĩnh ba quân
đánh chiến với giặc khiến giặc khiếp sợ thì nghìn
quân ngã xuống, máu đổ đầu rơi. Còn vị quan văn tài
giỏi chỉ cần với ba tấc lưỡi khéo léo tài tình cũng
khiến giặc khiếp sợ.
Nhưng hai cái lý khiếp sợ ở đây là khác nhau. Một
bên sợ vì võ lực hay sinh thù ghét do tâm của các vị
tướng và binh sĩ đôi bên luôn thù hận do nghiệp sát
mà ra. Và một cách sợ vì Văn, vì cái tài năng, khí
phách, hay cái học vấn đều lấy gốc là trí tuệ mà thành
nên hình thành tâm yêu mến nể phục.
Một đất nước có cương có nhu, có âm có dương,
Văn võ toàn tài là một đất nước vững mạnh vì không
thái quá. Nên có Ca dao rằng: “Cứng quá thì dễ gãy,
mềm quá hóa ra yếu” chính là vì vậy.

518 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


121. Chu Văn An (1292 - 1370)

Ngày ấy vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã


Quang Liệt tên là Chu An. Học vấn của cụ sâu và rộng
học trò xa gần đến học rất đông. Vua vời cụ về Kinh
giao cho trông nom Trường Quốc Tử và dạy các
hoàng tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm
chức. Nhưng được hơn một năm đã thấy cụ trở về.
Cụ bảo mọi người rằng:
- Ta không thể chịu được với bảy tên quyền thần
dối Vua hại nước?
Từ đó, cụ trở lại nghề dạy học ở quê nhà. Lần này
những người đến xin theo học đông vô kể. Cả một cái
gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà
nữa mới đủ chỗ để chứa học trò. Nhà trong xóm chật
ních những anh đồ nho, đủ mặt người kinh, người
trại. Đó là chưa kể những người ở quanh vùng hàng
ngày cơm đùm cơm gói đi về học tập.
Trong số học trò của cụ có hai anh em con Vua
Thủy Tề. Nghe tiếng cụ đồ, Vua Thủy Tề cũng cho
con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút
lốt thuồng luồng ở nước rồi lên đất, nói năng cử chỉ
không khác gì người trần.
Một hôm, cụ đồ đang chấm bài thì có anh trưởng
tràng đến kể :
- Sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt người, con có
việc đi chợ huyện, đến cầu Bưu con tình cờ thấy
từ dưới sông có hai người đi trên mặt nước tiến
vào bờ. Đúng là hai anh em nhà Gàn thầy ạ?
Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả

Chương 6: Thời nhà Trần 519


nhiên họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế
nào?
Cụ đồ gật gù đáp:
- Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là Quỷ Thần
mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay
chứ sao!
Năm ấy vùng Thanh Đàm trời làm đại hạn. Suốt từ
cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có
lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa,
đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ
đồ sốt ruột không kém. Một chiều kia sau buổi học,
cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo:
- Thầy muốn các con thương đến dân một chút.
Hai anh em làm bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ
còn giấu mình, cụ nói:
- Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây
giờ đây chỉ có các con là cứu được dân sự. Các
con hãy làm mưa cho họ nhờ.
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ:
- Dạ, nhưng hiềm vì sông hồ đều có lệnh "phong
bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ?
Cụ khẩn khoản:
- Các con cố nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu
được không. Không cứu được nhiều thì ta hẵng
tạm cứu ít vậy!
Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên
mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ:
- Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy
thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy.
520 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm
thấm nhuần trong một vùng vậy. Cụ đồ mừng
rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn
đầy nước và cả quản bút lông của mình thường
dùng, đưa cho họ.
Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến ra bờ
sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng
nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên
trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống
nước, cúi vái cụ đồ rồi biến mất.
Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa
một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ, suốt đêm
chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai
nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy
cánh đồng trong vùng Thanh Đàm mà thôi. Hơn nữa
sắc nước chỗ nào chỗ ấy đều đen như mực. Trận
mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu
là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân
vùng Thanh Đàm lại vui vẻ như xưa.
Nhưng lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy
làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc Hoàng nổi
giận sai một thiên thần đi tìm bắt cho được thủ
phạm trị tội. Và cả hai anh em đều không thoát lưới
trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa
của thần sét. Xác của họ hiện nguyên hình là hai con
thuồng luồng song đầu một nơi mình một nẻo, giạt
vào gậm cầu Bưu.
Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt
tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng.
Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ sông. Xác hai

Chương 6: Thời nhà Trần 521


con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên cầu và
cũng đắp thành nấm như mộ của người.
Cái nghiên mực của cụ đồ Chu An sau đó trôi về
làng Quỳnh Đô làm đen cả nước đầm ấy, ngày nay
người ta vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì
lại trôi về làng Tó cho nên các cụ thường truyền rằng
nhờ thế làng Tó tức là làng Tả Thanh Oai bây giờ, có
lắm người họ hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con
quái vật tức là hai anh em thuồng luồng sau đó
người ta lập miếu thờ, ngày nay vẫn còn có tên là
miếu Gàn.
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: Truyện tích chép vậy, tôi cũng mạn phép
kể lại như vậy. Còn tôi không tin truyện về “con vua
thủy tề” này lắm.
Tại sao ư? Thật ra Tâm Linh trong vũ trụ chỉ tồn
tại ở 3 dạng: Thiên, Địa, Nhân những dạng như vật
chất, cây cỏ, súc sinh cũng có tâm linh nhưng rất mờ
nhạt.
Trong 3 dạng Thiên (cõi Phật, cõi trời, cõi thần)
ngự ở trên cao ánh sáng rực rỡ và Địa (cõi quỷ, cõi
ma và các tầng địa ngục) ngự ở dưới thấp đen tối, u
huyền. Hai cõi này thuần tâm linh vô hình vô tướng.
Duy có cõi Nhân (con người) là cõi trung gian có cả
vật chất và tâm linh trong một thực thể. Nếu thiên
lệch về phía tâm linh và có Phúc ít tội sau khi hết số
kiếp sẽ được lên Thiên. Nếu thiên lệch về phía tâm
linh và ít phúc tội nhiều thì sẽ đọa Địa. Nếu thiên lệch
về vật chất, tâm linh mờ nhạt thì sẽ đọa súc sinh.

522 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Do vậy một vị thần Thủy Tề thuần tâm linh mà hóa
phép thành người vật chất vod xương thịt thì quá khó
vì vật chất và tâm linh không hoán đổi được. Nếu các
vị bằng tâm thức trong cõi vô hình đến tham gia học
cùng mọi người trong sương khói thì sẽ dễ hơn.
Hạn hán là nghiệp chung của người dân trong
vùng đã lúc phải chịu chung nỗi khổ này (gọi là Đổ
Nghiệp). Nếu ai có Công đức lớn, nguyện chia sẻ một
phần Công đức của mình cho những người dân thì sẽ
giảm nghiệp được cho họ. Nếu Công đức không đủ mà
nguyện chia sẻ cho dân thì họ sẽ gặp họa. Họ bị âm
mất Phúc và bị đọa vào cõi khổ (cõi Địa).
Tương tự thời nhà Lý, dân chúng bị hạn, vua Lý
Anh Tông lập tế đàn Nam Giao để quần thảo bách
thần cầu mưa, thì được có mưa. Nguyên nhân sâu xa
cũng là Phúc Đức của vua lớn đủ để chia sẻ cái Phúc
này cho dân chúng. Bách thần cảm ứng tạo ra mưa
còn có một điều lợi quan trọng là nhằm giảm sự kiêu
ngạo của Vua, nếu không vua sẽ bị mất Đức vì kiêu
ngạo. Trong lễ tế đó vua hứa tu nhân tích đức thì nay
phải làm theo lời hứa, nếu không Phúc của vua Lý
Anh Tông sẽ bị hao tổn rất nhiều.

Chương 6: Thời nhà Trần 523


122. Trần Dụ Tông (1336 - 1369) thời suy mạt

Trần Dụ Tông (1336 - 1369), vị vua thứ 7 của nhà


Trần, tên thật là Trần Hạo, là con thứ 10 của Trần
Minh Tông, thân mẫu là Hiến Từ hoàng hậu Trần
Huy Thánh.
Mùa hạ ngày 11 tháng 6 năm Tân Tị (1341) Trần
Hiến Tông băng hà, thọ 22 tuổi. Thái thượng hoàng
Trần Minh Tông đưa người cho Trần Hạo kế vị anh
trai vào ngày 21 tháng 8 năm Tân Tị (1341), khi mới
6 tuổi.
Khi mới lên ngôi, Trần Hạo (Trần Dụ Tông) dùng
niên hiệu là Thiệu Phong, niên hiệu này được sử
dụng đến năm Đinh Dậu (1357), sau đó là niên hiệu
Đại Trị (1358 - 1369).
Riêng có sách Đại Việt sử lược thì viết rằng trong
thời gian ở ngôi, Trần Dụ Tông đặt 3 niên hiệu là
Thiệu Hưng, Đại Tự và Thiên Định.
Vị vua này có hai thời kỳ trị vì, giai đoạn đầu làm
được nhiều việc có ích, nhưng sau thì lười nhác
chính sự, chỉ thích ăn chơi hưởng lạc nên khi viết về
ông, sử sách vừa ca ngợi, vừa chê trách. Đại Việt sử
ký toàn thư chép rằng:
"Vua tính rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo
việc võ, sửa sang việc văn, các di thần đều phục. Đời
Thiệu Phong, chính sự tốt đẹp; từ năm Đại Trị về sau,
chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó".
Trần Dụ Tông cũng là người rất thích chơi bời,
ông từng mở cuộc thi về các trò chơi vào năm Nhâm
Dần (1362), hay rượu chè, từng thi uống rượu với

524 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


một bề tôi là Bùi Khoan vào tháng 4 năm Giáp Thìn
(1364); thích cờ bạc, thậm chí mở sòng bạc tại cung
đình, sách Việt sử tiêu án có lời phê phán rằng:
- Làm vua một nước mà mở sòng đánh bạc để lấy
hồ…thật đáng bỉ.
Không chỉ vậy, độ ăn chơi của Trần Dụ Tông đến
vua phương Bắc cũng không bằng. Theo Đại Việt sử
ký toàn thư chép rằng:
“Vào háng 10 năm Qúy Mão (1363) vua sai đào hồ
ở vườn ngự trong hậu cung. Trong hồ xếp đá làm núi,
bốn mặt đều khai ngòi cho chảy thông nhau. Trên bờ
hồ trồng tùng, trúc, thông, tre và các thứ hoa thơm cỏ
lạ. Lại nuôi chim quý, thú lạ trong đó. Phía tây hồ
trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế, lại gọi tên
điện là điện Lạc Thanh, tên hồ là hồ Lạc Thanh.
Lại đào riêng một hồ nhỏ khác, sai người ở Hải
Đông chở nước mặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật
như đồi mồi, cua, cá nuôi ở trong hồ. Lại sai người
Hóa Châu chở cá sấu đến thả vào. Lại có hồ Thanh
Ngư để thả cá thanh phụ (cá diếc). Đặt chức khách đô
để trông coi".
Sách Việt sử tiêu án bình rằng:
"Chứa nước mặn, nuôi cá sấu lại là kỳ tưởng; vua
Tùy Dưỡng Đế, Tống Huy Tông cũng có núi, có biển
nhưng không được cái chân thú này như vua".
Sá ch Khâ m định Việ t sử thô ng giá m cương mụ c
chép rằng:
"Vua buông tuồng ăn chơi vô độ... nghiện rượu, mê
đàn hát, xa xỉ làm cung điện nguy nga..., lãng phí tiền

Chương 6: Thời nhà Trần 525


của, hoang dâm chơi bời ; món gì Dụ Tông cũng mắc !
Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được ?".
Trần Dụ Tông là ông vua chơi bời quá độ nên cơ
nghiệp nhà Trần suy mạt từ đây.
Tích truyện vua đi chơi đêm bị cướp mất kiếm
và ấn báu:
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
“Vào một đêm mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ
(1366), sau khi đến chơi nhà Thiếu Úy Trần Ngô Lang
ở hương Mễ Sở đến canh 3 mới trở về kinh, khi đến
sông Chử Gia bị mất trộm ấn báu, gươm báu".
Sách Đại Việt sử ký tiền biên cũng viết:
"Vua đến chơi hương Mễ Sở. Mễ Sở là nơi ở của
Thiếu úy Trần Ngô Lang. Vua đi thuyền nhỏ đến nhà
ông, tới canh 3 mới về kinh. Thuyền đi đến sông Chử
Gia bị mất trộm ấn báu và kiếm báu".
Bộ sử thời Nguyễn là Khâm định Việt sử thông
giám cương mục chép tương tự:
"Nhà vua đi chiếc thuyền nhỏ, đêm đến chơi nhà
riêng của Thiếu uý Trần Ngô Lang, nửa đêm đi về, khi
đến bãi Chử Gia, bị kẻ trộm lấy mất cả ấn báu và
gươm báu. Tự biết là điềm chẳng lành, nhà vua lại
càng buông thả ăn chơi dâm dật".
Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu (1369) Trần Dụ
Tông băng hà, thọ 33 tuổi; làm vua 28 năm.
Đánh giá về vị vua này, sách Việt giám thông khảo
tổng luận viết:
"Dụ Tông tính rất thông mẫn, học vấn cao minh,
sửa sang văn vũ, man di phục theo; vào thời Thiệu

526 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Phong, Đại Trị, chính sự đều được ban hành, dường
như có phần khả thủ. Song về sau tin dùng Trâu Canh
làm điều loạn luân, mở sòng đánh bạc, hoang dâm vô
độ, đói kém xảy ra luôn, cơ nghiệp nhà Trần từ đấy
suy dần".
(Tham khảo từ: Sách giáo khoa Sử lớp 7, tr.
74-75-76)
Lời bình: Vua Trần Dụ Tông rất thông tuệ, học vấn
cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, nên khi
còn Thượng hoàng Trần Minh Tông thì đất nước hòa
bình thịnh trị.
Khi Thượng hoàng mất, Dụ Tông ăn chơi vô độ là
không nghĩ đến đói khổ của dân nên mất Đức. Thích
hưởng thụ xa hoa thì ích kỉ tăng nên mất Phúc.Vua
Trần Dụ Tông đã đi vào con đường làm Phúc Đức
giảm không phải do kém trí tuệ mà do ở lòng tham và
ích kỉ, đạo đức kém mà thành.
“Thượng bất chính, Hạ tắc loạn”
Xã hội loạn lạc điên đảo, dân chúng khổ cực đói
kém cũng bắt nguồn từ một vị vua bất chính, ác độc,
tham lam và ích kỉ.
Một vị vua thì cái Phúc Đức là cái quan trọng chứ
không phải là cái vật chất mà vua có. Phúc vua dày,
Đức vua mạnh thì các vị thần hộ trì đất nước thường
ở bên vua nên cái uy thần của vua lớn. Phúc Đức mất
thì các vị sẽ bỏ đi.
Cõi người là cõi trung gian giữa Vật chất và Tâm
linh nên tổng hòa cân đối. Cõi súc vật chỉ thuần vật
chất và tâm minh mê mờ, u tối. Cõi thần thánh thì
tâm linh mạnh và vật chất mỏng nhẹ. Ở cõi người nếu
Chương 6: Thời nhà Trần 527
quá nặng về vật chất thì tâm linh giảm, ngược lại nếu
nặng về tâm linh thì vật chất giảm.
Do vậy những người đạo đức lớn sẽ có tâm linh lớn
và họ coi nhẹ vật chất, vật chất chỉ đủ nuôi sống bản
thân họ là đủ. Những người thu vén tìm tòi vật chất
cho bản thân thì sẽ tham lam, ích kỷ, ác độc và đặc
biệt là sẽ ngu si đi vì tâm linh giảm, trí tuệ giảm. Hai
loại người đó đều đang rời xa cõi người, một đang đi
về phía Thánh và một đang đi về phía Thú.
Vua Trần Dụ Tông giai đoạn đầu rất thông tuệ học
vấn cao minh lãnh đạo đất nước hòa bình thịnh trị.
Nhưng giai đoạn sau Phúc Đức của nhà Trần bị giảm
nên vua sinh ra thói hư tật xấu ăn chơi vô độ, hoang
dâm trụy lạc, loạn luân, tham lam đánh bạc... và trí
tuệ giảm. Ắt hẳn vua sẽ có những quyết sách sai lầm
khiến đất nước rơi vào cảnh loạn lạc.
Còn việc mất gươm, ấn thì đó chỉ là điềm báo. Ví
như trước những cơn bão lớn thì trời luôn oi bức,
mây mù vần vũ kéo đến. Đó là điềm báo chứ không
phải là nguyên nhân.

528 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


123. Công chúa Thiên Ninh (1324 - 1371)

Công chúa Thiên Ninh tên thật là Ngọc Tha, là con


của Trần Minh Tông và Lê Thánh Hoàng Hậu, chị em
ruột của Trần Dụ Tông và Cung túc vương Trần
Nguyên Dục và Cung tı̃nh vương Nguyen Trá c. Thá ng
4 â m lịch nă m Nhâ m Ngọ (1342), Ngọ c Tha được vua
Tran Dụ Tô ng phong là m Thiê n Ninh Cô ng chú a.
Sinh ra với thân phận công chúa, tuy được sống
trong nhung lụa nhưng bà có khı́ phá ch củ a mộ t
trang hả o há n. Cô ng chú a Thiê n Ninh được biet đen
là ngườ i gan dạ , quả cả m và cương quyet. Sau khi
được gả cho Chı́nh Tú c Vương Kham, Thiê n Ninh
cô ng chú a được phong thực ap ở vù ng đat ven sô ng
Luộ c vớ i hà ng nghı̀n mau ruộ ng.
Là ngườ i có tam nhı̀n xa trô ng rộ ng, bà đã tự
chiê u quâ n, tậ p hợp lực lượng vũ trang đe xâ y dựng
quâ n độ i củ a riê ng mı̀nh, phò ng khi có bien. Nhờ vậ y,
khi trieu đı̀nh loạ n lạ c, nhà Tran đứ ng trướ c nguy cơ
diệ t vong, bà có đủ nă ng lực đe tậ p hợp lực lượng lậ t
đo Dương Nhậ t Le.
Ngà y 25/5 nă m Kỷ Dậ u (1369), Tran Dụ Tô ng
bă ng hà sau khi trị vı̀ được 28 nă m. Vı̀ khô ng có con
noi dõ i nê n trướ c khi bă ng hà , vua Dụ Tô ng xuong
chieu truyen ngô i cho Dương Nhậ t Le, lú c đó đang
dướ i danh nghı̃a là con củ a Cung tú c vương Tran
Nguyê n Dụ c, tứ c chá u củ a vua.
Trong Đạ i Việ t sử ký toà n thư có nhac đen Dương
Nhậ t Le là :
“Con người phường chèo tên là Dương Khương, mẹ
của Nhật Lễ hiệu là Vương mẫu (khi ra làm trò có bản
Chương 6: Thời nhà Trần 529
tuồng "Vương mẫu hiến bàn đào", mẹ Nhật Lễ đóng
vai Vương mẫu cho nên gọi thế) đương có thai, Dục
ham sắc đẹp lấy làm vợ.
Đến khi đẻ, Dục nhận làm con mình. Đến đây, Thái
hậu bảo các quan rằng: "Dục là con đích trưởng
không được làm vua, vả lại mất sớm, nay Nhật Lễ
không phải con của Dục ư?". Bèn cho đón về lập làm
vua".
Tuy nhiên sau khi lên ngô i, Nhậ t Le rượu chè bê
tha, ngà y đê m vui chơi. Khô ng nhữ ng the, han cò n
muon đoi lạ i họ Dương, ket thú c trieu đạ i nhà Tran
tạ i đó .
Thá i hậ u Hien Từ , mẹ củ a Thiê n Ninh cô ng chú a
chứ ng kien Nhậ t Le ă n chơi vô độ đã vô cù ng hoi
hậ n. Biet chuyệ n nà y, ngà y 14/12 nă m đó , Nhậ t Le
giet thá i hậ u Hien Từ ở trong cung.
Sự việ c đó khien tô n that nhà Tran vô cù ng phan
nộ nê n đã bà n mưu diệ t trừ . Mù a thu, thá ng 9, ngà y
20, thá i tử Nguyen Trá c cù ng con trai là Nguyen Tiet
và hai con củ a cô ng chú a Thiê n Ninh đem quâ n và o
cung giet Nhậ t Le.
Đạ i việ t sử ký toà n thư đã viet:
"Đêm hôm ấy, cha con Nguyễn Trác và hai con của
công chúa Thiên Ninh đem người tôn thất vào trong
thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường nép
ở dưới cầu mới, mọi người lùng không thấy, rồi tan
về. Khi trời gần sáng, Nhật Lễ vào cung, sai người
chia đi bắt những người chủ mưu, tổng cộng 18
người. Bọn Nguyễn Trác đều bị giết".

530 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Trướ c noi đau mat mẹ , mat anh trai và mat 2 con,
tưởng chừ ng cô ng chú a Thiê n Ninh sẽ mã i chịu cả nh
giong mộ t so quan lạ i thờ i Tran lú c bay giờ . Hoặ c im
lặ ng khô ng dá m phả n khá ng, hoặ c bỏ tron đe trá nh
liê n lụ y. Nhưng bà lạ i â m tham tậ p hợp lực lượng,
quyet tâ m trả thù cho dò ng họ và lay lạ i quyen lực
von thuộ c ve nhà Tran.
Vı̀ thâ n gá i, khó lò ng thu phụ c được sự tin tưởng
hoà n toà n củ a nhà Tran, cô ng chú a Thiê n Ninh đã
liê n ket vớ i Cung Định vương Tran Phủ – anh cù ng
cha khá c mẹ củ a mı̀nh đe hô hà o hoà ng thâ n, quan
lạ i cù ng đứ ng lê n noi dậ y.
Cung Định Vương có con gá i là Hoà ng hậ u củ a
Nhậ t Le nê n khô ng muon ra mặ t nê n ngam hẹ n cô ng
chú a Thiê n Ninh và nhữ ng hoà ng thâ n khá c tạ i sô ng
Đạ i Lạ i (chi lưu sô ng Mã – Thanh Hó a) đe là m địa
bà n day quâ n.
Mặ c dù sử dụ ng danh nghı̃a củ a mı̀nh đe day quâ n
nhưng Cung Định Vương khô ng có ý định ve việ c lay
nướ c. Thay vậ y, cô ng chú a Thiê n Ninh lien bả o rang:
- Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ
cho người khác. Ông nên đi, tôi đem bọn gia nô
dẹp yên được.
Lú c bay giờ , trong trieu có Thieu ú y Ngô Lang, von
là ngườ i được Nhậ t Le tin cậ y nhưng khô ng bằng
lò ng vớ i cá ch hà nh xử củ a Nhậ t Le. Cô ng chú a Thiê n
Ninh bè n ngam liê n lạ c vớ i Ngô Lang đe là m nộ i giá n
cho mı̀nh trong cung.
Moi lan Nhậ t Le ra lệ nh truy bat cá c tướ ng thờ i
Tran có ý định phụ c quoc, Ngô Lang đeu ngam bá o

Chương 6: Thời nhà Trần 531


cho cô ng chú a. Nhờ đó , cô ng chú a Thiê n Ninh cù ng
độ i quâ n củ a mı̀nh thoá t khỏ i sự truy sá t củ a Nhậ t
Le.
Thá ng 11 nă m Canh Tuat (1370), cô ng chú a Thiê n
Ninh cù ng Cung Định vương Tran Phủ , Cung Tuyê n
vương Tran Kı́nh đem quâ n tien ve Thă ng Long, lậ t
đo Nhậ t Le thà nh cô ng. Cung Định Vương Tran Phủ
lê n ngô i hoà ng đe, đoi niê n hiệ u là Tran Nghệ Tô ng.
Thá ng 2 nă m Tâ n Hợi (1371) vua Nghệ Tô ng mở
yen tiệ c tạ i điệ n Thiê n An, phong cô ng chú a Thiê n
Ninh là m Lượng Quoc thá i trưởng cô ng chú a, đoi tê n
là Quoc Hinh. Nhưng nghı̃ đen hai ngườ i con đã mat
củ a mı̀nh, cô ng chú a Thiê n Ninh khô ng mà ng chứ c
tướ c, xin ve thá i ap ở an.
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư – NXB
Thời đại - từ trang 391 – trang 396)
Lời bình: Phúc Đức mất khiến cho vua Dụ Tông có
con trai nhưng chết trẻ, phải truyền ngôi cho cháu
nuôi Dương Nhật Lễ. Khi Phúc Đức mất thì những
quyết sách u tối cũng xuất hiện. Anh em con cháu
trong họ Trần thì người đạo đức thiếu gì, tại sao cứ
phải con của mình, cháu của mình mới truyền ngôi,
đạo đức thì kém lại người ngoại tộc. Âu đây cũng là
nghiệp mà ra.
Công chúa Thiên Ninh xuất hiện như một vị thần
cứu tinh cho dòng họ. Nhưng Phúc Đức của họ Trần
đã mất nên chỉ kéo thêm được 4 đời là 30 năm thì
mất hẳn.
Đời nhà Trần oai hùng như vậy, đánh tan 100 vạn
quân Nguyên Mông, nhưng đến đời Trần Nghệ Tông

532 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


ươn hèn khiếp nhược nên bị vua Chiêm là Chế Bồng
Nga đánh vào kinh thành Thăng Long vua tôi chạy
trốn ở Đình Bảng. Chế Bồng Nga vào cướp bóc đập
phá rồi kéo quân về. Nghĩ thật là buồn.

Chương 6: Thời nhà Trần 533


124. Tuệ Tĩnh Thiền Sư (1330 - 1400)

Tuệ Tĩnh Thiền Sư (1330 - 1400) tên thật là


Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn
Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải
Dương ngày nay).
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được
các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi
cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới
triều Vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan
mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những
ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc,
làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Năm 55 tuổi (1385), Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho
triều đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm
thuốc, nổi tiếng, được Vua Minh phong là Đại y
Thiền sư, mất ở bên ấy, không rõ năm nào. Bia văn
chỉ làng Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm
1697) cùng các tư liệu khác ở địa phương đều ghi
như vậy.
Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú
nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm
chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các
tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền
trong bộ sách giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia
làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tư giác
y thư (2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có
bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Đường luật
(nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị cũng dùng quốc
ngữ. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực
đó là tác phẩm của ông thì Tuệ Tĩnh không những có
534 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
vị trí trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học
nữa.
Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân dân
đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc
xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát
với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Thuốc Nam
Việt chữa người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức
sâu sắc về quan hệ giữa con người và sinh cảnh,
đồng thời cũng tiêu biểu cho ý thức độc lập tự chủ.
Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng
không chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những
sách nước ngoài. Chẳng hạn, ông không đưa kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước
tiên. Ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những
người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Ông
đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa
bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống,
hơ, xông,v.v.
Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy
thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương
pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà
chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30
năm hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng
24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa
bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được
chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn
nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh,
tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn
mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt
điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt
trong 14 chữ:
Chương 6: Thời nhà Trần 535
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”.
Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh
cho gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở
cho ngành thú y dân tộc.
Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh
thuốc Việt Nam. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở
xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên
Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm
Giàng, có tượng Tuệ Tĩnh.
(Tham khảo từ: Thiền sư Việt Nam (Hòa
thượng Thích Thanh Từ) - NXB Tôn Giáo 2010)
Lời bình: Một vị Thiền sư phải lấy Từ Bi làm gốc.
Chúng ra là những con người bình thường có những
nỗi khổ bệnh tật mà ai cũng có. Nên Thiền sư Thần Y
Tuệ Tĩnh đã tạo được Công đức lớn là giúp cho rất
nhiều con người và nhiều thế hệ thoát khổ.
Cũng không cần phải biết ngài đắc đạo thế nào?
thần thông ra sao? Chỉ cần biết ngài cứu được bao
nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ về sau nhờ sách vở
nghiên cứu của ngài mà được khỏi bệnh, tạo thành
Công Đức lớn mà đời đời chúng ta mang ơn. Đó chính
là Đạo Đức và Công Đức.
Trong Đạo Phật có Ngũ Minh (5 kiến thức cần thiết
của một người tu):
1) Nội minh: tu tập đạo đức và thiền định (Tu tâm).
2) Nhân minh: thấu rõ lý Nhân Quả.
3) Thanh minh: hiểu biết âm nhạc và nghệ thuật,
khiến tâm hồn được thăng hoa.

536 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


4) Công xảo minh: hiểu rõ về Khoa học Công nghệ,
khéo léo trong công việc.
5) Y phương minh: Đây chính là điều mà Tuệ Tĩnh
Thiền Sư đã làm được là dùng Y học để giúp đời, giúp
người.
Vậy để làm một con người toàn diện chúng ta phải
là: Một nghệ sĩ (thanh minh), một thiền sư (nội minh
và nhân quả minh), một kỹ sư (Công xảo minh) và
một bác sĩ (Y phương minh). Mà 2500 năm trước
Phật đã nói vậy, cho đến ngày nay vẫn thấy vậy, cho
đến hàng ngàn năm sau điều này vẫn đúng.

Chương 6: Thời nhà Trần 537


125. Trần Duệ Tông (1372 - 1377)
chết vì khinh giặc

Trần Duệ Tông tên thật là Trần Kính, còn có tên


khác là Trần Canh, sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh
Sửu (1337), là con trai thứ 11 của Trần Minh Tông,
mẹ là Đôn Từ hoàng phi Lê Thị Khắc Viện. Ngày 9
tháng 11 năm Nhâm Tí (1372), ông được anh trai là
vua Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho trở thành
hoàng đế thứ 10 của triều Trần.
Bấy giờ bên trong thì triều chính suy yếu, xã hội
bất ổn; bên ngoài thì ở phía Bắc triều Minh lăm le
xâm lấn, phía Nam thì Chiêm Thành liên tục quấy
nhiễu. Trong bối cảnh đó, Trần Duệ Tông đã ban
hành nhiều chính sách nhằm khắc phục những hạn
chế, thiếu sót, vực dậy sức mạnh của vương triều.
Một trong những sách lược mà vua chủ trương đó
là tăng cường sức mạnh của quân đội bằng việc
tuyển quân, luyện tập võ nghệ, sửa đóng chiến
thuyền, tích trữ lương thảo... muốn dùng binh lực áp
chế Chiêm Thành mãi mãi để rảnh lo đối phó với
phương Bắc. Nhưng không ngờ đó lại là tai họa
không chỉ với bản thân ông, mà còn khiến triều đại
nhà Trần tiến gần đến bờ diệt vong.
Trước khi vua xuất quân, Hoàng phi Nguyễn Bích
Châu đã dâng biểu cho rằng không nên dùng vũ lực
mà "xin nghỉ binh cho dân chúng được yên hàn, trị cái
rắn nên dùng cái mềm, lấy đức để thu phục người
phương xa như vua Hạ (Vũ) chỉ gảy đàn mà chẵn 1
tháng rợ Hồ quy phục, đó là thượng sách" (Theo
Truyền kỳ Tân phả).
538 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Nhiều đại thần văn võ, tiêu biểu nhất là quan Ngự
sử trung tán Lê Tích và Ngự sử đại phu Trương Đỗ
ba lần lên tiếng can ngăn nhưng Trần Duệ Tông
không nghe, nhất quyết thân chinh đi đánh, lại nghe
theo lời sàm tấu của Hành khiển Đỗ Tử Bình nói
rằng Chiêm Thành vô lễ, cần phải diệt trừ.
Tháng 12 năm Bính Thìn (1376), Trần Duệ Tông
dẫn 12 vạn quân ra trận, đến tháng giêng năm Đinh
Tị (1377) khi đến cửa biển Thị Nại (nay thuộc Quy
Nhơn, tỉnh Bình Định) thì đóng quân ở động Ỷ Mang.
Vua Chiêm là Chế Bồng Nga cho người đến vờ xin
hàng, Trần Duệ Tông liền thúc quân tiến vào kinh đô
Chà Bàn. Thấy vua quá chủ quan khinh địch, đại
tướng Đỗ Lễ can rằng:
- Nó đã chịu hàng là muốn bảo toàn đất nước
làm đầu. Quan quân vào sâu đánh phá thành
giặc là việc bất đắc dĩ. Xin hãy sai một biện sĩ
cầm mảnh thư đến hỏi tội, để xem tình hình hư
thực của giặc, như kế sách của Hàn Tín phá
nước Yên ngày trước, không phải khó nhọc mà
thành công. Cổ nhân có nói: "Lòng giặc khó
lường". Thần xin bệ hạ hãy xét kỹ lại.
Vua nói:
- Ta mình mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc,
dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu
trong đất giặc, không ai dám đương đầu với ta.
Ấy là trời giúp cho ta đó. Huống chi nay chúa
giặc nghe tin đã chạy trốn, không còn lòng dạ
đánh nhau. Cổ nhân nói: "Dùng binh quý thần
tốc". Nay nếu dừng lại không tiến thì thực là

Chương 6: Thời nhà Trần 539


trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác
thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.
Rồi sai lấy áo đàn bà mặc cho Lễ. Quân lính tiến
sâu vào đất giặc nối gót nhau như xâu cá mà đi. Cánh
quân đi trước và cánh quân ở sau hoàn toàn cách
biệt. Giặc thừa thế xông ra đánh chặn.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
"Giờ Tỵ (khoáng từ 9 đến 11 giờ trưa) quan quân
tan vỡ. Vua bị hãm trong trận mà chết, bọn Đại tướng
Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền
Linh đều chết cả".
Sách Đại Nam quốc sử diễn ca có câu rằng:
“Duệ Tông hăm hở phục thù,
Đánh Chiêm nào quản tri khu dặm trường.
Khinh mình vào động Ky Mang,
Tinh kỳ tan tác gió sương mịt mù”.
Đánh giá về Trần Duệ Tông, sách Đại Việt sử ký
toàn thư viết:
"Vua là người ương bướng, tự theo ý mình, không
nghe lời can, khinh thường quân giặc nên tai vạ đến
mình chứ không phải là bất hạnh".
Còn sách Đại Việt sử ký tiền biên thì bình rằng:
"Việc thích dùng binh, coi thường địch, chống lại
lời can, làm theo điều sai trái, nhận sự đầu hàng
nhưng không xét tình hình; vào nơi hiểm yếu mà
không phòng bị thăm dò nghiêm ngặt, thúc ngựa nơi
hiểm trở gập ghềnh...quân đi liên tiếp như xâu cá,
cuối cùng sa vào mưu lừa dối của địch, không ai cứu
khi bị đánh cắt ngang, ba quân sụp đổ, xe vua phải
540 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
chở xác về, để lại sự chê cười ở rợ man, không nói
được gì với Trung Quốc, sự thất bại ở Ỷ Mang há
chẳng phải là tự mình chuốc lấy đó sao?".
Lại nói về Đỗ Lễ, vị đại tướng bị vua Trần bắt phải
mặc váy áo đàn bà để làm nhục, sử sách không cho
biết về thân thế của ông, tuy nhiên theo nguồn sử
liệu dân gian, chúng ta biết thêm một số thông tin về
ông.
Trong bản Tông phả họ Đỗ do Hoàng giáp Đỗ
Thiện Chính biên soạn vào đời vua Lê Thần Tông
triều Lê Trung hưng cho biết: Đỗ Lễ thuộc dòng họ
Đỗ quê gốc ở thôn Bồng Trung, xã Đông Biện (nay là
xã Vĩnh Tân thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa),
đây là dòng họ có nhiều người làm quan văn tướng
võ dưới triều Lý, triều Trần…
Đỗ Lễ từ nhỏ đã là người có sức khỏe, khi trưởng
thành có tiếng là giỏi võ nghệ, ham thích binh thư,
rất dũng lược. Theo lệ tuyển binh của triều Trần, Đỗ
Lễ tham gia quân đội, nhờ tài năng mà dần dần được
thăng lên làm tướng quân.
Ít ai biết rằng Đỗ Lễ là một trong những người có
công lớn trong việc dẹp loạn Dương Nhật Lễ vào
tháng 11 năm Canh Tuất (1370), giành lại ngai vàng
cho họ Trần.
Trong sách Đại Việt sử ký tiền biên có đoạn cho
biết như sau: "Xét thấy ngoại kỷ chép: Trước đây Duệ
Tông khởi nghĩa giết Nhật Lễ, có quan văn là Trần
Thâm tính kế hoạch, có quan võ là Đỗ Lễ điều quân.
Khi đã vào thành, Nhật Lễ vẫn cầm quân đánh lại,
trách Duệ Tông là làm trái chiếu chỉ của Thái hậu,

Chương 6: Thời nhà Trần 541


Duệ Tông tức giận chỉ huy các quân. Hỏa pháo đều
bắn ra. Kinh thành lửa sáng rực trời, Nhật Lễ từ cửa
Thanh Dương trốn ra, Duệ Tông bắt được…".
Nhờ có nhiều công trong việc dẹp loạn này mà Đỗ
Lễ được triều đình thăng lên đến chức Đại tướng
quân.
Trong cuộc Nam chinh cuối năm Bính Thìn (1376)
đầu năm Đinh Tị (1377) do Trần Duệ Tông chủ
trương, thấy vua coi thường đối phương, Đỗ Lễ đã
cẩn trọng khuyên vua đề phòng, nhưng vua không
nghe còn chê ông là nhút nhát, bắt phải mặc áo đàn
bà để sỉ nhục.
Sử chép rằng vì mắc mưu trá hàng của quân
Chiêm, quân Trần bị thua to, "giờ Tỵ (khoáng từ 9
đến 11 giờ trưa) quan quân tan vỡ. Vua bị hãm trong
trận mà chết, bọn Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa,
Hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết cả" (Đại Việt
sử ký toàn thư).
Vua Việt chết thảm dưới tay Chế Bồng Nga vì
ngông cuồng, bắt đại tướng mặc áo đàn bà.
Theo dã sử, vua Trần Duệ Tông bị trúng tên tử
trận, bấy giờ Đại tướng Đỗ Lễ cầm cây thương thúc
ngựa xông lên đánh với vua Chiêm là Chế Bồng Nga
để cho đội ngự binh cướp xác vua rút lui.
Quân Trần bấy giờ hoàn toàn tan vỡ, không còn ra
một đội hình nào cả nên Đỗ Lễ sức cùng lực kiệt bị
quân Chiêm xúm lại dùng giáo đâm xối xả khiến vị
đại tướng cả người, cả ngựa gục xuống trên chiến
trường.

542 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Khi viết về sự kiện bi thương này của vua quan
nhà Trần, tác giả sách Việt sử giai thoại có lời bàn
rằng: "Đánh giặc cũng như đánh cờ, có khi trước phải
tạm nhường mấy nước miễn sau cùng giành phần
thắng thì thôi.
Đại tướng Đỗ Lễ cẩn trọng, ấy cũng là phép xử
thường của kẻ quen xông pha trận mạc. Duệ Tông bất
chấp lời can ngăn, lại còn coi khinh mà hạ nhục, bắt
Đại tướng phải mặc áo đàn bà trước mặt ba quân,
chủ quan háo thắng mà vô mưu đến thế, bảo không
thảm bại làm sao được.
Cổ nhân dạy rằng, dụng binh mà khinh tướng, ấy là
nguy. Duệ Tông hạ nhục Đại tướng Đỗ Lễ, có biết đâu
là đã tự hạ nhục mình, mà xem ra, cái nhục của Duệ
Tông mới thực là nỗi nhục lớn hơn cả".
Câu chuyện về Trần Duệ Tông là một bài học sâu
sắc của các bậc quân chủ giữ vai trò lãnh đạo quốc
gia; với những việc quân sự quan trọng phải có sự
tính toán, cân nhắc lợi hại, thiệt hơn; phải biết sức
mình và lực người chứ không dựa trên sự nóng nảy,
kiêu ngạo nhất thời sẽ dẫn đến thất bại, thậm chí có
kết cục bi thảm.
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó
tin về các vị vua Việt Nam (NXB Hồng Đức)
Lời bình: Câu chuyện về Trần Duệ Tông là một bài
học sâu sắc của các bậc quân chủ giữ vai trò lãnh đạo
quốc gia; với những việc quân sự quan trọng phải có
sự tính toán, cân nhắc lợi hại, thiệt hơn; phải biết sức
mình và lực người chứ không dựa trên sự nóng nảy,

Chương 6: Thời nhà Trần 543


kiêu ngạo nhất thời sẽ dẫn đến thất bại, thậm chí kết
cục bi thảm.
“Quá nhu thì thành yếu, qua cương thì bị gãy”,
Năm 1371 vua Trần Nghệ Tông quá nhu nhược, ươn
hèn bị Chế Bồng Nga đánh vào tận Thăng Long, vua
hoảng sợ bỏ ngai vàng đi trốn ở Đình Bảng. Đến 1377
vua Trần Duệ Tông không nghe lời can của hiền thần
mà khăng khăng ý mình đánh sâu vào đất Chiêm. Do
không phòng bị nên gặp mai phục mà chết.
Đó chính là: vận nước đang xuống nên những vị
vua đã mất cái Uy, hao tổn cái Phúc trở thành u mê
sinh thất bại. Vua cần lấy Đức để trị dân, lấy Phúc để
an dân thì mới bền vững từ gốc sinh thành khí vượng,
đất nước bình an là vậy.

544 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


126. Trần Khát Chân (1370 - 1399)

Trần Khát Chân là người thuộc dòng dõi của Trần


Bình Trọng quê ở Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh. Đất quê
ông nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh năm Canh
Tuất (1370). Thời Trần Khát Chân là thời suy vi của
triều Trần. Những cuộc chiến tranh triền miên và
khốc liệt đối với các lân bang đặc biệt là đối với
Chiêm Thành, đã làm cho tiềm lực quốc gia ngày một
kiệt quệ. Các vua cuối đời Trần phần lớn là bất tài và
bị quyền thần lấn át, thậm chí là bị bức tử.
Tháng 11 năm Kỉ Tị (1389), Thượng Hoàng sai
Trần Khát Chân (19 tuổi) chỉ huy quân Long Tiệp đi
đánh giặc. Trần Khát Chân vâng mệnh, khảng khái
nhỏ nước mắt, lạy tạ rồi ra đi Thượng Hoàng cũng
khóc, lau nước mắt tiễn đưa.
Bấy giờ, Chế Bồng Nga cùng với Trần Nguyên Diệu
dẫn hơn một trăm chiến thuyền đến dò xét cách bài
binh bố trận của quân ta. Chiến thuyền giặc chưa kịp
ổn định hàng ngũ, thì có tên bề tôi nhỏ của Chế Bồng
Nga là Ba Lậu Kê, vì bị Chế Bồng Nga trách phạt, sợ
bị giết, đã chạy sang trại quân của ta, chỉ vào chiếc
chiến thuyền sơn màu xanh, nói rằng đó là thuyền
của vua nước hắn. Trần Khát Chân hạ lệnh cho quân
sĩ, nhất tề nhả đạn. Thuyền của Chế Bồng Nga bị lủng
ván và Chế Bồng Nga trúng đạn mà chết. Người
trong thuyền hắn kêu khóc ầm ĩ cả lên. Trần Nguyên
Diệu vội cắt lấy đầu của Chế Bồng Nga đầu hàng để
mong được tha tội, nhưng, tướng giữ chức Đại Đội
Phó Thượng Đô ở quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc
và viên Đầu Ngũ là Dương Ngang liền giết luôn cả

Chương 6: Thời nhà Trần 545


Trần Nguyên Diệu, chiếm lấy đầu của Chế Bồng Nga.
Quân giặc liền tan vỡ.
Trần Khát Chân liền sai viên Giám Quân là Lê
Khắc Khiêm, bỏ đầu giặc vào hòm, chạy thuyền gấp
về hành tại của Thượng Hoàng ở Bình Than để báo
tin thắng trận. Bấy giờ, đồng hồ đã điểm canh ba,
Thượng Hoàng đang ngủ say, giật mình tỉnh giấc, cứ
ngỡ là quân giặc đã đánh vào đến tận ngự doanh.
Đến khi nghe tin thắng trận, lại lấy được cả đầu của
Chế Bồng Nga, thì rất là vui mừng. Thượng Hoàng
liền cho gọi các quan đến để xem cho kĩ. Các quan
mặc triều phục, đến và hô “vạn tuế!”. Thượng Hoàng
nói:
- Ta với Chế Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu
nhưng mà nay mới thấy mặt nhau. Việc này nào
có khác gì truyện Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng
Võ. Thiên hạ yên rồi.
Về sau Trần Khát Chân cùng một loạt tướng lĩnh
và quan lại lập mưu để giết Hồ Quý Ly khi Hồ Quý Ly
vào dự hội thề tại Đốn Sơn, Thanh Hóa. Nhưng vì
chính sự chần chừ của Trần Khát Chân mà Hồ Quý
Ly biết được mưu kế của bá quan văn võ. Và Hồ Quý
Ly đã không ngần ngại chủ động ra tay. Trần Khát
Chân cùng với 370 người bị Hồ Quý Ly giết hại. Sự
kiện này xẩy ra vào năm Kỉ Mão (1399) khi đó Trần
Khát Chân mới 29 tuổi.
(Tham khảo từ: Danh tướng Việt Nam
(Nguyễn Khắc Thuần) – NXB Giáo dục, 1996)
Lời bình: Chế Bồng Nga Là một vị vua kiệt xuất, có
tài võ bị, trong thời gian cầm quyền, ông đã chấn

546 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


hưng nhà nước Chiêm Thành từ một quốc gia suy đồi
trở nên hùng mạnh. Trong giai đoạn 1367 - 1389, ông
từng 12 lần xua quân Bắc phạt Đại Việt nhằm tái
chiếm các vùng đất Châu Ô và Châu Lý vốn được
chuyển giao sang chính quyền Đại Việt trong thời
gian cai trị của vua Chế Mân. Ông đã có tổng cộng 3
lần đánh vào tận kinh đô Thăng Long khiến vua tôi
nhà Trần bỏ thành mà chạy.
Nhưng cũng là vận nước Chăm Pa đến hồi suy vong
mà chỉ một trận đánh nhỏ mang tính chất do thám
tình hình quân địch mà Chế Bồng Nga đã chết dưới
tay vị tướng trẻ 19 tuổi là Trần Khát Chân.
Chế Bồng Nga được xem là vị vua vĩ đại cuối cùng
của vương quốc Chăm Pa vì sau khi ông mất, nước
Chăm không còn quật khởi và dần bị thôn tính bởi
Đại Việt trong thời gian Chúa Nguyễn ở đàng trong
mở quốc. Và cho đến đời nhà Nguyễn thì mất hẳn.

Chương 6: Thời nhà Trần 547


Chương 7: THỜI NHÀ HỒ, GIẶC MINH, HẬU LÊ

127. Hồ Quý Ly (1336 - 1407)

Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh


Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ nhà vua
Trần, do đó ông sớm được đưa vào triều đình.
Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng
cục Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên
làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy
Ninh.
Ông là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh
tế, văn hóa.
Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu
cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông
không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong
triều. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông
chết, ông được cử làm Phụ chính Thái sư, tước
Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền
hành trong nước.
Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà
Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.
Chưa được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà
Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, làm
Thái Thượng Hoàng.
Đại Việt ta dưới thời nhà Hồ đã có những cải cách
đi trước thời đại hàng trăm năm nhưng Hồ Quý Ly
không lấy được lòng dân. Ông bị mang tiếng là Phản
thần Cướp ngôi nên khi giặc Minh dùng chiêu bài
“Phù Trần diệt Hồ” dân ta đã nhẹ dạ cả tin ủng hộ
548 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
giặc Minh tiêu diệt nhà Hồ. Sau đó đất nước ta chìm
trong 20 năm tang thương tủi nhục.
Sau đây là những cải tách tích cực của Hồ Quý
Ly:
1 - Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết
định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân
tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập
thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn
ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi
trước.
2 - Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như
ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa
gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào,
phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân
chúng.
3 - Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng
đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và
trưởng công chúa, còn không người nào được phép
có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho
Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà
quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà
nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.
4 - Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát
hành tiền giấy đầu tiên ở Việt Nam.
5 - Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ
Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành,
đóng thuyền chiến, v.v...
Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly là tích
cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam
cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 549
đáng trân trọng song những cải cách của ông chưa
mang lại những kết quả đáng kể.
Triều Hồ thành lập chưa được mấy năm thì quân
Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quý Ly tổ chức cuộc
kháng chiến, song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng
không một lòng", Hồ Quý Ly không thể cố thủ bằng
cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng
kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt đưa về
Trung Quốc.
Sử thần Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn
thư” bình rằng:
“Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp lấy nước,
những người như Trần Nguyên Hãn, Trần Khát Chân
mưu giết mà không được. Sau khi họ chết, trong
khoảng 7, 8 năm, không còn ai có thể làm được việc
ấy nữa. Họ Hồ tự cho là người trong nước không còn
ai dám làm gì nữa. Nhưng bọn loạn thần tặc tử thì ai
ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng
không một ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm
trời này! Người trong nước giết chúng không được
thì người nước láng giềng có thể giết, người nước
láng giềng giết không được thì người Di người Địch
có thể giết. Vì thế người Minh mới có thể giết được
chúng. Còn như người Minh giả nhân giả nghĩa, sát
hại sinh linh thì chính là một bọn giặc tàn bạo. Cho
nên Thái Cao Tổ Hoàng Đế lại có thể tiêu diệt được
bọn chúng”.
Sử gia Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lược”
bình rằng:

550 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


“Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải
là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người
có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho
có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu
đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam,
mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu.
Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là
sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế
Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới
có cái cớ mà sang đánh lấy nước Đại Việt. Cũng vì cái
cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo
giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải
đem thân đi chịu nhục ở đất nước người! Nhưng đấy
là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái
tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly?”
Trong Sách Giáo Khoa Sử lớp 7, tr. 77-78-79-80 có
viết về “Ý nghĩa của cải cách Hồ Quý Ly” như sau:
“Trước tình trạng suy sụp của nhà Trần và cuộc
khủng hoảng xã hội cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly đã thực
hiện cuộc cải cách khá toàn diện để đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng, điều đó chứng tỏ ông là
một nhà cải cách có tài và là người yêu nước thiết
tha.
Những cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều gặp phần
hạn chế tập trung ruộng đất của giai cấp quý tộc, địa
chủ, làm suy yếu thế lực của quý tộc tôn thất nhà
Trần, tăng nguồn thu nhập của nhà nước và tăng
cường quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền. Cải cách văn hóa, giáo dục có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, một số chính sách chưa triệt để (gia nô,
nô tì chưa được giải phóng thân phận), chưa phù hợp
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 551
với tình hình thực tế. Chính sách cải cách cũng chưa
giải quyết được những yêu cầu bứt thiết của cuộc
sống đông đảo nhân dân”.
Tham khảo từ:
Đại Việt sử ký toàn thư, 1697 (Lê Văn Hưu,
Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên) NXB VHTT, 2006
Sách Giáo Khoa Sử lớp 7, tr. 77-78-79-80
Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim) NXB Đà
Nẵng, 2003
Lời bình: Có người cướp ngôi thì được gọi là:
“Thay trời hành đạo” mà có người cướp ngôi thì bị
gọi là: “Loạn thần tặc tử”.
Sao nhà Hồ không học theo con đường nhà Trần đã
làm? Nhà Trần cũng cướp ngôi và tận diệt họ Lý.
Nhưng vì vận nước đang xuống, vì đại nghĩa phải
đứng lên mà cứu dân cứu nước.
Ở đây nhà Hồ lại cướp nước, diệt Trần, thu vén lợi
lộc cá nhân, cướp ruộng đất của người, tăng thuế,
tăng tô, đày ải nhân dân bắt xây kinh thành mới ở
Thanh Hóa, thay đổi chữ viết, thay đổi tiền tệ. Nước
vốn dĩ đã loạn, nay lại còn loạn hơn.
Nhà Trần lấy chữ Đức để an dân, lấy chữ Phúc để
trị dân. Nên chỉ 1 năm sau khi lắm quyền Trần Thủ Độ
đã dẹp yên phản loạn và đưa đất nước bước vào thời
bình. Chỉ 30 năm sau đất nước đã đủ sức mạnh đánh
bại 100 vạn quân Nguyên Mông.
Nhà Hồ lấy hình pháp để làm dân sợ, lấy bóc lột để
làm giàu cho mình. Nên Hồ ở trong dân mà như ở
giữa lòng quân địch. Giặc Minh đến mang khẩu hiệu
“Phò Trần diệt Hồ” thì hàng triệu con tim dân Việt đã
552 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
ngả theo giặc. Thật là hổ thẹn cho nhà Hồ “cái tài mà
không được cái Đức nuôi dưỡng thì là đại họa”.
Các nhà chính trị khoa học thời nay dùng con mắt
và kinh nghiệm của thế giới thế kỷ 21 để đánh giá các
chính trách Hồ Quý Ly thờ bấy giờ rồi tấm tắc khen
hay, khen giỏi, khen đi trước thời đại trăm năm là
không phải với cái tâm của dân chúng thời bấy giờ.
“Dục tốc bất đạt”, những chính sách đi trước thế
giới hàng trăm năm mà thực hiện hàng loạt trong
vòng 7 năm ở đất nước đang trong thời loạn, nghèo
đói mất mùa, quan lại tham nhũng, lòng dân bất an
thì liệu có hợp lý không?
Mới cướp ngôi xong lòng dân chưa ổn, mất mùa
đói kém... mà đã thay đổi luật pháp chế độ, thay đổi
thuế tô, thay đổi ngôn ngữ, hạn chế quyền lực các
quan, tịch thu ruộng đất xung công quỹ... và đặc biệt
nữa là cho xây dựng kinh thành mới để thỏa cái
nghiệp bá vương Đại Ngu (ảo tưởng của Hồ Quý Ly là
con cháu của Ngu Thuấn một trong Ngũ Đế thời tiền
sử Trung Hoa). Thì thật là “đại ngu”.
“Được lòng dân thì trường tồn, mất lòng dân thì
mất nước” và nhà Hồ đã bại vong, giặc Minh cướp
nước ta đày ải dân tộc Việt Nam trong 20 năm.
Chúng đập phá công trình nhà cửa, thành quách,
đốt phá tài liệu, thư kinh, sách vở của Đại Việt ta
hòng đưa nước ta thành một nước ngu xi để dễ bề cai
trị.
Nền học vấn kinh sách, tạng thư của nước ta đã bị
mất phần lớn trong giai đoạn này. Thật tiếc thay.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 553


Thời đó do không có công nghệ in ấn copy nên đa
phần kinh sách ở dạng “độc bản” chép tay hoặc ấn
bản với số lượng ít ỏi. Chỉ có sách của vua cho khắc
“mộc bản” lên gỗ và tiến hành in ấn số lượng lớn thì
nay vẫn còn. Còn lại đa phần bị giặc Minh đốt sạch.

554 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


128. Lê Lợi (1385 - 1433) thời trẻ

Ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), Lê Lợi sinh tại


làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân
Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Khi mới
sinh, trông Vua thiên tư tuấn tú khác thường, thần
sắc thật là tinh anh, kì vĩ: mắt sáng, miệng rộng, mũi
cao, trên vai có một nốt rồi, dáng đi như rồng, nhịp
bước như hổ, tiếng nói nghe như chuông ... Bấy giờ,
kẻ thức giả đều cho Vua là bậc phi thường.
Tổ của Lê Lợi là Lê Hối, người thôn Như Áng,
huyện Lương Giang (nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện
Ngọc Lạc, tỉnh Thanh Hóa). Lê Hối am hiểu Tử vi lý
số, Tướng thuật, Phong thủy... Một hôm, Lê Hối đi
chơi, thấy có đàn chim cứ bay lượn vòng trên một
khu đất dưới chân núi Lam Sơn, trông tựa như một
đám người đang tụ hội, liền nghĩ rằng chỗ ấy tất phải
là đất lành, bèn dời nhà đến đấy mà ở hẳn, rồi khai
phá ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được ba năm
thì thành sản nghiệp. Từ đấy, đời đời là hùng trưởng
cả một phương. Lê Lợi về sau dựng cờ mở nước,
thực cũng bắt đầu từ nền tảng này.
Nguyên xưa, ở làng Như Áng, xứ Du Sơn có mót
cây quế và dưới gốc cây quế này thường có một con
hùm xám xuất hiện, nhưng nó hiền lành, thân cận
với người mà chẳng hề làm hại ai. Từ khi Lê Lợi ra
đời thì không thấy con hùm ấy ở đâu nữa. Người
đương thời cho đó là một sự lạ. Ngày Lê Lợi ra dời
thì trong nhà có ánh sáng chiếu đỏ rực và hương
thơm bay ngào ngạt khắp làng.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 555


Kế nghiệp cha ông, lớn lên, Lê Lợi là Phụ Đạo đất
Khả Lam. Cũng trong thời gian làm Phụ Đạo này, Lê
Lợi “may mắn” có được một huyệt đất quý.
Thuở ấy, Lê Lợi sai người đến cày ruộng ở xứ Phật
Hoàng thuộc động Chiêu Nghi. Người cày bỗng thấy
một vi sư già, mình khoác áo trắng, đi từ hướng làng
Đức Trai tới, vừa đi vừa than rằng:
- Đất này đẹp quá, thế mà chẳng có ai để trao
cho.
Người cày thấy thế, vội chạy về báo cho Lê Lợi
hay. Lê Lợi chạy gấp đến hỏi. Có người cho biết :
- Nhà sư đã đi rồi.
Theo hướng chỉ, Lê Lợi đi nhanh đến sách Quần
Đội, huyện Lôi Dương. Dọc đường, thấy có cái thẻ tre
đề rằng:
“Thiên đức thụ mệnh,
Tuế trung tứ thập ,
Số dĩ chỉ định,
Tích tai vị cập”
(Nghĩa là : Đức trời nhận mệnh, vào tuổi bốn mươi,
số kia đã định, tiếc thay chẳng kịp).
Lê Lợi thấy chữ ấy mà mừng nên càng cố đi
nhanh. Lúc ấy, rồng vàng hiện lên che lấy ông. Vừa
chợt thấy, vị sư già đã thưa rằng:
- Tôi từ đất Ai Lao đến, người họ Trịnh, tên tự là
Bạch Thạch Sơn Tăng. Thấy người khí tượng
khác người, đoán là có thể làm nên việc lớn.
Lê Lợi quỳ xuống tâu rằng:

556 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Mạch đất tôi đây sang hèn ra sao, dám xin thầy
chỉ rõ cho.
Vị sư già nói:
- Xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi có một thửa
đạt rộng chừng nửa sào, có hình tượng như cái
ấn của nước nhà. Bên tả có Thái Thất là núi Chí
Linh ở mường Giao Lão. Trong núi ấy có gò
Tiên Bạn và gò Chiêu Sơn ở xã An Khoái là án.
Phía trước có nước Long Sơn. Phía trong có
nước Long Hồ, hình xoáy như ruột ốc. Bên hữu
có nước hồ bao quanh phía ngoài chân núi tựa
như chuỗi hạt. Đất ấy, đàn ông thì quý không
thể nói được, nhưng đàn bà thì hẳn là sẽ phải
thất tiết. Tôi e rằng con cháu ngài về sau nó
không ở cùng với nhau. Ngôi bấu tất có khi
trung hưng. Mệnh trời có thể biết trước được
Bây giờ nếu có được thầy giỏi, đem hài cốt đi
cải táng thì vẫn có thể phấn phát được dăm
trăm năm.
Nghe lời vị sư già, Lê Lợi đem hài cốt của thân phụ
táng ở xứ ấy. Vào khoảng giờ Dần, khi Ông về đến
thôn Dao Xá Hạ thì vị sư già ấy cũng biến mất. Vì lẽ
ấy, Lê Thái Tổ cho lập điện Tiên Du trong dộng Chiêu
Nghi, Vua cho dựng am nhỏ (chỗ mộ Phật Hoàng).
(Tham khảo từ: Nam Hải dị nhân liệt
truyện - Phan Kế Bính,1930)
Lời bình: “Có Duyên thì gặp, có Phúc thì hưởng, có
Nghiệp thì trả” chứ đừng thấy các tích truyện về các
vị vua lập triều lập quốc tìm được long mạch mà ham
mà tìm cách cải số, sẽ thất bại mà thôi.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 557


Về Huyền môn có ai hơn được Cao Biền, vậy mà đặt
mộ vào hàm rồng rồi, cắt cử âm binh thiên tướng
trấn giữ rồi, nhưng vì Phúc kém con gái Cao Biền sinh
non ra hai quái thai sớm trước 10 ngày.
Mới sinh ra quái thai đã gầm gươm cầm ấn, mặt
xanh nanh vàng, ra oai thị uy trị thiên hạ. Sợ quá con
rể Cao Biền phải giết đi và 1000 thiên tướng âm binh
dưới đất đứng lên bảo vệ 2 quái thai nhưng vì thiếu
mất 10 ngày nên âm binh đổ nghiêng đổ ngả đi đứng
không vững. Từ đó xuất hiện câu ca: “Lẩy bẩy như
Cao Biền dậy non”. Cuối đời Cao Biền bị huyền môn
của thuộc hạ là Lã Dụng Chi đánh chết.
Về Phong Thủy Việt Nam có ai hơn được Tả Ao. Vậy
mà, dò được long mạch, bắt được hàm rồng, tính
được thời điểm “rồng mở miệng” ngàn năm 1 lần.
Nhưng khi mang hài cốt cha mẹ đến hàm rồng, rồng
mở miệng rồi thì tự dưng có cơn gió lạ xuất hiện, cát
bay mù mịt, đến khi gió ngớt thì miệng rồng đã đóng,
thế đất thay đổi, long đã ẩn. Cuối đời Tả Ao bị chết ở
giữa đường và phải chôn cất ở mô đất ven đường.
Nói đến tài năng và phép thuật ở Trung Quốc có ai
hơn được Khương Tử Nha, xây dựng nhà Chu tồn tại
800 năm? Vậy mà Khương Tử Nha vẫn buông câu
không móc chờ đợi duyên lành hội tụ. Bây giờ chúng
ta vẫn làm non bộ, bể cá có tượng Khương Tử Nha
ngồi câu cá không móc, nhưng mấy ai hiểu được đạo
lý “Có duyên thì gặp, có Phúc thì hưởng”.
Trong Đạo Phật có hình tượng vị Bồ Tát thần
thông vô lượng. Nhưng Bồ Tát không dùng thần
thông để hóa giải nghiệp (giảm bớt nỗi khổ của con
người). Mà Bồ Tát dùng Nhẫn Nhục Ba La Mật để đón

558 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


nghiệp, tiếp nhận và chịu đựng sự đau khổ và bình an
trả nghiệp. Thế mới biết Nhân Quả là tuyệt đối. Phúc
đến thì có thể giữa lại không hưởng nhưng Nghiệp
đến không thể không trả.
Những vị vua khai triều, lập quốc từ khi đất nước
khó khăn hoạn nạn đa phần là những vị có Thiên
Phúc và Uy Đức ngời sáng, ngay khi trong bụng mẹ
hoặc sinh ra đời đều có điềm báo ứng linh dị. Như khi
Lý Công Uẩn ra đời thì hương thơm đầy chùa (vua
sinh ra ở cổng chùa) ánh sáng chùm khắp ngôi chùa,
mới sinh ra thì hai tay có vết son in chữ “Sơn hà, Xã
tắc”. Ở đây Lê Lợi sinh ra cũng có điềm báo linh dị. Cái
này là Phúc, là Nghiệp, là Duyên, là Số ứng biến mà
thành không thể thay đổi.
Nếu muốn thay đổi phải dùng đạo lý Nhân Quả và
cần thời gian để từ Nhân biến thành Quả Phúc. Và
Quả Phúc này phải có tính chất khắc chế Ác Nghiệp
thì mới giải nổi. Chứ nếu Nghiệp đã đến cửa (Định
Nghiệp) thì Phật cũng không thể giúp (xem phần:
Tam bất năng của Phật).
Vận nước Nam vẫn còn, Phúc toàn dân vẫn còn nên
dân ta chỉ phải chịu cảnh hoạn nạn trong 20 năm. Khi
nghiệp của dân đã trả xong, Phúc đã thành tựu viên
mãn thì đất trời sẽ cảm hóa mà sinh một vị vua tài
đức cho dân nước Nam. Thời vua Lê Thái Tổ được các
nhà sử học đánh giá là thời thái bình thịnh trị nhất
của nước Đại Việt. Nhà Hậu Lê (Lê Sơ và Lê Trung
Hưng) tồn tại được 356 năm là triều đại phong kiến
tồn tại lâu nhất ở Việt Nam. Thời này không có chiến
tranh ngoại xâm lớn và đất nước được mở rộng nhờ
công ơn của 9 đời Chúa Nguyễn đàng trong.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 559


129. Lê Lợi (1385 - 1433) chuẩn bị khởi nghĩa

Năm Lê Lợi tròn 22 tuổi cũng là năm quân Minh


tràn sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống
quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã nhanh chóng bị
thất bại. Bởi đại họa này, những năm đau thương
của đất nước bắt đầu. Dưới ách thống tồi tàn bạo của
quân Minh, trăm họ bị đọa đày và đói khổ. Giặc đã
nhẫn tâm:
“Thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”.
Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã bùng nổ
ở khắp nơi, trong đó, nổi bật hơn cả là các cuộc khởi
nghĩa của Trần Ngỗi - Trần Quý Khoáng (1407 –
1413), khởi nghĩa Phạm Ngọc ( 1419 - 1420), khởi
nghĩa Lê Ngã (1419 -1420) ...v.v. Lê Lợi rất kính
trọng gương anh hùng tiết tháo của những người đã
quả cảm xả thân vì nước, nhưng, Lê Lợi cũng nhìn
thấy rất rõ những nguy cơ thất bại không thể nào
tránh khỏi của họ.
Và, xuất phát từ nhận thức sâu sắc đó Lê Lợi đã
âm thầm chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa khác, có
quy mô to lớn hơn, ở ngay trên chính quê hương của
mình. Toàn bộ quá trình chuẩn bi công phu này có
thể tạm chia làm mấy nội dung chính yếu sau đây:
I. Chuẩn bị về dư luận:
Nếu không nhanh chóng tạo ra được một dư luận
mạnh mẽ trong lòng xã hội rộng lớn, thì sẽ không thể
nào tập hợp và huy động được lực lượng cho cuộc
vùng dậy lật đổ ách đô hộ của quân Minh. Nhưng,

560 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


trong điều kiện nghiệt ngã của hoàn cảnh đất nước
lúc bấy giờ nếu không khôn khéo thì chính dư luận
sẽ trở thành đầu mối quan trọng, khiến quân Minh
có thể nhanh chóng lần mò ra mọi kế hoạch của Lê
Lợi.
Trên cơ sở phân tích và cân nhắc thực tế phức tạp
này, Lê Lợi chủ trương phối hợp chặt chẽ với những
người bạn gần gũi và tâm đầu ý hợp nhất, tao ra sự
nhất trí cao độ trong dư luận, trước hết là ở ngay
trên quê hương của ông. Một trong những đặc trưng
nổi bật của xã hội thế kỉ thứ XV là dễ dàng tin vào
những điềm lạ và do đó, Lê Lợi đã bắt đầu tạo dư
luận bằng cách tận dụng niềm tin vào những điềm lạ
này.
Huyền Sử chép rằng:
“Bấy giờ, Lê Lợi kết bạn keo sơn với Lê Thận (tức
Nguyễn Thận), người ở sách Mục Sơn, huyện Cổ Lôi.
Thận làm nghề chài lưới ở đầm Ma Viện. Đêm ấy,
dưới đáy nước (của đầm Ma Viện) bỗng có ánh sáng
ngời lên như một bó đuốc. Thận quăng lưới cả đêm
mà chăng được con cá nào, chỉ được một thanh sắt
dài hơn một thước. Thận liền đem về để trong góc
nhà. Hôm đó, Thận làm giỗ gia tiên, Lê Lợi sang chơi
nhà, thấy trong góc tối của nhà Thận có ánh sáng thì
nhận ra đó là một thanh sắt. Lê Lợi hỏi:
- Đó là thanh sắt nào vậy?
Thận đáp:
- Đêm trước tôi ra quăng lưới (ở đầm Ma Viện)
rồi tình cờ mà bắt được.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 561


Lê Lợi liền xin, Thận cho ngay. Thanh sắt ấy đem về
mài ra thì thấy có hai chữ Thuận Thiên và chữ Lợi.
Hôm khác, Lê Lợi vừa đi ra cửa thì thấy một chiếc
cán kiếm mài chuốt đâu đó đã xong, liền khấn vái với
trời đất rằng: Nếu quả là trời đã ban kiếm cho thì
kính xin cho lưỡi kiếm và cán kiếm này vừa khít với
nhau. Xong thì ghép vào, quả vừa y với nhau, thành
một cây kiếm. Một đêm trời làm mưa gió, sáng sớm
hôm sau, vợ Lê Lợi (một trong ba người vợ của ông,
chưa rõ là ai) ra vườn rau cải, thấy có bốn vết chân
người to lớn khác thường, liền vào gọi ông. Lê Lợi ra
vườn thì bắt được chiếc bảo ấn, trên cũng có khắc hai
chữ Thuận Thiên và chữ Lợi. Vua ngầm hiểu đó là
(báu vật) trời ban, bèn giấu kín việc này”.
Những “điềm lạ” kể trên cứ thế truyền đi khắp
Lam Sơn, và từ Lam Sơn, truyền dần đến khắp bốn
phương thiên hạ. Hào kiệt mọi miền lần lượt dò
đường tìm đến Lam Sơn, tìm đến với Lê Lợi. Là Phụ
Đạo của đất Lam Sơn, Lê Lợi có đầy đủ điều kiện để
ân cần tiếp đón họ.
Chính Sử chép rằng:
“Vua tuy gặp buổi rối loạn mà vẫn bền chí ẩn náu
chốn núi rừng, vừa lo cày cấy, vừa lấy kinh sử làm vui,
đã thế lại còn chuyên tâm học sách lược thao. Vua
hậu đãi tân khách, tiếp đón những người trốn tránh
và làm phản (quân Minh), ngầm nuôi người đa mưu
túc trí, cho của để giúp kẻ cô đơn khó nghèo, nhún
nhường dùng lễ hậu để thu nạp hào kiệt”.
Tuy nhiên, thời nào và ở đâu cũng vậy, hễ có cao
thượng là có thấp hèn, có anh hùng là có phản bội...

562 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ngay trong buổi đầu của quá trình chuẩn bị đầy gian
nan, Lê Lợi cũng đã vấp phải sự chống phá ác liệt của
bọn phản bội, thấp hèn. Một trong những kẻ ấy là Đỗ
Phú.
Huyền Sử có tích rằng:
“Bấy giờ ở thôn Hào Lương (cùng huyện) có tên Đỗ
Phú tranh kiện đất đai với Lê Lợi. Hắn kiện đến tận
tướng của nhà Minh. Quan xét án của giặc thấy hắn
đuối lí, liền xử cho Lê Lợi được thắng kiện. Đỗ Phú
nhân đó mà sinh ra thù oán, liền (tố cáo) rồi dẫn
đường cho quân Minh tới bắt Lê Lợi. Lê Lợi cùng với
Lê Liễu bỏ chạy. Đến sông Khả Lam thì thấy xác một
người đàn bà, mình mặc áo trắng, đeo xuyến vàng và
cài thoa vàng. Lê Lợi và Liễu ngửa nhặt lên trời khấn
rằng:
- Ta bị giặc Minh đuổi, xin giúp ta thoát nạn. Sau,
nếu ta giành được thiên hạ thì sẽ lập miếu thờ.
Hễ có bò hay heo để cúng tế thì sẽ cúng tế trước.
Vua và Liễu đắp mồ vừa xong thì giặc sua chó ngao
chạy đến, bèn vội lẩn trốn vào gốc cây đa. Giặc đâm
mũi giáo đúng vào đùi bên trái của Liễu. Liễu liền lấy
một nắm cát vuốt mũi giáo cho sạch máu. Đúng lúc
đó, bỗng có con chồn trắng từ trong hốc cây chạy ra.
Chó ngao liền lao theo đuổi chồn. Giặc vì thế mà hết
ngờ có người trốn trong gốc cây, bèn bỏ đi. Vua nhờ
vậy mà được thoát. Về sau, khi đã dẹp yên thiên hạ,
Vua phong cho người đàn bà áo trắng, chết ở Khả
Lam là Hoằng Hựu Đại Vương, và cả đến cây đa nơi
Lê Lợi ẩn náu cũng được phong làm Hộ Quốc Đại
vương”.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 563


Chính Sử chép thêm:
“Lê Lợi tuy bị Đỗ Phú âm mưu mượn tay quân
Minh để hãm hại, nhưng, chí lớn vẫn không hề vì thế
mà suy giảm. Hào kiệt từ tận vùng trung du xa xôi
như Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên Hãn; từ đất kinh
thành Thăng Long như Phạm Văn Xảo; từ miền Nghệ
An như Nguyễn Xí; từ đội ngũ Nho sĩ lỗi lạc như
Nguyễn Trãi... vẫn nườm nượp kéo về.
Từ khi có Nguyễn Trãi, công tác tuyên truyền dư
luận thu phục lòng dân bằng cách đánh vào tâm lý
yêu thích sự huyền bí và tâm linh trong dân chúng,
đạt được hiệu quả to lớn.
Tương truyền rằng: Nguyễn Trái đã lấy mỡ viết
vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi
thần, cho kiến ăn thủng lá rồi lấy lá ấy mà thả xuống
nước sông. Lá theo dòng nước trôi mãi.
Nhiều người bắt được, mật truyền cho nhau rằng
đó là mệnh trời, vì thế, đã nô nức kéo đến tụ nghĩa
dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Và quan trọng hơn, khắp nơi
đã sẵn sàng để ủng hộ Lê Lợi tùy theo khả năng cũng
như điều kiện cụ thể của mỗi vùng”.
II. Chuẩn bị về lực lượng và tổ chức
Đồng thời với quá trình chuẩn bị về dư luận, Lê
Lợi đã gấp rút chuẩn bị cả về lực lượng và tổ chức.
Về lực lượng, ngoài các bậc anh hùng hào kiệt, Lê Lợi
chủ trương phải tập hợp và huy động cho bằng được
sức mạnh cũng như trí tuệ của những người bị quân
Minh bức hiếp bóc lót nặng nề nhất, những người ở
dưới đáy sâu nhất của xã hội.

564 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lúc đầu, số người tìm đến với Lê Lợi chưa nhiều,
nhưng sau đó, đất quê hương của Lê Lợi trở thành
nơi quy tụ ngày càng đông đảo nghĩa sĩ bốn phương.
Để che mắt kẻ thù, cũng là để thuận tiện trong việc
quản lí, Lê Lợi chia họ thành từng nhóm nhỏ, dựng
trại rải rác ở nhiều khu vực quanh Lam Sơn.
Những nhóm này vừa khai khẩn đất đai và tích
trữ lương thực, vừa thường xuyên luyện tập võ nghệ
để sẵn sàng chờ ngày ra quân. Lê Lợi cẩn trọng chọn
người giao việc cốt để phát huy hết năng lực riêng
biệt của từng cá nhân, đồng thời, cũng để thông qua
đó mà phát hiện thêm người hiền tài.
Đầu tháng hai năm Bính Thân (1416), Lê Lợi đã
long trọng tổ chức một cuộc hội thề tại Lũng Nhai, sử
gọi đó là Hội thề Lũng Nhai. Tham dự Hội thề này,
ngoài Lê Lợi, còn có mười tám bậc hào kiệt thân tín
khác.
Số người tham dự Hội thề Lũng Nhai chỉ chiếm
một tỉ lệ rất nhỏ so với tổng số những người đã đến
Lam Sơn tụ nghĩa lúc bấy giờ. Và tuyệt đại da số
những người có mặt trong cuộc Hội thề này, sau đó
đều được trao những chức vụ rất quan trọng. Nói
khác hơn, Hội thề Lũng Nhai thực chất là buổi lễ ra
mắt được tổ chức dưới một dạng thức đặc biệt của
Bộ chỉ huy Lam Sơn. Từ đây, tất cả lực lượng của
Lam Sơn được quản lí và huấn luyện ngày càng quy
củ. Từ đây, nhiệm vụ cụ thể của từng nghĩa sĩ Lam
Sơn được quy định một cách rõ ràng.
III. Chuẩn bị về tư tưởng và khẩu hiệu đấu
tranh

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 565


Đây chính là khâu chuẩn bị vừa có ý nghĩa quan
trọng rất đặc biệt cũng vừa là chỗ đánh dấu sự khác
nhau giữa Lam Sơn với tất cả các cuộc khởi nghĩa vũ
trang đương thời. Người công tác đắc lực và có hiệu
quả cao nhất của Lê Lợi trong vấn đề này là Nguyễn
Trãi. Hàng loạt ý kiến xuất sắc của Nguyễn Trãi được
Lê Lợi tán thưởng và mau chóng biến thành tư
tưởng chỉ đạo chung của Bộ chỉ huy Lam Sơn .
Tư tưởng chung của Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn
là phát động và lãnh đạo toàn thể nhân dân vùng dậy
lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập
và chủ quyền cho đất nước. Để có thể huy động được
sức dân, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn chủ trương
kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ cứu nước với nhiệm
vụ cứu dân. Trong hai nhiệm vụ chiến lược này, cứu
nước phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Nói theo cách
nói của Nguyễn Trãi là:
“quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Muốn đánh và đánh thắng hoàn toàn lực lượng
quân thù hùng hậu lại khét tiếng tàn bạo, đã và đang
xiết chặt ách đô hộ trên toàn cõi nước ta, theo Lê Lợi
và Nguyễn Trãi, Lam Sơn phải đồng thời tấn công
trên rất nhiều mặt trận khác nhau, như: quân sự,
chính trị, binh vận và đặc biệt là ngoại giao.
Về quân sự, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho rằng,
không nên đánh vào thành, vì đánh vào thành là hạ
sách, ngược lại, phải biết khéo léo đánh vào lòng
người. Về kỷ luật, Lê Lợi cho rằng, phải xây dựng
một đội quân trên dưới như cha con một nhà, Lam
Sơn trước hết phải là đội quân nhân nghĩa.

566 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


(Tham khảo từ: Lam sơn thực lục, NXB Tân
Việt, 1956)
Lời bình: Vua muốn được lòng dân thì phải dùng
Đức trị, vua yêu thương dân như con, quân đội mà
trên dưới như cha con một nhà, đặt mục tiêu trừ bạo
diệt giặc đặt lên trước mục tiêu làm vua. Đó chính là
đạo lý thắng lợi.
Nghĩ lại thời nhà Trần, vận nước không nguy khốn
như lúc này nhưng tương quan lực lượng giữa binh
nhà Trần và Nguyên Mông là quá lớn. Quân nhà Trần
toàn bộ có 30 vạn, nước Đại Việt mới được thanh
bình và nước ta 180 năm từ thời Lý Thường Kiệt
đánh Tống 1077 đến 1258 chưa có chiến tranh. So với
100 vạn quân Nguyên Mông thiện chiến trên toàn thế
giới đã chiếm toàn bộ lục địa Á - Âu từ Thái Bình
Dương đến Địa Trung Hải (Thế giới thời đó chỉ có
Châu Á và Âu, còn Châu Mĩ, Phi, Úc chưa khám phá
ra). Nhưng nước ta trên dưới một lòng, dân yêu nếm
kính trọng vua, vua thương dân như con, quân và
tướng như cha con trong nhà đã dẫn đến chiến thắng
của Đại Việt trước Nguyên Mông.
Ngoài ra, bài phân tích trên được viết bởi tác giả
vô thần, vô thánh nên những huyền tích như Thuận
Thiên bảo kiếm và Ấn Thuận Thiên thì được chép như
là mưu kế của Lê Lợi. Nhưng “duy vật biện chứng
trong Chính Sử” là vậy nên không thể trách được tác
giả. Tuy nhiên có những chi tiết tôi lại thấy tác giả
phân tích rất đúng như: “kiến ăn thủng lá cây rồi thả
trôi dòng nước thành tin đồ lan trong dân”. Còn
những tích xác người đàn bà hóa cáo trắng cứu vua,

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 567


hay Thuận Thiên bản kiếm và Ấn Thuận Thiên đã bị
duy vật hóa huyền sử.
Thật ra các vị vua Uy Đức khai triều lập quốc thì
“người trần mắt thịt” ta chỉ thấy sự quy tụ người tài
các nơi đổ về mà ta đoán do “mưu sâu kế hiểm” của
vua mà thành.
Nhưng thật ra, trong cõi tâm linh các vị Phúc Thần
bảo hộ đất nước cũng đều hướng về vua, quy phục
nơi vua mà nghe lệnh. Chính tâm của các vị Thần
tương ưng với tâm của người tìm đường cứu nước,
khiến cho họ tìm đến với Lê Lợi. Huyền tích đến tai họ
chỉ là một phần lý do mà thôi.
Chúng ta cũng nhớ đến thanh kiếm gỗ của Đinh Bộ
Lĩnh thời trẻ “chém giả chết thật”. Hay vua Lý Thái Tổ
đánh giặc Chiêm Thành đi trên sông trở về thì gặp
mưa giông lốc tố, vua liền thắp hương thành tâm xám
hối hoàng thiên thì mưa lốc tố chấm dứt. Hay khi trời
đại hạn, vua Lý Anh Tông lập tế đàn Nam Giao cầu
đảo bách thần thì trời đổ mưa xuống.
Nên nếu quá coi trọng vật chất, nhìn con người mà
thấy chỉ là cục xương, cục thịt biết đi đứng nói năng,
mọi việc thành bại đều do tài năng mưu kế mà thành
thì thật là tội. Trường phái duy vật trong Chính Sử đã
bỏ qua yếu tố Tâm Linh Nhân Quả, Phúc Đức Nghiệp
Duyên. Nhưng nếu ta quá coi trọng phần tâm linh
trong Huyền Sử lại thành duy tâm, lại phi khoa học,
không hợp logic và là mê tín:
“Chính sử được chép bởi Lý, Huyền sử được chép
bởi Cảm. Tình Cảm và Lý Trí là hai yếu tố tạo nên một
tâm hồn”.

568 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


130. Lê Lợi (1385 - 1433) đánh giặc Minh

Công tác chuẩn bị 10 năm gian khổ ở rừng lúi Lam


Sơn đã xong, đến lúc xuất quân chiến đấu đánh đuổi
giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước Ta.
“Đánh một trận mà dẹp yên châu Hoan, châu Hóa;
đánh hai trận mà bình định châu Diễn, châu Ái. Thế
rồi phất cao cờ chính nghĩa, tạo thế vững đàng hoàng.
Đưa quân vượt biển mà giặc ở Cổ Lộng, Chí Linh vỡ
mật, hành binh qua núi mà giặc ở Tam Giang, Đông
Quan bay hồn. Bọn Vương Thông, Phương Chính đã
kế cùng, đành giữ thành bền lũy chờ cứu viện.
Lửa không nhóm tự cháy, quả nhiên Liễu Thăng từ
bắc tiến sang giúp Hạ Kiệt làm càn. Lại thêm Mộc
Thạnh từ phía tây cũng tới. Nực cười hai đạo viện
binh, giơ càng bọ ngựa chống xe, há chẳng ngu sao!
Huống chi lấy chí nhân đánh bọn bất nhân, giặc tất
phải khiêng thây mà chịu trói. Thú cùng trong cũi, vẫy
đuôi xin tha. Thì rủ lòng nhân mà mở lưới Thang, cho
múa mộc để phô đức Thuấn”. (theo Đại Việt sử ký
toàn thư)
Ngày 14 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi
chính thức lên ngôi Hoàng Đế, lấy lại quốc hiệu cũ là
Đại Việt, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Triều Lê
chính thức được dựng lên kể từ đó.
Để phân biệt với triều Lê mở đầu là Lê Hoàn, sử
gọi triều Lê mở đầu từ Lê Lợi là Hậu Lê. Ngay sau khi
lên ngôi Hoàng Đế, Lê Lợi đã tiến hành một loạt
những biện pháp cấp bách khác nhau, trong đó, nổi
bật nhất là các biện pháp sau đây:

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 569


Xây dựng một bộ máy chính quyền mới theo một
mô thức cũng hoàn toàn mới. Nếu thời Lý và thời
Trần, nhà nước là nhà nước của quý tộc, thì từ đây,
nhà nước là nhà nước của quan lại. Lớp quan lại đầu
tiên, phần lớn đều xuất thân từ đội ngũ những người
có công lao trong sự nghiệp chiến đấu chống quân
Minh, nhưng sau đó, chủ yếu là xuất thân từ khoa cử.
Thực hiện lời hứa “cứu dân” mà Lê Lợi đã nhiều
lần nhấn mạnh khi lãnh đạo cả nước vùng lên đánh
đuổi quân Minh đô hộ. Năm 1429, chính sách “quân
điền” (3) được ban hành. Chính sách này đã làm cho
tất cả mọi người trong xã hội đều có ruộng đất để
cày cây, tức là làm cho tính chất giải phóng của cuộc
chiến tranh giải phóng càng trở nên sâu sắc. Đất
nước nhờ đó mà bắt đầu bước vào một giai đoạn
bừng bừng khí thế hồi sinh.
Nhanh chóng thiết lập mối bang giao hữu hảo với
nhà Minh, nhằm tránh những hiểm họa binh đao lâu
dài cho đất nước.
Trọng thưởng cho những người có công trong
cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ, khiến cho tên
tuổi và sự nghiệp của họ rạng rỡ mãi với non, sông.
Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Lợi qua
đời, hưởng thọ 48 tuổi. Một cuộc đời chỉ có 48 tuổi
xuân, nhưng Lê Lợi đã có đến trên hai mươi năm
chiến đấu ngoan cường vì sự nghiệp giành lại độc
lập và chủ quyền cho đất nước, trên năm năm dốc
sức xây dựng nền thái bình thịnh trị cho non sông.
Lê Lợi xứng đáng là một trong những vị anh hùng
tiêu biểu nhất của lịch sử, là niềm tự hào bất diệt của
dân tộc ta:
570 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét trong Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư rằng:
“Lạc tột cùng thì trị bình sẽ tới, đó là vận hành của
trời. Thánh nhân sinh ra thì muôn vật sống lại (quẻ
Càn, Kinh Dịch), đó là hanh thông của thời.
Xét suốt các cuộc loạn lạc trong cõi nước Việt ta,
chưa bao giờ đến tột cùng như lúc này, các lần dấy
nghiệp đế vương chưa bao giờ khó khăn như lúc này:
Triệu Vũ Đế nhân nhà Doanh tần rối loạn, trung
nguyên không có kẻ đứng đầu, quần hùng đánh lộn
lẫn nhau, mà kiêm tính đất đai, chưa lấy gì làm khó.
Đinh Tiên Hoàng nhân nhà Ngô đã mất, mười hai sứ
quân cát cứ, mất hết kỷ cương, mà dựng nên nước,
cũng chưa lấy gì làm khó. Nhà Lê thay nhà Đinh, nhà
Lý thay nhà Lê, nhà Trần thay nhà Lý đều là nối đời
thái bình, nhân lúc suy loạn, lại càng dễ lắm. Nói cho
cùng, cũng đều chưa khỏi tiếng cướp ngôi, chẳng phải
là hành vi nhân nghĩa để phô cùng thiên hạ, cho mọi
người sướng mắt trông vào, như cuộc đổi đời của Vua
Thang Vua Vũ!.
Họ Hồ thoán nghịch, tự chuốc bại vong, giặc Minh
tàn bạo, hòng thay bờ cõi. Chúng giả nhân, diệt nước,
giết hại, làm càn. Dân nước Việt ta, gan óc lầy đất.
Con thơ cháu bé bị giáo gươm đâm chém, quăng xác
thảm thê. Người lớn thì phía nam chạy xuống Chiêm
Thành, phía tây trốn sang Đại Lý. Làng mạc hoang
phế, xã tắc thành gò cho thỏ chui, cho hươu chạy,
thành bãi hoang cho chim đỗ, thành rừng rậm cho hổ
báo náu mình. Rồi giặc chia châu, đặt huyện, đắp lũy,
đào hào, đóng quân trấn giữ đến hơn hai mươi năm,
thay đổi phong tục nước ta theo tóc dài, răng trắng,
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 571
biến người nước ta trở thành người Ngô, Than ôi!
Họa loạn tột cùng đến mức như vậy!”
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư, 1697
(Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên - NXB
VHTT, 2006)
Lời bình: 10 năm gian khó trong thâm sơn cùng
cốc đã vượt qua. Nghĩa quân Lam Sơn vươn mình
đứng dậy như một vị Thánh Gióng đời xưa đánh giặc
Ân khiến Ân Vương khiếp vía mà bại vong. Thế mạnh
Lam Sơn như vũ bão giặc Minh phải khiếp sợ chưa
đánh đã đầu hàng. Quân tiếp viện Bắc Quốc kéo
xuống mà một trận đã tan tác chim muôn.
Thật ra, sức mạnh của chính nghĩa là sức mạnh
của đoàn kết, yêu thương, hi sinh và đùm bọc nên đã
mạnh lại càng thêm mạnh. Sức mạnh Phi nghĩa là sức
mạnh của ích kỉ, nhỏ nhen, mất lòng tin và thù hận
nên đã yếu lại còn thêm sự sợ hãi của cái chết.
Hòa bình lập lại, với những cải cách về ruộng đất,
về tô thuế, về luật pháp (luật Hồng Đức ra đời) rất
hợp lòng dân nên được dân nghe theo.
Cùng với đó, sau thời loạn dân sẽ thấy yêu thời
bình, sau thời loạn dân mới cảm được cái ơn nghĩa
của vua. Khiến cho cả nước hừng hực khí thế xây
dựng. Đây là giai đoạn thịnh trị nhất của dân tộc Việt
Nam trong thời đại phong kiến.
Bàn về gốc Đạo Đức trong dân để đạt được sự
trường tồn cho triều đại. Nếu như các triều Lý, Trần
đã dùng chữ Đức trong đạo Phật để gây nền đạo đức
quốc gia. Thì nay nhà Hậu Lê đã dùng chữ Đức trong
nho giáo: nhân, trí, tín, lễ, nghĩa và chọn quan tướng

572 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


lãnh đạo đất nước từ trong thi cử. Không tính đến họ
hàng gốc tích mà chỉ cần có thực tài và đức là được
làm quan. Nhà Hậu Lê tồn tại được 356 năm và là
thời đại phong kiến tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt
nam.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 573


131. Lê Lợi (1385 - 1433) và kiếm Thuận Thiên

Vào thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam.


Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều điều bạo
ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy.
Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy
chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu
nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác. Thấy vậy, đức
Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm
thần để họ giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh
cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một
bến vắng như lệ thường. Tự nhiên trong một lần kéo
lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm
chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá, Thận mới
biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước
rồi lại thả lưới ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới
lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt
vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và
ném xuống sông. Lần thứ ba lại vẫn thanh sắt ấy mắc
vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn
xem. Bỗng chàng reo lên một mình:
- Ha ha! Một lưỡi gươm!
Thận về sau gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam
Sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử nơi trận mạc
để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi
cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian
nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở
xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và
nhận ra có hai chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi.
Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu vật.
574 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy
tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu
rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn
cây đa, trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm
nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi
rút lấy chuôi giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp
lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi
vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê
Lợi bèn kể lại câu truyện. Mọi người nghe xong đều
hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu
nói với chủ tướng:
- Đây là thần có ý phó thác cho "minh công" làm
việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của
mình theo "minh công" và thanh gươm thần
này để báo đền xã tắc! Từ đó khí thế của nghĩa
quân ngày một tăng.
Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành
trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía.
Chẳng bao lâu tiếng tăm của quân Lam Sơn ran khắp
nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng mà xông
xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như
trước nữa, đã có những kho lương của giặc mới
cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường
cho họ đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng
một tên giặc trên đất nước.
Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày
hôm ấy Vua Lê Thái Tổ cưỡi thuyền rồng dạo quanh
hồ Tả Vọng trước kinh thành. Khi chiếc thuyền chèo
ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu
và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh Vua,
thuyền đi chậm lại. Vua đứng lên và nhận thấy lưỡi
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 575
gươm thần đeo bên mình cũng đang cử động. Con
rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về
phía thuyền Vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói:
- Bệ hạ hoàn gươm lại cho Long quân!
Nghe nói thế nhà Vua bỗng hiểu ra, bèn thò tay
rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát, thanh gươm thần
rời khỏi tay Vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như
cắt, rùa ngước đầu lên, há miệng đớp lấy ngang lưỡi
gươm. Cho đến khi cả gươm và rùa lặn xuống, người
ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh.
Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp
thuyền rồng thì Vua liền báo ngay cho họ biết:
- Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh
gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã
thanh bình, người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm
hay hồ Hoàn Kiếm.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999)
Lời bình: Huyền sử chép như vậy tôi cũng biết là
như vậy mà kể lại. Trong lòng cũng không mấy tin. Có
thể thanh gươm báu của Vua Lê Thái Tổ do cơ duyên
nào đó mà có và thuộc loại báu kiếm. Nhưng để thêm
sự hấp dẫn, để lòng dân quy phục nên rất có thể các
chi tiết thần thánh như: đánh lưới bắt được gươm
bằng lưới đánh cá và gươm ánh sáng lóe lên khi gặp
Lê Lợi hay rùa vàng biết nói đến đòi gươm... là phần
thêm vào.
Với con mắt đạo học tôi xin có thêm một số ý kiến
thêm: Thanh gươm luôn là biểu tượng cho vị tướng
576 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
trên chiến trường, thời bình nó là gươm báu truyền
quốc (hay truyền đời). Với bao nhiêu sinh mạng kẻ
địch mà nó giết hại thì dù nó là vật chất vô chi vô giác
nhưng nó cũng là vật có tâm linh và sát khí. Khi đi
trên thuyền ở hồ Tả Vọng nếu như vô tình vua bị rơi
kiếm ắt hẳn sẽ tìm mọi cách để trục vớt.
Nhưng một điều kì lạ là vào thời Bình rồi không
cần tung tin đồn thổi để mê hoặc lòng dân nữa. Vua bị
mất gươm, không trục vớt mà lại đổi tên hồ là Hoàn
Kiếm vậy truyện tích trả gươm rùa vàng rất có thể là
thật. Và truyện tích sự xuất hiện gươm thần cũng rất
có thể có thật.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 577


132. Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) và Nguyễn
Trãi (1380 - 1442) đi tìm minh chủ

Bấy giờ, để che mắt kẻ thù, Trần Nguyên Hãn


thường đóng vai một người làm nghề buôn bán dầu
để đi đó đi đây mà dò la tin tức. Một hôm, vì lỡ
đường, ông nghỉ lại qua đêm trong đền Lý Ông
Trọng (Mời bạn xem tích Huyền Sử Lý Ông Trọng thời
Hùng Vương ở đầu sách này). Đang khuya mơ màng,
ông thấy có vị thần làng bên đến rủ Lý Ông Trọng lên
chầu Thượng Đế, nhưng Lý ông Trọng từ chối, nói
rằng đền đang có vị Quốc công (chỉ Trần Nguyên
Hãn) nghỉ lại, không thể đi được.
Chừng gà gáy sáng, vị thần làng bên lên chầu
Thượng Đế trở về, ghé qua và báo cho Lý ông Trọng
biết rằng trên Thiên Đình xét thấy nước Nam này
chưa có chủ nên Thượng Đế đã quyết cho Lê Lợi làm
vua và Nguyễn Trãi làm bề tôi.
Hôm sau, Trần Nguyên Hãn vội tìm đến và báo
cho Nguyễn Trãi biết. Nguyễn Trãi bán tin bán nghi,
cho nên, đêm hôm sau đến đền thờ Lý Ông Trọng để
xin báo mộng cho rõ thực hư.
Đêm ấy, Nguyễn Trãi nằm mơ, thấy Lý Ông Trọng
hiện về báo cho biết rằng, việc Thiên Đình, không
một ai được quyền tiết lộ. Nữ thần Tiên Dung (là vợ
của Chử Đồng Tử xem tích Huyền Sử về Chử Đồng Tử
thời vua Hùng ở đầu sách này) biết tất cả, mà đàn bà
có lỡ miệng thì Thượng Đế cũng không nỡ trách
phạt, vậy, hãy đem một vạn vàng mã đến đền Tiên
Dung làm lễ nữ thần Tiên Dung khắc nói cho biết.

578 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nguyễn Trãi làm theo lời ấy mang vàng đến đền
Tiên Dung khẫn lễ và ngủ lại. Thế rồi trong mơ, ông
thấy nữ thần Tiên Dung gọi tới nói cho hay rằng,
đúng là Lê Lợi sẽ làm vua và Nguyễn Trãi sẽ làm tôi.
Nguyễn Trãi nhân đó hỏi kĩ mới biết là Lê Lợi người
Lam Sơn. Ông và Trần Nguyên Hãn liền cùng nhau
lên đường vào Lam Sơn.
Bữa ấy, Lê Lợi mặc áo ngắn, may bằng vải nâu,
đang vác bừa và dắt bò từ ngoài đồng về nhà. Hai
ông xin vào nhà nghỉ lại. Thế rồi vào ngày giỗ, Lê Lợi
giết heo để làm cỗ. Nguyễn Trãi xuống bếp, thấy Lê
Lợi cầm dao thái thịt, vừa cắt vừa ăn vụng, liền chạy
lên nói nhỏ với Trần Nguyên Hãn rằng:
- Bà Tiên Dung lừa ta đấy!
Rồi hai ông bỏ về, quyết đến đền Tiên Dung đòi
vàng lại. Đêm ấy bà Tiên Dung hiện lên và nói :
- Lê Lợi sẽ làm vua. Mệnh trời đã dứt khoát rồi,
Chỉ vì Thiên Đình chưa giáng chỉ đó thôi. Hai
ông sao không tới đó mà đợi.
Khi ấy Lê Lợi đã được quyển binh thư và thanh
gươm thần, đêm đêm đóng cửa đọc sách. Nguyễn
Trãi dòm trộm và cùng Trần Nguyên Hãn đẩy cửa
bước vào. Lê Lợi tuốt gươm xông tới hai người liền
phục tùng mà thưa rằng :
- Chúng tôi chẳng ngại đường xa lặn lội đến, tất
cả chỉ vì tin rằng minh công có thể làm chủ
thiên hạ được đó thôi. Lê Lợi cười mà lưu lại,
cùng hai ông mưu việc khởi binh.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 579


Từ đó trở đi, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn
được Lê Lợi trọng dụng. Đáp lại hai vị tướng quân
này cũng hết lòng phò tá vị anh hùng đất Lam Sơn.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999)
Lời bình: Khi nước loạn mà vận số chưa tận, thì
Thần Nhân hộ trì cõi nước sẽ tìm người có Đức để
đưa lên làm vua. Nhưng cũng không chắc ăn. Đó chỉ
là phần hỗ trợ thêm thôi. Quan trọng nhất vẫn là phải
tự mình nỗ lực mới được.
Ví như truyện tích An Dương Vương được thần
Kim Quy giúp đỡ hết sức xây thành cổ loa kiên cố, có
nỏ thần, lại có chiến công đánh thắng 50 vạn quân
Tần. Nhưng An Dương Vương đến khi gặp thế giặc
yếu hơn là Triệu Đà thì khinh thường sinh kiêu căng,
mất cảnh giác, bị mắc mưu thành mất nước.
Nên có được thần giúp thì cũng phải bằng sức
mình mới đạt.

580 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


133. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn chết oan

Hai đại công thần đệ nhất đã giúp Lê Lợi lập lên


nhà Hậu Lê với bao công lao nhưng vì lòng nghi kỵ
của Lê Thái Tổ đã dẫn đến những kết cục đau
thương: Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc còn Trần
Nguyên Hãn tự tử chết, gia đình vợ con Nguyên Hãn
bị lấy hết gia tài và bổng lộc. Các đời vua sau là: Lê
Thánh Tông và Lê Nhân Tông đã giải oan cho các ông
và khôi phục lại chức phong, hi vọng dưới suối vàng
hai vị được yên nghỉ.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở
Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê
(Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh,
một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến
sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một
qúy tộc đời Trần.
Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại
qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai
mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha
con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc
Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa
sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi
theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về,
nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê
Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn
vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở
bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị
nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng
không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 581
Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm
1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao
cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái
giúp Vua thì xảy ra vụ nhà Vua chết đột ngột ở Trại
Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối
với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông
âm mưu giết Vua, khép vào tội phải giết cả ba họ
năm 1442.
Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464,
Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ
văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.
Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một
nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong
thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi có một nhà chính
trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà
văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ kiệt xuất.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Trần Nguyên
Hãn được phong chức Tướng Quốc và được ban
quốc tính là họ Lê. Rất tiếc là Trần Nguyên Hãn chưa
kịp hưởng vinh hoa phú quý thì đã phải chết một
cách oan uổng. Chính sử còn chép rằng:
“Ông nói riêng với người thân rằng: Nhà vua có
tướng y như Việt Vương, không thể cùng hưởng sung
sướng được. (Việt Vương tức Câu Tiễn, vua của nước
Việt ở Trung Quốc thời Chiến Quốc, người đã giết
nhiều cận thần từng vào sinh ra tử với mình)”.
Do vậy Nguyên Hãn xin về hưu, Vua Lê Thái Tổ
bằng lòng, nhưng dặn là mỗi năm phải về chầu hai
lần. Ông về làm nhiều nhà cửa xây bằng gạch bỏng,
lại còn đóng thuyền có thể chở binh khí. Có kẻ gièm

582 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


pha, nói rằng ông có ý mưu phản. Vua sai xá nhân là
bọn lực sĩ đến bắt về để hỏi tội.
Thuyền chở ông về kinh đô, mới đến xã Đông Sơn,
ông phẫn uất quá, liền khấn trời rằng:
- Tôi với Vua cùng mưu việc cứu dân. Việc lớn đã
hoàn tất mà Vua lại muốn giết tôi. Hoàng Thiên
có biết thì xin soi xét cho.
Ông vừa khấn xong thì bỗng nhiên gió lớn nổi lên,
lật úp cả thuyền xuống. Bốn mươi hai xá nhân là bọn
lực sĩ và ông đều chết đuối hết cả, chỉ có hai gia đồng
của ông là trôi giạt được vào bờ rồi thoát chết.
Việc ấy tâu lên, Vua xuống chiếu tịch thu hết tất cả
ruộng đất, tài sản và vợ con của ông. Về sau, mãi đến
triều Lê Nhân Tông (1442-1459), vào năm Diên
Ninh thứ hai (tức là năm 1455), nhân kì đại xá, Nhà
vua mới thương ông vô tội, “xuống chiếu trả lại
ruộng nương của cải và biểu dương người có công
lao cũ”.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999)
Lời bình: Thời Trần đánh giặc Nguyên Mông đa
phần tướng lĩnh là các hoàng tử thuộc dòng họ Trần
nên khi đất nước hòa bình cùng nhau hưởng phúc.
Đến thời Hậu Lê, các quan tướng “khai quốc công
thần” trong thời bình lại là cái gai cạnh tranh quyền
lực của vua. Do đó, hoặc là vì vua đa nghi quá mà gây
ra cái chết oan uổng như Nguyễn Trãi và Trần
Nguyên Hãn đời vua Lê Thái Tổ. Hoặc là tự các quan
ỷ mình có công mà sinh kiêu căng rồi bị vua hại như
Lê Sát và Lê Ngân đời vua Lê Thái Tông
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 583
134. Nguyễn Xí (1397 - 1465)

Nguyễn Xí (1397 - 1465) ở làng Sái Xá, huyện


Chân Phúc, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ Nguyễn Xí gặp
buổi cuối đời nhà Trần, trong nước loạn lạc, không
muốn ra làm quan, tu ở chùa làng, gọi là Hòa Nam
thiền sư. Mỗi đêm đến gà gáy thì thức dậy đánh
chuông tụng kinh.
Có hàng thịt lợn ở cạnh chùa, hễ cứ nghe tiếng
chuông thì thức dậy giết lợn. Một hôm, nhà hàng thịt
mua nhằm phải con lợn cái chửa, định để sáng mai
làm thịt bán. Đêm hôm ấy, nhà sư nằm mơ thấy một
người đàn bà đến kêu khóc rằng:
- Xin ông đêm nay đừng đánh chuông vội, cứu lấy
tám chín mẹ con tôi.

Nhà sư ngạc nhiên không biết sự gì, nhưng cũng


nghe lời không đánh chuông. Nhà hàng thịt vì thế
dậy trưa, thì con lợn cái đã đẻ ra tám con. Nhà sư
thấy vậy lấy làm kỳ, mới mua cả đàn lợn ấy thả vào
trong núi.
Được vài tháng, nhà sư bị hổ bắt mất, cắn chết bỏ
dưới sườn núi. Sáng mai người nhà đi tìm, thấy mối
đùn đất lấp lên thành mồ rồi. Có người biết địa lý,
xem hình thế chỗ ấy cho là mả hổ táng.
Con nhà sư ấy là Nguyễn Xí bấy giờ đã mười bảy
tuổi, vốn có sức khỏe hơn người, học nghề võ đã giỏi,
nhưng vì nhà nghèo khó, phải ra tỉnh Thanh Hóa bán
dầu kiếm ăn.
Lê Lợi sai Nguyễn Xí nuôi một đàn chó săn gồm
hơn một trăm con. Sớm chiều chia cơm cho chó ăn
584 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
ông đều dùng chuông làm hiệu. Bầy chó theo sự điều
khiển của ông, tiến thoái răm rắp. Lê Lợi rất quý ông,
cho là ông có tài làm đại tướng, nên (đến khi sắp dấy
quân khởi nghĩa thì) sai ông nắm quyền cai quản đội
quân Thiết Đột thứ nhất”.
Nguyễn Xí theo Lê Lợi đánh nhau với quân nhà
Minh, trong mười năm trời lập nên rất nhiều công
trạng. Đến khi thiên hạ bình định, Lê Thái Tổ cho
Nguyễn Xí là sáng nghiệp đệ nhất công thần, và
phong làm Nguyễn Quốc công, cho đổi quốc tính làm
họ Lê.
Nguyễn Xí làm quan trải ba triều: Thái Tổ, Thái
Tôn, Nhân Tôn, khi có giặc giã thì đi dẹp, khi thường
thì lại vào túc vệ trong cung cấm. Khi Vua Nhân Tôn
bị Nghi Dân (con Vua Thái Tôn bị phế không được
lập) cướp ngôi, Nguyễn Xí đem binh dẹp loạn, giết
được bọn đồ đảng của Nghi Dân rồi đón Bình Xuyên
Vương lập lên, tức là Vua Lê Thánh Tôn. Nguyễn Xí
vì có công ấy lại được làm chức Thái Úy Vương Quốc
công.
(Tham khảo từ: Truyện hay trong lịch sử Việt
Nam, NXB Hồng Đức)
Lời bình: Các thầy phong thủy rất tin vào mộ phát,
tức là mộ bị mối ăn đùn đất thành gò. Những người
có mộ cha mẹ phát thì rất tốt nhưng cũng không biết
tốt đến mức nào.
Còn về khai quốc công thần Nguyễn Xí đã tạo nhiều
công đức, 15 năm giúp nghĩa quân Lam Sơn đánh
giặc. Đến thời bình Ông làm quan trong 3 triều đại
vua Lê. Đến cuối đời lại có công dẹp yên phản loạn,

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 585


tạo dựng vua mới là vua Lê Thánh Tông là vị vua anh
minh nhất trong triều đại nhà Hậu Lê. Công đức của
ngài thật là viên mãn, cũng rất ứng nghiệm với điềm
báo mộ phát của người cha.

586 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


135. Nguyễn Chích (1382 - 1448)

Nguyễn Chích (1382 – 1448) quê ở thôn Vạn Lộc,


huyện Đông Sơn, châu Ái (nay là xã Đông Anh, huyện
Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa); có tài liệu thì ghi ông
người thôn Mạc, huyện Đông Sơn; tài liệu khác thì
ghi quê ông ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn.
Xuất thân trong gia đình nông dân, lại mồ côi cha
mẹ từ nhỏ, phải đi chăn trâu, ở đợ kiếm sống nhưng
ông bản tính thông minh, dũng lược, có ý chí. Bởi
vậy, sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm
lược của triều Hồ thất bại vào tháng 11 năm Đinh
Hợi (1407), trong số các cuộc nghĩa nổi dậy sau đó,
có cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Chích lãnh đạo. Ông
đã tập hợp lực lượng, lấy khu vực núi Hoàng và núi
Nghiêu làm căn cứ (nay thuộc khu vực giáp giới giữa
3 huyện Đông Sơn, Nông Cống, Triệu Sơn của tỉnh
Thanh Hóa).
Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép:
"Hiệu lệnh của ông được thi hành ở các huyện
Đông Sơn, Nông Cống và Ngọc Sơn".
Từ căn cứ của mình, Nguyễn Chích dần dần phát
triển lực lượng, khống chế cả một vùng rộng lớn
phía Nam Thanh Hóa và bắc Nghệ An.
Thời gian đầu dựng cờ nghĩa, Nguyễn Chích lập
căn cứ tại núi Hoàng và núi Nghiêu. Đây là một khu
vực địa thế hiểm yếu, nhiều hang động, đường đi
hiểm hóc nên quân Minh không dám đem đại quân
đến đàn áp. Để chiêu hiền đãi sĩ, anh hùng hào kiệt
đến tụ nghĩa, Nguyễn Chích đã chọn động Chân

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 587


Nghĩa nằm ở núi Nghiêu làm nơi tiếp đón; sách
Thanh Hóa tỉnh chí có viết như sau:
"Một vùng đất bằng phẳng, rộng hơn 10 mẫu, có
núi che khuất là nơi đầu tiên tụ tập nghĩa sĩ từ bốn
phương trước khi vào căn cứ".
Có nhiều người đã tìm đến với Nguyễn Chích để
đầu quân, góp sức cùng nhau phá giặc cứu nước, cứu
dân nhờ đó lực lượng của ông lên đến hơn 1000
người. Nghĩa quân đã xây dựng nhiều đồn lũy, doanh
trại, luyện tập quân sĩ, những nơi đó hiện vẫn còn để
lại dấu tích ở huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa qua những
tên gọi như cồn Pháo, cồn Voi, cồn Binh, cồn Lưỡi
kiếm…
Năm Mậu Tuất (1418), khi Lê Lợi xưng là Bình
Định vương xướng nghĩa ở Lam Sơn, biết danh tiếng
của Nguyễn Chích, Lê Lợi đã cho người đến kết giao
để cùng phối hợp chống kẻ thù chung.
Nể phục uy thế, tài đức của thủ lĩnh Lam Sơn nên
cuối năm Canh Tý (1420) Nguyễn Chích đã đem toàn
bộ lực lượng theo về, tự đặt mình dưới sự chỉ huy
của Lê Lợi và được phong là Thiết đột hữu vệ, Đồng
tổng đốc chư quân; sau nhờ lập nhiều chiến công lại
được thăng đến chức Nhập nội thiếu úy, thuộc hàng
võ quan cao cấp nhất lúc đó.
Không chỉ anh hùng hào kiệt nể phục tài năng của
Nguyễn Chích mà đến kẻ thù cũng muốn lôi kéo ông.
Giặc Minh thông qua tên Việt gian Lương Nhữ Hốt
nhiều lần dùng vàng bạc, chức tước để mua chuộc,
dụ dỗ nhưng bị ông cự tuyệt, không những vậy ông

588 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


còn đem quân tấn công, đánh bại Lương Nhữ Hốt ở
Cô Vô (ven sông Chu).
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, có thể chia cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn làm ba giai đoạn lớn:
- Giai đoạn hoạt động ở vùng rừng núi Thanh
Hóa (1418-1423).
- Giai đoạn tiến vào phía Nam chiếm Trà Lân
(1424-1425).
- Giai đoạn tiến ra Bắc giải, phóng Đông Quan
(1426-1427).
Nếu như giai đoạn đầu nghĩa quân thế lực còn
mỏng, địa bàn hoạt động hẹp, gặp vô vàn khó khăn,
lại liên tục bị quân Minh tấn công nhằm tiêu diệt, có
lúc tưởng chừng tan rã hoàn toàn, như trong Bình
Ngô đại cáo sau này có nhắc lại qua hai câu:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi huyện quân không một đạo”.
Trước tình hình đó, bộ chỉ huy nghĩa quân Lam
Sơn đã mở hội nghị quân sự đặc biệt quan trọng vào
tháng 9 năm Giáp Thìn (1424) để tìm phương án tốt
nhất để cho nghiệp lớn thành công. Mặc dù có nhiều
ý kiến khác nhau, nhưng cuối cùng Lê Lợi và bộ chỉ
huy nghĩa quân quyết định bỏ vùng núi rừng ở
Thanh Hóa để tiến vào phía Nam đánh chiếm Nghệ
An theo kế sách của tướng quân Nguyễn Chích, với
việc xác định lợi thế khi thay đổi địa bàn, Nguyễn
Chích hiến kế:
- Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông.
Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông
thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 589
Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng
chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà
quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong
việc dẹp yên thiên hạ.
Có thể nói, nhờ kế sách này mà từ một cuộc khởi
nghĩa nhỏ, lực lượng ít, khu vực hoạt động hẹp, trải
bao gian khó, dần dần Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa
quân đã từng bước phát triển lực lượng, mở rộng
quy mô hoạt động, giành nhiều thắng lợi quan trọng
để xoay chuyển dần cục diện.
Từ đó nghĩa quân Lam Sơn đã kiểm soát được
một vùng rộng lớn từ đất Nghệ An trở vào Nam , giặc
Minh chỉ còn co cụm cố thủ trong mấy tòa thành lớn
bị bao vây trùng trùng lớp lớp.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành
lại nền độc lập cho đất nước sau 20 năm rên xiết
dưới ách đô hộ của giặc Minh bạo tàn, Lê Lợi cho ban
bố "Bình Ngô đại cáo", lên ngôi vua sáng lập ra triều
đại Hậu Lê. Với công trạng của mình, Nguyễn Chích
được phong tước Đinh Thượng hầu, được ban quốc
tính gọi là Lê Chích.
Những dấu ấn quan trọng của thắng lợi đó đều
xuất phát từ kế sách của Nguyễn Chích, đúng như
trong Kiến văn tiểu lục, Lê Qúy Đôn đã nhận xét
rằng:
- Bầy tôi có công khai quốc, kể về bậc tài trí
không phải là hiếm, nhưng sở dĩ đã bình định
được cả nước là do mưu chước của Lê Chích…
Không cần phải đánh mà được thành Đông Đô,
lấy hòa hiếu để kết liễu chiến tranh, tuy là mưu

590 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


kế của Nguyễn Trãi, nhưng trước hết làm cho
căn bản mạnh để thu lấy thắng lợi hoàn toàn,
thực bắt đầu từ Lê Chích".
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép rằng:
“Tháng 12 năm Mậu Thìn (1448) Nhập nội đô đốc
tham dự triều chính đình hầu Lê Chích chết. Chích là
công thần khai quốc cũ, thời Thái Tổ đã tham dự triều
chính, vì có lỗi mất chức, đến triều Thái Tông được
khôi phục làm Đồng tổng quản châu Hóa, trấn thủ
Thái Ải. Người Chiêm hai lần đến cướp, vây thành,
Chích lấy ít đánh nhiều cho đến khi phá được. Sau lại
đi đánh Chiêm Thành có công, thăng dần đến chức
này. Đến đây chết, tặng Nhập nội tư không bình
chương sự, đặt thụy là Trinh Vũ".
Triều đình còn cho dựng đền thờ ông, về sau này
lại cho khắc bia ghi tiểu sử và sự nghiệp của Nguyễn
Chích, trên tấm bia "Quốc triều tá mệnh công thần"
dựng năm Canh Ngọ (1450) có đoạn viết về ông như
sau:
"Ông ít nói, ít cười, hiền lành, trung thực, có chí
lớn, không chăm lo công việc làm ăn cho riêng mình…
Lập chí kiên quyết, thấy được sự việc lúc mới phát
sinh, tính toán cẩn thận, ứng biến mau chóng, công
danh đầy biên quận, sự nghiệp đầy triều đình".
(Tham khảo từ: Lam sơn thực lục, NXB Tân Việt,
1956)
Lời bình: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” chính là
đây. Khi đất nước thời loạn thì là vị tướng tài ba lỗi
lạc đánh giặc cứu nước, khi đất nước vào thời bình
thì là vị quan thanh liêm giúp vua bảo vệ đất nước.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 591


136. Nguyễn Thị Bành (1382-1448)

Về chuyện đời tư của Nguyễn Chích, mối tình của


ông đến một cách rất tình cờ, đó là khi Nguyễn Chích
vẫn là người đứng đầu lực lượng khởi nghĩa ở vùng
núi Hoàng và núi Nghiêu, anh hùng nhân sĩ cùng chí
hướng tìm đến tham gia khá nhiều.
Một hôm, khi ông đang ở trong doanh trại thì
nghe nghĩa binh vào báo rằng có một tráng sĩ trẻ
tuổi xin gặp chủ tướng. Khi người đó bước vào,
Nguyễn Chích thấy đó là một chàng trai dáng người
nhỏ nhắn, thư sinh tưởng chừng "trói gà không
chặt", ông liền cất tiếng hỏi:
- Anh có tài năng gì, vì sao lại tìm đến đây?
Tráng sĩ đáp bằng giọng nói nhỏ nhẹ nhưng
cương quyết và rất ngắn gọn:
- Tôi vốn học võ từ nhỏ, nay vì căm thù giặc nên
đến xin đầu quân.
Nguyễn Chích liền nói:
- Anh đã nói như vậy, giờ hãy trổ tài cho ta xem.
Sau đó ông mời tráng sĩ ra ngoài tỉ thí võ nghệ với
một bộ tướng của mình, không ngờ chỉ một thoáng,
qua vài đường võ thuật tráng sĩ trẻ đã đánh ngã viên
tướng kia.
Tiếp sau thì lần lượt hạ hết tướng này đến tướng
khác khiến cho cả doanh trại từ chủ tướng Nguyễn
Chích cho đến nghĩa binh ai nấy đều kinh ngạc, khâm
phục.

592 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thấy người đó tuổi trẻ tài cao, Nguyễn Chích rất
mừng bèn thu nhận vào đội quân của mình. Từ đó,
qua việc quân hàng ngày, để ý thấy tráng sĩ kia có
điều gì khác hẳn với mọi người, ông ngờ ngờ vì dáng
vẻ thùy mị, khuôn mặt, làn da, vóc dáng, đi đứng, bày
tay nhỏ nhắn; tất cả như những đường nét của một
người con gái.
Quyết tâm giải đáp những thắc mắc của mình,
Nguyễn Chích liền cho tổ chức một cuộc thi đấu vật
cho toàn quân, lệnh ban ra ai cũng phải tham dự (đặt
thù ở môn vật thì đấu sĩ phải cởi trần đóng khố).
Lúc đó, tráng sĩ trẻ kia tìm cách từ chối khéo, thế
nhưng trước mệnh lệnh và sự thúc ép của binh
tướng, ở vào cảnh không thể làm sao được nữa,
tráng sĩ kia đành thú thực với Nguyễn Chích rằng
mình là gái giả trai, tên là Nguyễn Thị Bành.
Không lâu sau, vốn phục tài đức của nhau, Nguyễn
Chích đã lấy Nguyễn Thị Bành làm vợ và phong làm
phó tướng. Người vợ này trong giỏi nội trợ, ngoài
tường binh thư kiếm pháp, đặc biệt lại cũng có tài
nuôi chim bồ câu giống như chồng.
Từ nhỏ, Nguyễn Chích đã được bố truyền nghề
nên ông có biệt tài nuôi chim bồ câu rất giỏi. Bồ câu
được dạy một cách khéo léo, để xem khả năng của
mỗi con, người ta đặt một chậu nước giữa sân, rồi
cho chim tung cánh lên trời, những con chim nào
dạy khéo sẽ bay rất thẳng, đến nỗi, bay cao lên tít
mây xanh mà bóng chim vẫn in trong chậu nước.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 593


Nguyễn Chích đã tập cho đàn chim của ông bay
khéo như vậy và còn luyện cho chúng mang thư từ
và đồ nhẹ đến nơi định sẵn và bay trở về.
Bấy giờ Nguyễn Thị Bành trở thành trợ thủ đắc
lực cho chồng trong việc huấn luyện đội quân chim
bồ câu. Không chỉ vậy, nàng còn nhiều lần tham gia
chiến trận, đáng kể nhất là trận giữ thành Yên Mỗ.
Tòa thành này là một trong những địa điểm quân
sự do Nguyễn Chích xây dựng, ở vị trí hiểm yếu nên
quân Minh rất muốn triệt hạ. Tướng giặc là Trương
Phụ có lần huy động một lực lượng khá đông đến
vây hãm,
Nguyễn Thị Bành đã cùng chồng chỉ huy quân lính
đánh cho quân giặc một trận thất điên bát đảo, giữ
vững căn cứ.
Khi Nguyễn Chích gia nhập với quân khởi nghĩa
Lam Sơn, ông cùng vợ đã mang toàn bộ binh sĩ và cả
bầy bồ câu đi theo để giúp việc truyền tin. Có lần căn
cứ Lam Sơn bị đánh úp, ở doanh trại chỉ có Lê Lợi và
Nguyễn Chích cùng mấy trăm quân túc vệ.
Giặc Minh ở ngoài vây rất chặt, khó có thể phá
được vòng vây hay cử người đi báo tin giải cứu.
Nguyễn Xí liền thả chim câu đi đưa thư gọi được các
cánh quân về cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh
vào làm cho vòng vây của giặc tan vỡ, Bình Định
Vương Lê Lợi rất khen ngợi, ban thưởng cho Nguyễn
Xí và lấy thóc tẩm mật cho chim ăn để bồi dưỡng.
Cho đến nay người dân ở vùng đất xứ Thanh Nghệ
vẫn lưu truyền bài Đồng Giao ca ngợi "đội quân"

594 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


chim bồ câu của vợ chồng tướng quân Nguyễn Chích
như sau:
"Bồ câu bồ các, Nó hát cúc cù.
Cu đi Quan Du, Cu về Bù Rộc.
Thư này hỏa tố, Phải đợi cu về.
Ăn gạo vua Lê, Đậu vai ông Chích.
Cu là cu thích, Lại hát cúc cù!".
Sau chiến thắng quân Minh xâm lược, Nguyễn
Chích trở thành khai quốc công thần nhà Hậu Lê, vợ
ông là Nguyễn Thị Bành được phong làm phu nhân.
Từ đó, bà sống cuộc đời của người vợ hiền, lo việc
gia đình giúp chồng nuôi dạy con cái, quán xuyến
việc nhà kể cả lúc ông ở đỉnh cao danh vọng hay lúc
bị nghi kị thất sủng.
Chính sử không nhắc gì đến người vợ tài năng của
Nguyễn Chích, nhưng sự nghiệp của ông có thể nói
có sự đóng góp ít nhiều của người vợ hiền Nguyễn
Thị Bành.
(Tham khảo từ: Những mẩu chuyện lý thú về
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (Trịnh Mạnh) – NXB
Giáo dục, 2007)
Lời bình: “Vợ có công thì chồng không phụ”.
“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” chính
là vậy. Thời trẻ yêu nhau vì tài, khi thành vợ chồng
cùng chung sức đánh giặc, hoạn nạn có nhau thì
thành ơn nghĩa. Cái nghĩa chính là cái gốc bền chắc
giữa vợ và chồng chứ không phải là tài. Cái ơn nghĩa
này có thể kéo dài kiếp này cho đến nhiều kiếp về sau
“có duyên thì gặp, có nợ thì thành” là vậy.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 595


137. Ả Đào giết giặc Minh (1417)

Làng Đào-đặng thuộc tỉnh Hưng-yên khi xưa có


một thôn, trong thôn có nhiều con gái người đẹp hát
hay, hầu hết đều làm nghề ả đào.
Vào hồi ấy, giặc Minh sang xâm chiêm nước ta.
Sau mấy năm hành binh, chúng đặt đồn đóng quân
khắp nước. Riêng thôn ấy cũng có một đồn lớn. Đồn
rất kiên cố, xây bên một cái ngòi. Đây là một vùng
đầm lầy lắm muỗi mà quân Minh thì rất sợ muỗi.
Theo thói quen chúng bắt dân nộp vải rồi mỗi người
may một cái túi kín, miệng túi có dây rút. Tối lại,
toán quân ở trong đồn mỗi người chui vào túi của
mình, chỉ để một kẻ thức ở ngoài thắt dây túi khi
chúng đi ngủ và cởi dây khi chúng trở dậy.
Quân Minh đi đến đâu chó gà vắng đến đấy. Chúng
tha hồ cướp bóc và chém giết. Chúng bắt đàn bà con
gái vào đồn hầu hạ và làm đồ chơi cho chúng. Trong
thôn bấy giờ có một người ả đào nhan sắc rất đẹp.
Nàng hát hay múa khéo nổi tiếng một vùng. Quân
Minh vừa đến đã bắt được nàng. Chúng rất thích:
thường bắt hát để mua vui. Nàng khéo chiều chuộng,
dần dần chiếm được lòng tin cậy của giặc. Mãi về
sau. chúng giao cho nàng công việc thắt miệng túi hộ,
lúc nào dậy lại nhờ cởi ra.
Bấy giờ vì nạn giặc Minh nên những trai tráng
trong thôn đều bỏ trốn hết, chỉ còn lại có bảy người.
Một hôm nàng bàn với họ mưu kế giết giặc. Nàng sẽ
tìm cách làm cho họ lọt vào đồn rồi nhân lúc chúng
ngủ say trong túi, khiêng ra ném xuống ngòi chết
trôi ra sông Cái là mất tích.
596 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Và từ hôm ấy nàng cùng mấy người làng cứ theo
cách đó đêm nào cũng giết được một số giặc. Họ làm
cho quân giặc đến đóng ở đồn chết dần chết mòn mà
chúng vẫn không biết gì cả. Lâu ngày mấy tên tướng
chỉ huy thấy số quân có phần hao hụt nên chúng
phải đắp bên cạnh đồn một cái đấu để đong quân. Từ
khi có đấu, chúng mới biết quân mình ngày một vợi
dần. Chúng ngờ có quỷ thần ám hại nên dời đồn đi
một nơi khác. Người dân vùng ấy nhờ vậy mà được
thoát nạn.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999)
Lời bình: “Khi giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”,
giặc đến cướp nước ta thì đã là người dân Việt nam
ai cũng có trách nhiệm phải đánh đuổi giặc ra khỏi bờ
cõi.
Nhưng đánh thế nào, đánh ra làm sao với sức lực
yếu đuối mà vẫn giữ được an toàn cho bản thân và
cho người trong làng thì lại là một điều rất khó khăn.
Ở đây Ả Đào đã có duyên thấy được cơ hội giết
giặc, đã khôn kéo và dũng cảm thực hiện được công
việc giết giặc. Những người con gái này là những tấm
giương và cũng là hình ảnh tiêu biểu của người dân
Việt trong bất kỳ thời nào khi đất nước ta bị ngoại
xâm.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 597


138. Mụ Vườn phá đồn giặc Minh (1424)

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ vào mùa xuân


năm Mậu Tuất (1418), từ đó cho đến năm Quý Mão
(1423), quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở
vùng núi Thanh Hóa, bị quân Minh nhiều lần đánh
bại, tình thế vô cùng khó khăn.
Vào thời điểm đó, tướng Nguyễn Chích đã hiến kế
với Lê Lợi rằng:
- Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông.
Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông
thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà
Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng
chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà
quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong
việc dẹp yên thiên hạ.
Chấp thuận kế hoạch của ông, Lê Lợi quyết định
tiến vào Nghệ An và công việc quan trọng bậc nhất là
phải tiêu diệt được đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn
Hòa, huyện Nông Cống, Thanh Hóa).
Đây là đồn lũy trấn giữ vị trí hiểm yếu nên quân
Minh bố trí lực lượng rất mạnh do tên chủ tướng
Lương Nhữ Hốt chỉ huy. Bọn giặc rất cảnh giác,
chúng không cho bất kỳ ai đến khu vực quanh đồn,
canh giữ nghiêm ngặt, nội bất xuất ngoại bất nhập.
Muốn chiếm được đồn giặc này cần phải có lực
lượng lớn, nếu hạ được tổn thất sẽ không thể tính
được, điều đó khiến bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn
lo lắng, phân vân.
May mắn thay, theo nghĩa quân hoạt động trong
vùng này từ trước cho biết, có một người có thể làm
598 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
nội ứng giúp chiếm đồn Đa Căng, người đó là một bà
lão làm nghề đỡ đẻ, thường được gọi là mụ Vườn.
Thấy bà già yếu không có khả năng làm gì hại
chúng được nên giặc Minh cho phép bà ra vào đồn
trại để lo việc hầu hạ, chăm sóc vợ con tướng giặc
khi sinh nở. Chúng đâu ngờ rằng bà cụ lại là cơ sở
tình báo của nghĩa quân, thường xuyên liên lạc cung
cấp thông tin trong đồn cho quân ta. Khi nhận được
lệnh phải để ý cách canh phòng, bố trí lực lượng
phục vụ cho cuộc tấn công sắp tới, mụ Vườn đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Biết rõ được nội tình của giặc, quân Lam Sơn do
Lê Lợi trực tiếp chỉ huy tổ chức đánh úp đồn Đa
Căng ngày 20 tháng 9 năm Giáp Thìn (tức ngày
12/10/1424), giành được thắng lợi lớn.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
"Mùa thu, tháng 9, ngày 20, vua chỉ huy quân và
voi đánh úp đồn Đa Căng, phá được đồn này. Tham
chính nhà Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ chạy thoát
được thân mình, ta thu hết khí giới, đốt phá đồn giặc.
Đô chỉ huy sứ nhà Minh Nguyễn Suất Anh đem quân
đến cứu viện, nhưng đồn đã mất. Anh chưng hửng,
không chỗ bấu víu, vua lại đánh bại chúng. Anh chạy
vào thành Tây Đô. Vợ con của Anh bị ta bắt được, vua
đều tha cho về cả".
Theo sách Lam Sơn thực lục, trong trận này: "ta
đánh thắng, giặc thua to, chạy vào Tây Đô, giặc bị
chém đầu và chết đuối hơn 1.000 tên".
Chiến thắng đó đã khai thông đường tiến vào
Nghệ An, giúp quân ta liên tiếp hạ được các thành

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 599


lũy, đồn trại của giặc và chỉ trong vòng chưa đầy một
năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của Nguyễn Chích,
quân Lam Sơn làm chủ cả vùng rộng lớn từ Thanh
Hóa vào Thuận Hóa, cho thấy hiệu quả của việc thay
đổi chiến thuật này rất lớn.
Chuyện kể rằng sau trận hạ đồn Đa Căng, Lê Lợi
ban thưởng lớn cho nghĩa quân, công đầu thuộc về
mụ Vườn. Ông còn cho đổi tên Đa Căng có nghĩa là
khoe nhiều như bọn giặc từng tự đắc về lực lượng
của chúng, đặt lại thành tên gọi Bất Căng nghĩa là
không sợ cũng có nghĩa là không khoe được.
Ngày nay tại làng Bất Căng còn một số dấu tích
liên quan như cồn Bà Già là nơi chôn cất mụ Vườn
sau khi bà mất, nền đồn lính của quân ta gọi là
Phong Bái, đường quân ta đi gọi là Vân Lộ đều mang
ý nghĩa phong vân đắc lộ, đường mây gặp gió, thênh
thang tiến bước đi đến chiến thắng của nghĩa quân
Lam Sơn.
(Tham khảo từ: Truyện hay trong lịch sử Việt
Nam, trang 89-92, NXB Hồng Đức)
Lời bình: Khi đất nước có giặc mỗi người dân là
một chiến sĩ, đến cả những người già như Mụ Vườn
trong truyện này cũng là một người chiến sĩ anh dũng
quả cảm, hoàn thành vai trò một tình báo xuất sắc.
Giặc Minh đến cướp nước ta gieo đau thương cho
bao người người dân vô tội nên lòng căm thù giặc đã
ăn sâu vào xương tủy của người dân Việt.
Nếu có cơ hội, có điều kiện và có duyên thì không
chỉ riêng Mụ Vườn mà mọi người dân Việt yêu nước
đều hành động được như Mụ mà thôi.

600 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


139. Đinh Thị Vân - bà Chúa Thác Bờ (1425)

Bà người Mường sinh quán ở đất Hòa Bình cuối


đời nhà Trần. Bà là con gái của một tộc trưởng người
Mường ở xã Kim Bôi, Hòa Bình.
Khi nhà Minh xâm lược Đại Việt, Lê Lợi dấy quân
khởi nghĩa. Khi nghĩa quân đến Thác Bờ, bà Đinh Thị
Vân đã kêu gọi nhân dân quyên góp lương thực nuôi
quân. Cũng chính bà đã tổ chức chèo thuyền đưa
nghĩa quân đi đánh quân xâm lược ở đèo Cát Hãn
(nay thuộc tỉnh Lai Châu). Khi Lê Lợi chiến thắng trở
về, bà đã tổ chức lễ hội khao quân, cùng với huy
động người dân chặt tre làm bè để đưa nghĩa quân
về kinh. Trong thời gian ở đây, Lê Lợi đã dùng kiếm
Thuận Thiên khắc lên đá một bài thơ khích lệ tinh
thần quả cảm của quân lính và sự anh dũng của
người dân nơi đây, hiện tảng đá đang được lưu giữ ở
Nhà văn hóa trung tâm thành phố Hòa Bình.
Để ghi công, bà được triều đình giao cai quản
vùng đất người Mường ở Hòa Bình. Tại đây, bà giúp
nhân dân ổn định cuộc sống, dạy mọi người lên rẫy
làm nương, xuống sông Đà thả lưới bát cá; khi thanh
nhàn, bà lại một mình chèo thuyền độc mộc dọc theo
sông Đà du ngoạn thắng cảnh.
Sau khi bà qua đời, Vua Lê Lợi lệnh dân bản xứ lập
đền thờ bà bên cạnh thác Bờ.
Chúa Thác Bờ không nằm trong hệ thống Tứ phủ
nhưng bà được phối thờ trong hệ thống Tứ phủ và
được coi như một phần của hệ thống Tứ phủ.
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 601
Lời bình: Những vị tướng khi sống khí phách oai
hùng tạo dựng được công đức lớn. Khi mất sẽ là vị
Phúc thần hộ mệnh cho dân địa phương ở nơi ngài
sinh sống vì nơi đó có duyên nợ với ngài. Dân nơi đó
cúng lễ, cầu khẩn rất dễ đạt được linh ứng.
Có những đền miếu có sự hiển linh mà không biết
rõ gốc tích và công đức của các vị thật ra là thiếu sót
lớn. Vì rằng nếu ai biết đến công đức các vị, biết
nguồn gốc sinh ra, lớn lên và làm những gì thì khi
khấn lễ chỉ cần quán tưởng đến công đức đó, đến tên
tuổi vị đó thì dễ thành.
Ví như, khi ta đến nhà một người hỏi vay tiền mà
không biết tên tuổi, địa vị, sự giàu có, thành công của
họ, họ quản lý doanh nghiệp gì, công đức gì... thì
người đó rất khó cho ta vay. Nếu ta biết chỉ cần tán
dương họ một số điểm thì họ rất cảm động.
Bà chúa Thác Bờ Đinh Thị Vân cũng vậy. Khi sống
tạo công đức lớn là giúp Lê Lợi đánh giặc. Khi mất,
vua sắc phong và lập điện thờ thì ở cõi âm Bà sẽ là vị
thần ứng theo sắc phong đó, có cung điện, có kẻ hầu
người hạ. Công đức khi sống nhiều ít thế nào thì chết
vẫn có Phúc và được hưởng Phúc từ công đức đó
mang lại.

602 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


140. Đào Huệ - bà Chúa Tháp Bà (1425)

Vào cuối thế kỷ XIV (1390), ở làng Chế Cầu, huyện


Ý Yên, tỉnh Nam Định, có hai vợ chồng người dân
quê tên Lương, sinh được một đứa con gái xinh đẹp,
đặt tên là Huệ. Khi lớn lên, vì không muốn phải xa
cha mẹ nên Huệ nhất định không lấy chồng. Đến lúc
song thân đều mất, nàng lên Thăng Long làm nghề
đào hát. Biết bao vương tôn công tử ở kinh đô say
theo sắc đẹp và giọng hát mê hồn của nàng.
Thuở ấy, quân nhà Minh đang chiếm đóng nước
Nam. Trước cảnh lầm than của đồng bào sống dưới
ách đô hộ tàn ác của giặc, tiếng đàn câu hát qua trận
cười thâu đêm không làm cho cô đào Huệ quên được
mối thù đất nước. Gương chị em hai bà Trưng, bà
Triệu ngày xưa nhắc nhở, thúc dục nàng đem mình
ra cứu nước.
Nghe tiếng Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, được
toàn dân hưởng ứng, nàng bèn tìm cách liên lạc. Sau
đó, nàng mở một quán rượu nổi tiếng tại đất Thăng
Long, tướng sĩ quân Minh thường ngày lui tới. Nhờ
sắc đẹp và tài ăn nói, chiều chuộng khách hàng, nàng
dò la được biết tình hình của quân giặc.
Một hôm, nàng báo tin cho Lê Lợi hẹn ngày khởi
sự "nội ứng ngoại công" để đánh chiếm kinh thành.
Lê Lợi phái các tướng Lê Khôi, Đinh Liệt, Nguyễn Xí
và Bùi Hưng Nhân mang quân ra Bắc.
Tối hôm ấy, đào Huệ bày tiệc lớn mời khắp các
tướng tá quân Minh đến. Trong bữa tiệc, nàng dùng
các cô gái đẹp để mời rượu, ép khách uống. Quân
giặc không ngờ, bị phục rượu say mèm, không về
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 603
được dinh trại. Đến nửa đêm, quân ta đã mai phục
sẵn, vào quán bắt trói hết tướng tá quân Minh tải thả
xuống sông Nhị. Đồng thời theo hỏa lệnh, quân sĩ Lê
Lợi tiến đánh Thăng Long.
Đào Huệ bỏ mình trong trận mạc. Sau khi chiếm
được kinh thành, nhớ công ơn cô đào đã hy sinh cứu
quốc, Lê Lợi phong cho nàng làm Phúc Thần Kiến
Quốc Trinh Liệt Phu Nhân, lập đền thờ ở huyện Thọ
Xương (đường Hàng Trống bây giờ) gọi là đền Đông
Hương.
Dân chúng nhớ ơn gọi là Tháp Bà, quanh năm đèn
hương nghi ngút ở đền. Người ta còn gọi đào Huệ là
Ngọc Kiều Phu Nhân. Vì kiêng tên và nghề nghiệp
của đào Huệ nên người ta tránh không dùng đến hoa
huệ và mời ả đào hát trong dịp cúng lễ ngày húy kỵ
của nàng.
(Tham khảo từ: Thần tích Việt Nam (Lê Xuân
Quang) – NXB Thanh niên, 2007)
Lời bình: Cũng tương tự như bà chúa Thác Bờ
nhưng Đào Huệ không được viên mãn, không thấy
ngày đất nước hòa bình.
Bà bị chết trong trận mạc nên cái tâm không yên
ổn. Tuy rằng vong linh sau khi chết cảm được tâm của
người sống, thấy rõ đất nước hòa bình lòng dân thư
thái yên vui, nhưng cái tâm bất an trong trận mạc và
thù ghét quân giặc thì rất khó chuyển đổi. Do vậy các
vong chết ngay khi còn khỏe mạnh, tinh lực sung mãn
thì rất linh thiêng và khó đầu thai. “Chết trẻ khỏe ma,
chết già ma nhược” là vậy.

604 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nhưng công đức của bà rất lớn, nhờ có bà bên
trong nội ứng mà Lê Lợi đánh thành Thăng Long
được thuận tiện. Vậy ắt hẳn ở cõi âm bà cũng là vị
thần đầy uy lực chính nhờ công đức đó mà thành.
Đền miếu hiển linh thì dân mới đến lễ bái và ở cõi
âm Bà vẫn được hưởng sự lễ bái, kẻ hầu người hạ. Do
Phúc bà lớn nên có thể ban phúc ban lộc giúp dân là
vậy.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 605


141. Lê Thái Tông (1433-1442) giết oan
Công Thần.

Sau khi Thái Tổ Lê Lợi mất năm 1433, Hoàng thái


tử Lê Nguyên Long mới 10 tuổi lên nối ngôi, tức là
vua Lê Thái Tông. Từ năm 17 tuổi đến năm 19 tuổi
Lê Thái Tông đã giết oan 2 đại công thần Khai Quốc
là: Lê Sát và Lê Ngân. Cuối đời ở vườn Lệ Chi, vua bị
chết đột ngột và Nguyễn Trãi bị nghi oan giết vua và
bị chu di tam tộc.
Khi vua lên ngôi quyền lực tập trung vào tay Tể
tướng Lê Sát. Con gái của Lê Sát là Lê Ngọc Dao được
vua lập làm Nguyên phi, nên uy quyền của Lê Sát
khuynh đảo cả triều đình.
Theo Đại Việt thông sử chép rằng:
“Lê Sát là võ tướng không hiểu đại thể, các việc
thường theo ý riêng, tính thẳng hay làm bừa, không
nghĩ đến sau, lại là người nóng nảy do đó dẫn đến
nhiều lần làm mất lòng vị vua trẻ để rồi nhà vua
xuống tay sát hại, nhiều người vẫn cho rằng ông bị
chết oan”.
Dù còn nhỏ tuổi, vua Lê Thái Tông đã tỏ ra xuất
sắc trong việc giành quyền lực về tay mình.
Bắt ép Lê Sát tự tử:
Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
“Khi nhà vua được 17 tuổi, tháng 6, nhà vua xuống
chiếu bắt Lê Sát, vì thấy Lê Sát chuyên quyền".
Lê Sát vốn là người sách Lam Sơn, Thọ Xuân,
Thanh Hóa, đồng hương với vua Lê Lợi, là người
tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu, lập nhiều chiến
606 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
công hiển hách. Đến khi thành công, trong danh sách
công trạng, ông được xếp thứ nhì, được phong
Huyện thượng hầu.
Trước khi giết Lê Sát, vua Lê Thái Tông đã có sự
chuẩn bị rất cẩn thận. Vua cho gọi Trịnh Khả, người
bị Lê Sát đẩy ra khỏi kinh thành vì không cùng phe
cánh, về chỉ huy cấm binh ở kinh đô. Khi biết tin này,
Lê Sát vào cung tâu với nhà vua lo là Khả sẽ hại
mình, nhưng nhà vua không nói gì.
Nhà vua nhận tờ tâu về việc Lê Sát chuyên quyền,
cho Hình quan xét xử. Lê Sát tâu với vua rằng:
- Nay buộc cho thần cái tội chuyên quyền, thế là
tội của thần do tiên đế ban cho.
Lê Văn Linh, Lê Ngân muốn gỡ tội cho Sát, nhà
vua không nghe, xuống chiếu rằng:
“Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen người tài,
giết Nhân Chú để tự ra oai của mình, truất Trịnh Khả
để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần
không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để
gián quan phải ngậm miệng.
Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm
tôi. Nay muốn khép vào luật hình để tỏ rõ phép nước,
song vì là đại thần cố mệnh, có công với nhà nước,
đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước”.
Đến tháng 7, nhà vua bắt Lê Sát phải tự tử, con gái
ông bị phế làm thứ dân, vợ con và gia sản đều bị tịch
thu.
Những người cùng phe hoặc từng nói đỡ tội cho
ông cũng bị phạt: Tham đốc Lê Văn Linh bị giáng
xuống làm Tả bộc xạ, Điện tiền đô kiểm điểm Lê Ê bị
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 607
giáng xuống làm Đồng tổng quản lộ Quy Hóa. Hai
người cùng bị truy đoạt tấm biển "công thần" được
ban cho từ thời Lê Thái Tổ.
Bắt ép Lê Ngân tự tử:
Sau khi Lê Sát chết, chức tể tướng được trao cho
Lê Ngân, vua cũng ban cho ông một người vợ lẽ của
Lê Sát.
Lê Ngân là người ở Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh
Hóa, theo Lê Lợi từ lúc khởi binh, cùng vua trải bao
phen nằm gai nếm mật, từ lúc bị vây ở Ai Lao, khi hết
lương ở Linh Sơn, hay lập chiến công trong các trận
Bồ Đằng, Khả Lưu, Thuận Hóa, Tây Việt, và công
cuộc chiếm lại thành Đông Đô.
Năm 1429, trong đợt xét công trạng của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, ông được xếp hàng thứ tư trên danh
sách Khai quốc công thần, được phong tước Á hầu.
Trước khi được phong Tể tướng, ông giữ chức
Nhập nội Đại đô đốc, Phiêu kỵ Thượng tướng quân,
Đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty, Thượng trụ
Quốc thượng hầu.
Cùng với việc được thăng chức cho Lê Ngân, con
gái ông là Chiêu nghi Lê Nhật Lệ cũng được nhà vua
thăng làm Huệ phi. Tuy nhiên, có ai ngờ được, việc
được nhà vua sủng ái lại chính là bản án tử hình
được chuẩn bị sẵn cho Lê Ngân theo cùng một kịch
bản như với Lê Sát.
Chỉ sau khi Lê Sát bị giết có 4 tháng, tháng 11
cùng năm, Lê Ngân cũng bị bắt và buộc phải tự sát,
con gái ông cũng bị vua phế bỏ.

608 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tội danh của Lê Ngân có lẽ là tội danh kỳ lạ nhất
trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.
Không phải là tội phản loạn, không phải sự lạm
quyền như Lê Sát, mà là một tội về "mê tín dị đoan".
Nguyên Lê Ngân bị có người gièm pha là lập bàn
thờ Phật ở trong phủ để cầu cho con gái được vua
yêu. Thời Lê, triều đình vốn sùng Nho giáo, bài trừ
Phật giáo.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
“Vua ngự ra ở cửa Đông thành, sai Thái giám Đỗ
Khuyển dẫn 50 võ sĩ lục soát nhà Lê Ngân, bắt được
tượng Phật và các thứ vàng bạc, tơ lụa.
Ngày hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ ra để tạ
tội, trần tình rằng: "Trước kia thần theo khởi nghĩa ở
Lam Kinh, nay thần cũng nhiều bệnh, thầy bói bảo là
trong nhà thần ở, trước đây có miếu thờ Phật, vì để ô
uế, nên xảy ra tai họa. Cho nên thần làm lại để thờ
cúng".
Sau đó, Lê Ngân cho rằng:
"Người vợ lẽ đã bị bỏ của thần là Nguyễn thị và
người vợ lẽ của Lê Sát là Trần thị đã ban cho thần, cả
hai đứa đều thù oán thần, cùng với đứa gia nô điêu
ngoa của thần thêu dệt bày đặt cho ra chuyện đó. Tiên
đế biết rõ lòng thần, thường vẫn ưu ái bao dung. Nay
gân sức của thần đã mỏi mệt lắm rồi, xin cho được về
quê để sống hết tuổi tàn còn lại. Nếu nghe những
người xung quanh mà tra tấn người nhà của thần,
khi bị đánh đau quá, nhất định chúng sẽ khai khác đi,
thì thân thần sợ không giữ được, xin bệ hạ nghĩ lại
cho".

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 609


Vua không nghe, vẫn sai tra khảo nô tì trong nhà
ông, rồi bắt ông tự chết ở nhà, tịch thu gia sản, giáng
Huệ phi Nhật Lệ, con gái Lê Ngân làm Tư dung.
Lê Ngân đành phải tự kết liễu cuộc đời đầy võ
công hiển hách của mình bằng cách treo cổ. Mụ đồng
Nguyễn thị bị đày ra châu xa. Thầy phù thủy Trần
Văn Phương bị đồ làm lính ở phường nuôi voi.
Vụ án Lệ Chi Viên chu di tam tộc gia đình
Nguyễn Trãi:
Tháng 7 năm 1442, Lê Thái Tông mới 19 tuổi, đã
mất đột ngột tại trang trại Lệ Chi Viên, Hải Dương,
kéo theo sự thảm sát đối với gia đình một vị Đại Khai
Quốc công thần nữa là Nguyễn Trãi.
Đến đời vua Lê Nhân Tông, năm 1453, nhà vua đại
xá, cấp cho con cháu Lê Ngân, Lê Sát, Lê Khả, Lê
Khiêm, Trịnh Khắc Phục mỗi nhà 100 mẫu ruộng
quan điền.
Năm 1464, Lê Thánh Tông giải oan cho Nguyễn
Trãi, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người
con trai sống sót cho làm quan.
Năm 1484, Lê Thánh Tông truy phong Lê Ngân
chức Thái phó, Hoằng quốc công.
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó
tin về các vị vua Việt Nam (NXB Hồng Đức)
Lời bình: Thế thường vẫn vậy. Chơi với hùm, vuốt
râu hùm sẽ có ngày bị hùm ăn thịt.
Đời nhà Trần sau khi có những chiến công oanh
liệt không bị rơi vào tình trạng này vì các tướng lĩnh
đa phần là hoàng thân quốc thích với vua.

610 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ở đời Hậu Lê dần dần những vị công thần khai
quốc đều bị giáng chức, cắt tước vị, có những người
bị nặng còn bị ép tự tử:
Nguyễn Trãi bị nghi oan bắt giam sau đó được thả
làm thường dân sống ẩn ở Côn Sơn Kiếp Bạc. Sau lại
được Lê Thái Tông mời về làm quan thì vua bị chết
đột ngột Lệ Chi Viên và Nguyễn Trãi bị nghi giết vua
và bị chu di tam tộc.
Trần Nguyên Hãn quẫn bách mà tự tử trên sông
trên đường bị áp giải về triều.
Lê Sát và Lê Ngân bị ép phải tự tử.
Nguyễn Chích thời Lê Thái Tổ bị nghi oan mà mất
chức, đến thời Lê Thái Tông được mời về làm quan.
Thế mới thấy câu nói của Trần Nguyên Hãn: “...Nhà
vua có tướng y như Việt Vương, không thể cùng
hưởng sung sướng được. (Việt Vương tức Câu Tiễn,
vua của nước Việt ở Trung Quốc thời Chiến Quốc,
người đã giết nhiều cận thần từng vào sinh ra tử với
mình)...”. Nguyên Hãn là người thông hiểu nhân
tướng và có con mắt tinh đời mà vẫn không thoát
khỏi cái nạn vuốt râu hùm.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 611


142. Lê Thánh Tông (1460 - 1497) bị sát hại

Lê Thánh Tông khi còn là hoàng tử, trong một lần


đi dạo chơi bên bờ sông Tống Sơn - Thanh Hóa chợt
thấy một cô gái xinh đẹp đang ngồi vo gạo dưới bến.
Tức cảnh sinh tình, Lê Thánh Tông bèn ra một vế
đối:
"Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm
mến cả…".
Câu đối bỏ lửng như một lời ngỏ ý khéo léo khiến
người ta phải rung động. Cô gái nghe thấy khúc
khích cười rồi đối đáp lại:
"Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho…".
Câu đối vừa cho chàng trai một chút hy vọng
nhưng vừa là một lời trách người con trai phải biết
lo việc đời trước khi lo duyên, thế mới xứng là đấng
nam nhi.
Nghe lời đối đáp ấy, trái tim vị hoàng tử trẻ loạn
nhịp và thầm nghĩ sao trên đời lại có người con gái
tài sắc vẹn toàn đến vậy. Lê Thánh Tông quyết phải
chinh phục bằng được đóa hoa quý giá này.
Hoàng tử dò hỏi mãi, mới biết cô gái ấy tên là
Nguyễn Thị Hằng, là con của tướng Nguyễn Đức
Trung. Mà vợ của vị tướng này lại là bạn thân của mẹ
hoàng tử. Đã có duyên gặp gỡ nay lại được thêm
duyên phụ mẫu vun đắp. Mối tính của hoàng tử Lê
Thánh Tông và Nguyễn Thị Hằng nhanh chóng đơm
hoa kết trái.

612 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông liền phong
Nguyễn Thị Hằng làm Sùng Nghi, cho ở cung Vĩnh
Ninh để vua luôn được gần bên người đẹp.
Một đêm nọ, Sùng Nghi chiêm bao thấy mình
được đưa lên trời gặp Ngọc Hoàng. Vừa thấy Ngọc
Hoàng nàng vội quỳ xuống cầu xin ngài ban cho nàng
một đứa con trai. Trước lời cầu xin chân thành của
quý phi, Ngọc Hoàng bèn bảo rằng:
- Được, cho Thiên Lộc xuống làm con họ Nguyễn.
Rồi ngài sai một cung nữ bế một bé trai ra đưa
cho nàng. Nàng đưa hai tay lên đỡ thì hẫng một cái,
nàng tỉnh dậy thấy tay mình vẫn còn giơ ra trước
ngực.
Hôm sau, nàng đem chuyện giấc mộng lạ kể cho
hoàng đế biết, Lê Thánh Tông nghe xong vui mừng
nói với nàng:
- Nếu ái khanh sinh được một hoàng nam, ta hứa
ta sẽ cho hoàng tử kế vị, lên ngôi thiên tử.
Quả nhiên năm sau, Sùng Nghi Nguyễn Thị Hằng
sinh hạ được một bé trai. Vua Thánh Tông mừng rỡ
vô cùng, liền phong ngay cho làm quý phi và xuống
chiếu cho con trai là Đông cung Thái Tử.
Từ ngày quý phi Sùng Nghi hạ sinh thái tử, thế lực
gia tộc Nguyễn Thị trong triều ngày càng lớn mạnh,
khiến quần thần ai lấy đều lo ngại dòng họ này sẽ
làm chuyện quyền biến.
Đến một ngày, chuyện giấc mơ kỳ lạ của quý phi
Sùng Nghi đến tai một vị cận thần. Ông ngẫm đi
ngẫm lại rồi bất giác hỏi tại sao ngọc hoàng lại cho
Thiên Lộc xuống làm con họ Nguyễn mà không phải
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 613
họ Lê? Vị cận thần mỉm cười nhận ra đây chính là cơ
hội làm giảm sút sức mạnh của gia tộc Nguyễn Thị.
Ngay lúc đó vị cận thần tức tốc vào cung và trình
lên Vua Lê Thánh Tông thắc mắc của mình. Nghe lời
tấu của vị cận thần, vua Lê Thánh Tông cũng giật
mình nói:
- Ngươi nói cũng phải. Bấy lâu nay, trẫm cũng
hơi e về vai trò của Thái úy Trịnh Quốc trong
triều. Khanh nên giữ kín chuyện này, để trẫm
xét xem sao.
Ít lâu sau, vua Lê Thánh Tông mắc bệnh lạ, toàn
thân ngứa ngáy, đầy mụn nhỏ li ti, có nước…nhiều
bậc danh y đến cứu chữa mãi mà không khỏi. Vua lo
lắng bệnh tật, lại thêm những lời gièm pha của một
số cận thần về gia tộc Nguyễn Thị.
Ngài quyết định giam quý phi Sùng Nghi vào cung
Trường Lạc, bắt đầu có ý định không cho hoàng tử
Thiên Lộc nối ngôi nữa.
Nguyễn Thị ở cung Trường Lạc gần như bị cô lập,
bỏ rơi, mặc dầu chưa rõ hẳn ý vua, nhưng nàng đã
phần nào hiểu sai lầm của mình trong việc kể cho Lê
Thánh Tông nghe về giấc mộng của mình, điều đó
khiến nàng vừa lo lắng, vừa đau lòng.
Đã bao lần nàng tìm cách tấu bày, minh oan,
nhưng dường như nhà vua chẳng còn đoái hoài gì
nữa. Tương lai của con trai nàng bị đe dọa, nàng
thương con đến xót xa. Chỉ còn một tia hy vọng nhỏ
nhoi lúc này là nhà vua chưa xuống chiếu truất
quyền kế vị của Thiên Lộc.

614 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Đại Việt sử ký toàn thư và sách 36 Hoàng Hậu và
Hoàng Phi Thăng Long có chép lại rằng:
"Trong lo lắng, đau đớn, bỗng nàng thấy lóe lên
một tia hy vọng, nếu ta…nếu ta dám làm điều này!
Thôi, nàng nghĩ cũng phải vì con, vì dòng họ!"
Hôm sau, Sùng Nghi Nguyễn Thị năm nỉ xin được
vào thăm Thánh thượng một lần, trước khi ngài
nguy kịch. Thật ra, lúc này bệnh của vua Thánh Tông
đã rất nặng rồi. Ngài cũng nhớ tới quý phi và Thái tử,
nên suy nghĩ một lát, ngài quyết định cho nàng vào.
Nguyễn Thị vào trông thấy Thánh Tông, liền quỳ
xuống, ôm lấy tay Lê Thánh Tông mà khóc nức nở,
rồi nàng xoa bóp tay chân, tiếp đó ngầm giấu thuốc
độc trong tay mà sờ vào những vết ngứa lở của nhà
vua, tỏ vẻ đầy thương xót.
Hôm sau, bệnh vua Thánh Tông càng nặng hơn,
ngài mê man rồi băng hà mà không trối trăng được
điều gì. Bởi thế cứ thiên lệnh cũ, Hoàng Nam, Thiên
Lộc con của quý phi NguyễnThị Hằng được lên ngôi,
lấy hiệu là Hiến Tông. Sau khi đăng quang, vua Hiến
Tông tôn phong mẹ là Hoàng Thái hậu.
(Tham khảo từ: Hoàng hậu hoàng phi Thăng Long
Hà Nội – NXB Thanh Niên, trang 79-85)
Lời bình: Nội bộ triều đình thật nhiều sự rối ren.
Thời đại được khen là thái bình thịnh trị nhất của lịch
sử phong kiến Đại Việt mà vẫn có cảnh mưu mô ám
toán, dành ngôi đoạt vị, thanh trừng nội bộ.
Lê Thánh Tông là vị vua anh minh nhất thời nhà
Hậu Lê, ngài có nhiều chiến công đánh Chiêm mở
rộng bờ cõi Đại Việt mà cuối đời lại chết vì vợ của
mình. Thật là đáng buồn.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 615


143. Lương Thế Vinh (1441 - 1495)
Trạng đo lường

Lương Thế Vinh (1441-1495) tự là Cảnh Nghị,


hiệu là Thụy Hiên, quê ở làng Cao Hương, huyện
Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là
làng Cao Phương, xã Liên Bảo thuộc huyện Vụ Bản,
Nam Định).
Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thần đồng, rất giỏi tính
toán, không sách nào không đọc, am tường nhiều
việc.
Năm Quý Mùi (1463) đời Lê Thánh Tông, triều
đình mở khoa thi tuyển nhân tài, Lương Thế Vinh
trẩy kinh ứng thí.
Với văn phong dồi dào, ý tứ sâu sắc, kiến thức
rộng rãi nên bài thi của ông được chấm cao nhất, các
quan phụ trách đọc quyển thi đã đánh giá bài thi của
ông là "có học thức, xứng đáng đậu đầu".
Còn vua Lê Thánh Tông khi xem bài thi của ông,
phê dòng chữ khen ngợi: "Quyển này rõ ràng không
hổ danh là một bài đối sách, văn càng đọc càng cảm
thấy thích thú", thế là Lương Thế Vinh đoạt danh
hiệu Trạng nguyên, năm đó ông mới 22 tuổi.
Lương Thế Vinh làm quan đến chức Hàn lâm viện
Trực học sĩ, Chưởng viện sự, Nhập thị kinh điển.
Ông có tài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là toán
học, là người đã sáng chế ra bàn tính gẩy, ban đầu
làm bằng những viên bi đất có lỗ được xâu lại, sau
cải tiến dần thành những đốt trúc ngắn có sẵn lỗ ở

616 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


trong, cuối cùng là những viên gỗ tròn sơn màu khác
nhau, vừa dễ tính toán, vừa dễ nhớ.
Lương Thế Vinh chính là tác giả cuốn "Đại thành
toán pháp" hướng dẫn cách đo đạc, tính toán chi tiết
nhưng dễ hiểu bằng các câu thơ nôm, ví như cách
tính diện tích hình thang là:
“Tam giác cụt đầu
Diện tích tính là sao
Cạnh trên, cạnh dưới cộng vào
Đem nhân với nửa bề cao khắc thành”
Có nhiều giai thoại lưu truyền về tài tính toán của
ông như chuyện đo ruộng, cân voi… nên dân gian
thán phục gọi ông là Trạng Lường (Trạng đo Lường).
Chuyện tình không thành với cô gái phố Hàng
Đào
Tương truyền sau khi đỗ thi Hương, Lương Thế
Vinh về kinh đô Thăng Long ôn luyện thêm kinh
sách, chờ ngày vào thi Hội.
Nhiều cử nhân Nho học cũng tập trung rất đông,
trong số những nho sinh, văn sĩ mới quen biết, có
một người nhà ở Hàng Đào rất khâm phục danh
tiếng của chàng thanh niên từng được mệnh danh là
thần đồng làng Hương, anh tài đất Nam Sơn nên một
mực mời về nhà mình.
Nhà người bạn mới này gia cảnh khá giả, anh ta có
một người em gái là Thị Liệu nhan sắc xinh đẹp,
được học hành chu đáo, biết làm thơ, vẽ tranh nên
có ý muốn gán ghép cho bạn.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 617


Qua đôi lần đi lại, gia đình cô gái rất ưng ý nhắm
làm con rể, Thị Liệu cũng tỏ ý yêu thương thuận
lòng, còn Lương Thế Vinh cũng có cảm tình với
người đẹp.
Trước khi dự thi Hội, Lương Thế Vinh đến từ biệt
Thị Liệu để về quê lấy thêm tiền, gạo và cũng để
thưa chuyện với cha mẹ tính chuyện mai mối đám
này. Khi chia tay, cô gái không nói lời khích lệ mà
đưa cho chàng một bài thơ không đề viết bằng chữ
Hán:
“Thủ huề lợi phủ hưởng sơn lâm,
Nhất nhất tiều phu nhật nhập thâm.
Yên hạ hoành đao từ bộ chí,
Phương môn môn nội hữu tình nhân”
Nghĩa là:
“Tay cầm búa sắc vượt rừng sâu,
Một gã tiều phu chẳng đợi lâu.
Lưng giắt ngang đao thong thả bước,
Cửa vuông, trong cửa đón yêu nhau”
"Cửa vuông" là cửa trường thi Hội, nói một cách
hình ảnh thì vượt qua cửa này một nho sinh sẽ đỗ
Tiến sĩ, trở thành "ông Nghè".
Đọc xong bài thơ, Lương Thế Vinh rất buồn, chàng
hiểu ngay ý của cô gái, nàng tỏ vẻ kiêu kỳ, hóa ra tình
cảm có động cơ khác, chỉ say mê mình vì danh vọng,
cô muốn nếu thi đỗ thì mới có chuyện tình duyên,
chứ còn không thì đừng nghĩ đến nữa…

618 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tình yêu toan tính đó thật khó mà bền lâu được,
suy nghĩ chốc lát, Lương Thế Vinh viết một bài thơ
tứ tuyệt họa lại gửi nàng:
“Hà lao tâm lực nhập sơn lâm
Thế vấn xuân quang sắc thiểu thâm.
Bất dụng yên đao nguyên nhật chỉ,
Kinh sư bất thiểu hữu tình nhân”.
Nghĩa là:
“Cần chi vất vả tới rừng sâu,
Thử hỏi ngày xuân được bấy lâu?
Giữa hội chẳng cần đao dẫu quý
Kinh kỳ nào thiếu kẻ yêu nhau”.
Qua bài thơ của mình, Lương Thế Vinh đã nói rõ
quan điểm, với ông hôn nhân và tình yêu phải ở tình
cảm chân thành, nếu yêu vì danh lợi thì không thể có
hạnh phúc và ông đã chủ động khước từ chuyện
lương duyên này.
Thế là từ đó Lương Thế Vinh không bao giờ qua
lại nhà cô gái ấy nữa và rồi quên hẳn mối duyên tình
đó để lo cho chuyện thi cử, chuyện quan trường và
gia đình.
(Tham khảo từ: Truyện hay trong lịch sử
Việt Nam, trang 108-112, NXB Hồng Đức)
Lời bình: Thời nhà Lê đạo nho và thi cử để chọn
người làm quan được thực thành rất chu đáo và đầy
đủ. Trong 56 Trạng Nguyên Việt nam thì thời Hậu Lê
chiếm 40 vị.
Nho học đề cao đạo đức của người quân tử: Nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu và gọi là Ngũ Thường. Thật
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 619
ra ngày nay người mà đạt được Ngũ Thường thì là
người không là bình thường mà gần như là Thánh
vậy.
Thời Hậu Lê chính vì nho học được đề cao nên đã
khiến cho toàn dân thấm nhần đạo đức người quân
tử và xã hội được yên ổn. Thời này Đại Việt là một đất
nước Đức Trị hùng mạnh.
Ngày nay, nước Nhật phát triển kinh tế khoa học
kỹ thuật như vậy nhưng thế giới không ngưỡng mộ
họ vì điều đó. Thế giới ngưỡng mộ họ vì cái đạo đức
của họ. Tuy rằng họ không nói họ là nho học nhưng
nhìn vào xã hội Nhật thì đúng là: Nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín.
Đạo đức này khiến cho Nhật là một đất nước nghèo
về tài nguyên, thiên tai, lũ lụt, bão lũ, động đất, sóng
thần, núi lửa... thường xuyên mà vẫn là nước giàu có
nhất nhì thế giới.
Trung Quốc lúc nào cũng rêu rao là Khổng Tử học,
đạo Khổng Tử, học viện Khổng Tử... mà dân nước họ
bị cả thế giới chê cười vì đạo nhân đạo nghĩa không
học lại đi học đạo của gian thần Tào Tháo, đạo pháp
trị Tần Thủy Hoàng.

620 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


144. Lương Thế Vinh và vua Lê Thánh
Tông

Tục truyền lại rằng, hoàng thái hậu Quang Thục


lúc trước có mơ thấy ngọc hoàng sai một tiên đồng
xuống làm con mình. Tiên đồng này không chịu, bị
Ngọc Hoàng ném hốt ngọc vào trán cho chảy máu,
lúc đó mới phụng phịu, đòi phải có bạn xuống cùng.
Thế là ngọc hoàng mới sai một tiên đồng khác cùng
hạ phàm. Tiên đồng này cũng không đồng ý, liền bị
Ngọc Hoàng vỗ cho lệch vai.
Về sau, hoàng thái hậu có mang rồi sinh ra đứa
con trai có vết bớt đỏ ở trán, giống như tiên đồng bị
ném hốt ngọc vào đầu như giấc mơ nọ. Tương
truyền, đó chính là vua Lê Thánh Tông.
Đến khi Lương Thế Vinh đỗ trạng, hoàng thái hậu
ngắm dáng hình của ông bị lệch vai giống với tiên
đồng còn lại trong giấc mơ nọ, liền lấy làm lạ, kể lại
với vua, vua cũng cho việc ấy là lạ. Vả lại, vua cũng
thích thư từ văn chương của vị trạng họ Lương, mới
cho ông luôn luôn ở gần mình để giúp việc thư từ.
Mối quan hệ vua tôi khăng khít dần, thân thiết đến
nỗi vua Lê Thánh Tông tranh thủ mọi cơ hội để "trêu
đùa", "đánh đố" vị thần tử này.
Nhưng Lương Thế Vinh cũng chẳng phải tay vừa,
không chỉ ứng đáp trôi chảy, ông còn thể hiện được
cả sự thông minh, hài hước của mình qua mỗi câu
nói. Có những câu chuyện giữa hai vị vua tôi này trở
thành giai thoại được truyền tụng mãi về sau.
Tích truyện: Vế đối chỉnh, nhưng "minh họa"
cũng phải chỉnh
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 621
Một lần, vua Lê Thánh tông đi kinh lý vùng Nam
Sơn hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản,
quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, bấy
giờ cũng đang theo hầu vua.
Khi vua đến thăm chùa làng đương lúc sư cụ bận
tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất
nhưng vẫn tiếp tục, sau đó lấy tay ra hiện cho chú
tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của
Lê Thánh Tông đã nhanh tay làm hộ.
Vua Lê Thánh tông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế
đối như sau:
"Đường thượng tung kinh, sư sử sứ…".
Nghĩa là:
Trên bục đọc kinh, nhà sư sai khiến được sứ quan.
Câu này oái oăm ở ba chữ "sư sử sứ", khiến các
quan đều chịu, không nghĩ ra được gì. Trạng nguyên
Lương Thế Vinh cứ để họ suy nghĩ chán chê, còn
mình thì ung dung uống rượu, không nói năng chi cả.
Vua Thánh Tông quay sang chỉ đích danh ông, với hy
vọng đưa ông đến thế bí:
- Thế nào, quan trạng đối được câu này chăng?
Trạng cười trừ:
- Đối thì đối được, nhưng giờ chưa phải lúc.
Vua lấy làm tò mò lắm, hỏi là lúc nào, nhưng trạng
không trả lời. Hồi lâu sau, Lương Thế Vinh lấy cớ
say, sai lính gọi bà trạng tới, rồi sau đó xin phép vua,
vịn vào vợ mà về. Vua thấy trạng mọi khi giỏi ứng
đối, thế mà đến bây giờ vẫn chưa đối được câu của

622 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


mình, tưởng ông "đánh bài chuồn", lấy làm đắc ý
lắm, liền giục:
- Thế nào, đối được hay không thì nói đã rồi hẵng
về chứ!
Vinh gãi đầu rồi đáp ngập ngừng:
- Dạ,muôn tâu…thần…đối rồi đấy chứ ạ.
Vua và các quan lấy làm lạ, bèn hỏi trạng vế đối ấy
là làm sao. Trạng liền chỉ vào vợ mình, dõng dạc đọc,
nào có dáng vẻ của người say:
"Đình tiền túy tửu, phụ phù phu."
Nghĩa là:
Trước sân say rượu, vợ dìu chồng.
Về đối rất chỉnh, cả câu chữ lẫn…ngữ cảnh, khiến
cho vua bật cười, liền ban thưởng rất hậu.
Truyện tích: Thánh quân minh đế
Lê Thánh Tông biết Lương Thế Vinh thưở bé
nghịch ngợm, hay tắm sông hồ, giỏi bơi lội, nên một
hôm chơi thuyền có trạng Lường và các quan lại
theo hầu, vua liền giả vờ say rượu rồi…đẩy tòm ông
rơi xuống sông, sau đó tiếp tục cho thuyền chèo đi
chỗ khác.
Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống, liền lặn
một hơi thật xa, rồi đến một chỗ vắng bơi lên bờ, sau
đó núp vào bụi rậm để không ai nhìn thấy.
Vua chờ mãi không thấy trạng trồi đầu lên. Mặt
nước mênh mông không một cái sủi tăm. Bấy giờ
mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm
vớt, nhưng cũng mãi chẳng thấy đâu. Vua hết sức ân
hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, thậm chí còn
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 623
muốn khóc, thì tự nhiên thấy Lương Thế Vinh từ
dưới nước lên ngóc đầu lên cười ngất.
Khi lên đến thuyền rồi, Vinh vẫn cười. Vua vừa
mừng vừa giận, liền hỏi:
- Trẫm tưởng khanh ở dưới sông rất tốt, sao còn
lên bờ?
Trạng mới tâu:
- Thần ở dưới nước lâu là vì gặp một chuyện rất
kì lạ. Thần gặp cụ Khuất Nguyên. Cụ hỏi thần
xuống làm gì. Thần thưa dối là thần chán đời
muốn chết. Nghe qua, cụ tròn xoe mắt mắng
thần: "Mày là thằng điên! Tao gặp Sở Hoài
Vương và Khoảnh Tương Vương hôn quân vô
đạo, mới bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông
Mịch La. Chứ mày gặp được bậc thánh quân
minh đế, sao còn định vớ vẩn cái gì!" Thế rồi cụ
đá thần một cái, thần mới về đây.
Lê Thánh Tông nghe xong, thấy trạng không trách
mà còn…nịnh khéo mình, liền cười lớn rồi thưởng
cho vàng lụa và trọng dụng trạng hơn nữa.
(Tham khảo từ: Giai thoại văn học
Việt Nam (NXB Văn học, 1988)
Lời bình: Vua Lê Thánh Tông là nhà thơ vĩ đại.
Ngày nay ngài vẫn để lại trong kho tàng thi ca Việt
Nam hàng ngàn bài thơ chữ Hán và chữ Nôm (riêng
chữ Hán vào khoảng 350 bài). Cũng nhờ có bầu bạn
thi ca với Lương Thế Vinh mới được như vậy.

624 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


145. Thầy địa lý Tả Ao (1442 - 1507)

Tả Ao Tiên sinh. Thuở nhỏ, mồ côi cha, nhà nghèo,


mẹ mắt lòa, ông theo một khách buôn ở phố Phù
Thạch (gần rú Thành ở Nghệ An) về Tàu để lấy thuốc
chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có
hiếu nên hết lòng dạy cho.
Khi có thầy địa lý bị mù loà mời ông thầy đến
chữa, do già yếu nên ông thầy sai Tả Ao đi chữa thay.
Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn
thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề
cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy
Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên
thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã
giỏi.
Để thử tay nghề của học trò, ông thầy bèn đổ cát
thành hình núi sông và vùi một trăm đồng tiền ở các
huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên
kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ
đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một.
Xong ông thầy nói:
- Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi.
Rồi cho Tả Ao cái tróc long và thần chú. Tả Ao về
nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu.
Trước khi từ biệt, ông thầy địa lý bên Tàu dặn:
- Khi về Nam, nếu qua núi Hồng Lĩnh thì đừng
lên.
Nhưng một lần đi qua Hồng Lĩnh, không hiểu
duyên cớ gì Tả Ao lại lên núi và thấy kiểu đất Cửu

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 625


long tranh châu (chín rồng tranh ngọc), mừng mà
nói rằng:
- Huyệt đế vương đây rồi, thầy dặn không lên là
vì thế.
Bèn đưa mộ cha về táng ở đấy. Ít lâu, vợ Tả Ao
sinh hạ được một con trai.
Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc, các thầy thiên
văn phát hiện các vì tinh tú đều chầu về nước Nam
nên tâu với nhà Vua, ý là nước Nam được đất sẽ sinh
ra người tài, sẽ hại cho nhà Minh.
Vua bèn truyền các thầy địa lý là nếu ai đặt đất
hoặc dạy cho người Nam thì phải sang tìm mà phá
đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc.
Ông thầy của Tả Ao biết là chỉ có học trò của mình
mới làm được việc này nên cho con trai tìm đường
xuống nước Nam mà hỏi:
- Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia
tiên nào chưa.
Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha
mình. Con thầy Tàu dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, bắt
con trai của Tả Ao đem về Tàu. Rồi thân mẫu của Tả
Ao mất, Tả Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi
hải đảo để táng.
Đến ngày giờ định táng thì trời gió to sóng lớn,
không mang ra được. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó
nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng:
- Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há
miệng một lần trong một khắc. Trời đã không
cho thì đúng là số rồi.

626 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu
du khắp bốn phương để chữa bệnh, tìm đất giúp
người.
Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết,
giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong
dân gian như việc Tả Ao, Tả Ao và Cao Biền thi thố
tài năng. Như Tả Ao phá trấn ếm của Cao Biền trên
núi Tản Viên và ở Thăng Long (Hà Nội), núi Hàm
Rồng (Thanh Hóa)…).
Các truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt
để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp
dân nghèo, trị kẻ gian ác. Tương truyền làng này có
tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình;
họ này phát danh khoa bảng, họ kia phát công hầu
khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo
đặt mồ mả.
Có một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày
nay tại thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh
Hưng Yên (nơi có đền thờ Tả Ao): Truyền tích gắn
liền với ngôi đền thờ Tả Ao làng Nam Trì còn lưu
truyền đến ngày nay là thời kỳ Tả Ao ở khu vực
Hưng Yên một thời gian.
Tả Ao về huyện Thiên Thi (tên cũ của Ân Thi) đã
cắm đất, chọn ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho
hai làng Thổ Hoàng (nay thuộc thị trấn Ân Thi) và
Hới (tức làng Hải Triều, trước thuộc huyện Tiên Lữ,
nay thuộc Hưng Yên) phát về đường khoa cử, giàu có
nên lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ nhất
Thi nhì Hới.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 627


Tại Nam Trì, Tả Ao đã giúp dân làng lập lại làng,
chuyển đền, chùa và tìm đất đặt mộ phần cho họ
Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng.
Đến năm Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 4
(1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam
Trì là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp Đệ tam giáp đồng tiến
sĩ xuất thân và được bổ nhiệm làm quan Hiến Sát xứ
Hải Dương, được phong tước Phù Nham bá. Hậu duệ
của Đinh Tú (lăng mộ tại Nam Trì), chuyển sang
sống ở làng Hàm Giang (Hàn Giang) huyện Cẩm
Giàng là Đinh Văn Tả là một danh tướng thời Lê-
Trịnh.
Khi già yếu, Tả Ao cũng đã chọn cho mình chỗ an
táng kiểu đất Nhất khuyển trục quần dương (chó
đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai. Nếu táng được ở đây
thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên.
Tả Ao có hai người con trai nhưng do Tả Ao chu
du thiên hạ, không màng danh vọng, bổng lộc nên
gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết
mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến
chỗ ấy, để nằm dưới mộ và sẽ tự phân kim (chôn lúc
chưa chết hẳn), dặn con cứ thế mà làm.
Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến
nơi nên Tả Ao bèn chỉ đại một gò bên đường mà dặn
con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất đắc dĩ thì
cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế. Tả Ao chết,
hai con bèn táng luôn ở đó.
(Tham khảo từ: Phong thủy Việt Nam (Ngô
Nguyên Phi) - NXB VHTT-2002)

628 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời bình: Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh, là nhân vật
làm nghề địa lý phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam.
Thầy giỏi nhưng không bằng trời giỏi. “Mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên” là vậy. Thấy được long
mạch, thấy được hàm rồng cũng giống như một
người có mắt thấy được cái cây có cành có lá có quả
trong khi cả thế giới đều mù.
Nhưng thầy lại không thấy được cái gốc cái rễ của
nó, nguyên nhân sâu xa vì sao nó có được quả ngon
mà thầy lại đi bẻ cành, ngắt lá chỉnh sửa những cái
thấy được đó hi vọng có quả ngon.
Nguyên nhân là cái Nhân (hạt giống) gieo xuống
đất lành, hội tụ đủ duyên của trời đất nắng gió, mưa,
mùa vụ, thời tiết sẽ thành cây ra trái ngọt (Quả) gọi
ngắn gọn là Nhân Quả và Nhân Duyên.
Thật ra làm nghề thầy bói tử vi dịch số, làm nghề
phong thủy là những nghề không tốt. Nếu có duyên
mà biết để ứng dụng cho mình thì cũng là một tiểu
xảo tốt. Nhưng mang ra “giúp đời” chỉ là lấy tiếng mà
thôi giúp đời là giúp họ phát triển đạo đức, biết tạo ra
phúc, gây dựng công đức rồi từ cái Phúc, cái Đức đó
sẽ thành tựu Quả Phúc riêng họ.
Còn giúp để họ không tin vào việc thiện, tạo Phúc,
tạo Đức. Giúp mà để người đời mê tín chỉ cần sửa số,
sửa cửa, sửa mả mà tự nhiên phát đạt thì là thất đức.
Ngoài ra, nếu thầy không giỏi thì dần đần không ai
tin thì lại là tốt cho thầy. Nhưng nếu huyền thuật thầy
giỏi nhiều người tin đến lễ bái, xin xỏ, cầu cạnh thì tự
nhiên trong tâm sẽ sinh kiêu căng và thầy bị mất đạo
đức.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 629


Làm nghề thất đức, mất phúc. Nên cuối đời Tả Ao
bị chết đường chết chợ và bị chôn cất tạm bên gò đất
ven đường. Đó cũng là bài học cho những người tin
vào Huyền Môn hơn Nhân Quả Phúc Đức.

630 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


146. Lê Uy Mục - Bạo Đế Vương (1504 - 1509)

Sự tàn bạo quá đáng của ông "vua quỷ" này đã dẫn
tới cuộc nổi dậy của một số người trong tôn thất
cùng sự hỗ trợ của nhiều quan lại.
Đó là vua Lê Uy Mục, tên thật là Lê Tuấn, ngoài ra
còn có tên khác là Lê Huyên. Lên ngôi cuối năm Giáp
Tý (1504), Lê Uy Mục đã bộc lộ ngay bản tính bạo
tàn của mình bằng việc giết hại tổ mẫu là Thái Hoàng
Thái Hậu cùng nhiều đại thần đã không ủng hộ việc
lên ngôi của mình như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang
Bật,...
“Túc Tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thân”.
(Theo Đại Nam quốc sử diễn ca)
Từ khi lên ngôi, Lê Uy Mục chỉ ham rượu chè, gái
đẹp và giết chóc; triều chính bỏ bê cho bọn hoạn
quan và bên họ ngoại khuynh đảo, lộng hành.
Đêm nào Lê Uy Mục cũng cùng với cung nhân
uống rượu vô độ, đến khi say thì giết đi; có khi lại
bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để mua vui. Sứ nhà
Minh là Hứa Thiên Tích khi sang, thấy tướng mạo đã
làm thơ gọi Uy Mục là "vua Quỷ" (Quỷ Vương).
Sách Đại Việt sử ký toàn thư bình rằng: "Vua thích
uống rượu, hiếu sắc, làm oai, giết hại người tôn thất,
giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ
oán giận, người đời gọi là Quỷ vương, điềm loạn hiện
ra từ đây!".
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 631
Sự tàn bạo quá đáng của ông "vua quỷ" này đã dẫn
tới cuộc nổi dậy của một số người trong tôn thất
cùng sự hỗ trợ của nhiều quan lại. Tháng 12 năm Kỷ
Tỵ (1509), Lê Uy Mục bị giết, quân nổi dậy đặt xác
vào miệng súng bắn tan cả hài cốt.
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó
tin về các vị vua Việt Nam, trang 12-13, NXB Hồng
Đức)
Lời bình: Uy Đức của vua khai quốc là cao nhất
sau đó luôn mất dần Phúc Đức ở các thế hệ về sau. Tại
sao vậy? Vì rằng khi lập quốc Vua là một người
thường nếm mật nằm gai và chịu khổ cực nên ngài
biết quý trọng cái ngôi vua, yêu mến nhân dân vì cảm
nhận được nỗi khổ của dân. Vua không kiêu ngạo
không tham lam hưởng thụ.
Đến thế hệ con cháu sinh ra đã là thái tử cung vàng
điện ngọc, không bao giờ biết đến nỗi khổ của dân,
nên không quý ngôi vua và không thương dân. Vua
sinh kiêu ngạo, tham lam, ích kỷ và thích hưởng thụ,
thích khoái lạc.
“Thượng bất chính, Hạ tắc loạn”
Vua và đình thần mất Đức, mất Phúc, mất Nhân thì
xã hội loạn từ trong loạn ra, loạn từ trên loạn xuống.
Thế mới hay chữ Đức và chữ Phúc quan trọng biết
chừng nào. Phúc Đức của một vị vua có thể cảm hóa
cả trời và thần. Người dân có Đức, toàn dân có Đức
thì dẫu kẻ thù trăm vạn quân cũng sẽ bị thất bại. Khi
vua không có Đức thì dân chúng tham lam ích kỉ. Khi
đó không cần kẻ thù nào mà căn bệnh “ung thư” bên
trong sẽ phá tiêu đất nước.

632 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


147. Mạc Đăng Dung - Mạc Thái Tổ (1483 - 1541)

Mạc Thái Tổ (1483 - 1541), tên thật là Mạc Đăng


Dung, là nhà chính trị, hoàng đế sáng lập ra triều đại
nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò
quan trọng trong các sự kiện đánh dẹp các thế lực
cát cứ, chống đối triều đình, loại bỏ ảnh hưởng của
những người ủng hộ nhà Lê, thành lập nhà Mạc và
cứng rắn chống lại với những thế lực phò Vua Lê ở
Thanh Hóa.
Mạc Đăng Dung thi đậu Võ trạng nguyên trong
cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng
Long dưới triều Lê Uy Mục. Từ một võ quan cấp
thấp, nhờ tài thao lược và mưu trí, Mạc Đăng Dung
đã vươn tới tột bậc quyền lực vào năm 1527 khi
được thăng tới chức Thái sư, tước An Hưng vương
thời Lê Cung Hoàng.
Theo sách của Viện sử học Việt Nam kết luận rằng
Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà
Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của trạng nguyên Mạc
Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc
Đăng Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Gốc
gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhà Chu bên
Trung Quốc. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm
quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở
Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi
tới Đại Việt.
Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng tấn phong Mạc
Đăng Dung làm An Hưng Vương. Tháng 6 năm 1527,
Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 633


Hoàng nhường ngôi. Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là
Vua Mạc Thái Tổ. Ông chính thức lập ra nhà Mạc.
Ngày 22 tháng 8 năm 1541, Mạc Đăng Dung mất.
(Tham khảo từ: Các triều đại Việt
Nam – NXB Thanh Niên năm 2001)
Lời bình: Vua suy đồi đạo đức, lòng dân bất an, các
thế lực quan tướng nắm quyền hành trong tay mưu
đồ tạo phản. Một kịch bản muôn đời của các triều đại
phong kiến trên thế giới. Thật ra những sự kiện đó
diễn ra ở triều đình nhưng có nguồn gốc sâu xa trong
dân.
Nếu dân chúng nơi đó có đạo đức, biết tạo phúc
thiện thì Phúc Đức của mỗi người dân lớn khiến dân
không lâm vào cảnh loạn lạc đói kém thì triều đình ổn
định.
Nếu dân nơi đó vô đạo đức, không chịu làm công
đức thiện nghiệp thì Phúc Đức của toàn dân giảm.
Dân chúng buộc phải sống trong tình cảnh loạn lạc
cướp bóc để ứng với cái Nghiệp của phải chịu.
Nguồn gốc xâu xa này vẫn đúng trong thời đại
ngày nay. Nếu một đất nước có đạo đức, dân chúng
biết tạo phúc thiện làm việc cống hiến hết sức mình vì
mọi người... thì nước đó bình an, xã hội ổn định (Nhật
Bản và các nước Bắc Âu)
Nếu một đất nước vô đạo đức, người dân gian
tham quỷ quyệt và vô cảm thì đất nước đó sẽ loạn,
chiến tranh, cướp bóc, thiên tai, họa hại... để ứng với
cái nghiệp của toàn dân nơi đó phải gánh chịu.

634 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


148. Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều (1533- 1592)

Triều đình nhà Lê càng suy yếu thì sự tranh chấp


giữa các phe phái phong kiến càng diễn ra quyết liệt.
Mạc Đăng Dung vốn là một võ quan. Lợi dụng
xung đột giữa các phe phái, Mạc Đăng Dung đã tiêu
diệt các thế lực đối lập, thâu tóm mọi quyền hành,
cương vị như Tể tướng. Năm 1527, Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê, lập ra triều Mạc.
Năm 1533, một võ quan triều Lê là Nguyễn Kim
chạy vào Thanh Hoá, lập một người thuộc dòng dõi
nhà Lê lên làm vua, lấy danh nghĩa "phù Lê diệt
Mạc". Sử cũ gọi là Nam triều để phân biệt với Bắc
triều (nhà Mạc ở phía bắc).
Hai tập đoàn phong kiến này đánh nhau liên miên,
dai dẳng hơn 50 năm. Suốt một vùng từ Thanh -
Nghệ ra Bắc đều là chiến trường. Làng mạc điêu tàn,
xơ xác. Mãi đến năm 1592, Nam triều chiếm được
Thăng Long, họ Mạc chạy lên Cao Bằng, chiến tranh
Nam - Bắc triều mới chấm dứt.
Trong trận đánh năm 1570, nhân dân Thanh Hoá
già trẻ bồng bế nhau chạy tan tác, kêu khóc đầy
đường, chết đói rất nhiêu. Hàng vạn người bị Nam
triều và Bắc triều bắt đi lính, đi phu.
Mùa màng bị tàn phá nặng nề, nhất là những năm
có thiên tai lớn. Năm 1572, ở Nghệ An đồng ruộng
bỏ hoang, dịch tễ phát sinh, người chết đến quá nửa.
Nhân dân đói khổ phiêu bạt, tan tác vào Nam ra Bắc,
trong cõi Nghệ An đìu hiu, vắng tanh.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 635


Chế độ binh dịch càng đè nặng lên đời sống nhân
dân. Thời gian họ Mạc rút lên Cao Bằng, nhân dân
vẫn tiếp tục phải đi lính, đi phu, gia đình li tán.
Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm
được cử lên thay nắm toàn bộ bình quyền. Người
con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng được cử
vào trấn thủ Thuận Hoá, Quảng Nam.
Đầu thế kỉ XVII, cuộc chiến tranh giữa hai thế lực
Trịnh - Nguyễn bùng nổ.
Trong gần nửa thế kỉ (từ năm 1627 đến năm
1672), họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau bảy lần.
Vùng đất Quảng Bình, Hà Tĩnh ngày nay trở thành
chiến trường ác liệt. Cuối cùng, hai bên phải lấy sông
Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới, chia cắt đất nước,
gọi là Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra) và Đàng
Trong (từ sông Gianh trở vào).
Dân cư ở hai bờ sông Gianh phải di chuyển đi nơi
khác. Luỹ Thầy ở phía nam như một bức thành ngăn
đôi đất nước.
"Khôn ngoan qua được Thanh Hà,
Dẫu rằng có cánh khó qua Luỹ Thầy".
Ở Đàng Ngoài, từ năm 1592, cuộc xung đột Nam -
Đắc triều kết thúc về cơ bản. Trịnh Tùng xưng
vương, xây dựng vương phủ bên cạnh triều đình vua
Lê. Họ Trịnh nắm toàn quyền thống trị, nhưng vẫn
phải dựa vào danh nghĩa vua Lê, nhân dân gọi là
"vua Lê - chúa Trịnh". Ở Đàng Trong, con cháu họ
Nguyễn cũng truyền nối nhau cầm quyền, nhân dân
gọi là "chúa Nguyễn".

636 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Tình trạng chia cắt kéo dài đến cuối thế kỉ XVIII,
gây bao đau thương cho dân tộc và tổn hại cho sự
phát triển của đất nước.
(Tham khảo từ: Sách Giáo Khoa Sử lớp 7, tr.107-
108-109)
Lời bình: Vận nước có lúc yên bình nhưng cũng có
hồi đau thương máu lửa. Những lúc yên bình nhất là
những lúc vừa trải qua nỗi khổ cực đại (sau thời đánh
bại Nguyên Mông hay đánh bại giặc Minh luôn được
các nhà sử học đánh giá là thời yên bình nhất). Khi
đó, Vua và dân còn nhớ đến cảnh đau thương khói
lửa. Vua biết thương dân và dân tôn thờ vua, nhớ ơn
vua.
Hồi đau thương luôn luôn bắt nguồn từ một vị Vua
sinh ra đã hưởng đặc quyền đặc lợi, sống trong nhung
lụa. Vua tham lam ích kỷ, xa rời nhân dân, không biết
quý trọng đất nước quý trọng hòa bình, quý trọng
xương máu của cha ông tiên tổ để lại.
Giai đoạn này, nước Đại Việt ta cũng vậy. Một vị
vua Bạo đế vương Lê Uy Mục xuất hiện đã phá tiêu cơ
ngơi của vua Lê Thái Tổ và toàn dân tộc Việt xây
dựng bằng xương máu.
“Thượng bất chính, hạ tất loạn” loạn từ trong loạn
ra, loạn từ vua quan cho đến thứ dân. Toàn bộ xã hội
và đất nước đều lâm vào cảnh loạn lạc. Thế mới biết
chữ Đức quan trọng biết chừng nào. Đức của một vị
vua có thể cảm hóa cả trời và các vị thánh thần.
Người dân có Đức, toàn dân có Đức thì dẫu kẻ thù
trăm vạn quân cũng sẽ bị thất bại. Khi vua không có
Đức, dân loạn lạc tham lam ích kỉ thì không cần kẻ

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 637


thù nào, tự bên trong căn bệnh “tham lam vô đạo” sẽ
phá tiêu đất nước.
Nhưng “trong cái rủi có cái may” vào thời gian này
nước anh em Phương Bắc của ta cũng đang ở thời kỳ
nhà Minh suy yếu, nhà Hậu Kim tranh quyền đoạt vị
và tộc Mãn Thanh ở phương bắc Trung Quốc đánh
chiếm đất nước họ. Nội bộ đang loạn nên không có
tâm chí nào nhòm ngó nước Đại Việt ta.
Cái may thứ hai đó là: nước Đại Việt thời bấy giờ
xuất hiện một nhân vật Đại Học Sĩ đã khiến cho các
thế lực chính trị Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn đều cúi đầu
cung kính và nghe lời chỉ bảo của ngài. Đó là Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một con người đã hoạch
định chính trị của đất nước, tạo thế đứng vững và yên
ổn cho các thế lực chính trị khiến cho Đại Việt không
rơi vào cảnh nồi xương máu thịt. Trạng Trình đã
khuyên Vua Mạc rút quân cố thủ ở vùng đất Cao Bằng
xa xôi hẻo lánh. Ông khuyên Chúa Trịnh Kiểm không
nên cướp ngôi nhà Lê vì tâm của dân còn nhớ ơn Lê
Thái Tổ sâu sắc. Ông khuyên Chúa Nguyễn Hoàng nên
cát cứ một vùng biên giới phía nam của đất nước tiếp
giáp với Chăm Pa thì sẽ được: “Vạn đại dung thân”.
Kết quả: nhà Mạc ở Cao Bằng được yên ổn tồn tại
thêm được 88 năm. Đằng ngoài Vua Lê - Chúa Trịnh
nương tựa vào nhau và tồn tại được 242 năm. Đằng
trong trải qua 9 đời Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi
đất nước đến mũi Cà Mau và 13 đời vua Nguyễn tồn
tại đến năm 1945 với tổng thời gian là 400 năm (giai
đoạn nhà Tây Sơn bị gián đoạn mất 24 năm).
Tuy rằng giai đoạn này đất nước không yên bình.
Nhưng chính vì cái không yên bình nên mới có sự mở
638 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
mang bờ cõi nước Việt rộng gấp 2 lần diện tích cũ.
Chính vì cái không yên bình mà các nhà lãnh đạo
không chủ quan lơ là việc quản lý đất nước chăm lo
xây dựng đất nước hùng mạnh. Và rồi cái gì cũng có
hồi kết thúc. Giai đoạn lịch sử nào cũng phải chấm
dứt để sang giai đoạn tiếp theo. Sau sơn 200 năm đất
nước phân chia đằng trong đằng ngoài, một vị tướng
quân hùng mạnh xuất hiện. Ngài đánh tan Chúa
Nguyễn đằng trong, phá tan thế lực Chúa Trịnh đằng
ngoài, đánh tan 3 vạn quân Xiêm La, phá tan 30 vạn
quân Mãn Thanh lập lên nhà nước mới Tây Sơn thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt từ bắc vào nam đến
tận mũi Cà Mau. Đó chính là Vua Quang Trung
Nguyễn Huệ.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 639


149. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) và Sấm ký

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên huý là


Nguyễn Văn Đạt, hiệu là Bạch Vân Am cư sĩ, được các
môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong
những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng
như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được
biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của
một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc
phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của
lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi
Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được
phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình
Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.
Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy
tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân
nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong
lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm
ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm
Trạng Trình.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên
giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn
Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên
xin về phía nam với câu:
- Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân (dịch:
Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài)
Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn,
truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá.
Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông,
ông khuyên Vua tôi nhà Mạc rằng:

640 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể (dịch: Cao
Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được).
Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng
gần 80 năm nữa.
Đối với Lê - Trịnh, khi Vua Lê Trung Tông chết
không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê
nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông.
Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi
họ Trịnh:
- Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản (ý nói giữ là bề tôi
của các Vua Lê thì lợi hơn).
Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn
thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên
ngôi, tức là Vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng
thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính
sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi truyện
chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại hơn
200 năm nữa. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại,
Lê bại Trịnh vong".
Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã được Trạng Trình dự
báo qua câu thơ:
"Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi
vào Thăng Long".
(Giải nghĩa: "đầu Thu" là tháng 7 Âm lịch, "gà"
nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện diễn ra, "gáy
xôn xao" nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn
người. "Trăng xưa" nghĩa là "cổ nguyệt" theo Hán tự,
ghép lại thành từ "Hồ", là họ của Hồ Chí Minh. "Sáng
tỏ soi vào Thăng Long" là sự kiện Hồ Chí Minh đọc
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 641
Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình của thủ
đô Thăng Long - Hà Nội)
Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng “Việt
Nam” như một quốc hiệu tiền định (Trước khi Vua
Gia Long chính thức đặt tên nước Việt Nam tới hơn
200 năm và trước đây trong lịch sử chưa từng có
Quốc hiệu: Việt Nam). Ngay trong phần đầu của tập
Sấm ký có câu:
"Việt Nam khởi tổ xây nền".
Trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề:
“Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh
(dịch: Vịnh về non sông đất nước Việt Nam).
Trong hai bài thơ của tập thơ Bạch Vân Am thi tập
có nhắc đến Việt Nam là:
“Tiền trình vĩ đại quân tu ký
Thùy thị phương danh trọng Việt Nam”
(dịch ý: Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ,
Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?)
Và:
“Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại
Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam”
(dịch ý: Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời
Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam).
(Tham khảo từ: Bách khoa toàn thư mở Tiếng
Việt - Wikipedia)
Lời bình: Ở các tích truyện trước cũng ta đã thấy
có vị tổ sư thiền Việt Nam Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594)
được Tam tổ Tăng Xám khuyên sang nước Nam mà
642 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
hoằng truyền giáo pháp thì đạt thịnh và 500-700 năm
sau thì đạo Phật đạt cực thịnh ở Việt Nam thời Lý,
Trần. Bắt nguồn từ Lý Công Uẩn đệ tử Thiền Sư Đạo
Hạnh đời thứ 10 dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi.
Có Ngài Thiền sư Định Không (730-808) (Đời thứ
8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư đào được 12 món pháp
khí cổ và đổi tên làng Diên Uẩn thành Cổ Pháp. Sư đề
Sấm Kí báo trước 100 năm sau có Cao Biền sang sẽ
Đại Việt trấn ếm nơi đây, Sư khuyên đệ tử tìm người
họ Đinh giao trụ trì, sẽ hóa giải được.
Có Ngài Thiền sư La Quí (852 - 936) (Đời thứ 10,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Sư họ Đinh, cuối đời Sư có
nói: “Thuở trước Cao Biền xây thành bên sông Tô
Lịch, vì biết vùng đất làng Cổ Pháp (Đình Bảng, Bắc
Ninh) có khí tượng đế vương, nên cho đào đứt con
sông Điềm và những hồ ao liên hệ đến mười chín chỗ
để mà ếm. Nay ta đã sai Khúc Lãm lấp lại như xưa.
Lại ta có trồng một cây Miên ở chùa Minh Châu để
trấn chỗ bị đứt. Biết sau này ắt có vua hiền ra đời, để
vun bồi chánh pháp của ta”. Sư đề sấm kí vào thân
cây gạo báo trước nhà Lý lên ngôi.
Thiền Sư Vạn Hạnh (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-
lưu-chi) và sấm kí báo trước vận nước Đại Việt 500
năm từ thời Lý, Trần, giặc Minh, Hậu Lê.
Và đến truyện tích này: Thanh Sơn Đạo sĩ Nguyễn
Bỉnh Khiêm không ai rõ phép tu của ông thế nào
nhưng ông là một người tài giỏi là nhà Thơ, nhà Văn,
nhà giáo dục đạo đức, thầy dạy học, nhà tiên tri đại
tài với những dự đoán tương lai đất nước 500 năm.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 643


Ông đã giúp nhà Lê tồn tại nhưng nay đã quá yếu,
vận nhà Lê suy kiệt phải lương tựa vào chúa Trịnh để
sống.
Ông đã giúp chúa Trịnh không bị mang tiếng cướp
ngôi “phản thần tặc tử” vì trong lòng dân thì công
đức diệt giặc Minh đưa nước ta thoát khỏi lầm than
của vua Lê Thái Tổ vẫn rất sâu đậm.
Ông đã giúp chúa Nguyễn được lập quốc và mở
nước ở đàng trong. Đưa nước ta từ một nước nhỏ bé
có ranh giới ở châu Ô, châu Lý (đến đèo Hải Vân)
thành một nước có diện tích được như ngày nay cực
nam kéo đến mũi Cà Mau.
Ông đã giúp nhà Mạc yên ổn trên Cao Bằng thêm
88 năm.
Và quan trọng ông đã giúp toàn bộ người dân Đại
Việt thoát khoải cảnh chiến tranh nội bộ tương tàn
của các thế lực chính trị khi đứng ra phân định đằng
trong đằng ngoài và chế độ vua Lê chúa Trịnh đồng
cai quản đất nước.

644 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


150. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) dạy học

Hồi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan về quê làng


Trung Am mở trường dạy học, học trò theo học rất
đông. Vào buổi tối 30 tết năm nọ; ông Trạng đang
ngồi đàm luận về lý số với một anh học trò xuất sắc
của ông đến thăm và biếu ông lễ vật, thì bỗng ngoài
cổng có tiếng người gọi. Ông sai gia nhân ra bảo hãy
chờ một chút. Trong khi đó, ông và người học trò
cùng bấm quẻ để thử đoán xem người đó vào có việc
gì?
Cả hai thầy trò cùng bấm vào một quẻ "thiết đoản,
mộc trường". Nghĩa là "Sắt ngắn, gỗ dài". Ông hỏi
người học trò:
- “Vậy anh đoán người đó vào đây có việc gì?”

Anh học trò trả lời:


- “Thưa thầy! "Thiết đoản, mộc trường, theo ý
con, người vào đây chắc hẳn chỉ có mượn chiếc
mai đào đất mà thôi, chứ ngoài ra không còn
cái gì là "sắt ngắn, gỗ dài" nữa”.

Ông cười nói:


- “Khác với anh, tôi lại đoán người đó vào đây
mượn búa”.

Nói xong, ông cho mở cổng. Quả nhiên người ấy


vào hỏi mượn búa thật.
Anh học trò chững người ra vì sự đoán sai của
mình. Thấy vậy, ông giải thích cho anh học trò:

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 645


- “Kể thì anh bấm quẻ cũng giỏi, nhưng mức
đoán còn thấp. Anh bảo "sắt ngắn, gỗ dài" mà
đoán là mượn mai, như vậy thử hỏi, 30 tết
người ta đến đây để mượn mai làm gì cơ chứ?
Còn tôi bảo là người đó vào mượn búa để về bổ
củi nấu bánh chưng Tết mà thôi. Bấm quẻ đã
đúng nhưng khi đoán còn phải có ý thức cơ
biến, mà tránh được những sự sai lầm”.

Anh học trò bái phục thầy, xin nhận những lời chỉ
bảo quí. Trạng Trình thật là người suy đoán giỏi.
(Tham khảo từ: Bí ẩn văn hóa việt nam
và thế giới, NXB Văn hóa thông tin 2008)
Lời bình: Trong lý thuyết âm dương thì cái âm là
cái không hình không tướng luôn ẩn chứa nhiều bí
mật hơn cái dương có hình tướng.
Lý và Cảm thì cái Lý là dương vì 1+1=2 dễ nhìn
thấy, cái Cảm là cái âm vì Cảm do tâm ứng hiện
không hình không tướng.
Quẻ kinh dịch hiện ra vậy cũng là có hình tướng và
thuộc về Lý 1+1=2. Một thầy tướng giỏi chỉ căn cứ
30% quẻ dịch mà thôi. Để đoán chính xác thì phải kết
hợp với duyên hiện có và cái tâm cảm ứng của mình
mà đoán thì mới đạt.
Ở đây Trạng Trình và học trò cũng một quẻ mà
đoán. Cậu học trò 100% toàn bộ dựa vào lý luận mà
suy đoán. Còn Trạng thì đã dùng cảm để đoán và dựa
vào cái duyên hiện có như: thời tiết, ngày giờ, mùa
vụ... thì việc mới thành.

646 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thiền định cũng vậy, cái suy nghĩ mông lung bản
chất chính là suy nghĩ về Lý Luận. Để có thể có thể đi
sâu vào thiền thì phải bỏ cái Lý đó đi, nhà Thiền gọi
là: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” để lắng tâm vào
Cảm, phát triển cái Cảm thì tâm tự nhiên minh mẫn
sáng tỏ mọi việc. Nhưng câu nói “không nghĩ thiện,
không nghĩ ác” lại có tác dụng phụ nguy hiểm là coi
thiện ác như nhau.
Nhân Tướng Học có câu: “Nhất thanh thần, nhị cốt
cách, tam bộ vị” Thượng Thừa trong tướng pháp là
cái Cảm từ âm thanh lời nói, cách nói chuyện, thần
sắc khí đều là cái không hình không thướng. Kế đó
mới đến Trung Thừa là xương cốt và cách đi, đứng,
nằm, ngồi, ăn, uống, nói, cười... dầu sao cũng là cái ẩn
là âm vì khó thấy. Cuối cùng là Hạ Thừa: mặt, mũi,
tai, miệng, tay, chân... còn gọi là bộ vị tướng pháp tức
là bộ phận và vị trí trên cơ thể.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 647


151. Nhữ Thị - mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1470-?)

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có


tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông
tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm Vua hoặc
có con làm Vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã
truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định (Bố của Trạng)
ở nhà với con và tình cờ hát:
- Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung.

Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng


đối lại ngay:
- Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung.

Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại truyện


ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm Vua làm chúa
cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt ý là bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu
hát:
- Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa
ngai vàng.

Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ


mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
- Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn
ngai vàng.

Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi.


Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.

648 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc
Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí vì họ Phùng không
có chí làm Vua.
Mãi sau này bà Nhữ Thị tình cờ gặp một trang
nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì
cho rằng người này có tướng làm Vua, còn tuổi mình
đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị Vua
khai triều của nhà Mạc.
(Tham khảo từ: Truyện hay trong lịch sử Việt
Nam, NXB Hồng Đức)
Lời bình: Mẹ của Nguyễn Bình Khiêm như thế này
bảo sao Nguyễn Bỉnh Khiêm giỏi như vậy.
Nhưng Ý chí lớn, Khí phách lớn mà Phúc Đức
không lớn thì thành tham vọng và đa phần tham vọng
sẽ sinh ra ác độc và là mối họa của thế giới.
Nhìn lại Lịch Sử thế giới với những con người Ý chí
lớn, Khí phách lớn, Phúc cũng rất lớn vì đạt được
thành công giai đoạn đầu. Nhưng Đức không lớn nên
về sau thất bại và mang lại thảm họa cho Thế Giới
như Hitle.
Nếu biết đạo thì Nhữ Thị bên cạnh dạy con Ý chí
Khí phách thì phải dạy con làm Phúc tích Đức đến vô
lượng. Tự khắc Quả Báo thành tựu sẽ được làm vua.
Cái hình tướng đế vương hiện ra ngoài bản chất là
điềm báo của một người đã thành tựu được Phúc và
Đức ở kiếp trước và kiếp này họ sinh ra với sứ mệnh
được làm vua. Vì để làm vua một nước phải thành tựu
được Phúc Đức nhiều vô kể, có duyên với vô số con
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 649
người và phải có một đại nguyện. Nên không thể
trong một kiếp mà thành tựu được.
Đa phần các ông vua lập quốc, ngay trong bụng mẹ
hay lúc ra đời đều có điềm báo lành: Lý Công Uẩn sinh
ở cổng chùa mà ánh sáng rực rỡ hương thơm tỏa
khắp chùa, sinh ra trên 2 tay có vết son in chữ “Sơn hà
Xã tắc”. Lê Lợi sinh ra cũng có ánh sáng và hương
thơm tỏa khắp nhà. Những cái nguyện nhỏ nhỏ, chỉ
cần phúc nhỏ nhỏ thì trong một kiếp có thể thành tựu
được.
Ngoài ra Ý chí và Khí phách hay tài năng đều là
Quả của Phúc Đức mà thành. Nếu mất Phúc và thất
Đức thì lập tức tài năng biến mất và sẽ có những
quyết định u tối.
Ví như An Dương Vương quá tài giỏi, đánh tan 50
vạn quân Tần, xây thành Cổ Loa, Nỏ thần Liên Châu...
vậy mà cuối đời kiêu ngạo khinh thường giặc là Triệu
Đà nên có những quyết định u mê: đuổi Cao Lỗ đi, gả
Mị Châu cho Trọng Thủy mà không đề phòng. Giặc
đến chân thành mà còn khinh thường đánh cờ... Âu
cũng là cái tội của riêng ngài nhưng khiến cho dân
chúng nước Nam 1000 năm tủi nhục, thì biết bao giờ
mới xóa hết được cái tội này cho ngài.

650 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


152. Công chúa Ngọc Vạn (1605 - 1658)

Vào đầu thế kỷ 17, sau khi Nguyễn Hoàng từ trần


năm 1613, con là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên,
lúc đó 51 tuổi, lên kế vị và cầm quyền ở Đàng Trong
từ 1613 đến 1635. Theo di mệnh của Nguyễn Hoàng,
Sãi Vương quyết xây dựng Đàng Trong thật vững
mạnh để chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Do đó,
ông giao hảo với các nước phương nam để củng cố vị
thế của ông.
Phía nam nước ta là Chiêm Thành và Chân Lạp
(tức Cambodia ngày nay). Lúc đó, vua Chân Lạp mới
lên ngôi là Chey Chetta (trị vì 1618-1628). Ông nầy
muốn kết thân với chúa Nguyễn để làm thế đối trọng
với vua Xiêm La (Siam tức Thái Lan ngày nay), nên
đã cầu hôn với con gái Sãi Vương. (Sãi Vương
Nguyễn Phúc Nguyên có 4 cô công chúa thì: Công
chúa thứ nhì là Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp, Công
chúa thứ ba là Ngọc Hoa lấy vua Chiêm Thành)
Ba năm sau cuộc hôn nhân của Ngọc Vạn, Sãi
Vương cử một sứ bộ sang Chân Lạp xin vua Chey-
Chetta II nhượng khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần
Bà Rịa ngày nay. Nhờ sự vận động của hoàng hậu
Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến
đó canh tác. Đây là lần đầu tiên người Việt chính
thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn
đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng
sông Cửu Long.
Chồng công chúa Ngọc Vạn, vua Chey-Chetta II từ
trần năm 1628. Từ đó triều đình Chân Lạp liên tục
xảy ra cuộc tranh chấp ngôi báu giữa các hoàng thân.
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 651
Năm 1658 (mậu tuất) hai hoàng thân So và Ang Tan
nổi lên đánh vua Chân Lạp lúc bấy giờ là Nặc Ông
Chân (trị vì 1642-1659), nhưng thất bại, xin nhờ thái
hậu Ngọc Vạn giúp đỡ. Thái hậu Ngọc Vạn chỉ cách
cho hai người nầy cầu cứu chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn lúc bấy giờ là Hiền Vương Nguyễn
Phúc Tần, cháu gọi thái hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột,
liền cử phó tướng Tôn Thất Yến (hay Nguyễn Phúc
Yến), đang đóng ở Phú Yên (dinh Trấn Biên), đem
3.000 quân qua giúp, bắt được Nặc Ông Chân ở vùng
Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay), đưa về giam ở Quảng
Bình vì lúc đó nhà chúa đang hành quân ở Quảng
Bình. Tại đây, Nặc Ông Chân từ trần năm 1659.
Chúa Nguyễn phong So lên làm vua Chân Lạp tức
Batom Reachea (trị vì 1660-1672). Từ đó, nước ta
càng ngày càng can thiệp vào công việc của Chân Lạp
và đưa người thâm nhập nước nầy, dần dần tiến đến
sinh sống tận mũi Cà Mau như ngày nay.
Như thế, đã hai lần bà Ngọc Vạn đã dẫn đường cho
người Việt mở đất về phương nam. Lần thứ nhất sau
cuộc hôn nhân năm 1620 và lần thứ nhì trong cuộc
tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Trong sử Việt các vị Đại tướng quân oai
hùng đã có công giữ nước, nhưng các vị Tiểu nữ nhi
anh hùng Đại Việt mới là người có công mở rộng đất
nước trong hòa bình êm thắm...

652 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Công chúa Huyền Trân lấy vua Chiêm Thành là Chế
Mân đã mang về cho nước ta 2 châu Ô, châu Lý (vùng
đất Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay).
Công chúa Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp khiến nước
ta có vùng đất của Chân Lạp phía sau lưng Chiêm
Thành là Bà Rịa ngày nay làm căn cứ và dần dần qua
các đời chúa Nguyễn đã khai hoang mở rộng đến tận
Cà Mau, Phú Quốc.
Công chúa Ngọc Khoa lấy vua Chiêm Thành để cắt
đứt mối họa giặc Nam (Chiêm Thành) đánh lên, giặc
Bắc (chúa Trịnh) đánh xuống và giữ vững vùng đất
Bà Rịa nhỏ bé mới có được ở sau lưng Chiêm Thành.
Những chiến công mở nước âm thầm nhưng không
kém phần gian khổ, mồ hôi, nước mắt và đôi khi cả sự
nhục nhã ấy thì trong Chính Sử rất khó biết, khó miêu
tả thành lời. Nhưng là mỗi con người Việt Nam chúng
ta vẫn phải cảm nhận được cái ơn đó của các vị Công
Chúa.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 653


153. Công chúa Ngọc Khoa (1610-?)

Năm Tân Mùi (1631) Công chúa Ngọc Khoa được


đức Hy Tông Sãi Vương gả cho vua Chiêm Thành là
Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo
giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp. Chính sử
chép vậy nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là tình
giao hảo giữa hai nước, mà lý do cuộc hôn nhân nầy
còn sâu xa hơn nhiều.
Thứ nhất, chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc vừa
mới bùng nổ năm đinh mão (1627) tại vùng Bố
Chính (Quảng Bình ngày nay).
Thứ nhì, năm 1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong
(không biết họ) liên kết vơi người Chiêm Thành nổi
lên chống lại chúa Nguyễn. Sãi Vương liền cử Phó
tướng Nguyễn Hữu Vinh, chồng của công chúa Ngọc
Liên, đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành
dinh Trấn Biên.(8) Sãi Vương rất lo ngại nếu ở phía
nam, Chiêm Thành mở cuộc chiến tranh chống chúa
Nguyễn thì ông sẽ lâm vào tình trạng “lưỡng đầu thọ
địch”.
Thứ ba, vào cuối thế kỷ 16, người Chiêm Thành
thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao,
thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền
Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người
Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang.(9) Do
đó, nếu triều đình Chiêm Thành liên kết với người
Bồ Đào Nha để chống lại Đại Việt, thì thật là nguy
hiểm chẳng những cho chúa Nguyễn và nguy hiểm
cho cả nước ta. Điều nầy làm cho chúa Nguyễn lo

654 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


ngại, nhất là khi Pô-Ro-Mê là một người anh hùng,
lên làm vua Chiêm Thành (trị vì 1627-1651)
Có thể vì các nguyên nhân trên, Sãi Vương quyết
định phải dàn xếp với Chiêm Thành, và đưa đến cuộc
hôn nhân hòa hiếu Việt Chiêm năm 1631 giữa Ngọc
Khoa, con của Sãi Vương, với vua Chiêm là Pô-Ro-
Mê, nhắm rút ngòi nổ của phía Chiêm Thành, bảo
đảm an ninh mặt nam.
Các sách tây phương ghi nhận rằng không hiểu vì
sao, sau năm 1639 thì cuộc giao thương giữa Chiêm
Thành và người Bồ Đào Nha không còn được nghe
nói đến nữa. Phải chăng việc nầy là hậu quả của
chuyện công chúa Ngọc Khoa sang làm hoàng hậu
Chiêm Thành tám năm trước đó?
Sử sách không ghi lại là bà Ngọc Khoa đã làm
những gì ở triều đình Chiêm Thành, chỉ biết rằng
truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có
ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng
bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Pô-Ro-Mê trở nên mê
muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ.
Trong sách Dân tộc Chàm lược sử, hai ông
Dohamide và Dorohiem cho biết theo lời của một vị
"Pô Thea", người phụ trách giữ tháp Pô-Ro-Mê, kể
cho tác giả E. Aymonier câu chuyện rằng vua Pô-Ro-
Mê có ba vợ. Bà vợ đầu là Bia Thanh Chih, con của vị
vua tiền nhiệm đã truyền ngôi cho Pô-Ro-Mê. Bà nầy
không có con. Pô-Ro-Mê cưới người vợ thứ nhì là
một cô gái gốc Ra đê, tên là Bia Thanh Chanh.
Bà nầy sinh được một công chúa, sau gả cho
hoàng thân Phik Chơk. Hoàng thân Phik Chơk lại

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 655


"liên kết với vua Yuôn (chỉ người Việt) và cho triều
đình Huế rõ nhược điểm trong tâm tánh của Pô-Ro-
Mê: sự yếu đuối trước sắc đẹp mỹ nhân. Vua Yuôn
đã cho một công chúa thật đẹp giả dạng làm khách
thương sang nước Chàm. Do sự sắp xếp khéo léo, tin
tức về nữ khách thương duyên dáng ngoại bang nầy
đến tai Pô-Ro-Mê, nên Pô-Ro-Mê đã cho dời đến và
khi vừa thấy mặt thì đã phải lòng ngay.
Người Chàm gọi vị công chúa Yuôn nầy là Bia Ut
hay Nữ Hoàng Ut cũng thế.
Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa
hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Pô-Ro-Mê, khiến
ông chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của
vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc
nầy sụp đổ.
Dân chúng Chàm thường truyền tụng câu đố: "Ô
hay ngài linh thiêng, rước vợ từ kinh, lim ngài mất
ứng."(Sanak jak po ginrơh patrai, tok kamei Ywơn
mưrai kraik po lihik ginrơh). Ngoài ra, người Chàm
còn dùng tên bà Bia Ut trong một câu thành ngữ để
mỉa mai những phụ nữ béo mập: "Béo như bà Ut "
(Limuk you Bia Ut).
Ngoài việc thần linh hóa câu chuyện, truyền
thuyết trên đây đã phản ảnh một phần sự thật lịch
sử, đó là nước Chiêm Thành, một lần nữa suy yếu
hẳn đi sau cuộc hôn nhân Việt Chiêm năm 1631, nhờ
đó, người Việt nhanh chóng vượt qua Chiêm Thành,
xuống đồng bằng sông Cửu Long.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)

656 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời bình: Như thế, hai công chúa Ngọc Khoa và
Ngọc Vạn, tuy không chính thức đem lại đất đai về
cho đất nước như công chúa Huyền Trân, nhưng cả
hai đều đã mở đường cho cuộc Nam tiến, và quả thật
khoảng một thế kỷ sau đó, chúa Nguyễn đã mở rộng
biên cương về phía nam đến mũi Cà Mau như địa hình
nước Việt ngày nay.
Trong lịch sử, những chiến công oanh liệt để bảo vệ
đất nước trước giặc ngoại xâm Phương Bắc như các
cuộc chiến ác liệt anh dũng thì luôn luôn được ghi
nhận đầy đủ, nhưng những cuộc mở nước âm thầm
của các bậc nữ nhi “chân yếu tay mềm” thì ít được
nhắc đến. Những cuộc mở nước êm đềm, không tốn
xương máu của dân tộc thì chỉ có những bậc nữ lưu
can đảm, anh hùng và tài sắc vẹn toàn như trên mới
có thể thực hiện.
Thật tài thay Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nếu
như không có ngài chỉ dẫn cho chúa Nguyễn vào đàng
trong lập ấp, khai hoang mà gây dựng cơ đồ nhà
Nguyễn thì ranh giới Đại Việt chắc bây giờ chỉ dừng ở
đèo Hải Vân.
Theo lời Trạng Trình, chúa Nguyễn ban đầu chỉ xin
cát cứ một vùng đất nhỏ bé, xa xôi hẻo lánh phía Nam
Đại Việt giáp Chiêm Thành, chúa Trịnh đồng ý vì nghĩ
rằng: “nơi tận cùng của Tổ Quốc thì tài năng bằng
trời cũng chẳng thể làm được gì?”.
Tại đây do tình thế bắt buộc phải mở rộng đất
nước để cân bằng quyền lực chúa Trịnh hoặc là chết.
Nên qua các thế hệ, chúa Nguyễn đã khôn kéo, quyết
tâm, tài năng và ý chí kiên định trong hơn 100 năm,
khai hoang, đánh chiếm, ngoại giao... để có được thế
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 657
nước Đại Việt ngày nay. Nhưng đất nước ta vẫn hai
miền chia cắt (150 năm) Trịnh Nguyễn phân tranh và
cân bằng cả về lực lượng cũng như lãnh thổ.
Đại Việt cần có một dị nhân kì tài: bạt Nguyễn, dẹp
Trịnh, phế Lê mới có thể thống nhất đất nước. Các
Thần Nhân Đại Việt phải lo việc này chứ dân thường
không làm nổi.
Và ắt hẳn khi nước loạn thì giặc Bắc (Mãn Thanh),
giặc Nam (Xiêm La - Thái Lan) sẽ đánh. Vị dị nhân đó,
phải có đủ sức đủ tài để một trận dẹp yên Chiêm
Thành, hai trận phá tan quân Thanh. Chính là Tây
Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ.
Ví như thời nước loạn 12 sứ quân tơi bời tá lả.
Cũng một dị nhân kì tài một trận mà dẹp yên loạn lạc.
Chính là Đinh Bộ Lĩnh.
Nhưng trái ngang thay, Tài và Phúc lại không
thường đi đôi với nhau. Khi Tài năng quá thì rất khó
giữ tâm khiêm hạ. Khi kiêu mạn khởi lên là gốc gây
đổ vỡ. Phúc mất đi thì sự trường tồn cũng mất đi,
chính là vậy.
Có những đời vua lập triều không bằng chiến công
hiển hách thì lại được bền: Lý Thái Tổ được nhường
ngôi và nhà Lý được 216 năm, nhà Trần cướp ngôi
nhưng dùng đức trị dân được 175 năm.
Còn Lê Lợi đánh bại giặc Minh oai hùng bất khuất,
nhà Lê Sơ chỉ được 100 năm (thời Lê Trung Hưng tuy
là con cháu Lê Lợi nhưng chỉ là bù nhìn). Đinh Bộ
Lĩnh một trận dẹp yên 12 sứ quân thì được 12 năm.
Ngô Quyền đánh tan Nam Hán được 36 năm. Quang
Trung Nguyễn Huệ được 24 năm.

658 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


154. Thánh bất tử Liễu Hạnh (1430, 1557, 1580)

Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc
và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến
là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ
Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫụ.
Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch
xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùạ Đôi khi cũng xây
chùa theo kiểu chữ đinh.
Tại gian chính giữa, là nơi đặt tượng Mẫụ. Trường
hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh Mẫu, được
hiểu là Mẫu của tất cả. Trường hợp đặt ba tượng
Mẫu thì đó là Mẫu Thượng Ngàn (ở bên phải), Mẫu
Liễu (ở chính giữa) và mẫu Thoải (ở bên trái). Ba
pho tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc
hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay
chắp. Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫụ
Đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh là người đứng đầu hệ
thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Người mặc áo
đỏ, chùm khăn đỏ, ngồi chính giữa.
Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những
vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn
được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu
Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà
được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu
Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là
con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, đã 3 lần
giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ
thời nhà Hậu
Chương Lênhà
7: Thời đếnHồ,
thời nhà
giặc Nguyễn
Minh, cấp nhiều Sắc,
Hậu Lê
659
tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn
dân" và cuối cùng quy y cửa Phật.
Lần giáng sinh thứ nhất:
Vào đầu thời nhà Hậu Lê (khoảng 1433), tại ấp
Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa
Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên,
người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng,
người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ
Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích
đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có
con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo
mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công
Chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai.
Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý
Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang.
Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một
nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà,
và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm
Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc
nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến
năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng
nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc
cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia
đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của
nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi
tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở
phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La

660 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên
Nga).
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp,
Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc
thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).
Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê
ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay
là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba
Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây
cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ
Quảng Cung).
Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu
đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven
sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho
người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị
hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà
nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi
chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa.
Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên
dưới thờ cha và mẹ.
Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý
Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam,
chùa Thiện Thành ở Đồn xá - Bình Lục, Hà Nam. Tại
chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng
xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại
chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ
cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ
Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 661


nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du
ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều
phải trái đúng sai và làm điều thiện giúp đời.
Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời
Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây
bay, Bà đã hoá thần về trời. Năm đó Bà vừa tròn 40
tuổi.
Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện
Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà
cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của
bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công
lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.
Lần giáng sinh thứ hai:
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà
đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), bà lại
giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và
bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện
Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Kim Thái, Vụ Bản,
Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Do ông
Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng
tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ
Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho
con là Lê Giáng Tiên.
Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh
được một người con trai, tên là Nhân, một con gái
tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ
thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng
3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm
ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì.

662 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương -
Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Lần giáng sinh thứ ba:
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của
Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng
trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi
nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần
gian lần nữa, lần này bà không hóa thai.
Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ
mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc
nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà
khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm
sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn
ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp
chồng, con cái mừng mừng tủi tủi.
Nàng cũng kể rõ mọi truyện cho chồng biết,
khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo
đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con
thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang
nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi
bỗng chốc lại thoắt biến lên mây…
Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm
xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm
sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công
thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên
hạ và giúp đời.
Liễu Hạnh Công Chúa chu du thiên hạ gây họa
và Quy Y Phật Tổ:
Thời Vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy,
Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 663
cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Quảng Bình).
Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng
đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi
người hết sức ngạc nhiên.
Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng
mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai
hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị
bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả
hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến
cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên
giảm.
Nhà Vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã
lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh
để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của
Hoàng tử, Nhà Vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt,
nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may
mắn.
Trạng Phùng đã gặp Liễu Hạnh Công Chúa cả thảy
hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa
Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở
Hồ Tây (Phủ Tây Hồ Hà Nội ngày nay) khi ông cùng
với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền.
Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ
xướng họa liên ngâm. Hiện nay những câu đối,
những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ
Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga
Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần
đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)
Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyên giúp
đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng

664 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng
Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi
hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng
đi với Tiên Chúa.
Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch
Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước
Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành,
trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp
công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên
Chúa.
Những sự việc ấy lọt đến tai Vua Lê chúa Trịnh.
Hai vị Vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả
“yêu nữ” ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần
phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ
nào khác ngoài luật lệ của Vua chúa và ai muốn làm
gì cũng không được tự quyền.
Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi
trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân
Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày
xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư,
sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội
quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh
dẹp.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa
bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự
mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép
thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên
không. Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín
ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên
Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 665


Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên
Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền
sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho
Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni
cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây
cùng với Phật tổ.
(Tham khảo từ: Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) - NXB Trẻ
2012)
Lời bình: Tứ thánh bất tử là bốn vị Phúc Thần của
nước Nam ta luôn luôn hiển linh để phù hộ độ trì cho
dân Việt:
Phù Đổng Thiên Vương đại diện cho tinh thần
chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của
người Việt. Công đức của ngài có được từ việc đánh
đuổi giặc ngoại xâm nhà Ân đời vua Hùng Vương thứ
6.
Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) là đại diện cho tinh
thần chống lại thiên tai lũ lụt của người dân đồng
bằng sông Hồng. Công đức của ngài có được từ việc
giúp dân chống lại thiên tai bão lụt và khắc chế được
sức mạnh thiên nhiên.
Chử Đồng Tử là đại diện cho tinh thần Phật Giáo và
tinh thần làm giàu phát triển kinh tế. Chử Đồng Tử và
Tiên Dung giúp dân làm ăn buôn bán và phát triển
đạo Phật ở khu vực Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay.
Vùng đó sau một thời gian thành một vùng giàu có,
nhà của Chử Đồng Tử là lâu đài cung điện to hơn
cung vua Hùng ở vùng đầm Dạ Trạch. Công đức của

666 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


ngài có được là giúp dân phát triển kinh tế thoát khỏi
đói nghèo và tu tập đạo đức.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh là đại diện cho tinh thần yêu
thương đùm bọc giúp đỡ nhân dân, Bà là hình ảnh
của vị Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Từ Đại Bi trong lòng
dân (cuối tích truyện Công Chúa Liễu Hạnh cũng đi tu
theo Phật Tổ) thời bà còn tại thế đã giúp dân vùng
Thái Bình, Nam Định xây đê ngăn lũ (nay chính là
đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã
ba Vọng), xây 15 cây cầu bắc qua sông giúp dân đi lại,
đào kênh dẫn nước tưới tiêu, dạy dân cách trồng dâu
nuôi tằm dệt vải, khai khẩn đất hoang ven sông, lập
ra làng xã, an cư lạc nghiệp, xây chùa thờ Phật giúp
tiền công đức cho hương sư, khuyên sư dạy bảo dân
chúng ăn hiền ở lành và đạo đức...
Phúc Thần của tất cả các vị Thánh đều có được từ
Công đức giúp dân, giúp nước mà thành. Chứ không
hề từ trên trời rơi xuống hoặc bằng thần thông hay
tự nhiên mà có được.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 667


155. Mẫu Thượng Ngàn (280 TCN)

(Tuy rằng thời đại ghi nhận là đời Vua Hùng


nhưng xin phép xếp vị này sau Mẫu Liễu Hạnh để
bạn đọc tiện theo dõi)
Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc
và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến
là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ
Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫụ.
Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch
xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùạ Đôi khi cũng xây
chùa theo kiểu chữ đinh. Tại gian chính giữa, là nơi
đặt tượng Mẫụ.
Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh
Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả. Trường hợp đặt ba
tượng Mẫu thì đó là Mẫu Thượng Ngàn áo xanh
chùm khăn xanh (ở bên phải), Mẫu Liễu áo đỏ chùm
khăn đỏ (ở chính giữa) và mẫu Thoải áo trắng chùm
khăn trắng (ở bên trái). Ba pho tượng này đều tạc
hình một phụ nữ, đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền,
chân xếp bằng và hai tay chắp. Sự khác nhau chỉ là ở
những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫụ
Đó là Mẫu Thượng Ngàn. Cũng có người gọi Mẫu là
Bà Chúa Thượng Ngàn. Bà được tạc thành hình một
phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp
bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh
khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mẫu Liễu Hạnh
và Mẫu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện.
Việc thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn là một đặc
điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người
668 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và
đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng
tam phủ hay tứ phủ.
Bà là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn
Thánh) và Công Chúa Mỵ Nương. Khi còn trẻ, Mẫu là
một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha
mẹ đặt tên là La Bình.
La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp
mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung
du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn
Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì,
từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng
cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc
thang, trồng lúa nước v.v. hay dựng nhà dựng cửa,
hái cây thuốc chữa bệnh. Ông cũng thường cùng các
vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn
công việc.
Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình
cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh
sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình
cũng biết, cũng giỏi.
Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi
khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình
thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La
Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự
chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong
mọi công việc.
Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng,
coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh.
Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân cần với

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 669


mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với
phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc
Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc
Hoàng Thượng đế trở về trời. La Bình cũng được
phong là Công Chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm
nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81
cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền
trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.
Cùng với nhiều vị thần thánh khác, Công Chúa
Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự
bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người
gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà
cũng vừa tôn kính.
Truyền thuyết giúp nghĩa quân Lam Sơn.
Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi
nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu,
đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao
vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải
tan tác mỗi người mỗi nơi.
Trong đêm tối, Công Chúa Thượng Ngàn đã hóa
phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho quân sĩ, tập
hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở
núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của
Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn
thấy.
Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập
luyện và tập hợp, phát triển thêm lực lượng. Thật
gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy
củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của

670 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Công Chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn
ngày một thêm lớn mạnh.
Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải
chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải
phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận
thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng và
cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết
thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt.
Cùng với nhiều vị thần thánh khác, Công Chúa
Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự
bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người
gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà
cũng vừa tôn kính.
(Tham khảo từ: Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) - NXB Trẻ
2012)
Lời bình: Mẫu Thượng Ngàn, từ nhỏ nàng đã được
cha mẹ (Tản Viên Sơn Thánh và Mỵ Nương) yêu quý
truyền cho mọi món nghề, khi lớn thì hỗ trợ cha mẹ
giúp đỡ người dân, khi cha mẹ mất đi nàng vẫn tiếp
tục công việc giúp dân.
Tuy đó chỉ là truyền thuyết nhưng để tạo thành
Phúc Thần thì bắt buộc nàng phải tạo Công Đức thật
sâu dày giúp đỡ mọi người nhiều năm tháng. Truyền
thuyết không kể chi tiết là giúp dân vùng nào? làm
công việc cụ thể gì? vào thời gian nào?... nhưng chắc
chắn phải có Công Đức thật mới có Phúc để làm Thần
phù họ cho dân chúng mỗi khi lễ xám.

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê

671
156. Mẫu Thoải - Thủy cung Thánh Mẫu (?-?)

Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc
và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến
là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ
Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫụ.
Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch
xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùạ Đôi khi cũng xây
chùa theo kiểu chữ đinh. Tại gian chính giữa, là nơi
đặt tượng Mẫụ. Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì
đó là Thánh Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả.
Trường hợp đặt ba tượng Mẫu thì đó là Mẫu Thượng
Ngàn áo xanh chùm khăn xanh (ở bên phải), Mẫu
Liễu áo đỏ chùm khăn đỏ (ở chính giữa) và mẫu
Thoải áo trắng chùm khăn trắng (ở bên trái). Ba pho
tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc hậu,
ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp.
Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫụ
Đó là: Thủy cung Thánh Mẫu (còn gọi là Mẫu Đệ
Tam, Mẫu Thoải, chữ thoải là đọc trệch từ chữ thủy)
là vị nữ thần dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm
quản lý các miền sông nước. Theo quan niệm dân
gian Việt Nam, Mẫu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để
âm phù.
Mẫu thoải phủ là con gái út của Bát Hải Long
Vương, hay rẽ nước biển lên trần dạo chơi. Nhưng
ngày kia Vua cha cho đóng cửa biển nàng Công Chúa
thủy phủ này không còn đường về thủy cung, nên đã
ở trên trần đầu thai thành người. Nàng tu nhân tích
đức giúp đời giúp người. Từ cô bé nhỏ dần trưởng
672 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
thành xinh đẹp, công đức được dày và được phong là
Công Chúa thủy phủ rồi đức hạnh ngày càng cao nên
được mệnh danh là Mẫu thủy phủ, mẹ của người dân
miền sông nước. Mẹ có thể cứu dân vùng sông nước
bị chết nước, đưa vong lên bờ để không phải chịu sự
lạnh giá miền sông nước.
Có thuyết nói: Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng
tính theo nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc
Hoàng Thượng đế ban cho sức mạnh và tài năng,
nhất là tài sông nước, như nam giới. Thuyết này cho
rằng Mẫu Thoải là vợ của Vua Thủy Tề, là Hoàng hậu
ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở
biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, suối. Do
sông suối có ở khắp nơi nên Mẫu cũng có mặt ở khắp
nơi, nhất là tại các bến sông lớn.
Cũng có thuyết nói: Mẫu, không phải một, mà là
ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu
Cơ. Trong số các con, Lạc Long Quân đã chọn ba
người giao cho việc cai quản sông biển nước Nam.
Thủy tinh Động đình Ngọc nữ Công Chúa. Hoàng Bà
Đoan khiết Phu nhân. Tam giang Công Chúa. Ba bà
đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi
sóc các sông nước, luồng lạch, dạy dân chế tạo
thuyền bè và đan các thứ lưới bắt cá, chế ngự các vị
thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm
hại đến hạ giới. Các Mẫu còn làm mưa và giúp dân
chống lụt.
Có thuyết nói: Bà vốn là con Vua Bát Hải Thủy
Quốc Động Đình, kết duyên cùng Kính Xuyên (là con
Vua Đất). Nghe lời tiểu thiếp Thảo Mai, Kính Xuyên
vu cho bà thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 673
thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu bà không những
được thú rừng yêu quý, mang vật quả đến dâng mà
còn gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Bà bèn nhờ Liễu Nghị
mang thư kể hết sự tình về cho Vua cha. Sau đó bà
được minh oan, kết duyên cùng Liễu Nghị, còn Kính
Xuyên và Thảo Mai thì bị trừng phạt.
(Tham khảo từ: Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) - NXB Trẻ
2012)
Lời bình: Truyện tích rất mơ hồ, chẳng rõ thực hư.
Chỉ biết rằng có một vị Thần chuyên cai quản vùng
sông nước, giúp dân thuyền chài thoát khỏi tai nạn
sóng gió bão tỗ. Nếu khi ai bị chết nước thì Thần giúp
các vong đó biết đi vào bờ không bị lang thang lạnh
lẽo cô đơn và cảm giác xặc nước khổ sở.
Còn cụ thể Thần là ai? Tên họ là gì? Sinh ra năm
nào? mất năm nào? Quê quán ở đâu? Công đức cụ thể
khi sống như thế nào? Thì không rõ.
Nhưng chắc chắn đó phải là một con người thật,
tạo Công đức thật và người đó có duyên với sông
nước Việt Nam cũng như với người dân miền sông
nước.
Cũng có thể là do Nguyện Ước của Thần mà thành
Phúc Thần độ trì miền sông nước cũng nên. Nhưng
thôi: “Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân
vô danh” đã là Thần thì không chấp vào công đức đã
làm, đã là Thánh thì không cần danh tiếng hão huyền.

674 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


157. Cô Đôi Thượng Ngàn (?-?)

Cô Đôi Thượng Ngàn hay Sơn Tinh Công Chúa là


một vị tiên nữ nổi tiếng xinh đẹp trong truyền
thuyết tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Cô Đôi
Thượng Ngàn được thờ ở nhiều di tích đền và phủ ở
phía Bắc Việt Nam và được ca ngợi trong những ca
khúc hát văn nổi tiếng mang tên "Cô Đôi Thượng
Ngàn".
Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là Sơn Tinh Công Chúa
con Vua Đế Thích trên Thiên Cung. Sau cô giáng sinh
xuống đất Ninh Bình làm con gái một quan lang họ
Hà, chúa đất người Mường ở vùng rừng núi Nho
Quan.
Khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc
xanh mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả. Năm cô
lên bốn tuổi, gia đình vị quan lang chuyển tới làm
quan ở huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
Rồi khi về thiên, cô được Mẫu Thượng Ngàn
truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng
biết thống nhất về ngôn ngữ. Lúc thanh nhàn cô về
ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà,
trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nữ ca hát
vui thú trên dốc Sườn Bò (nay thuộc xã Văn Phương,
Nho Quan). Có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ
xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ,
tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao
kẻ phải mến phục.
Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm
Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường

Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 675


được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà
không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.
Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng
cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và
cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ
người ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô
Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi
thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn cho hàng
cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá
xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông),
trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết
thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo
xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét
xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường
khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc
cho đồng tử.
Đền chính thờ Cô Đôi Thượng Ngàn tại thôn Bồng
Lai, xã Văn Phương, Nho Quan, Ninh Bình, ngay trên
đường vào rừng quốc gia Cúc Phương.
(Tham khảo: Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) - NXB Trẻ 2012)
Lời bình: Cũng là một huyền thoại mơ hồ về Thần,
nhưng cảm ứng tứ phủ đồng cốt thì lại rất linh ứng.
Cô Đôi Thượng Ngàn ắt hẳn là một người thật, Công
đức thật, khi sống rất linh mẫn, thông minh, thơ ca
đối ẩm hoạt bát. Sau khi chết mới thành một vị Thần
linh ứng là do: “Sống khôn, thác thiêng” mà thành.
Nhưng cô ban Phúc cho người rồi lại đòi lại Phúc một
cách ngặt nghèo cũng là do Phúc cô không có dư. Và
tâm cô còn rất quyến luyến cõi trần này nên rất hay
nhập đồng để có được hình hài vật chất cõi dương.
676 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Chương 8: THỜI TÂY SƠN VÀ
NHÀ NGUYỄN

158. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ (1753 - 1792)

Vua Quang Trung (1753 - 1792) hay Bắc Bình


Vương, miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ, tên thật là
Nguyễn Huệ, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn,
sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và
nhường ngôi cho ông. Quang Trung không những là
một trong những vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc mà
còn là nhà cai trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh
tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được
biết đến với tên gọi Tây Sơn tam kiệt, là những lãnh
đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc
nội chiến Trịnh Nguyễn phân tranh giữa hai tập
đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía
nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê, chấm
dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài
kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là
người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm
La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc. Bản thân
ông đã cầm quân chiến đấu từ năm 18 tuổi, trong 20
năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn, và
chưa hề thua một trận nào. Đồng thời. khi ở cương vị
hoàng đế, ông cũng tỏ rõ tài cai trị khi đề ra nhiều kế
hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo
dục, quân sự nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu
khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 677


Sau 20 năm liên tục chinh chiến và 3 năm trị quốc,
khi tình hình đất nước bắt đầu có chuyển biến tốt thì
Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi 39. Sau cái chết
của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Người
kế vị ông là Quang Toản vẫn còn quá nhỏ (9 tuổi)
nên không đủ khả năng để lãnh đạo Đại Việt, triều
đình lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc
tiếp tục chống lại Nguyễn Ánh. Cuộc đời hoạt động
của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã
đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất
nước của triều đại Tây Sơn.
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà
Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và
cả trong văn học dân gian. Khi Quang Trung mất,
nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng
tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của
ông. Dù sau này nhà Nguyễn (đối thủ của nhà Tây
Sơn) tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín của Quang Trung
(phá bỏ đền thờ, cấm người dân thờ cúng, truy lùng
các bề tôi, con cháu của Quang Trung) và gọi ông là
"Giặc" trong các tài liệu triều đình, nhưng ký ức về
các chiến công của ông vẫn được những người mến
mộ ông truyền tụng suốt 150 năm.
Ngày nay, Nguyễn Huệ được coi là vị anh hùng
dân tộc của Việt Nam, nhiều trường học và đường
phố ở các địa phương được đặt các tên Quang Trung
và Nguyễn Huệ, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh có
một đường phố đồng thời là một đường hoa và cũng
là phố đi bộ mang tên ông.
(Tham khảo từ: Việt Nam sử lược (Trần Trọng
Kim) – NXB Đà Nẵng, 2003)
678 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Lời bình: Chúng ta hãy nhìn lại Lịch Sử Việt Nam
vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh và sự nghiệp mở
nước của các đời chúa Nguyễn đàng trong và nhà Tây
Sơn.
Cuối đời Lê Sơ nhà Lê đã suy yếu, Mạc Thái Tổ Mạc
Đăng Dung cướp ngôi vua từ tay Lê Cung Hoàng
(1527) lập lên nhà Mạc tồn tại 66 năm và bị Trịnh
Tùng đánh bại (1592) sau đó nhà Mạc chạy lên Cao
Bằng theo sự tư vấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tồn
tại đến năm 1677 mới hết vương triều nhà Mạc.
Trịnh Kiểm hỏi Trạng Trình có nên làm vua hay
không. Trạng bảo nên phò nhà Lê thì được hưởng
nước hàng trăm năm. Trịnh Kiểm nghe theo. Họ Trịnh
mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều
hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi
truyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại
hơn 200 năm nữa. Vì khi đó lòng dân còn rất nhớ ơn
nghĩa của Lê Lợi đánh giặc Minh cứu nước. Nếu
không làm vậy thì đất nước sẽ loạn.
Người có công phò tá vua Lê đánh Mạc trước tiên
phải kể đến tướng quân Nguyễn Kim, nhưng sau bị
sát hại và quyền hành phò Lê vào tay con rể là Trịnh
Kiểm. Con trai thứ 3 của Nguyễn Kim là Nguyễn
Hoàng sợ bị anh rể sát hại hỏi kế Trạng Trình. Trạng
bảo nên vào vùng đất Thuận hóa, Quảng nam mà lập
nghiệp. Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm được sự đồng
ý. Tình hình khi đó phía Bắc là nhà Mạc đang đánh
xuống, Phía Nam là nước Chiêm Thành rất cần tướng
giỏi trấn giữ nên Trịnh Kiểm mới nghe.
Sau khi đất nước đi vào ổn định, nhà Mạc bị đánh
tan, Vua Lê chúa Trịnh hồi kinh đô Thăng Long phân
Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 679
quyền vua chúa quản lý nhưng vua chỉ là bù nhìn,
thực quyền đã vào tay chúa Trịnh. Vùng đất Thuận
Quảng chúa Nguyễn quản lý có ý muốn ly khai bị chúa
Trịnh dẫn quân đánh vào, chúa Nguyễn cũng lấy danh
nghĩa phò Lê diệt Trịnh đánh ra tổng cộng 7 trận
chiến từ 1627-1672. Sau đó đình chiến và lấy Sông
Gianh bến Hải để phân chia Nam Bắc đàng ngoài,
đàng trong.
Trong hơn 1 trăm năm cai quản đàng trong các
đời chúa Nguyễn dần dần sáp nhập vương quốc
Chiêm Thành và ảnh hưởng chính trị, quân sự lên
vương quốc Chân Lạp (Campuchia). Các chúa Nguyễn
thường hỗ trợ quân sự cho Chân Lạp để Chân Lạp
đánh lại Xiêm (Thái lan). Từ đó, các Chúa Nguyễn
nhận các vùng đất từ Chân Lạp như món quà đền ơn
và khai hoang mở mang thêm lãnh thổ Đàng Trong
về phía Nam đến tận mũi Cà Mau.
Thế trận giằng co giữa vua Lê chúa Trịnh đàng
ngoài và chúa Nguyễn đàng trong kéo dài 150 từ
1633-1778. Với bao nhiêu đau thương chia cắt “sông
Gianh bến Hải đau lòng biết bao”.
Lúc này đây, đất nước cần một con người đủ sức
mạnh thần uy để có thể thống nhất đất nước, chấm
dứt cảnh nam bắc phân chia.
Vận nước là vậy, lòng dân cũng là vậy. Từ bắt đầu
thế kỷ 18 rất nhiều các cuộc nổi dậy khởi nghĩa của
nhân dân cả nam và bắc. Đa phần đều bị chúa Trịnh
(bắc triều) và chúa Nguyễn (nam triều) dẹp yên.
Nhưng có một phong trào nổi dậy được lãnh đạo bởi
3 anh em nhà họ Nguyễn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ ở vùng Tây Sơn, Bình Định đã chiếm
680 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
được tình cảm và sự quy hướng của nhân dân đã
dành thắng lợi.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một con người võ
lực phi thường, 20 năm đánh trận với hàng trục trận
đánh lớn nhỏ không chiến bại một trận nào. Dẹp yên
chúa Nguyễn đàng trong, đánh tan chúa Trịnh đàng
ngoài. Xiêm la được Nguyễn Ánh mời vào giúp.
Nguyễn Huệ hành quân đánh tan Xiêm la. Khi đó ở
bắc triều Lê Chiêu Thống cầu viện Mãn Thanh giúp.
Nguyễn Huệ mang quân thần tốc từ Nam ra Bắc đánh
tan Mãn Thanh. (Quân Xiêm có 2 vạn quân thủy, 3
vạn quân bộ, 300 chiến thuyền. Quân Thanh có 30 vạn
quân bộ).
Đây đúng là Thần Tướng hiện thân. Chỉ có thể là
người này thì đất nước ta mới thống nhất trọn vẹn
lãnh thổ. Chấm dứt thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh
kéo dài 256 năm (bằng thời Lê Trung Hưng tồn tại).
Nhưng Nguyễn Huệ phúc không dầy. Khi đất nước
hòa bình và thống nhất được 3 năm thì vua mất. Và
quân của Nguyễn Ánh đã lấy lại thế mạnh đánh thắng
nhà Tây Sơn lên làm Vua Việt Nam mở ra thời nhà
Nguyễn.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 681


159. Truyện tích về Nguyễn Nhạc (1743 - 1793)

Truyện 1: Dùng gùi gánh nước


Truyện kể rằng, một hôm, Nguyễn Nhạc sai người
đan cho mình mấy cái gùi liền. Xong, ông lấy nhựa
cây trát kín bên trong và đem hai cái gùi đã trát kín
nhựa cây ở bên trong như thế đi gánh nước. Mọi
người trông thấy, cho là kì dị, liền hỏi rằng:
- Không ai có thể dùng gùi để đựng nước, tại sao
ông lại làm được như vậy?
Nguyễn Nhạc đáp:
- Tôi là người nhà trời. Người nhà trời làm việc
tất nhiên là có chỗ không giống với người của
hạ giới làm việc rồi.
Từ đó trở đi, khắp cả một vùng rộng lớn, người ta
liên tục rỉ tai nhau rằng, Nguyễn Nhạc là người nhà
trời, không phải là người thường của hạ giới. Họ
nhìn ba anh em Tây Sơn với cái nhìn đầy cảm phục,
nhưng cũng phảng phất chút hoài nghi.
Truyện 2: Gọi bầy ngụa hoang tới gần
Bấy giờ, trong số những người phảng phất hoài
nghi, có người mạnh dạn đề nghị phải thử để xác
định rõ hư thực. Nhân vì ở núi Hiển Hách (cách Tây
Sơn không xa) có bầy ngựa hoang rất nhát, hễ thấy
bóng người từ xa là đã nhanh chân chạy mất, đồng
bào các dân tộc đương thời gọi là ngựa trời, họ bèn
đến gặp Nguyễn Nhạc và nói:
- Nếu quả thật ông là người nhà trời thì ắt hẳn
là ông phải gọi được bầy ngựa trời ấy đến với
ông. Liệu ông có làm được không?
682 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Nguyễn Nhạc bình tĩnh trả lời:
- Điều ấy có gì là khó đâu.
Nói vậy nhưng thực ra thì lúc ấy, Nguyễn Nhạc
vẫn chưa nghĩ ra được cách gì có thể gọi bầy ngựa
hoang đến với mình. Về nhà Nguyễn Nhạc nghĩ mãi,
nghĩ mãi, cuối cùng, ông ra chợ mua một con ngựa
cái tơ. Ngày ngày, Nguyễn Nhạc cất công tập cho con
ngựa cái tơ của mình một thói quen, ấy là hễ ông
phát tín hiệu thì dẫu đang ở đâu, con ngựa cái tơ ấy
vẫn chạy đến với chủ và sung sướng được chủ
thưởng cho một mớ cỏ non.
Sau khi đã tập thành thục, Nguyễn Nhạc dắt con
ngựa cái tơ của mình vào núi Hiển Hách. Câu “Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã” của cổ nhân quả là không sai.
Bầy ngựa hoang tỏ ra rất háo hức khi thấy con ngựa
cái tơ của Nguyễn Nhạc xuất hiện. Đúng lúc quan hệ
giữa bầy ngựa hoang với con ngựa cái tơ của Nguyễn
Nhạc đạt tới mức mật thiết nhất thì Nguyễn Nhạc
phát tín hiệu. Con ngựa cái tơ vội chạy tới. Bầy ngựa
hoang cũng chạy theo. Dần dần thành quen, Nguyễn
Nhạc đã có thể gọi bầy ngựa hoang đến với mình
một cách rất nhanh chóng và tự nhiên.
Bấy giờ, Nguyễn Nhạc mới mời các vị Tù Trưởng
tới và nói:
- Tôi là người nhà trời, cho nên, tôi có thể gọi
bầy ngựa trời ấy tới với mình. Không tin, các
ông hãy đến mà xem, có điều tất cả các ông
phải núp thật kín, làm sao để các ông có thể
nhìn thấy ngựa mà ngựa thì không thể nào
nhìn thấy các ông.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 683


Các vị Tù Trưởng đồng ý và họ đã được chứng
kiến cảnh Nguyễn Nhạc gọi bầy ngựa trời tới. Từ đó,
ai cũng tin rằng ba anh em Tây Sơn quả đúng là
người nhà trời. Nhưng, họ là người được trời sai
xuống hay bị trời đày xuống? Một mối nghi hoặc
khác lại nổi lên. Nguyễn Nhạc biết và lại khôn khéo
nghĩ cách phá tan sự nghi hoặc ấy.
Truyện 3: Nhận mệnh trời trên đỉnh Trung Sơn
Ở Phú Lạc có khá nhiều núi non, nhưng nổi danh
hơn cả vẫn là Trung Sơn. Núi này còn có nhiều tên
gọi khác như Hòn Sung, Hòn Sưng, Độc Nhũ Sơn, Độc
Xỉ Sơn. Tuy chỉ cao khoảng hơn 400 mét nhưng
Trung Sơn vẫn được coi là một trong những ngọn
núi thiêng. Sự tích Chàng Lía kể rằng, khi mẹ Chàng
Lía qua đời, Chàng Lía đội quan tài trên đầu, một tay
thì giữ, một tay cầm cái mâm vụt mạnh. Mâm bay,
Chàng Lía nhanh chân nhảy lên và cứ thế bay mãi,
bay mãi đến đỉnh Trung Sơn thì dừng lại. Chàng Lía
đã mai táng mẹ ở đó.
Hiện nay trên đỉnh Trung Sơn còn có một tảng đá
bằng phẳng, hình chữ nhật, bên cạnh lại có hai tảng
đá vuông vức chồng lên nhau, người địa phương nói
đó là mả của mẹ Chàng Lía.
Thời bấy giờ, Trung Sơn có rất nhiều cọp, vì thế,
hầu như chẳng mấy ai dám bước chân lên. Một hôm,
Nguyễn Nhạc tổ chức một bữa tiệc linh đình trong
nhà mình. Trong số khánh mời có khá nhiều vị Tù
Trưởng, những người vốn dĩ rất cả tin nhưng cũng
rất đa nghi.

684 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Đêm khuya, khi tiệc vừa tàn thì bỗng thấy trên
đỉnh Trung Sơn lửa sáng rực trời và tiếp đó là tiếng
chiêng trống rộn rã nổi lên. Nguyễn Nhạc cùng với
nhiều vị Tù Trưởng rủ nhau cầm đuốc đi lên xem
truyện gì đã xảy ra. Khi gần đến nơi, họ bỗng thấy ở
chỗ mả của mẹ Chàng Lía, có nhiều người ăn mặc
thật dị kì, nắm tay nhau múa hát theo nhịp trống
nhịp chiêng chung quanh một đống lửa lớn. Đang lúc
kinh ngạc và lo sợ thì bỗng có một người cao lớn
nhất, ăn mặc dị kì nhất, bước ra và dõng dạc nói:
- Truyền cho Nguyễn Nhạc tới đây!
Nguyễn Nhạc run lẩy bẩy, ngoan ngoãn bò tới.
Người cao lớn liền mở một cái hòm thật đẹp, lấy ra
một tờ giấy và trịnh trọng đọc rồi nói rằng:
- Ta vâng mệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế, truyền
cho ngươi được quyền làm vua để trị vì thiên
hạ kể từ đây.
Được chứng kiến cảnh này, các vị Tù Trưởng đều
rất tin rằng Nguyễn Nhạc chính là người được trời
sai xuống để làm vua thiên hạ chứ không phải là bị
trời đày xuống.
Trời đã ban cho ấn kiếm lại còn cho cả bút nghiên
để biên chép một sự nghiệp phi thường: Sau đêm
kính nhận mệnh trời trên đỉnh Trung Sơn được một
thời gian, thì một hôm, trời bỗng nổi sấm chớp đùng
đùng rồi tuôn mưa xối xả. Nguyễn Nhạc đang vui vẻ
đàm đạo với khách tại nhà thì thấy một người hớt
hải đội mưa chạy đến và thưa:

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 685


- Vừa rồi, sét đánh vỡ tung một tảng đá trên Hòn
Giải, tôi tình cờ đi qua và thấy trong đám đá
vụn, có cái này.
Nguyễn Nhạc chỉ mới liếc qua đã mỉm cười và nói:
- Đó là ấn thiêng trời ban cho ta, ta biết rồi, đưa
đây.
Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì lại thấy một
người khác, cũng hớt hải đội mưa chạy đến nhà
Nguyễn Nhạc và thưa rằng:
- Lúc nãy, tôi tình cờ đi qua Gò Sặt, thấy sét đánh
vỡ tung một tảng đá và trên đống đá vụn ấy, có
thanh kiếm lạ này.
Nguyễn Nhạc cũng chỉ liếc qua một cái đã quả
quyết:
- Đó là kiếm báu trời ban cho ta, ta biết rồi, đưa
đây.
Từ đây, Nguyễn Nhạc có thêm ấn thiêng và kiếm
báu, tin ấy nhanh chóng loan đi khắp nơi, thiên hạ
cho rằng truyện đất bằng nổi sóng chắc chẳng còn
bao lâu nữa. Hòn Giải từ đó có tên là Ấn Sơn và Gò
Sặt cũng kể từ đó có tên là Kiếm Sơn.
Bấy giờ, lòng người ở Tây Sơn đều hướng về
Nguyễn Nhạc, người ta tin là nhất định sẽ có ngày
Nguyễn Nhạc chính thức lên ngôi. Có nhân kiệt ấy
cũng bởi có địa linh, mỗi ngọn núi của Tây Sơn từ
đây lại có thêm những tên gọi mới, hùng tráng và
thiêng liêng kì lạ:
- Núi Ngang (tên chữ là Hoành Sơn) vốn dĩ chỉ là
một dãy núi bình thường, nhưng từ đây lại
được mô tả với dáng vẻ khác thường: xa trông,
686 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Hoành Sơn như bức bình phong của trời ban
tặng.
- Hai ngọn núi nho nhỏ ở Tây Sơn, một ở bên
phải và một ở bên trái Hoành Sơn, từ đây được
người đời gọi là Nghiên Sơn và Bút Sơn. Trên
đỉnh Nghiên Sơn có vũng nước không bao giờ
cạn, đời truyền tụng rằng đó chính là nguồn
mực vô tận, đủ để chép tất cả những sự tích phi
thường của Tây Sơn. Bút Sơn xa trông như một
ngọn bút lớn đang chĩa thẳng lên trời. Truyện
“kinh thiên động địa” của Tây Sơn phải chép
giữa trời xanh rộng lớn cho muôn đời thấu tỏ.
- Cũng ở dưới chân Núi Ngang, có hai núi nhỏ
nữa. Một có tên là Hòn Giải, tức Ấn Sơn, thi
thoảng cũng có người gọi là Cổ Sơn. Sở dĩ gọi
là Cổ Sơn vì xa trông, Ấn Sơn hay Hòn Giải rất
giống hình cái trống (âm Hán Việt đọc là Cổ).
Núi nhỏ thứ hai vốn có tên là Hòn Một, bỗng
được mang tên mới là Chung Sơn. Sở dĩ gọi là
Chung Sơn vì xa trông, ngọn núi này có hình
dáng tựa như cái chuông (âm Hán Việt đọc là
Chung).
Truyện 4: Táng hài cốt song thân vào long
mạch dưới chân Hoành Sơn
Truyện kể rằng, vào một ngày nọ, có một thầy địa
lí lừng danh từ Trung Quốc đi sang. Lần theo mạch
đất, ông đến Tây Sơn và lặng lẽ dừng lại dưới chân
Hoành Sơn. Sau nhiều ngày trầm ngâm suy nghĩ, ông
ta liền trồng hai bụi trúc ở hai vị trí khác nhau, ngay
trên khu đất đầy sỏi.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 687


Nguyễn Nhạc bí mật theo dõi và thấy thầy địa lí
đến ngay vuông đất đầy sỏi là sỏi, trồng vào đó hai
khóm trúc rồi đi thẳng. Biết chắc đó là phép thử
huyệt khí, Nguyễn Nhạc liền canh chừng từng ngày
một. Thế rồi một trong hai khóm trúc khô héo dần
và chết, còn một khóm nữa thì xanh tươi lạ thường.
Nguyễn Nhạc hiểu là long huyệt nằm ở đấy, bèn
đào một khóm trúc đã chết khô ở nơi khác đem đến,
nhổ khóm trúc tươi tốt đi mà trồng thay vào. Việc
vừa xong thì cũng đúng lúc thầy địa lí quay trở lại.
Thấy cả hai khóm trúc đều khô héo, ông ta liền bỏ đi
luôn, sau, không hề thấy ông ta về Tây Sơn lần nào
nữa.
Thầy địa lí đi rồi, Nguyễn Nhạc lập tức đem hài cốt
của song thân cải táng vào long huyệt. Việc này
khiến cho dân Tây Sơn đương thời rất vui, bởi lẽ họ
tin rằng, một người được trời che đất chở như
Nguyễn Nhạc, phúc đức sẽ bền lâu vô cùng. Họ tin và
đến với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ngày
một đông đảo.
Khu mộ cải táng của song thân Nguyễn Nhạc, về
sau bị triều Nguyễn khai quật để trả thù, đó chính là
di tích Hai hố Nguyệt đã nói ở mục Quê hương và gia
đình.
Truyện 5: Dị bản khác về truyện Nguyễn Nhạc
lừa thầy địa lý để cải cốt cha mẹ mình vào Long
Mạch:
“Đoạn đầu giống như truyện trên”... sau khi biết
chắc rằng mình đã tìm được long huyệt dưới chân
Hoành Sơn, thầy địa lí người Trung Quốc liền trở về

688 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


cố hương, lấy hài cốt của tổ tiên mình đựng vào một
cái tráp thật đẹp, đem sang để cải táng vào đấy.
Nhưng ông ta đi gần đến nơi thì bị một con cọp lao
ra. Hốt hoảng quá, thầy địa lí người Trung Quốc bèn
quăng cả tráp mà chạy. Khi hoàn hồn quay trở lại,
thấy cái tráp hãy còn nguyên, nằm lăn lốc bên
đường, ông ta vui mừng đem đến long huyệt mai
táng cẩn thận. Xong, ông ta về mà không hề biết
rằng, con cọp kia chỉ là cái lốt, Nguyễn Nhạc đội vào
để hù, còn cải tráp kia tuy ngỡ như còn y nguyên,
nhưng kì thực, hài cốt bên trong đã bị Nguyễn Nhạc
đánh tráo. Đó không còn là hài cốt tổ tiên thầy địa lí
mà là hài cốt của song thân Nguyễn Nhạc.
Truyện 6: Con bạch mã của Nguyễn Nhạc
Sinh thời, Nguyễn Nhạc có một con tuấn mã lông
trắng mượt mà, chân cao bụng thon, dáng vẻ thật
dũng mãnh. Con tuấn mã ấy đã gắn bó với Nguyễn
Nhạc suốt cả cuộc trường chinh. Nhờ đó mà Nguyễn
Nhạc mới có thể chỉ huy trận mạc một cách kịp thời
và sắc bén, cũng nhờ nó mà Nguyễn Nhạc đã lập
được rất nhiều chiến công.
Tóm lại, từ khi là Tây Sơn Đệ Nhất Trại Chủ, là Tây
Sơn Hiệu Trưởng Tiên Phong Tướng Quân, là Tây
Sơn Vương, là Hoàng Đế hay Trung ương Hoàng Đế,
hình ảnh của Nguyễn Nhạc bao giờ cũng gắn liền với
hình ảnh con tuấn mã nổi tiếng của ông.
Nhưng rồi năm 1793, khi Nguyễn Nhạc qua đời,
con tuấn mã ấy cũng xổng chuồng, chạy thẳng một
mạch về Tây Sơn. Một thời gian sau, vào những lúc
chiều tà, thi thoảng, nhân dân ở vùng Núi Ngang lại
thấy con tuấn mã ấy xuất hiện. Vẫn bộ lông trắng
Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 689
tuyệt vời ấy, vẫn dáng vẻ dũng mãnh rất quen thuộc
ấy, chỉ có khác là tiếng hí của nó nghe sao mà não nề
đến kì lạ.
Tương truyền, mộ Nguyễn Nhạc ở đấy, cho nên,
con ngựa nhớ chủ mà về thăm. Chủ được dân yêu
quý tôn làm thần và con ngựa của chủ cũng được
dân tôn làm thần của xứ sở: thần Bạch Mã.
Bởi thờ thần Bạch Mã nên dân Tây Sơn không ai
nuôi ngựa trắng nữa. Tục ấy giữ mãi cho đến sau
này. Đầu thế kỷ thứ XIX, khi triều Nguyễn được dựng
lên, một cuộc trả thù tàn bạo đối với Tây Sơn đã
được tiến hành.
Mộ của Nguyễn Nhạc bị đào lên, nắm xương tàn bị
hành hạ, thần Bạch Mã đến Núi Ngang, cất tiếng hí bi
ai rồi đi thẳng vào rừng xanh.
(Tham khảo từ: Việt sử giai thoại (Nguyễn Khắc
Thuần)- NXB Giáo dục, 1999)
Lời bình: Muốn lấy lòng dân không có gì hay bằng
tin đồn được thần thánh hỗ trợ, được thuận lòng trời,
đặt được mộ bố mẹ vào huyệt đế vương... Chứ phàm
nếu đặt đúng long mạch thì Nguyễn Huệ đâu có chết
yểu khi mới ở ngôi được 3 năm. Nguyễn Ánh đánh
thắng nhà Tây Sơn và bốc hài cốt bố mẹ Nguyễn Nhạc
lên và nghiền ra tro.
Ngoài ra các tích kiếm báu, khiên báu, nhận mệnh
trời, táng hài cốt đều rất ít người làm chứng ở bên.
Còn tích ngựa trời, gùi gánh nước chỉ là mưu mẹo,
thông minh, nhanh trí mà thôi.

690 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


160. Truyện tích về Nguyễn Huệ (1753 - 1792)

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tiếng to như chuông,


mắt sáng như điện, sức khỏe tuyệt trần, mỗi khi lâm
trận, chỉ hai tay cầm hai dùi đồng, phi ngựa xông vào
giữa trận, hàng mấy nghìn người cũng không địch
nổi. Lại có mưu quyền biến, mẹo mực như thần.
Khi trước giúp anh khởi loạn ở Quy Nhân, về sau
giữ từ Thuận Hóa giở ra, tự xưng là Bắc Bình Vương.
Lần đầu tiên xuất quân, Nguyễn Huệ và các tướng
rất náo nức. Nhưng, đoàn quân vừa rời khỏi căn cứ
thì bỗng chựng lại, hàng ngũ phía trước tự dưng rối
loạn. Nguyễn Huệ tới để kiểm tra nguyên do thì thấy
có hai con rắn đen cực lớn nằm chắn ngang đường,
cả hai đền vươn cổ lên, há miệng đỏ như đang ngậm
máu. Quân sĩ Tây Sơn cho đó là điềm chẳng lành nên
ngần ngại, không dám hăng hái đi tiếp. Nguyễn Huệ
lập tức xuống ngựa, cung kính thi lễ và khấn rằng:
- Nay, anh em chúng tôi xuất quân là vì đại
nghĩa. Nếu biết trước là sự nghiệp của chúng
tôi sẽ thành công thì kính xin Xà Thần (Thần
rắn) mở lối cho chúng tôi đi, còn như nếu biết
trước được rằng chúng tôi chỉ uổng công vô
ích thì xin Xà Thần hãy trị tội mình tôi mà tha
cho hết thảy nghĩa sĩ đều được trở về với gia
đình, vợ con.
Không ngờ, Nguyễn Huệ vừa khấn xong thì cả hai
con rắn đen cực lớn kia đều quay đầu lại, thoăn
thoắt tiến lên phía trước, mở đường cho cả đạo binh
cùng đi. Đi được một quãng đường khá xa thì bỗng
một con rắn lao nhanh vào bụi rậm và chốc lát sau
Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 691
thì trở ra, miệng ngậm một thanh long đao có cán
màu đen, vươn cổ lên “trao” cho Nguyễn Huệ. Đó là
thanh long đao cực bén, thế gian không ai có được.
Nguyễn Huệ kính cẩn nhận lấy thanh long đao và
thề sẽ vì đại nghĩa cứu dân, vì ân huệ của Xà Thần
mà chiến đấu đến cùng. Hai con rắn đen nghe
Nguyễn Huệ thề xong thì biến mất. Về sau, để tưởng
nhớ ơn đức lớn lao của Xà Thần, Nguyễn Huệ đã cho
dựng miếu thờ. Miếu ấy lâu ngày đã bị hoang tàn, di
tích còn lại chính là Miếu Xà đã nói ở trên.
Sau khi đánh đuổi Mãn Thanh thống nhất đất
nước, vua Quang Trung muốn thừa cơ lấy lại Quảng
Đông, Quảng Tây, Vân Nam của nước ta khi xưa, đã
mộ binh, đóng tàu chiến, sắp sửa làm biểu sai sứ
sang Tàu cầu hôn, để dò ý vua Tàu, mượn chuyện để
khởi binh, chẳng may phải bệnh mất, việc đấy phải
dìm đi. Vua Quang Trung ở ngôi được 3 năm, thọ 40
tuổi.
(Tham khảo từ: Nam Hải dị nhân liệt
truyện - Phan Kế Bính, 1930)
Lời bình: Cuối tích này hé hộ cho ta một điều bí
mật là Nguyễn Huệ có ý định đánh Trung Quốc để
chiếm lại vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây thời vua
Hùng xưa.
Kể ra cũng là một ý nghĩ táo bạo. Nhưng nên chờ
đợi đến khi Trung Quốc tự phân 5 xẻ 7 thành các
nước nhỏ thì ta đánh may ra mới được. Chứ một đất
nước hùng mạnh Trung Hoa rộng lớn mà lại trong
thời vua tốt nhất nhà Thanh là Càn Long. Nếu đánh e
rằng nước ta gặp họa.

692 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Chúng ta còn nhớ vua Trần Duệ Tông chết năm
1377 vì đánh Chiêm Thành. Chế Bồng Nga đã hòa giải
rồi. Nhưng thấy giặc nhịn một bước lại tưởng rằng ta
quá tài giỏi mà dẫn binh đánh kinh đô Chiêm, sau bị
phục kích chết.
Đây ta đánh bại 29 vạn quân Mãn Thanh vì họ ở
thế xâm lược, ở thế phi nghĩa nên tâm toàn quân bất
an, thế và lực bị giảm. Không có nghĩa rằng Càn Long
kém, Trung Hoa là kém thời bấy giờ.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 693


161. Nguyễn Hữu Chỉnh (? - 1788)

Thắng lợi của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công


vào đất Thuận Hóa đã gây được tiếng vang rất lớn.
Bấy giờ, thấy quân sĩ thất trận hoảng hốt chạy về,
tướng chỉ huy quân Trịnh ở vùng bờ Bắc sông Gianh
là Ninh Tốn cũng vội vã lui quân.
Thế của quân Tây Sơn nhanh chóng tăng lên gấp
bội. Nhân đó, hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh liền
bàn với Nguyễn Huệ nên đánh thẳng ra Đàng Ngoài.
Nguyễn Huệ đánh bại Phạm Ngô Cầu, nhân đà
thắng lợi, đánh ra cả vùng Đông Hải. Viên tướng giữ
chức Trấn Thủ ở đấy là Ninh Tốn liền bỏ thành mà
chạy. Nguyễn Huệ liền sửa sang đồn lũy ở sông La, ý
muốn chia ranh giới để chống giữ. Khi ấy, Nguyễn
Hữu Chỉnh đến nói với Nguyễn Huệ rằng:
- Tướng quân chỉ một lần xuất chinh đã bình
định được xứ Thuận Hóa, uy danh lừng lẫy
vang động đến tận Bắc Hà. Về phép dụng binh,
thì quan trọng nhất là thời, thứ hai là thế và
thứ ba là cơ hội. Ba điều ấy mà lợi dụng được
thì đến đâu cũng thắng cả. Nay ở Bắc Hà,
tướng thì lười, quân thì kiêu, ta nhân thế đang
đại thắng mà đánh tới, tức là chiếm lấy nước
đã suy, kiêm tinh nước đang loạn, thu về nước
sắp mất. Thời ấy, cơ hội ấy, thiết nghĩ là không
nên bỏ qua.
Nguyễn Huệ nói:
- Bắc Hà là nơi lắm nhân tài, há đâu dám coi
thường?

694 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
- Nhân tài Bắc Hà duy chỉ có một mình Chỉnh
này mà thôi. Nay Chỉnh đi rồi, đâu còn ai nữa?
Xin tướng công chớ ngờ.
Nguyễn Huệ cười, nói rằng:
- Người khác không đáng ngờ, có chăng chỉ là
ông thôi. (Vì Hữu Chỉnh là hàng tướng)
Nguyễn Hữu Chỉnh tái mặt, từ tạ mà nói rằng:
- Chỉnh này cũng tự thấy mình là kẻ ngu hèn, nói
quá như thế cũng chỉ cốt tỏ rằng đất Bắc Hà
không có người tài đó thôi.
Nguyễn Huệ nói sang truyện khác, cốt để an ủi
Nguyễn Hữu Chỉnh:
- Nước có cơ nghiệp lâu dài những mấy trăm
năm, nay nếu một sớm một chiều mà ta mang
quân ra đánh lấy thì thiên hạ sẽ gọi đạo quân
của ta là đạo quân gì?
Nguyễn Hữu Chỉnh nói:
- Nay ở Bắc Hà đã có Đế lại còn có Vương, đó là
tai họa từ lâu để lại. Họ Trịnh tiếng là tôn phò
Hoàng Đế họ Lê nhưng thực là hiếp chế quá
lắm. Người trong nước không tuân phục đã lâu
rồi, nhưng sở dĩ chưa dám hành động là do
chưa có thời và thế đó thôi. Tướng quân nên
mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh để đem quân ra
thì khắp thiên hạ không ai là không theo. Đó là
cơ hội ngàn năm mới có một thuở.
Nguyễn Huệ nói:

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 695


- Ngươi nói rất phải. Nhưng còn như việc trái
mệnh thì ta phải làm sao?
Nguyễn Hữu Chỉnh thưa:
- Kinh Xuân Thu dạy rằng, trái mệnh lệnh nhỏ
mà lập được công lớn thì đó là công. Thế thì, vì
việc lập công mà trái lệnh, phỏng có sợ gì? Vả
chăng, tướng cầm quân ra trận thì dẫu có
mệnh lệnh của vua cũng có quyền không theo,
tướng công còn ngờ gì nữa?
Là người quả quyết lại có chí lớn, sẵn gặp lời bàn
của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ liền nhân đà
thắng lợi, cho quân ồ ạt tiến ra đàng ngoài diệt Trịnh
Khải. Điều này dẫn đến chính quyền nhà Trịnh bị
dẹp, nhưng do sự đe dọa quyền lực đối với nhà Lê
của Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh đã đưa ra kế sách
cho Nguyễn Huệ kết hôn với Lê Ngọc Hân, một trong
những cuộc hôn nhân quan trọng nhất của lịch sử
Việt Nam.
(Tham khảo từ: Đại Nam thực lục (Quốc sử
quán triều Nguyễn - NXB Giáo Dục)
Lời bình: Nguyễn Hữu Chỉnh muốn đánh chúa
Trịnh lâu rồi nhưng chưa có thế và lực. Nay nhân cơ
hội dựa được vào thế và lực của nhà Tây Sơn mà
đánh Trịnh thì thật là thuận lợi đôi đường.
Nguyễn Huệ chí lớn, muốn nhân cơ hội đà thắng
này đánh luôn ra Bắc để mở rộng vùng ảnh hưởng ra
khỏi vòng của anh mình là Nguyễn Nhạc nên cũng
thuận lòng.
Nguyễn Huệ đánh ra bắc dẹp Trịnh, được vua Lê
Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho làm phò mã.
696 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Sau Lê Hiển Tông mất, vua mới Lê Chiêu Thống lên
ngôi. Nguyễn Huệ đưa vợ và con vào nam giải quyết
mâu thuẫn với Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc thua trận xin em vùng đất Quy Nhơn
để ở. Thì ở bắc triều Lê Chiêu Thống đã cầu khẩn nhà
Mãn Thanh đánh nhà Tây Sơn. 29 vạn quân Thanh đã
tiến vào Thăng Long.
Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung
Hoàng Đế thần tốc hành quân ra bắc đánh giặc xâm
lăng Mãn Thanh.
Bình định xong đất nước Quang Trung muốn nhân
cơ hội này đánh Mãn Thanh để đòi lại Quảng Đông và
Quảng Tây vốn là đất cũ của vua Hùng thì chết đột
ngột.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 697


162. Bí ẩn về cái chết Vua Quang Trung

Sau 20 năm liên tục chinh chiến và 3 năm trị quốc,


khi tình hình đất nước bắt đầu có chuyển biến tốt thì
Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi 39 (1792). Đặt
ra rất nhiều nghi vấn đối với các nhà sử học cũng
như toàn bộ người dân Việt thời bấy giờ...
Nghi vấn 01: Theo Chính Sử nhà Nguyễn thì vua
Quang Trung bị ông già đầu bạc trong mơ đánh
vào đầu lâm bệnh và lo âu vì quân Nguyễn Ánh
đánh chiếm miền nam mà mất.
Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử ký "Ðại
Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30 trang 42, các
sử quan triều Nguyễn ghi như sau:
"...Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi, bỗng
xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên
trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng:
Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân
của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?
Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man
ngã xuống, bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy
nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thư Trần Văn
Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ
Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó.
Thương nghị chưa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được
Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh,
thanh thế chấn động.
Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày càng
kịch liệt..."

698 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu
được ý chính của các sử quan triều Nguyễn, họ muốn
dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang
Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng
minh rằng vua Tây Sơn là người: “Vô đạo và tàn
bạo”. Chiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng
tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa Nguyễn
trừng phạt (Sử luôn được viết bởi kẻ chiến thắng
mà!)
“Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo
lắng thêm việc con cháu Chúa Nguyễn đang chiến
thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía
Nam... và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do
đó, bệnh tình nhà vua ngày một nặng thêm rồi chết”.
Hai lý do trên ghi trong sử nhà Nguyễn, vậy chúng
ta hãy bàn thêm nhé...
Dầu có nói gì chăng nữa, họ (sử gia nhà Nguyễn)
cũng không thể che giấu hành vi trả thù, bằng cách
hạ bệ, hạ uy tín, lấy tâm linh để gán ghép tội cho một
triều đại từng làm cho họ “thất điên bát đảo, sống
trong tan tác, cơ đồ gần như hủy diệt”. Và ẩn ý ca
ngợi thành tích chiến thắng trên chiến trường của
vua Nguyễn Ánh đã khiến cho vua Quang Trung phải
mất ăn mất ngủ mà chết.
Sách "Ðại Nam Thực Lục Chính Biên", là bộ sách sử
tuy được cả triều Nguyễn ca tụng, nhưng trong phần
"Ðệ Nhất Kỷ" có chép rằng:
"Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm
thổi, Nguyễn vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương
cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 699


Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở của Thị Nại
(Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh
có ý định chiếm Phan Rang, Phan Rí... nhưng cuối
cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút
quân về lại Gia Ðịnh".
Như vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trước,
Nguyễn Ánh đã không thể có mặt trên đất miền
Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều
đại Tây Sơn vẫn còn cai quản phần đất từ Gia Ðịnh
trở ra Bắc. Chính lúc bình yên trên phần đất cai quản
rộng lớn của mình như thế này, vua Quang Trung bị
bệnh, rồi sau đó băng hà. Thì chắc chắn rằng không
phải do lo lắng vì tình hình quân sự mà mất.
Tôi xin có đôi điều kết luận cho nghi vấn 01 này:
Về tính chất huyền thoại huyễn hoặc mơ hồ như:
“bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để phải lâm
bệnh” rất không thuyết phục. Nếu Quang Trung có
bịnh đánh thật và bị ông tiên mắng thật thì Quang
Trung cũng không kể cho ai đâu. Không biết các nhà
Sử học triều Nguyễn làm sao cách xa ngàn dặm từ
Gia Định bay đến được Thọ Xuân bay luôn vào tâm
của vua Quang Trung mà đọc được những lời nói
này...
Lý do “do lo âu vì bị mất đất và bị thua trên chiến
trường miền nam” cũng không thuyết phục vì lúc này
đây Quang Trung đang có toàn bộ đất nước, chỉ có
mỗi Gia Định là của Nguyễn Ánh thôi, làm sao mà
phải lo âu!

700 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Nhưng đó là Lịch Sử chép vậy, tôi cũng chỉ căn cứ
vào đó để trình bày như vậy. Còn suy luận của tôi chỉ
để tham khảo mà thôi.
Theo suy nghĩ cá nhân tôi thì chắc chắn Vua
Quang Trung bị bệnh mà mất. Nhưng đối với cái chết
bình thường, không phải do tự tử, không phải do tai
nạn, không phải bị ám sát hay bị giặc giết... thì ai
cũng đều mang bệnh mà chết cả.
Nghi vấn 02: Theo Chính Sử Trung Quốc thì vua
Quang Trung bị ông già đầu bạc trong mơ đánh
vào đầu lâm bệnh và lo âu vì quân Nguyễn Ánh
đánh chiếm miền nam mà mất.
Trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn
Lục" (Sử Trung Quốc) chép rằng:
"Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793),
Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam
quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh.... Càn Long,
giật mình rồi như đang suy nghiệm một điều gì có thể
đúng với dự tính trước đó của Vua... ?”
Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một
truyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua Quang
Trung? Theo Càn Long phải sớm hơn mới đúng... (vì
theo sử chép thì khoảng sáu tháng sau ngày vua
Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc
kinh, trước lúc đó Vũ Văn Dũng đã được tin mật và
vị trưởng đoàn sứ thần này xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền
gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân ngay.
Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ
(Tập san sử địa số 9, Sài Gòn 1968, trang 154):

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 701


Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa
năm sau nhà Mãn Thanh mới biết và cho người sang
viếng tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách
Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng triều
Phú Xuân muốn làm vậy. Trong sách Tàu: "Ðông Hoa
Toàn Lục", quyển 117, trang 5s, đã ghi lại ý trách
móc của Càn Long đã làm lộ ra thâm ý của nhà Tây
Sơn:
"An Nam Quốc Vương Quang Trung đã mất ở Nghệ
An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở
trách người đưa tin như thế là quá chậm, chắc bây
giờ đã tống táng rồi".
Có điểm đặc biệt là Quang Trung mất ở Phú Xuân
mà sử Tàu lại ghi là ở Nghệ An, chắc chắn do nhà Tây
Sơn muốn vậy. Mặt khác, Tây Sơn còn cho làm mộ
giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn Thanh
sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú
Xuân, triều thần Tây Sơn nhất định không cho, còn
tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận Sơn
Tây, khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới
chịu dẫn họ trở lại, nhưng chỉ dừng ở Thăng Long
mà thôi.
Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí
ẩn, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem
xét... Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào
Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần
đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung
giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý do không được
trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa
cho sứ sang nước ta làm lễ phong vương, đều thực
hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các vua Trung
702 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu
tang.
Tại sao vua Quang Trung luôn cho người giả mình
để tiếp xúc với nhà Thanh?
Tại sao lại báo tin chậm tới 6 tháng?
Tại sao lại lại cố ý báo sai địa điểm mất của Vua?
Tại sao triều thần Tây Sơn không cho Thành Lâm
vào Phú Xuân?
Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có vua Quang
Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay,
theo tôi suy đoán rằng: “Khi vua Quang Trung mất
nhà Tây Sơn vô cùng bối rối như rắn mất đầu sợ rằng
lúc rối ren này báo tin cho Càn Long sẽ gặp họa nhiều
hơn phúc. Ngoài ra Triều thần Tây Sơn sợ các thầy
địa lý Tàu ếm bùa ngãi, trấn ếm... lung tung abcd... nơi
mộ vua Quang Trung. Nên mới có cách hành xử như
vậy”.
Triều thần Tây Sơn thật ra là vô cùng lo sợ sự dấy
binh trả thù của Mãn Thanh nếu tin vua Quang
Trung mất truyền đến tai Càn Long sớm.
Nhớ lại chiến công hào hùng oanh liệt của Quang
Trung trước 29 vạn quân Mãn Thanh, Việt Nam ta
vui mừng khôn xiết bao nhiêu. Thì phía sau chiến
tuyến, tâm lý của Mãn Thanh, mang tiếng là đất
nước hùng cường với dân số và diện tích gấp vài
chục lần An Nam mà thua thì thật là nhục nhã tủi hổ.
Nhớ lại thời gian ấy... cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị
ngày nào cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long
vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng được liên tiếp tổ chức,
ba quân luôn được cất nhắc thăng thưởng (tăng
Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 703
thêm một tháng lương cho đội quân viễn chinh dùng
để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày
mồng 5 Tết làm ngày "Hội mừng công, bình định
đương An Nam", các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn
nhân, quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh)
cùng nhau xướng họa, bình phẩm, gọi là chúc mừng
thọ nhân buổi đầu năm lên Vua. Thực ra, đây là việc
mừng chiến thắng bình định phương Nam. Nhưng,
ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không
có thắng lợi, mà ngược lại đã bị vua Quang Trung
xóa sổ 29 vạn quân xâm lược tinh nhuệ ngay trên
đất Thăng Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại
nước mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 người mà đa số là
tàn binh! Thật đột ngột, thật bất ngờ và cũng thật
đau đớn đối với toàn triều Mãn Thanh...
Lúc này đây (1792) Tướng Mãn Thanh là Phúc
Khang An làm lưỡng Quảng Tổng Ðốc, đang đóng 50
vạn quân ở biên giới tiếp giáp với Việt Nam ta. Vậy
mà vua Quang Trung lại băng hà, làm sao Triều thần
Tây Sơn không lo lắng được!
Sứ Thanh - Thành Lâm, trong chuyến sang nước
Nam phong vương, vua Càn Long có gửi tặng vua
Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu
“thất đại tự” là 7 chữ như sau:
"Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử"
Lúc đó không ai có thể hiểu được nội dung "thất
đại tự" thêu trong chiếc áo, mang ý gì...
Năm 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà, Càn
Long lại làm thêm một bài thơ viếng tang có nhắc lại
“thất đại tự” ở câu thứ 7 trong bài thơ:

704 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


"Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật"
(dịch ý: 7 chữ không dứt được niềm xót xa của
Trẫm)
Trong bài thơ còn có câu thơ vô cùng ẩn ý:
"Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân"
(Dịch ý: Hoài nghi và đáng cười việc triều trước
bắt phải làm việc cống người vàng để thay thế).
Tại sao vua Càn Long đòi phải gặp cho bằng được
Quang Trung? (vua Quang Trung đã khôn khéo cho
người cải trang mình để gặp Càn Long).
Tại sao vua Càn Long lại cho người vẽ chân dung
Quang Trung (giả) khi đang ở Tàu? Có khi nào Càn
Long hâm mộ quá nên làm vậy không?
Vua Quang Trung (giả) sau khi tặng tranh chân
dung cho Càn Long có xin Càn Long 1 bức tranh chân
dung vua Càn Long thì không được chấp thuận? Như
thế có phải là có qua mà không có lại và hơi bất bình
thường không?
Nếu một cái áo bình thường Càn Long sai thợ làm
và tặng cho Quang Trung thì những lời ghi tặng “hoa,
lá, cành” ngoại giao của “Thất Đại Tự” đó, có khiến
Càn Long nhớ như in trong đầu đến mấy năm sau
không?
Tại sao Càn Long lại xót xa “thất đại tự” mà toàn
bộ triều thần Tây Sơn không thể giải nghĩa được
“thất đại tự” là gì? Có khi nào “thất đại tự” ám chỉ
vua Quang Trung và cái chết của ông được báo trước
không?

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 705


Trong bài thơ viếng tang của Càn Long còn nhắc
đến tích khi Lê Lợi thắng nhà Minh nhưng vẫn mang
chiếu xin giảng hòa và xin cống nạp vật phẩm hàng
năm cho Trung Quốc. Khi đó, vua Minh đòi cống nạp
“người vàng”. Nhưng nay Càn Long cười vì truyện
tích này. Thâm ý của Càn Long trong câu thơ trên
theo tôi giải thích sẽ là: “Nghĩ ngày xưa, thật đáng
cười việc triều trước chỉ đòi cống người vàng. Ta đây,
lúc này đây đã lấy được người thật rồi thì cần gì
người vàng để thay thế nữa”
Trên thực tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện
tiền bạc cho sự bang giao giữa hai nước, mà ngôn từ
ngày nay gọi là: “đồng ý ký hiệp ước hòa bình vô điều
kiện”, mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi
khoản tiếp đón đoàn sứ thần nước Nam cả chuyến đi
lẫn chuyến về. Đằng sau bộ mặt dễ thương đầy vẻ
hiếu hòa kia, sẽ có một âm mưu gì thật đáng sợ?
Mùa Thu 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà,
triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá ra được ý
nghĩa của “thất đại tự" kim tuyến thêu trong chiếc áo
kia! Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa
Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: “Vua
Nguyễn Huệ chết vào năm Tý”. Vì chữ "Xa" và chữ
"Tâm" đem ghép lại là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là
“gãy trục”; “Đa Điền” là nhiều ruộng vườn ý là “Vua”;
"Thử" là chuột và là "Tý".
Nếu giải nghĩa “thất đại tự” đúng thật như vậy thì
sẽ có 3 nghi vấn sau đây:
1 - Có thể là Càn Long đã đoán được số mạng của
vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Và dùng lối
chơi chữ để đùa hay để đố trí tuệ người nước Nam.
706 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Càn Long là một vị vua giỏi nhất, thông minh nhất
của triều đại Mãn Thanh vậy nên Tử Vi, thuật số,
bấm độn, tính quẻ của ông ắt cũng phải hàng
“Thượng Thừa”. Rất có thể Càn Long đã tính trước
được cái chết của vua Quang Trung.
2 - Có thể là Chính Càn Long là người có âm mưu
giết vua Quang Trung, và đã dùng thuật số, ếm, bùa
ngải, âm binh, tà ma... hoặc gài thuốc độc vào chiếc
áo này để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ chết vào
năm Tý.
3 - Có thể là Càn Long bằng cách nào đó đã lấy
được chân dung thật của vua Quang Trung (đối với
vua Càn Long thì việc này cũng đơn giản thôi, muốn
là được) và đã dùng tà ma, dị thuật ếm vào chân
dung vua Quang Trung dẫn đến cái chết bất ngờ.
Cho đến hôm nay, đối với việc ra đi của vua Quang
Trung vẫn còn là truyện bí mật, chưa một ai có thể
giải đáp được những câu hỏi: "Tại sao nhà vua lại
chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (39 tuổi), đất
nước vừa bước vào thời bình thịnh trị được 3 năm.
Nhà vua chết vì bệnh, vì lo lắng buồn phiền, bì bị ông
tiên đánh vào đầu? Hay chết vì bị đầu độc, bị ếm bùa
ngãi, âm binh... của Càn Long? Hay chết vì những
hoạt động tình báo mưu hại của kẻ thù? (kẻ thù của
vua Quang Trung thì nhiều lắm: con cháu nhà Lê,
Trịnh, Nguyễn Ánh, Mãn Thanh, Nguyễn Nhạc...)
Chúng ta có đôi điều kết luận như sau:
Đối với Lịch Sử thì: Sử luôn được chép bởi kẻ
thắng trận, mang tâm lý và tình cảm của bên thắng.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 707


Đối với đất nước thì: Không có kẻ thù nào là vĩnh
viễn, không có bạn bè nào là vĩnh viễn, chỉ có lợi ích
quốc gia là vĩnh viễn.
Trong chiến tranh thì: Không có người quân tử,
không có kẻ tiểu nhân mà chỉ có kẻ thắng và người
bại.
(Tham khảo từ: “Bí mật quanh cái chết của vua
Quang Trung” Địa chí lịch sử Bình Định. Lê Văn
Quý (2001)
Lời bình: Một con người ngay từ khi sinh ra đã bị
ấn định cho cái gọi là “Số mạng”. và một cái tính cách
gọi là “Trời sinh”.
Trong Đạo Phật có thuyết Duyên Khởi: từ Vô Minh
(các lỗi lầm trong tâm như: tham, sân, si, mạn, nghi,
ích kỷ, tham dục...) sinh ra Hành Ấm (các hành động
sai lầm lặp đi lặp lại) và tạo Nghiệp (đây là Vô Minh
sinh Hành). Nghiệp ích tụ nhiều dần cao như núi gọi
là Nghiệp Thức (đây là Hành sinh Thức). Nghiệp này
sẽ sinh ra các sắc: thân xác, khổ vui, giàu nghèo, khỏe
hay bệnh, thông minh hay kém trí tuệ và một số mạng
(đây là Thức sinh Sắc). Một con người sinh ra đã có
các Sắc (số mệnh, thân xác, giàu nghèo...) do Nghiệp
Thức sinh ra và một bản tính do Hành Ấm sinh ra
(hành là hành động theo thói quen từ nhiều kiếp)
Nên một người sinh ra vào gia đình giàu hay
nghèo, bố mẹ có đức hay thất đức, ở nước hòa bình
hay chiến tranh đều là Phúc đã có ngay từ khi sinh ra.
Cái Phúc sẽ bị mất dần. Ví như ta có thùng gạo to
mỗi ngày ăn một ít rồi cũng hết. Nhưng nếu ta chăm

708 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


làm Thiện sẽ tạo ra Phúc mới, ví như tạo ra thêm lúa
mới để bù vào thùng gạo thì nó sẽ đầy thêm.
Các vua thời suy loạn đa phần ăn chơi vô độ,
hưởng khoái lạc, dục lạc tột cùng... phá tiêu cái Phúc
của vua. Mà Vua không có Đức để tạo Phúc bù lại.
Rồi một người sinh ra đã có tính nết ấn định cho
họ: tham ăn, tham chơi, cục cằn thô lỗ, hay hiền lành,
quan tâm người khác đều là tính cách cố hữu do
Hành sinh ra. Tính cách tốt hay xấu khiến cho người
có hành động tốt xấu sẽ tạo Phúc hay tội và làm thành
Số Mệnh vậy.
Một số vị Sư biết rõ điều này nên để Giải nghiệp
nhất thời các vị thường khuyên làm Công Đức lớn
như phóng sinh, xây trường, đắp đường, làm cầu, đắp
đê, in kinh, ấn tống, cúng dường tăng ni... Nhưng bản
chất của Tâm không thay đổi thì Số mạng cũng chỉ
lệch quỹ đạo một chút rồi lại đi theo quỹ đạo.
Còn các thầy Phong Thủy khuyên mua đồ phong
thủy, chỉnh cửa, xoay hướng bàn... đa phần thất bại vì
Phúc không đổi thì Số mạng không đổi.
Chúng ta hãy quay lại vấn đề Vua Quang Trung.
Vua được sinh ra với Số mạng của vị thiên tướng
đánh giặc và thống nhất đất nước. Với tài năng, tính
cách, ý chí đã quy định như vậy và ngài thực hiện
đúng như vậy. Công đức của ngài giúp dân Đại Việt có
thể đoán biết. Nên vị thầy Huyền Môn giỏi có thể đoán
chính xác thời điểm ngài băng hà (nhất là trong thời
gian phỏng đoán rất gần 2-3 năm lại là Định nghiệp
không thể thay đổi).

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 709


Và tôi xin phép đoán là Vua Càn Long đã biết trước
thời điểm Quang Trung chết, nên cho thêu “Thất Đại
Tự” sau áo vua để thử tài người nước Nam. Vì nếu
muốn hại vua Quang Trung thì Càn Long chỉ cần bôi
độc vào áo và càng bí mật càng tốt. Chứ không ai âm
mưu giết người mà lại khoe mẽ như vậy lỡ nước Nam
có người giỏi giải được độc thì sao?

710 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


163. Bùi thị Xuân (1771-1802) nữ Tướng giết hổ

Có lẽ từ thời Hai Bà Trưng, thì phải rất lâu sau đó


mới xuất hiện một cặp vợ chồng mà cả hai đều là võ
tướng nổi danh. Đó chính là cặp vợ chồng Trần
Quang Diệu và Bùi Thị Xuân.
Trần Quang Diệu là một trong "Tây Sơn thất hổ
tướng". Ông vốn tên là Trần Văn Đạt, người Diên
Phước, tỉnh Quảng Nam. Vốn giỏi võ từ nhỏ, lại thêm
mến mộ danh tiếng Quang Trung nên ông đã gia
nhập quân Tây Sơn.
Chẳng bao lâu, ông đã trở thành một vị mãnh
tướng lập nhiều chiến công, rồi lần lượt giữ các
chức: Đô đốc, Đại Đô đốc, Đại Tổng quản, Trấn thủ
Nghệ An, Thiếu phó.
Khi Quang Trung mất, Quang Toản lên thay, Trần
Quang Diệu cùng với Nguyễn Văn Huấn, Võ Văn
Dũng, Nguyễn Văn Danh trở thành tứ trụ đại thần,
cùng nhau gánh đỡ vương triều Tây Sơn bắt đầu suy
yếu.
Bùi Thị Xuân là cháu vợ Quang Trung, từ nhỏ bà
đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, ham thích võ
nghệ không kém gì con trai. Trước khi gia nhập quân
Tây Sơn, bà đã tự phong là "Tây Sơn nữ tướng".
Sau này, bà hội kiến với Quang Trung, Quang
Trung cũng công nhận bà xứng đáng với danh hiệu
này và ban tặng thêm 4 chữ "Cân quắc anh hùng". Bà
nổi tiếng với việc huấn luyện đội nữ binh và sử dụng
voi chiến. Người đời phong bà là một trong "Tây Sơn
ngũ phụng thư".

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 711


Bùi Thị Xuân là cô gái xinh đẹp, nhưng lại rất cá
tính, không giống với hình tượng "thục nữ" của thời
phong kiến. Vịnh về bà, cụ Nghè Trì có viết:
"Hoàng hôn thành dốc bi già động
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều".
Tuy rằng cũng có nhiều người dạm hỏi, nhưng Bùi
Thị Xuân vẫn không vừa mắt, bà thường vặn hỏi
người ta về văn, về võ, khiến kẻ đến thấy bí mà xấu
hổ, phải từ bỏ ý định.
Vì vậy, hơn 20 tuổi mà người con gái này vẫn
chưa có chồng, trong khi thời đó, con gái 17, 18 tuổi
đều đã thành gia thất, thậm chí có con bồng con bế
cả rồi. Khi cha mẹ tỏ ý lo ngại, thì Trần Thị Xuân đã
cười mà trả lời đầy khí phách rằng:
- Bà Trưng có chồng chứ Bà Triệu có chồng đâu,
nào ai dám cười chê!
Một trong những sở thích của Bùi Thị Xuân chính
là săn bắn. Một lần, khi bà đi săn thì thấy một chàng
trai đang vật nhau với một con hổ. Người kia đã bị
thương, đối phó với con hổ có phần khó khăn. Thấy
vậy, Bùi Thị Xuân liền rút kiếm, xông tới chém chết
thú dữ.
Trong lúc băng bó, bà mới biết người con trai đó
tên là Trần Quang Diệu, đang trên đường gia nhập
quân Tây Sơn. Trần Quang Diệu thì khôi ngô. Bùi Thị
Xuân thì xinh đẹp. Hai người có thiện cảm với nhau
ngay từ những giây phút đầu gặp gỡ.
Thế rồi khi cùng nhau kề vai chiến đấu dưới lá cờ
Tây Sơn, tình cảm giữa hai người càng thêm tiến
triển. Thấy vậy, đích thân anh em nhà Tây Sơn đứng
712 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
ra mai mối, giúp cặp đôi trai tài gái sắc kết lương
duyên.
Tuy rằng cuộc đời hai vợ chồng Bùi Thị Xuân đã
có những tháng ngày oanh liệt gắn liền với Tây Sơn,
nhưng rồi khi vua Quang Trung mất thì Tây Sơn
cũng bắt đầu suy yếu, đến khi vương triều này sụp
đổ, hai vợ chồng phải chịu một cái kết rất bi thảm.
Sử cũ chép rằng: Sau khi quân Tây Sơn bị đánh
bại, Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng đem 3000
quân cùng 80 thớt voi, theo đường sạn dạo sang Lào
để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm
Tuất (1802).
Đường đi khó khăn, Lam Sơn chướng khí đầy rẫy,
khiến cho đoàn quân càng ngày càng hao hut, khi
đến được Nghệ An thì đoàn quân mười phần giảm
còn ba, bốn phần, tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tại
Hương Sơn, hai ông Diệu và Dũng đều bị tướng nhà
Nguyễn là Võ Văn Doãn và Lê Đức Định bắt sống.
Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân hay hung tin liền đem
nữ binh đi giải cứu. Tuy rằng cứu được, nhưng rồi
khi chạy đến Thành Chương thì hai vợ chồng bị bắt
trở lại. Sau đó, Võ Văn Dũng cũng bị bắt, ba người bị
đóng cũi giải về Nghệ An.
Dọc đường, Võ Văn Dũng phá cũi thoát được, ông
cũng giải cứu cho hai vợ chồng Trần, Bùi, nhưng hai
chân của Trần Quang Diệu bị sưng phù, không thể
chạy được. Bùi Thị Xuân quyết ở lại cùng chồng.
Cuối cùng, trong cuộc trả thù của Nguyễn Ánh,
Trần Quang Diệu đã bị chém chết. Bùi Thị Xuân cùng

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 713


đứa con gái độc nhất 15 tuổi bị xử voi giày năm
1802.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013, tr. 93,94)
Lời bình: Có những người nữ Tướng Anh Hùng mà
đấng nam nhi phải nể sợ.
Hai Bà Trưng đại phá Giao Châu (Đại Việt) đánh
quá sang cả đất nhà Hán chiếm được 65 thành lũy
của giặc bao gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây của
Trung Quốc (vẫn thuộc đất của tộc Bách Việt khi xưa
phía nam sông Dương Tử).
Trong lịch sử đánh giặc ngoại xâm Đại Việt ta từ
xưa đến nay không ai làm được chiến công này. Khiến
cho Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng phải
dựng một cột đồng để đánh dấu mốc giới giữa Giao
Châu (Đại Việt) và nhà Hán. Nếu Đại Việt có khởi
nghĩa đòi đất chỉ đòi trong phần đất của mình thôi.
Ở đây, Bùi Thị Xuân cưỡi voi đánh giặc oai hùng nữ
tướng đâu có kém gì Hai Bà Trưng. Nhưng vận số của
nhà Tây Sơn là vậy. Nghĩa vụ cao cả nhất mà đời đời
dân tộc Việt nhớ đến nhà Tây Sơn là thống nhất Nam
Bắc triều kết thúc giai đoạn sông Gianh bến Hải cắt
đôi miền đất nước 265 năm và đánh bại hai đại quân
xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh. Đến nay đã thành
tựu viên mãn và ở giai đoạn kết thúc cũng có đôi điều
thương cảm.

714 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


164. Hai nữ tướng dân tộc nhà Tây Sơn (1771)

Ngay từ khi anh em Nguyễn Nhạc phất ngọn cờ


đào Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa vào năm Tân Mão
(1771), dần dần lực lượng này ngày càng lớn mạnh,
có sự tham gia của đông đảo dân chúng.
Trong hàng ngũ nghĩa quân không chỉ có người
Kinh mà còn có người Chăm, các sắc dân người
Thượng …, đặc biệt có hai nữ tướng người thiểu số
đã có nhiều đóng góp cho anh em Tây Sơn trong thời
kỳ dựng nghiệp.
Nữ tướng hậu cần trở thành vợ "người Trời"
Từ trước khi phất cờ khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã
nhiều lần đến các vùng đất của Tây Nguyên, danh
nghĩa để buôn trầu, mua gỗ, mua ngựa… nhưng thực
ra là tìm cách kết thân với nhiều cộng đồng dân tộc ở
đây trong đó có người Bana, vận động họ tham gia
ủng hộ mình.
Với sự khôn khéo và chính sách thân thiện,
Nguyễn Nhạc và những người em của mình đã chiếm
được tình cảm quý mến của người dân Tây Nguyên,
họ gọi ông là Tơ Mo Bok (có nghĩa là người Trời, vua
Trời). Thậm chí một tù trưởng đã gả con gái tên là
Ya Dố cho ông làm vợ
Ya Dố (có sách chép là Yă Đố) con gái một vị tộc
trưởng người dân tộc Bana ở plây (làng) Đê H’Mâu
thuộc khu vực rừng núi Mộ Điểu (nay thuộc xã Đông,
huyện Kbang, tỉnh Gia Lai) là một thiếu nữ trẻ tuổi,
xinh đẹp, nhưng có tài tổ chức thạo việc làm ruộng
rẫy và có uy tín với dân chúng nhiều buôn làng.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 715


Người vợ Bana này đã đóng góp công sức không
nhỏ cho nghĩa quân Tây Sơn thuở ban đầu, không
chỉ đưa anh em Nguyễn Nhạc đi kết giao với các tù
trưởng người Xê đăng, Gia Rai, H’rê… mà còn giúp
chiêu mộ quân lính thuộc các dân tộc Tây Nguyên.
Từ đó, gây dựng lực lượng lớn. Ngoài ra, bà còn tổ
chức một đội ngũ lao động vỡ đất, khai hoang ở
nhiều nơi để trồng khoai, bắp, mía, cam, mít… làm
lương thực nuôi quân trong những năm tháng hoạt
động ở địa bàn vùng thượng đạo nên Ya Dố được gọi
là Cô Hầu đốc tướng.
Đến nay dấu tích về những cánh đồng ấy vẫn còn
ở nhiều vùng, như tại khu rừng Mộ Điểu xưa, nay
thuộc làng Tú Thủy, xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh
Gia Lai vẫn được người dân gọi là "cánh đồng cô
Hầu" để ghi nhớ những đóng góp của bà. Đồng Giao
dân gian đến nay còn lưu truyền nhiều câu có nhắc
đến bà nữ tướng hậu cần của quân Tây Sơn, như
câu:
“Cánh đồng cô Hầu, Đàn trâu ông Nhạc.
Ngựa lạc vang lừng, Voi dừng Tượng Đẫm”.
Ghi nhận công trạng của Ya Dố, năm Mậu Tuất
(1778) sau khi lên ngôi hoàng đế và lấy niên hiệu là
Thái Đức, Nguyễn Nhạc đã phong cô Hầu làm Thứ
phi.
Mặc dù được sủng ái, được Chánh cung hoàng hậu
Trần Thị Huệ đối đãi thân tình như chị em ruột thịt
nhưng cuộc sống chốn cung cấm với nghi lễ ràng
buộc không phù hợp nên cô Hầu xin trở về với núi

716 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


rừng yêu dấu của mình. Trước khi ra đi, bà có nói
với hoàng hậu rằng:
- Chị ở lại bên cạnh người Trời (Nguyễn Nhạc),
em phải về rừng để phòng hậu sự sau này.
Và quả nhiên như dự đoán của cô Hầu, sau khi vua
Quang Trung mất, rồi không lâu thì vua Thái Đức
(Nguyễn Nhạc) qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào mâu
thuẫn nội bộ, suy yếu rồi bị đánh bại. Để tránh nạn,
hoàng hậu Trần Thị Huệ đã đem hai con và cháu nội
chạy lên vùng An Khê nương tựa vào cô Hầu.
Ở vùng rừng núi, tuy điều kiện khó khăn nhưng
được sự đùm bọc, bảo vệ của đồng bào dân tộc nơi
đây nên dù nhà Nguyễn đã nhiều lần cho quân lùng
bắt, truy tìm nhưng đều không thành công, nhờ đó
mà hai bà hoàng của vua Nguyễn Nhạc sống yên ổn
cho đến cuối đời, rồi mất trên đất Tây Nguyên. Họ
chính là những người phụ nữ hiếm hoi của nhà Tây
Sơn không phải chịu cảnh trả thù khốc liệt.
Sau khi cô Hầu mất, người Bana ở địa phương, khi
tổ chức lễ hội; già làng đọc lời khấn mời Trời và các
vị thần linh (thần núi, thần sông…) cũng có lời khấn
cầu về sự linh thiêng của cô Hầu.
Bà chúa Hỏa, anh dũng hi sinh nơi trận tiền
Bà chúa Hỏa hay còn gọi là Bà Hỏa, nữ chúa Thị
Hỏa là thủ lĩnh của người Chăm quản lĩnh một vùng
đất rộng lớn mà sử sách xưa thường gọi là "nước
Hỏa Xá". Địa bàn của bà chúa Hỏa trải rộng khắp khu
vực miền núi ngày nay thuộc phía tây nam Phú Yên
kéo dài đến Cheo- reo (Kon Tum).

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 717


Trong quá trình tập hợp, xây dựng lực lượng, anh
em Nguyễn Nhạc đã tìm đến bắt liên lạc, kết thân với
Bà chúa Hỏa. Một điều cũng nên biết, đó là Nguyễn
Lữ, người thứ ba trong "Tây Sơn tam kiệt" có mối
quan hệ đặc biệt với bà chúa Hỏa.
Tương truyền, Nguyễn Lữ là người tu theo Minh
giáo (còn gọi là đạo Ma-ní), thờ thần lửa và dùng bùa
phép để chữa bệnh, trừ tà; đây là đạo khá thịnh hành
ở vùng Tây Sơn thượng đạo và khu vực cao nguyên
thuở xưa.
Là đệ tử của bà chúa Hỏa nên các dân tộc quanh
vùng rất kính trọng Nguyễn Lữ, còn người Kinh thì
gọi ông là thầy tư Lữ (thầy là thầy tu, còn tư là vì ông
là con thứ ba trong nhà). Có thơ rằng:
“Phía Tây dân Thượng hiền hòa,
Kết minh cùng họ coi là bình phong”.
Chính nhờ mối quan hệ đó và việc khôn khéo
trong vận động mà các các bộ lạc thuộc Hỏa Xá đã
tham gia tích cực và trở thành lực lượng quan trọng
của nghĩa quân Tây Sơn trong những ngày đầu, bởi
vậy dân gian có câu ca rằng:
“Thượng du lớn nhỏ đồng tình,
Theo ông Hai Nhạc luyện binh tháng ngày.
Lập đoàn cung thủ rất hay,
Đến khi lâm trận sau này ra oai”.
Một bộ phận người Chăm tại trấn Thuận Thành
(nay thuộc tỉnh Bình Thuận) do Kế Pù Tá đứng đầu
ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn từ rất sớm
thì ở một địa bàn khác là động Thạch Thành (nay

718 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


thuộc huyện Sơn Hòa và Sơn Thành, tỉnh Phú Yên)
bà chúa Hỏa cũng đem toàn bộ lực lượng của mình
gia nhập nghĩa quân khi anh em Tây Sơn phất cờ
khởi nghĩa.
Nhờ được sự hỗ trợ của bà chúa Hỏa, năm Qúy Tị
(1773) quân Tây Sơn đã đánh chiếm được Phú Yên
tạo thế ỷ dốc làm bàn đạp mở rộng địa bàn kiểm soát
ra các phủ Bình Khang, Diên Khánh, Bình Thuận.
Sau thắng lợi này, Nguyễn Nhạc phục hồi danh vị
Phiên Vương cho bà chúa Hỏa và giao cho bà nhiệm
vụ trấn giữ động Thạch Thành, bảo vệ vùng Tây Nam
Phú Yên, đề phòng sự phản công của chúa Nguyễn từ
mặt nam.
Mùa hè Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai danh
tướng Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (nay
thuộc Nha Trang) đánh chiếm Bình Thuận, Diên
Khánh, Bình Khang. Quân Tây Sơn yếu thế phải lui
về giữ Phú Yên.
Sau khi chiếm Diên Khánh, tháng 5 năm Ất Mùi
(1775), Tống Phúc Hiệp đem 2 vạn quân chia làm
hai đường thủy bộ tiến đánh Phú Yên. Biết không thể
hạ thành Phú Yên nếu không diệt được căn cứ Thạch
Thành, bởi vậy Tống Phúc Hiệp trực tiếp chỉ huy
quân vượt đèo Tam Độc đánh thẳng vào đội quân
của bà chúa Hỏa.
Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng do lực
lượng chênh lệch nên quân của bà chúa Hỏa dù có
tượng binh và kỵ binh nhưng không cản được bước
tiến của quân Nguyễn. Trong trận chiến này, bà chúa

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 719


Hỏa đã tử trận, quân Nguyễn thừa thắng tiến ào ạt,
quân Tây Sơn lui về giữ La Thai và đèo Cù Mông.
Nhắc đến vai trò của bà chúa Hỏa đối với phong
trào Tây Sơn và sự hi sinh của bà, truyền tụng trong
dân gian Phú Yên có câu ca như sau:
“Thạch Thành voi ngựa kéo ra,
Eo Gió kéo xuống quân đà hội quân.
Chúa Chàm Thị Hỏa chí nhân,
Giúp ông Hai Nhạc định phần Phú Yên.
La Thai quyết chí đôi bên,
Phúc Hiệp trúng kế chạy liền vô Nam.
Sa trường gươm giáo ngổn ngang,
Thây phơi thành lũy máu loang gò đồi.
Giữa vòng đạn lạc, tên rơi,
Xót thương nữ chúa vội rời ba quân”.
Tháng 7 năm Ất Mùi (1775), Nguyễn Nhạc sai em
là Nguyễn Huệ bất ngờ đem quân từ Quy Nhơn vào
đánh úp tiêu diệt cả quân thủy và quân bộ của Tống
Phúc Hiệp. Viên tướng này phải rút chạy về giữ Vân
Phong (còn có tên là Hòn Khói); đất Phú Yên lại
thuộc quyền cai quản của quân Tây Sơn.
Không rõ sau này, khi lập ra triều đại mới, anh em
Nguyễn Nhạc có ban sắc truy phong để ghi nhận
công lao của bà chúa Hỏa hay không, nhưng trong
dân gian, những lời ca, những câu chuyện truyền
tụng chính là tấm bia miệng truyền đời về một nữ
tướng người dân tộc trong đội quân Tây Sơn anh
dũng.

720 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


(Tham khảo từ: Ấp Tây Sơn (Nguyễn
Bích Ngọc) - NXB Văn hóa thông tin, 2008)
Lời bình: “Một tướng công thành vạn cốt khô”
thành công của một vị tướng hay vị vua khai quốc
luôn luôn được xây dựng trên xương máu của biết
bao nhiêu con người. Cũng thật buồn vì đây là nội
chiến nên toàn bộ xương máu đều là của người Việt.
Thế mới biết thời xưa, Trạng Trình đã nhìn thấy
các thế lực chính trị có sức mạnh tương đương, oai
thần như nhau mà lại ở gần nhau thì sẽ xảy ra nội
chiến tàn khốc và khổ cho dân Việt.
Ngài đã tư vấn cho nhà Mạc ở Cao Bằng (cách
Thăng Long 450km) chúa Nguyễn vào vùng Thuận
Quảng (cách Thăng Long 600 km) và chúa Trịnh phò
vua Lê ở Thăng Long sẽ được lòng dân và tồn tại
được hàng trăm năm (265 năm).
Chính với khoảng cách địa lý xa xôi như vậy khiến
cho cục diện chiến tranh nội bộ giảm bớt căng thẳng
và tang khốc.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 721


165. Công chúa Lê Ngọc Hân (1770 - 1799)

Bắc Cung Hoàng hậu, là một nhân vật lịch sử nổi


tiếng trong lịch sử Việt Nam thời thế kỉ 18. Bà là
công chúa nhà Hậu Lê, sau trở thành Hoàng hậu nhà
Tây Sơn với tư cách là vợ thứ của Quang Trung Đế
Nguyễn Huệ, một nhân vật quân sự nổi tiếng.
Cuộc đời bà thường được thêu dệt nên thành giai
thoại cuộc tình đẹp đẽ giữa bà với Nguyễn Huệ, vì bà
là công chúa một triều đại lớn suy thoái, lại kết hôn
với người đứng đầu Tây Sơn khi ấy đang đe dọa nền
chính trị của nhà Lê. Dân gian còn lưu truyền tên gọi
bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập
ở chùa Kim Tiên.
Năm 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài "phù
Lê diệt Trịnh". Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới
yết kiến Lê Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc
Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc
Hân vâng mệnh thành hôn cùng Nguyễn Huệ. Khi đó
bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi và đã có
chính thất là Phạm Thị Liên. Ít lâu sau, bà theo
Nguyễn Huệ về Thuận Hóa.
Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước
khi ra Bắc để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang
Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu.
Năm 1789 sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn
Huệ lại phong bà làm Bắc Cung hoàng hậu.
Sau khi Nguyễn Huệ đột ngột qua đời thì bà Lê
Ngọc Hân mất quyền lực, và bà đưa con ra khỏi cung
điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương
Xuân ở Huế) cạnh Đan Dương điện với danh nghĩa
722 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến năm 1799
thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch sử
Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Vào thời phong kiến thì được sinh làm
con trai là một đặc ân. Được kế nghiệp gia sản tổ tiên,
được thờ cúng tổ tiên, con sinh ra được mang họ của
mình. Con trai của vua sẽ được làm thái tử nối ngôi,
hoặc hoàng tử có vương quyền tài sản.
Làm thân con gái thật tủi nhục. Có con do mình đẻ
ra không được mang họ mình, gia sản không được
chia, tổ tiên không được thờ cúng. Lấy chồng theo
chồng về nhà chồng ở cùng bố mẹ chị em nhà chồng
và chịu biết bao nhiêu nỗi khổ “khác máu tanh lòng”.
Con gái vua cũng không ngoại lệ. Mang danh công
chúa mà không có thực quyền, không được chia tài
sản của vua. Và thường bị thành món đồ con tin giữa
các thế lực phong kiến muốn có những cam kết hòa
bình bằng sinh mạng con vua.
Công chúa Ngọc Hân ở đây cũng không ngoại lệ.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 723


166. Nguyễn Ánh, Vua Gia Long (1762 - 1820)

Gia Long (1762 - 1820), húy là Nguyễn Phúc Ánh,


thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh, là vị hoàng đế
đã sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1802
đến khi qua đời năm 1820, được truy tôn miếu hiệu
là Nguyễn Thế Tổ.
Nguyễn Ánh là cháu nội của Nguyễn Phúc Khoát,
một trong những vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng
Trong. Sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây
Sơn bắt giết năm 1777, ông trốn chạy và bắt đầu
cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục triều
đại.
Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện Xiêm La và
Pháp, ông đã giữ vững được Nam Hà và đến năm
1802 thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống
nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của Gia Long được đánh dấu bằng việc
chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với lãnh thổ
thống nhất rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ
biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan, gồm cả
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xóa bỏ các cải
cách mới mẻ của triều Tây Sơn và thay bằng chính
sách điều hành xã hội và nền giáo dục gắn chặt với
các giá trị Nho giáo truyền thống từ các triều đại
trước, và việc định đô tại Phú Xuân.
Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh
hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời
người Pháp giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn

724 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo
Công giáo tại Việt Nam.
Dưới sự cai trị của ông, Việt Nam trở thành một
thế lực quân sự mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La
phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp và Lào. Tuy
nhiên, ông không đưa ra những cải cách để thích ứng
với thời đại mới mà vẫn tiếp tục áp dụng nền cai trị
phong kiến truyền thống từ những triều đại trước,
khiến Việt Nam dần trở nên trì trệ, lạc hậu và bị đế
quốc Pháp xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.
(Tham khảo từ: Việt Nam sử lược (Trần
Trọng Kim) – NXB Đà Nẵng, 2003)
Lời bình: Nước Việt Nam ta trải qua 256 năm nội
chiến Trịnh Nguyễn dưới thời Lê Trung Hưng, đất
nước chia đôi sông Gianh bến Hải và 24 năm nhà Tây
Sơn chiến đấu đánh bại Trịnh, Nguyễn, Thanh, Xiêm
thống nhất trọn vẹn đất nước (Duy có phần cực nam
với diện tích nhỏ lúc bấy giờ Nguyễn Ánh đang
chiếm).
280 năm là một giai đoạn lịch sử dài của nội chiến
đất nước chia cắt. Nhưng cũng là một giai đoạn đất
nước Việt Nam được mở rộng chưa từng có trong lịch
sử cũng nhờ công ơn của 9 đời chúa Nguyễn đàng
trong.
Nhà Tây Sơn vận khí ngắn, yểu mệnh, vua chết trẻ,
kỷ cương chưa thuần, lòng dân chưa ổn. Chúa
Nguyễn Ánh nhân đà đó, đã xây dựng lực lượng dần
dần hùng mạnh hơn và đánh bại nhà Tây Sơn lập lên
nước Việt Nam. Đưa nước ta thành một nước hùng
mạnh có diện tích lớn hơn rất nhiều so với Lý, Trần,

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 725


Lê. Có tiềm lực về kinh tế, có vị thế chính trị lớn mạnh
hơn xưa.
Ai làm vua thì cũng vậy mà thôi. Nhà Tây Sơn hay
nhà Nguyễn miễn sao dân chúng được ấm no hạnh
phúc, kỷ cương phép nước được gìn giữ, đạo đức hiền
hòa thì đều là vua tốt, triều đình tốt cả.

726 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


167. Truyện tích về vua Gia Long (1762 - 1820)

Một hôm, Nguyễn Ánh hộ giá Duệ Tông đương đi


nửa đường, chợt nghe thấy có quân giặc đuổi theo.
Duệ Tông thấy nguy cấp lắm mới nhường con ngựa
cho ngài cưỡi giục ngài đi lên trước. Nguyễn Ánh bất
đắc dĩ phải nhận ngựa cưỡi đi lên phía trước. Đi một
lát lại dừng ngựa đợi. Khi Duệ Tông theo kịp thấy
ngài vẫn đứng đợi ở ven đường. Duệ Tông nói: “Cháu
ta có bụng tốt như vậy, giời thực chứng giám cho” .
Hôm khác, quân Tây Sơn vào cướp Sài Gòn, Duệ
Tông phải chạy đến Đăng Giang, Nguyễn Anh đem
quân Sơn Đông đến ứng viện đưa Duệ Tông chạy vào
Cần Thơ, nhưng đến Long Xuyên thì Duệ Tông gặp
nạn. Đêm đó Nguyễn Ánh đưa thuyền ra biển đánh
giặc, khi thuyền quay mũi định đi thì có con cá sấu
ba lần ngăn cản thuyền của Nguyễn Ánh không đi
được. Sáng hôm sau do thám thông báo: “Đêm qua có
thuyền giặc đón eo ở mé trước”.
Một lần, Nguyễn Ánh chạy quân Tây Sơn, chạy đến
Đăng Giang khúc sông có nhiều cá sấu. Nguyễn Ánh
không thể bơi qua được, may có con trâu nằm ở bờ
sông. Nguyễn Ánh cưỡi trâu sang sông, đến giữa
dòng nước sông sâu chìm cả trâu, may có con cá sấu
đưa dạt vào bờ.
Một hôm, Nguyễn Ánh ở đảo Côn Lôn, quân Tây
Sơn bổ vây tình thế rất nguy cấp. Bỗng nhiên trời nổi
cơn giông bão, trời đất mù mịt, thuyền ghe sát nhau
mà không nhìn thấy mặt người. Thuyền Tây Sơn
chìm đắm nhiều vô kể. Nguyễn Ánh nhân cơ hội đó
thoát nạn.
Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 727
Lần khác, ở cửa biển Mali, Nguyễn Ánh bị hơn 20
chiến thuyền Tây Sơn đuổi bắt. Nguyễn Ánh cứ theo
hướng Đông mà chạy ra xa bờ. Hết 7 ngày 7 đêm,
trên thuyền hết nước uống. Quân sĩ đều khát,
Nguyễn Ánh mới khấn rằng:
- Nếu ta có phận làm Vua, thì cho thuyền dạt vào
bờ để cứu mạng người trên thuyền này. Nhược
bằng không thì đánh chìm thuyền ở giữa biển
khơi cũng cam tâm chịu.
Vụt chốc, gió lặng, sóng yên, trông thấy trên mặt
nước hắc bạch chảy rẽ đôi dòng, một bên nước trong
leo lẻo. Trong thuyền một người nếm thử, thấy ngọt
thì hô lên rằng: “nước ngọt...” rồi tranh nhau múc
uống, vừa múc được 4,5 chĩnh thì nước lại mặn như
trước. Nhưng cả thuyền đã thoát nạn chết khát.
Về sau gặp Quốc Mẫu, Nguyễn Ánh kể lại chuyện
“nước ngọt giữa biển”, Quốc Mẫu than rằng:
- Con ta bên giời góc bể, lịch duyệt gian nan.
Nhưng xem như trận gió Côn Lôn, nước ngọt
giữa bể, thì ý giời khá biết. Con chớ thấy gian
hiểm mà ngã lòng.
Năm đó, chúa Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy nã nên
phải bỏ thành Gia Định mà chạy về phía làng Tây
Sơn Nhì. Trời vừa tối, Chúa Nguyễn đến một kiểng
chùa. Quá mệt mỏi, phần thì quân Tây Sơn đang rượt
phía sau, Chúa Nguyễn cùng hai vị quan hộ vệ đành
vào chùa mà trốn. Trong chùa, lúc ấy có ông sư già
đang tụng kinh. Sau khi nghe Chúa Nguyễn bày tỏ sự
thật, sư cụ nói:

728 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


- Xin các vị vào phía sau thay xiêm đổi áo, y theo
lời bần tăng, phải làm như vầy....

Chập sau quân Tây Sơn kéo tới, xúm bao vây ông
sư nọ mà hỏi:
- Nguyễn Ánh đâu rồi? Nói mau bằng không ta
chém đầu.

Sư cụ nói:
- Mô phật, xin các ông cứ lục xét chùa. Nếu có
bần tăng cam chịu tội.

Viên chỉ huy bèn đem cây đèn trên bàn Phật
xuống mà rọi từ trong ra ngoài. Bỗng nhiên, hắn
dòm xuống bàn phật mà la lớn:
- Ba đứa nào đây? Quân đâu! Mau chém nó.

Chừng xét kỹ lại, rọ ràng là ba pho thượng phật.


Sư cụ nói đó là mấy cốt Phật của chùa ở làng kế bên
đem gởi, chùa ấy vừa bị sập, chùa bên này không có
chỗ trống nên để tạm dưới đất. Nghe có lý, quân Tây
Sơn rút lui. Sau đó, Chúa Nguyễn Ánh cùng hai vị
quan hộ vệ từ trên bàn Phật bước xuống, vô cùng
mừng rỡ, khen gợi sư cụ. Số là khi nãy sư cụ có sáng
kiến khiêng tượng Phật xuống đất. Thay vào đó, ba
người tị nạn khoác áo cà sa leo lên bệ ngồi chắp tay
không nhúc nhích giả như tượng thật. Quân Tây Sơn
nào có ngờ!
(Tham khảo từ: Nam Hải dị nhân liệt
truyện - Phan Kế Bính, 1930)

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 729


Lời bình: Các huyền thoại về vua Gia Long cũng có
thể là thật cũng có thể là giả. Vì rằng: vua muốn giữ
thanh thế và quy tụ quần thần (ngày nay gọi là PR
hình ảnh, đánh bóng thương hiệu...) thì cần những tin
đồn về thần nhân giúp đỡ (con cá xấu thần), được số
trời định đoạt (bão tố ngăn địch hay nước ngọt giữa
biển)... Những huyền thoại đó sẽ thuyết phục lòng
quân, lòng dân hướng về với vị vua “đã được trời lựa
chọn”. Đó là khía cạnh tiêu cực.
Với suy nghĩ tích cực thì ta có thể cho rằng: Vận
nước đã khơi thông cho nhà Nguyễn. Chỉ với sức
mạnh vô cùng nhỏ bé của đội quân bại trận tơi bời
của Nguyễn Ánh trước khi Quang Trung mất.
Mà chỉ sau cái chết của vua Quang Trung toàn bộ
tướng lĩnh giỏi vẫn còn đó, thất hổ tướng vẫn còn đó,
ngũ phụng thư vẫn còn đó, quan quân và binh lính
vẫn còn có mà lại như “rắn mất đầu” nhà Tây Sơn đổ
ập như lâu đài cát.
Quân đội nhà Nguyễn phát triển thần tốc đánh đâu
thắng đó từ Nam ra Bắc. Nếu không đổ tại vận khí, đổ
tại số trời thì không biết bám vào đâu mà lý giải được
cả.
Nên những tích huyền thoại kia nếu có đúng 100%
là sự thật thì cũng không ngoa vì kết quả cuối cùng là
thắng lợi.
Còn những tích Nguyễn Nhạc táng được mộ song
thân vào hàm rồng, long mạch hay thần nhân trên núi
tặng kiếm và khiên thần lại bị nghi ngờ. Vì kết quả
cuối cùng không đúng vậy. Thế mới có câu rằng: “Lý
lẽ thuộc về kẻ chiến thắng” là vậy.

730 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


168. Tây Phương chép về vua Gia Long

Tưởng rằng, một vị vua ở phương Đông sẽ chỉ


quen với văn chương, thơ phú nhưng ít ai ngờ Gia
Long đã khiến nhiều người châu Âu phải kinh ngạc
về kiến thức khoa học sâu rộng của mình.
Chính sử nước ta hầu như không nhắc đến những
hiểu biết rộng rãi của vua Gia Long về châu Âu nói
chung và về khoa học, kỹ thuật tiên tiến đương thời
nói riêng, thế nhưng qua một số nguồn tư liệu của
những người phương Tây còn lưu lại đến ngày nay
đều thể hiện sự ngưỡng mộ về trí tuệ và tài năng của
ông.
Trong cuốn Souvenirs de Hue (Hồi ký Huế) của
Michel Đức Chaigneau, con trai một phụ tá người
Pháp của vua Gia Long là Jean Baptiste Chaigneau
(tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) đã cho biết vị vua
đầu tiên của triều Nguyễn là một người hòa nhã,
giản dị, tài năng, có những ý tưởng khoáng đạt và cả
sự hào hiệp.
Cuốn sách cũng cho biết:
"Trong sự tâm giao, vua Gia Long rất thích hỏi cha
tôi về các trường học và những phong tục của nước
Pháp" và "vua Gia Long được công nhận là một người
có khả năng nhất của vương quốc vì đã có đầy đủ
trong mình những đức tính cần thiết cho một người
đứng đầu nhà nước. Lòng quả cảm và đức tính kiên
trì theo đuổi tất cả những mục tiêu đúng đắn làm cho
giám mục Adran và những người Pháp làm việc ở

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 731


Nam Kỳ cho rằng tuyệt nhiên không có một người
đứng đầu quốc gia châu Âu nào có thể thay thế được".
Những hiểu biết về châu Âu, với tri thức và khoa
học tân tiến lúc bấy giờ mà vua Gia Long có được
không chỉ qua trao đổi, học hỏi, thu thập từ những
người phương Tây mà vua có dịp gặp gỡ; ông còn có
được thông tin qua sách vở.
Một cố đạo người Pháp tên là Lelabrousse trong
bức thư đề ngày 1/5/1800 gửi cho giám đốc trường
Tu nghiệp của hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris đã
viết:
"Nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm Ngài ít
ngủ, đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết
và cần cù hiếu học đáo để. Trong điện Ngài ở, có
nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa
kiến trúc, xây thành đắp lũy..v.v…
Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những
hình vẽ kiểu mẫu rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày
thấy Ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua này là một
bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam
từ trước đến giờ".
Không chỉ người Pháp, những người châu Âu khác
cũng rất nể phục vua Gia Long.
Một nhà du hành người Anh tên là John Barrow
xuất bản tại London vào năm 1806 cuốn sách "A
voyage to Cochinchina in the year 1792 – 1793"
(Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà trong năm
1792 – 1793) đã ca ngợi vua là:
"...Con người phi thường, một trong số ít người
sinh ra với tài năng bẩm sinh để thống trị thế giới"
732 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Hay "...câu chuyện về ông hoàng này, mà tôi đã phác
họa sơ lược nêu lên một tấm gương sáng và một bài
học bổ ích cho những ai có thể rơi vào những hoàn
cảnh rủi ro tương tự, nó chỉ ra rằng nếu biết kết hợp
tài năng, nghị lực và lòng dũng cảm theo một hướng
chỉ đạo đúng đắn, người ta có thể làm được nhiều
việc lớn lao đến như thế nào".
Gia Long xây dựng hải quân và tự đóng chiến
thuyền hải quân Việt Nam theo mẫu của Tây
Phương:
Câu chuyện này chính sử nước ta không ghi chép
đến, nhưng các tài liệu của người châu Âu có nhắc
đến, nó khiến không chỉ người phương Tây, nơi có
nền khoa học kỹ thuật phát triển hơn rất nhiều phải
cúi đầu thán phục mà khi đọc những dòng ghi chép
trong sử sách hậu thế chúng ta cũng phải sửng sốt,
bất ngờ.
Trong cuốn sách của mình, John Barrow đặc biệt
đánh giá cao việc Gia Long xây dựng, tổ chức, cải tiến
lực lượng hải quân:
"Ông nắm vững không ít kiến thức về kỹ thuật,
khoa học châu Âu; trong đó ông đặc biệt lưu ý về
những gì liên quan đến thuật hàng hải và kỹ nghệ
đóng tàu. Theo nguồn tin đáng tin cậy, người ta kể lại
rằng để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như
về lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã
mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha.
Với mục đích chỉ để tháo rời ra thành từng bộ
phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm
ván mới có hình dáng và kích thước tương tự như cái

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 733


cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu,
xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng
những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn được
đổi mới.
Nghị lực tinh thần của ông không kém phần mạnh
mẽ so với năng lực hoạt động thể chất của ông. Thực
vậy, nhà vua đã được coi như xung lực chủ yếu của
mọi cuộc vận động xảy ra trong vương quốc rộng lớn
và thịnh vượng của mình.
Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và các
kho quân dụng, là thợ cả trong các xưởng đóng tàu,
kỹ sư trưởng trong mọi công trình; không có việc gì
dự định thực hiện lại không có lời khuyên bảo và chỉ
dẫn của ông.
Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được
đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông,
không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà
không có lệnh của ông. Không những ông đi vào từng
chi tiết nhỏ nhặt nhất khi thảo ra những chỉ dẫn mà
chính bản thân ông thực tế còn trông nom khi chúng
được thực hiện".
Cố đạo Lelabrousse cũng dành một phần trong
bức thư của ông để nhắc đến câu chuyện đáng nể
này như sau:
"Thiên tư nhà vua cũng tốt không kém gì tâm tính,
trí khôn nhanh nhẹn, thấu suốt dù những việc rắc rối
nhất hạng, Ngài chỉ trông thoáng qua là hiểu ngay.
Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm những gì qua mắt
có thể ghi mãi trong trí không quên, cũng như trông

734 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước một cách dễ
dàng, tự nhiên.
Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân
cảng được Ngài xếp đặt chỉnh tề, đồ sộ; người ngoại
quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả châu
Âu được trông thấy thì cả châu Âu cũng phải khen
ngợi.
Một bên bài trí la liệt những súng trường, súng
thần công, đại bác đủ hạng, những dã pháo, những xe
chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ..v.v.. Phần
nhiều so sánh với các kiểu súng đạn tốt nhất ở Tây
phương, bất quá chỉ thua kém về vẻ đẹp mà thôi.
Một bên thì đỗ chi chít những chiến thuyền không
biết cơ man nào mà đếm; to có nhỏ có, chiếc nào chế
tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả các thuyền
binh khí ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động
và đa tài, đa nghệ…
Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo
kiểu châu Âu mà chỉ dùng toàn những người thợ bản
xứ. Ban đầu, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem
về tháo tung ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo,
sau đó tự tay ráp lại y nguyên hình thức cũ, ráp khéo
đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.
Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn
chí, nhất định ra tay đóng hẳn một chiếc hoàn toàn
mới. Mà ngài làm được mới thật lạ kỳ, sau đó lại đóng
thêm hai chiếc nữa. Cả bốn chiếc tàu này đi đến đâu
cũng làm lên oai danh hiển hách cho nhà vua.

Chương 8: Thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn 735


Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc
nào cũng đóng không quá 3 tháng đã hoàn thành, có
chiếc lại còn làm nhanh chóng hơn…
Các ông ở bên Tây nghe nói một ông vua ở nước
Nam có thể chỉ huy được một chiếc tàu chiến đóng
theo kiểu châu Âu, tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các
ông còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông
được chứng kiến mọi sự kiến thiết ở xứ sở này".
Trên đây là một số nhận xét, đánh giá của người
châu Âu về vua Gia Long ở bối cảnh ông vẫn chưa lên
ngôi hoàng đế mà vẫn là một vị chúa đang trong
cuộc tranh đấu với triều Tây Sơn để giành lại quyền
cai trị cho dòng họ Nguyễn.
Liên hệ dữ liệu ghi chép này của người Tây
Phương với công cuộc xây dựng hải quân hiện đại
của chúa Nguyễn Ánh: Tàu thuyền theo thiết kế của
Tây Phương, cách đánh, chiến thuật hải quân học
của Tây Phương... Với những trận thủy chiến lớn
diễn ra với quân Tây Sơn ta sẽ thấy sự trùng hợp và
chính sử đã vô tình hay cố ý bỏ qua. Chính sử chỉ
chép rằng:
“Trận thủy chiến lớn diễn ra đầu năm Tân Dậu
(1801) ở đầm Thị Nại trong cuộc tấn công đánh
chiếm thành Quy Nhơn đã khiến cho toàn bộ hạm đội
chiến thuyền hùng mạnh của Tây Sơn bị tiêu diệt
hoàn toàn. Tạo ra bước ngoặt quan trọng đánh dấu
đà thắng lợi của Nguyễn Phúc Ánh nhờ đó mà chỉ một
thời gian ngắn sau ông đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ,
chấm dứt triều đại Tây Sơn và thay thế bằng vương
triều mới do ông đứng đầu”.

736 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Làm vua được 18 năm, đến ngày 19 tháng Chạp
năm Kỷ Mão (tức ngày 3/2/1820) Gia Long qua đời,
hưởng thọ 59 tuổi. Triều đình đặt thụy hiệu cho vua
là "Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần
văn Thánh vũ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu
Cao Hoàng đế"; sử sách thường gọi là Nguyễn Thế
Tổ.
(Tham khảo từ: Hồi ký Huế (Michel Đức
Chaigneau) và Một chuyến du hành đến xứ Nam
Hà năm 1792 – 1793 (John Barrow))
Lời bình: Vua Gia Long cũng là một con người vô
cùng tài giỏi cả về khoa học kỹ thuật, chính trị và
quân sự. Uy Đức của ngài lớn thì mới có thể thống
nhất được Việt Nam sau 280 năm nội chiến và ngoại
chiến đẫm máu.
Nhưng thời thế nay đã khác. Ngài biết rõ về
phương tây, về khoa học kỹ thuật của phương tây,
thấy tốc độ phát triển của phương tây, đã được sang
Pháp sống nhưng khi lên làm vua thì lại theo đúng
Phong Kiến cổ hủ.
Cũng hơi đáng tiếc cho một thời cơ và thế vận mới
của nước Việt Nam. Nếu thời này mà có những cải
cách Tư Bản kết hợp với nền đạo đức truyền thống thì
Việt Nam đã không lâm vào cảnh Pháp, Mỹ xâm lược
100 năm sau này.
Và đến đây, nước Đại Việt ta đã sang một trang
mới, đất nước hoàn toàn thống nhất một dải hình chữ
S, từ cực Bắc tiếp giáp Trung Hoa vào cực Nam tại
mũi Cà Mau bao gồm cả Trường Sa, Hoàng Sa và Phú
Quốc. Đất nước Đại Việt ta cũng có một cái tên mới là

737
Việt Nam. Và cuốn sách này cũng xin tạm khép lại với
cái tên “Bí ẩn Huyền sử Đại Việt”.

Xin cảm ơn Quý vị độc giả !


Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri
(Luongvinhtri@gmail.com)

738 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Lời cảm ơn cuối sách !
Lịch sử Đại Việt từ thời Hồng Bàng Kinh Dương
Vương năm 2879 trước công nguyên, cho đến đời
vua Gia Long năm 1820 sau công nguyên là tròn
4699 năm. Và nếu tính đến lúc này đây khi tôi ngồi
biên soạn cuốn sách này, năm 2018 thì là tròn 4897
năm.
Trong Huyền sử thì số liệu ghi nhận được là 4897
năm lịch sử Đại Việt. Còn theo các nhà nghiên cứu
Chính sử và Khảo cổ học thì những dòng sử được ghi
chép sớm nhất ở sứ Bách Việt (trong Sử Ký Tư Mã
Thiên, Trung Quốc) là truyện tích tộc Việt Thường
cống chim trĩ trắng cho Chu Công Đán 1042 trước
công nguyên. Tính đến nay cũng là tròn 3060 năm.
Nhưng trước đó chắc chắn đã có các tộc Bách Việt ở
nam sông Dương Tử (sông Trường Giang) tồn tại và
Việt Thường là một bộ tộc của Bách Việt cổ đại.
Với hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước đó bao
nhiêu biến cố thăng trầm, bao nhiêu triều đại oai
hùng đứng lên rồi lụi tàn, bao nhiêu quãng thời gian
đất nước vinh quang rồi tủi nhục cúi đầu làm nô lệ...
Tất cả những biến cố lịch sử đó, nếu là con dân Việt
Nam thì chúng ta phải biết, phải hiểu rõ nguyên
nhân gốc tích và từ đó chúng ta sẽ thấy yêu thương
dân tộc này hơn, thấy quý trọng cái hòa bình đang
diễn ra trên đất nước Việt Nam này hơn.
Bản thân tôi rất chú ý đến chữ Đức và chữ Phúc
thì thấy rằng: Cái Đức là nguồn gốc của mọi nguồn
gốc. Đức sẽ sinh ra hành động tạo Phúc. Cũng giống
như phải xuất phát từ tình yêu thương chân thành
Lời cảm ơn ! 739
thì con người mới biết lo lắng và giúp đỡ nhau để tạo
thành Công Đức, đó chính là Phúc vậy. Và Phúc của
mỗi người dân hợp lại sẽ phát triển thành Phúc một
quốc gia, đưa quốc gia đó tiến lên cường thịnh, phồn
vinh.
Đi lên thì phải có đi xuống. Thời kỳ đi xuống đó là
thời kỳ của những ông vua thất Đức bất Nhân. Vua
ác độc, tham lam, ích kỷ thì “Thượng bất chính hạ tắc
loạn”. Khi đó đất nước ta loạn từ trong loạn ra, loạn
từ trên loạn xuống, loạn vua quan cho đến thứ dân.
Do vậy, trong những thời vua “thấy cảnh hổ xé xác
người mà làm vui thú, thấy cảnh lăng trì tùng xẻo mà
thấy thỏa mãn, vua cưỡi ngựa dong chơi thấy cảnh
người dân bị cướp bóc mà quay đầu làm ngơ...” (vua
Lê Ngọa Triều) thì nước loạn dân chúng khổ sở và
lòng dân đã rời bỏ những ông Vua. Các vị Phúc thần
bảo hộ đất nước cũng phải lo đi tìm hiền tài để thay
thế. Và một cuộc đổi ngôi thay vương triều diễn ra.
Thế mới hay chữ Đức là gốc rễ bền chặt là quan
trọng biết nhường nào.
Chữ Đức phải có nền tảng của lý luận và giáo lý
vững trắc xuất phát từ những bậc vĩ nhân Đạo đức
sáng ngời trong lịch sử. Đó là Đạo đức trong Phật
giáo và trong Nho giáo.
Đất nước ta có những giai đoạn tưởng chừng như
không thể vực dậy nổi và phải buông xuôi và biến
mất như các tiểu quốc thuộc tộc Bách Việt khi xưa.
Nhưng cái gốc đã được vun bồi, cái cây đã có rễ dù
rằng thân vẫn khô cằn oặt ẹo. Thiền Tông Phật Giáo
đã đến Việt Nam từ rất sớm chỉ sau Trung Hoa
khoảng 50 năm. Có vị Tổ sư Thiền Việt Nam là ngài
740 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci, Ấn Độ) (? - 594) đã đến
chùa Pháp Vân (Thuận Thành, Bắc Ninh) tu hành và
truyền đạo. Để rồi...
200 năm sau các thế hệ Thiền Sư phái Tỳ-ni-đa-
lưu-chi đã gây dựng nền Đạo đức của dân tộc và thay
đổi vận khí nước Nam đó chính là gốc rễ của một cái
cây đã hình thành và chắc khỏe.
Có ngài Thiền sư Định Không (730-808) (đời thứ
8 dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi) trấn án 12 món Pháp
Khí cổ nơi làng Diên Uẩn và khơi thông Long mạch.
Ngài đổi tên Diên Uẩn thành Cổ Pháp. Sư đề Sấm ký
báo trước có Cao Biền sang đất Việt và khuyên tìm
người họ Đinh để phá ếm.
Có ngài Thiền sư La Quý (852-936) (Sư họ Đinh -
đời thứ 10 dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi) phá ếm Cao
Biền, nối liền long mạch tại 19 điểm bị đứt gãy nơi
châu Cổ Pháp. Sư đề Sấm ký báo trước nhà Lý lên
ngôi.
Năm 1010 có ngài Lý Công Uẩn, mồ côi từ nhỏ,
được sinh ở chùa Ứng Tâm, châu Cổ Pháp, được làm
con nuôi của Trụ trì chùa đó là Thiền Sư Lý Khánh
Vân. Ngài sớm theo học đạo với thầy là Thiền Sư Vạn
Hạnh (đời thứ 12 dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Ngài Ý chí
quật cường, Đạo đức ngời sáng, cả nước quy hướng,
suy tôn làm vua, mở ra thời hòa bình thịnh trị bền
lâu cho nước Nam ta.
Đến đời nhà Trần, vẫn tiếp nối cái gốc Đạo đức
Phật Giáo. Có vị vua lập quốc Trần Thái Tông (Trần
Cảnh) xuất gia tu hành ở am Thái Vi, vùng rừng núi
Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư.

Lời cảm ơn ! 741


Có vị vua Trần Nhân Tông sau khi 3 lần đánh xong
giặc Nguyên Mông ngài lên Yên Tử tu hành đắc đạo
và là Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư Thiền Phái Trúc
Lâm Yên Tử Việt Nam.
Đến đời Hậu Lê, các vua dùng đạo lý Khổng Tử với
hình mẫu của người Quân tử “Nhân, trí, tín, lễ, nghĩa”
để làm gốc tạo Đức an dân, chọn người tài làm quan
thông qua thi cử, không cần gốc gác, không cần quan
hệ. Đất nước cũng được thái bình thịnh trị bền lâu.
Nhà Lê Sơ tồn tại 100 năm thịnh trị hòa bình, sau
đó nhà Lê Trung Hưng 256 năm trong thời Trịnh
Nguyễn phân tranh đất nước bị chia đôi ở sông
Gianh bến Hải. Thời này không đại chiến thảm khốc,
cơ bản là dân lành yên ổn, nhưng đặc biệt 9 đời chúa
Nguyễn đàng trong đã mở rộng nước ta từ đất
Quảng Nam cho đến đất mũi Cà Mau.
Trong toàn bộ cuốn sách, cuối mỗi tích truyện tôi
xin mạn phép có đôi lời bình luận mang ý kiến cá
nhân và có áp dụng đôi chút kiến thức, hiểu biết
nông cạn về Đạo học, Phật học, Nho học. Nhưng tôi
tự xét thấy mình tuổi còn nhỏ, kiến thức không
nhiều, thời gian học tập cũng ngắn. Nên ắt hẳn
không tránh khỏi những lỗi lầm. Rất mong được quý
vị độc giả thông cảm!
Cuối cùng xin trân trọng cảm ơn các vị độc giả đã
bỏ thời gian quý báu của mình ra để đọc hết cuốn
sách này !
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri
(Luongvinhtri@gmail.com)

742 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Mục lục

Lời ngỏ ................................................................................................. 3


Lời dẫn nhập................................................................................... 11
Các tài liệu tham khảo: ............................................................... 20

Chương 1: THỜI HỒNG BÀNG ....................................23

1. Kinh Dương Vương (2879 - 2000 TCN) ................... 23


2. Lạc Long Quân và Âu Cơ (2879 - 2000 TCN) .......... 25
3. Âu Cơ và trăm con (2879 - 2000 TCN)...................... 27
4. Lạc Long Quân diệt Ngư Tinh (2879 - 2000 TCN) 30
5. Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh (2879 - 2000 TCN) ... 32
6. Thánh Gióng (1766 - 1122 TCN) ................................. 34
7. Lang Liêu (1766 - 1122 TCN) ....................................... 39
8. Công chúa Ngọc Tiêu (1766 - 1122 TCN) ................ 42
9. Việt Thường và Bạch Trĩ (1042 - 1021 TCN) ......... 44
10. Đàn Xã Tắc (1046 - 256 TCN) ....................................... 46
11. Chử Đồng Tử (400 TCN) ................................................. 47
12. Hồng Vân Công Chúa (624 - 543 TCN) ...................... 55
13. Sơn Tinh Thủy Tinh (~300 TCN) ................................ 59

Chương 2: THỜI ÂU LẠC VÀ NHÀ TRIỆU ................64

14. An Dương Vương (258 - 207 TCN) ............................. 64


15. An Dương Vương đánh Tần (218 TCN) .................... 66
16. An Dương Vương mất nước (210 TCN) .................... 68
17. Cao Lỗ Tướng Quân (? - 179 TCN) .............................. 75
18. Lý Ông Trọng (258 - 207 TCN)..................................... 79
743
19. Triệu Đà - Triệu Vũ Đế (207 - 136 TCN) ................... 82
20. Nguyễn Danh Lang (207 - 137 TCN) .......................... 85
21. Giếng Việt (207 - 136 TCN) ........................................... 88

Chương 3: THỜI BẮC THUỘC .....................................97

22. Quân Nam Chiếu (111 TCN - 942 sau CN) ............... 97
23. Hai Bà Trưng (40 - 43) ................................................. 100
24. Bát Nàn Công Chúa (40 - 43) ..................................... 103
25. Quý Lan Nữ Tướng (40 - 43)...................................... 108
26. Dân nước Nam làm nhà quay lưng về Bắc (78) .. 112
27. Vương Sĩ Nhiếp (136 - 226) ....................................... 115
28. Phật Mẫu Man Nương (136 - 226) ........................... 121
29. Triệu Thị Trinh, Bà Triệu (225 - 248) .................... 126
30. Thần Tô Lịch (266 - 420) ............................................ 129
31. Lý Bôn - Lý Nam Đế (503 - 548) ............................... 132
32. Chùa Trấn Quốc, Hồ Tây, Hà Nội (544) .................. 135
33. Triệu Việt Vương (? - 571), Lý Phật Tử (? - 602) 137
34. Chu Phúc Uy (?-545) ..................................................... 143
35. Trương Hống và Trương Hát (502 - 571) ............. 149
36. Tổ sư Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594) .................. 156
37. Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế (? - 722) .................... 163
38. Phùng Hưng - Bố cái Đại vương (? - 791) ............. 167
39. Thiền sư Định Không (730 - 808) và Sấm Kí ....... 172
40. Cao Biền (821 - 887) ..................................................... 177
41. Nói về Cao Biền, lại bàn về Long Mạch ................... 187
42. Cao Biền, Cao Lỗ, ếm Tản Viên (821 - 887) .......... 194

744 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


43. Cao Biền và Thần Tô Lịch (821 - 887) ................... 197
44. Cao Biền (821 - 887) Tiên Du, Trâu Vàng ............ 200
45. Thấy trấn ếm Cao Biền ở sông Tô Lịch (2001) ... 203
46. Sư La Quí phá trấn ếm Cao Biền (852 - 936) ....... 210

Chương 4: THỜI NGÔ, ĐINH, TIỀN LÊ .................. 213

47. Họ Khúc mở đầu thời tự chủ (905 - 923) .............. 213


48. Dương Đình Nghệ - Kiều Công Tiễn (870-938) .. 217
49. Ngô Quyền - Ngô Vương (897 - 944) ...................... 220
50. Loạn 12 sứ quân (944 - 968) ..................................... 224
51. Ðinh Bộ Lĩnh - Đinh Tiên Hoàng Đế (924 - 979) 226
52. Thanh kiếm Ngô Vương (897 - 944) và thanh kiếm
gỗ của Đinh Bộ Lĩnh (924 - 979) .............................. 230
53. Đinh Tiên Hoàng (924-979), Đỗ Thích (?-979) .. 236
54. Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) răn đe phản loạn.. 240
55. Cường bạo Đại vương (957 - ?)................................. 245
56. Vôi Bột từ tà ma (968) .................................................. 251
57. Lê Hoàn - vua Lê Đại Hành (940 - 1005) ............... 253
58. Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990)............................ 260
59. Lê Đại Hành (940-1005) và lễ tịch điền................. 263
60. Hoàng hậu Dương Vân Nga (?-1000)...................... 266
61. Trương Hống và Trương Hát hiển linh (981) ..... 269
62. Quán Thánh Sóc Thiên Vương (980 - 1005) ........ 274

Chương 5: THỜI NHÀ LÝ .......................................... 277

63. Lý Công Uẩn (974 - 1028) ........................................... 277

745
64. Vua nhà Lý lấy Đức để an dân (1009 - 1225) ...... 281
65. Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018).................................... 285
66. Giải mã Sấm Ký trên cây gạo (1008) ....................... 290
67. Vua Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) ................................ 294
68. Đền Bạch Mã và sự tích Thăng Long (1010) ........ 298
69. Thổ địa xứ Đằng Châu (1010) .................................. 300
70. Lý Thái Tổ an định trời đất (1012).......................... 303
71. Lê Phụng Hiểu (982 - 1059) ....................................... 305
72. Lý Phục Man (1020) ...................................................... 309
73. Lý Thái Tông dẹp loạn tam vương (1028)............ 312
74. Mỵ Ê - Hoàng hậu Chiêm Thành (1044) ................ 316
75. Mục Thận cứu Vua (1028 - 1054) ............................ 322
76. Phạm Cự Lượng (1028 - 1054) ................................. 325
77. Lý Nhật Quang - Uy Minh Vương (?-1057) ........... 328
78. Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm (1069) ............... 332
79. Hậu Thổ Phu Nhân (1069) .......................................... 336
80. Lý Thường Kiệt phá Tống (1075-1076) ................ 340
81. Lê Văn Thịnh đòi vua Tống đất đai (1084) ........... 348
82. Lý Nhân Tông (1072 - 1128)và ông bà Dầu ......... 352
83. Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? - 1115)............................. 358
84. Thiền sư Nguyễn Minh Không (1076 - 1141) ..... 366
85. Nguyên Phi Ỷ Lan (? - 1117)....................................... 372
86. Thái Úy Tô Hiến Thành (1102 - 1179) ................... 376
87. Dương Tự Minh - Thánh Đuổm (1105-1150) ..... 380
88. Lý Anh Tông (1136-1175) anh minh sáng suốt . 385
89. Lý Cao Tông (1176 - 1210) thời suy mạt .............. 388

746 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


90. Chùa Một Cột (1049) ..................................................... 392
91. Cao Ly Tướng Quân (Triều Tiên-Hàn Quốc) ........ 394

Chương 6: THỜI NHÀ TRẦN .................................... 397

92. Đại thắng Nguyên Mông (1258, 1285, 1288) .... 397
93. Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278) .................................. 405
94. Trần Thủ Độ (1194 - 1264) ........................................ 410
95. Trần Thái Tông (1225-1258) trốn lên Yên Tử .... 413
96. Vua Thiền Sư Trần Thái Tông (1225 - 1258) ...... 417
97. Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) ..................... 422
98. Vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) ........................ 426
99. Trần Nhân Tông (1279 - 1293) Sơ Tổ Trúc Lâm 429
100. Trần Hưng Đạo (? - 1300) ........................................... 434
101. Thiên Tướng giúp Trần Hưng Đạo (1284) ........... 439
102. Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) .................................... 443
103. Trần Thừa (cha của Trần Cảnh) (1184 - 1234) .. 446
104. Trần Nhật Duật (1255 - 1330) .................................. 451
105. Trần Quang Khải (1241 - 1294) ............................... 458
106. Trần Khánh Dư (1240 - 1340) .................................. 461
107. Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 - 1291) ...................... 468
108. Yết Kiêu (1242 - 1301) ................................................. 471
109. Bà chúa bơi, mẹ nuôi Yết Kiêu (? - 1285) .............. 475
110. “Trạo Nhi” đặc công nước (1285) ............................ 479
111. An Tư Công Chúa (? - 1285) ....................................... 485
112. Nhị vị Công Chúa nhà Trần (? - 1285) .................... 488
113. Công Chúa Phụng Dương (1244 - 1291) ............... 493

747
114. Bà chúa kho Lý Thị Châu (1225 - 1300) ................ 495
115. Nguyễn Bá Linh (? - 1285) .......................................... 498
116. Quốc sư Quán Viên (1293-1314) ............................. 501
117. Trần Thì Kiến (1260 - 1330) ...................................... 504
118. Huyền Trân Công Chúa (1306) ................................. 507
119. Đoàn Nhữ Hài (1280 - 1335) ..................................... 510
120. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346).......... 515
121. Chu Văn An (1292 - 1370) .......................................... 519
122. Trần Dụ Tông (1336 - 1369) thời suy mạt ........... 524
123. Công chúa Thiên Ninh (1324 - 1371) ..................... 529
124. Tuệ Tĩnh Thiền Sư (1330 - 1400) ............................ 534
125. Trần Duệ Tông (1372 - 1377) chết vì khinh giặc 538
126. Trần Khát Chân (1370 - 1399) .................................. 545

Chương 7: THỜI NHÀ HỒ, GIẶC MINH, HẬU LÊ. 548

127. Hồ Quý Ly (1336 - 1407)............................................. 548


128. Lê Lợi (1385 - 1433) thời trẻ..................................... 555
129. Lê Lợi (1385 - 1433) chuẩn bị khởi nghĩa ............ 560
130. Lê Lợi (1385 - 1433) đánh giặc Minh ..................... 569
131. Lê Lợi (1385 - 1433) và kiếm Thuận Thiên ......... 574
132. Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) và Nguyễn Trãi
(1380 - 1442) đi tìm minh chủ .................................. 578
133. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn chết oan ......... 581
134. Nguyễn Xí (1397 - 1465) ............................................. 584
135. Nguyễn Chích (1382 - 1448)...................................... 587
136. Nguyễn Thị Bành (1382-1448) ................................. 592

748 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


137. Ả Đào giết giặc Minh (1417) ...................................... 596
138. Mụ Vườn phá đồn giặc Minh (1424) ....................... 598
139. Đinh Thị Vân - bà Chúa Thác Bờ (1425) ................ 601
140. Đào Huệ - bà Chúa Tháp Bà (1425) ......................... 603
141. Lê Thái Tông (1433-1442) giết oan Công Thần. 606
142. Lê Thánh Tông (1460 - 1497) bị sát hại ................ 612
143. Lương Thế Vinh (1441 - 1495) Trạng đo lường 616
144. Lương Thế Vinh và vua Lê Thánh Tông ................. 621
145. Thầy địa lý Tả Ao (1442 - 1507)............................... 625
146. Lê Uy Mục - Bạo Đế Vương (1504 - 1509) ............ 631
147. Mạc Đăng Dung - Mạc Thái Tổ (1483 - 1541) ..... 633
148. Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều (1533- 1592)... 635
149. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) và Sấm ký .... 640
150. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) dạy học ........ 645
151. Nhữ Thị - mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1470-?) ........ 648
152. Công chúa Ngọc Vạn (1605 - 1658)......................... 651
153. Công chúa Ngọc Khoa (1610-?)................................. 654
154. Thánh bất tử Liễu Hạnh (1430, 1557, 1580)....... 659
155. Mẫu Thượng Ngàn (280 TCN) ................................... 668
156. Mẫu Thoải - Thủy cung Thánh Mẫu (?-?) .............. 672
157. Cô Đôi Thượng Ngàn (?-?)........................................... 675

Chương 8: THỜI TÂY SƠN VÀ NHÀ NGUYỄN ..... 677

158. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ (1753 - 1792) .... 677
159. Truyện tích về Nguyễn Nhạc (1743 - 1793) ........ 682
160. Truyện tích về Nguyễn Huệ (1753 - 1792) .......... 691

749
161. Nguyễn Hữu Chỉnh (? - 1788) .................................... 694
162. Bí ẩn về cái chết Vua Quang Trung .......................... 698
163. Bùi thị Xuân (1771-1802) nữ Tướng giết hổ....... 711
164. Hai nữ tướng dân tộc nhà Tây Sơn (1771)........... 715
165. Công chúa Lê Ngọc Hân (1770 - 1799) .................. 722
166. Nguyễn Ánh, Vua Gia Long (1762 - 1820) ............ 724
167. Truyện tích về vua Gia Long (1762 - 1820) ......... 727
168. Tây Phương chép về vua Gia Long........................... 731
Lời cảm ơn cuối sách ! ............................................................. 739
Mục lục .................................................................................. 743

750 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D


Kiến nghị gửi Chính phủ Việt Nam!

Mục tiêu năm 2045 nước Việt Nam ta sẽ thành nước giàu
có hùng mạnh với thu nhập GDP đầu người cao trên 30.000
USD/năm. Tôi xin kiến nghị Chính phủ nên thay đổi Sologan
Việt Nam ta có từ năm 1945 do Bác Hồ viết là “Độc lập - tự
do - hạnh phúc” thành “Độc lập - tự do - ấm no - hạnh
phúc”. Điều này tuy nhỏ nhưng thật sự ấn tượng. Đây chính
là “Đại cách mạng trong tư tưởng nhân dân Việt Nam”.

Sologan cũ của Bác Hồ đã ăn sâu trong tâm trí mọi người


dân Việt Nam chúng ta suốt 75 năm qua. Nó xuất hiện trong
mọi văn bản giấy tờ của đời sống xã hội. Thời Bác viết
Sologan này khi nước ta chưa có độc lập tự do. Nên Bác đặt
mục tiêu: “Độc lập tự do cho dân tộc thì sẽ có hạnh phúc”.
Bác muốn khắc ghi trong tâm mọi người dân Việt Nam
chúng ta một mục tiêu cao cả là giành bằng được “độc lập
tự do” cho dân tộc.

Nhưng nay nước ta đã có độc lập tự do rồi mà sao dân ta


vẫn chưa thực sự có hạnh phúc? Là vì ta còn nghèo. Vậy nên
ta phải thêm mục tiêu “ấm no” theo đúng yêu cầu thời đại.
Điều này cũng đúng với lời dạy của Bác Hồ: “Cần xây dựng
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh”.

Tôi đoán rằng các bạn chắc ai cũng biết câu nói: “Có thực
mới vực được đạo - Vật chất có trước tinh thần có sau -
1
Vật chất quyết định ý thức”. Vậy nên vật chất “ấm no” cần
có trước thì tinh thần “hạnh phúc” mới đến sau. Đó là chân
lý của mọi thời đại, của mọi xã hội trên Thế giới này.

Từ xưa đến nay, hễ mỗi khi dân chúng đói nghèo là nước
loạn: “Bần cùng sinh đạo tặc”, “Túng quá hóa liều” từ Tây
sang Đông đều diễn ra đúng y như vậy. Từ cách mạng Mỹ
(1765-1783), cách mạng Pháp (1789-1799) đến cách mạng
tháng 10 Nga 1917 hay cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam
ta đều có nguồn gốc từ đói nghèo và áp bức bóc lột mà ra.
Mà “Độc lập tự do” là thoát áp bức bóc lột. Thế sao không
thấy mục tiêu thoát đói nghèo?

Còn nếu ai mê tín sợ số 4 thì là người không biết đạo. Nếu


số 4 không linh ứng vi diệu sao lại có: “Tứ thánh bất tử”
trong tâm linh dân tộc Việt: Thánh Gióng, Tản Viên Sơn
Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Sao lại có “Công
đồng tứ phủ”? Rồi sao lại có “Tứ quý”: tùng, trúc, cúc, mai?
“Tứ linh”: long, ly, quy, phượng?

Xứ Tàu thì có “Tứ đại mỹ nhân”: Tây Thi, Đắc Kỷ, Điêu
Thuyền, Dương Quý Phi. Rồi “Tứ đại danh tác”: Tây du ký,
Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Hồng lâu mộng. Việt Nam ta
thì có “Tứ đại hộ pháp” hay “Tứ trụ triều đình”. Thế giới thì
có “Bộ tứ kim cương”.

Phật giáo thì có: “Tứ thánh quả” 4 tầng bậc chứng đắc
thánh quả. “Tứ thiền” 4 tầng thiền định viên mãn. “Tứ như ý

2
túc” 4 món báu như ý của Chuyển luân thánh vương. “Tứ
nhiếp pháp” 4 pháp giáo hóa chúng sinh của các vị Bồ Tát.

Khoa học nói rằng: “Sự sống trong vũ trụ này tồn tại cần
hội đủ 4 yếu tố: Đất, nước, gió, lửa” Phật gọi là “Tứ đại”.

Sự thật rằng số 4 là số viên mãn vẹn toàn của tâm linh


theo văn hóa phương đông. Chỉ có Đấng thần linh, bậc Tu
đạo hay hàng Đại quý, Đại hiếm có 1 không 2 trên thế gian
mới đạt số 4 viên mãn. Còn người thường chỉ mơ được số 3
mà thôi. Lâu dần đạo lý này bị nhạt phai. Rồi họ coi “Tứ”
đồng âm với “Tử” tức là số không may mắn.

Nhưng theo bạn “Sinh - Lão - Bệnh - Tử” thì có Sinh ắt phải
có Tử, vậy liệu có thoát được Tử hay không? Mãi mãi không
bao giờ có “Sinh” mà không có “Tử” các bạn nhé. Vậy nên
thích số 3 sợ số 4 vì sợ “Tử” nhưng sự thật họ đã bỏ bớt
“Lão” thành ra “Sinh, bệnh, tử”, người này sẽ bị chết trẻ.
Hoặc họ đã bỏ bớt “Bệnh” thành ra “Sinh, lão, tử”. Người này
sẽ bị chết bất đắc kỳ tử (đột tử), chết không kịp gặp mặt
người thân hay di chúc con cháu. Hoặc họ sẽ bị chết vì tai
nạn, chết đường, chết chợ, chết vì chiến tranh, chết vì gươm
đao, chết vì súng đạn... Vậy theo bạn, chúng ta có nên dừng ở
số 3 hay không? Hay ta nên đạt số 4 viên mãn vẹn toàn?

Ta còn thấy rằng, dù mục đích là 4 món. Nhưng thực chất


là chỉ có 3 món “Độc lập, tự do, ấm no” là cần phấn đấu mà
thôi. Còn mục tiêu “hạnh phúc” chỉ là kết quả tự nó đến khi
3 điều trên thành tựu.
3
Hạnh phúc là cái mông lung không cố định. Nó chỉ là cảm
xúc của tinh thần diễn ra trong thời gian ngắn khi ta đạt mục
tiêu mà thôi. Nó không phải là một mục tiêu cụ thể. Ngoài ra,
độ tuổi khác nhau, sở thích khác nhau, trí tuệ khác nhau thì
cảm nhận hạnh phúc cũng khác nhau.

Ví dụ: Thời bé ta được bố mẹ cho ti sữa khi đói thì ta


“hạnh phúc”. Lớn hơn, ta được cho đi chơi thì ta “hạnh phúc”.
Khi trưởng thành tiêu chuẩn “hạnh phúc” của ta thanh đổi.
Khi đó ta phải có nhà cửa, có việc làm ổn định thu nhập cao,
có tài sản lớn, có xe hơi, có vợ con ấm êm... thì ta mới “hạnh
phúc”. Còn bậc Vĩ nhân “hạnh phúc” của họ song hành cùng
“hạnh phúc” của nhân loại. Tức khi nào họ mang “hạnh phúc”
tới cho người thì tâm họ mới thực sự có “hạnh phúc”.

Do vậy, hạnh phúc là cái mông lung không cố định. Nó chỉ


là cảm xúc của tinh thần diễn ra trong thời gian ngắn khi ta
đạt mục tiêu mà thôi. Nó không phải là một mục tiêu cụ thể.
Nên khi đạt được mục tiêu rồi ta phải hướng sang mục tiêu
mới thì hạnh phúc mới có tiếp tục.

Ví dụ: Khi ta đói thì ta ăn bát cơm ngon lành là hạnh phúc.
Nhưng ta cứ giữ nguyên mục tiêu ăn cơm rồi ăn tiếp 5-6 bát
nữa thì lại thành đau khổ. Khi đó ta phải lập tức chuyển sang
mục tiêu mới: thư giãn, uống trà, nghe nhạc, xem thời sự...
thì hạnh phúc mới có tiếp tục.

Nên khi nước ta chưa có “độc lập tự do” thì Bác Hồ đặt
mục tiêu “độc lập tự do” để có “hạnh phúc”. Khi ta có nó rồi
4
và được hưởng hạnh phúc tột cùng trong ngày 30/4/1975
kéo dài được vài năm thời bao cấp xong thì ta lại thấy khổ.
Khi đó, dù nước ta đã có “độc lập tự do” mà hàng ngàn hàng
vạn con người Việt Nam vượt biên sống tị nạn tha hương thì
đâu gọi là đất nước “hạnh phúc”.

Vậy nên ta phải sửa và thêm mục tiêu mới “ấm no” thì
“hạnh phúc” mới có tiếp tục. Và sự thật ta đã làm rồi. Từ Đại
hội đảng VI năm 1986 với Chương trình cải cách toàn diện
gồm Kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội
mang tên “Đổi mới”. Đến khi tôi viết những dòng chữ này
năm 2021 đúng 35 sau “Đổi mới” thì đất nước ta kinh tế đã
phát triển vượt bậc. Năm 1986 GDP đầu người hàng năm
của Việt Nam là 85 USD đến nay ta đã vào hàng trung bình
của Thế giới là 3500 USD/người/năm. Việt Nam ta từ một
nước đói nghèo trong Top 10 Thế giới thì nay ta đã thành
nước có nền kinh tế đứng thứ 37 trên Thế giới.

Và rồi năm 2045 có thể ta “ấm no” giàu có như Singaore


thì ta sẽ phải tìm mục tiêu mới để tiếp tục có “hạnh phúc
mới”. Mục tiêu phải luôn thay đổi, khi đạt được rồi thì phải
lập tức tìm mục tiêu mới lớn hơn, vĩ đại hơn thì hạnh phúc
mới bền lâu. “Liên tục đổi mới để có hạnh phúc bền lâu đó
chính là ý nghĩa chân thực của Đổi mới”.

Ngoài ra, Đạo Phật còn bàn về Triết lý Hạnh Phúc thâm
sâu hơn nữa. Phật Giáo chia Hạnh Phúc ra làm 2 loại: “Phúc

5
Hữu Lậu” và “Phúc Vô Lậu” (Hữu Lậu là có giới hạn. Vô Lậu
là không có giới hạn).

Hạnh Phúc Hữu Lậu là “Hạnh phúc mong manh dễ vỡ, nhỏ
bé và ngắn ngủi. Nó có được khi ta đạt mục tiêu cá nhân,
thành tựu cá nhân, thỏa mãn cá nhân. Ngay sau khi ta đạt
được các mục tiêu cá nhân đó thì Hạnh Phúc Hữu Lậu kéo
đến rồi biến mất đi nhanh chóng. Ta phải tìm mục tiêu khác
và phấn đấu đạt được để tạo ra hạnh phúc mới”.

Hạnh Phúc Vô Lậu là “Hạnh phúc bền lâu mãi mãi khi ta
mang Hạnh phúc đến cho người. Đây là Hạnh Phúc của các
bậc Thánh nhân, bậc Vĩ nhân, bậc Lãnh tụ cứu nước, các vị
Phúc thần dân tộc hay các vị Bồ Tát từ bi cứu khổ”. Thế vì sao
lại tồn tại một thứ Hạnh Phúc vĩ đại đến vô tận này?

Luật Nhân Quả của Đạo Phật nói rằng: “Ai làm gì khiến
cho người đau khổ (hoặc hạnh phúc) thì quả báo sẽ đến
với họ là đau khổ (hoặc hạnh phúc) giống như vậy”. Luật
Nhân Quả đã chứng minh rằng khi ta mang hạnh phúc đến
cho người thì tâm ta tự khởi lên niềm hạnh phúc vĩ đại bền
lâu mãi mãi. Nó hoàn toàn khác biệt với thứ hạnh phúc ngắn
ngủi được tạo ra bởi thỏa mãn lòng tham hay thỏa mãn
những mong ước cá nhân. Thỏa mãn xong thì “hạnh phúc
hữu lậu” tới rồi lại tan biến đi nhanh chóng. Khi đó ta phải
tìm mục tiêu cá nhân khác để có hạnh phúc hữu lậu khác.

Toàn bộ thế giới này mọi người đều quay cuồng theo
tham vọng cá nhân để truy tìm hạnh phúc. Nhưng sự thật
6
hạnh phúc đó mong manh, hư ảo, ngắn ngủi, dễ vỡ. Khổng
Tử cũng khuyên ta tìm về Hạnh Phúc Vô Lậu như sau:
“Những điều mình muốn hãy làm cho người. Điều mình
không muốn đừng làm cho ai”. Ta muốn gì? Ta muốn hạnh
phúc. Khổng Tử khuyên rằng: “Hãy mang hạnh phúc đến cho
người thì ta sẽ có hạnh phúc đúng như vậy nhưng bền lâu
mãi mãi”.

Điều này cũng giống như ta đầu tư vậy. Trước tiên ta


phải mất công, mất sức, mất tiền để đầu tư cho công ty, cho
sự nghiệp, cho giáo dục, cho đào tạo rèn luyện tay nghề.
Tương lai ta sẽ thu về kết quả vĩ đại. Phúc Vô Lậu cũng cần
phải mất công, mất sức, mất tiền để giúp đời, giúp người, hi
sinh bản thân mang lợi ích đến cho nhân loại. Tương lai ta sẽ
thu về quả báo hạnh phúc vĩ đại bền lâu mãi mãi.

Vậy ta hãy giúp người và ta nên giúp người. Nhưng ta


phải có trí tuệ khôn khéo lựa chọn đúng năng lực sở trường
mà làm. Khi đó ta làm việc nhẹ nhàng mà hiệu quả cao, thu
về lợi ích lớn. Đầu tư thì cần “một vốn bốn lời” còn làm phúc
cũng cần “một vốn mười lời” nếu không ta sẽ phá sản y như
đầu tư vậy. Thế nên mới có câu: “Làm phúc quá tay ăn mày
chẳng kịp” tức làm phúc mà kém trí tuệ thì thành phá sản.

Tôi nghĩ, ta nên giúp các nước nghèo ở Châu Phi phát
triển nông nghiệp và chuyển giao công nghệ sản xuất lương
thực. Người dân Châu Phi họ đang rất đói nghèo khổ cực và
họ đang cần sự giúp đỡ. Tôi thấy đã có bạn Quang Linh Vlog

7
và nhiều bạn trẻ Việt Nam tự phát làm rồi nhưng ta nên xây
dựng thành một chiến lược quốc gia.

Làm phúc thì cần “Của một đồng công một nén” tức nên
giúp bằng sức lực trí tuệ hơn giúp bằng tiền bạc. “Một miếng
khi đói bằng một gói khi no” tức giúp một miếng cơm cho
người gần chết đói có thể cứu sống một sinh mạng. Và triết
lý cần câu con cá: “Giúp người cần câu và dạy họ cách câu cá
thì họ sẽ ấm no cả đời. Giúp người con cá họ ăn một ngày,
ngày sau họ lại đói.”

Nước ta nổi tiếng với thành tích “xóa đói giảm nghèo” và
trình độ sản xuất lúa gạo phát triển. Ta nên mang năng lực
đó giúp các nước Châu Phi vượt thoát đói nghèo. Bên cạnh
đó, nước ta còn nghèo nên không thể có nhiều tiền cho họ.
Ta nên tặng họ cái cần câu và dạy họ cách câu cá. Khi đó ta
đã giúp họ ấm no cả đời. Đó chính là Trí tuệ, đó chính là
Phúc Đức lớn.

Tôi thấy truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam
chúng ta là:

“Uống nước nhớ nguồn


Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

Nay ta hãy thay đổi chút xíu về tư duy câu nói trên. Ta hãy
làm người tạo ra nguồn nước và làm người trồng cây để cho
người khác hưởng. Công sức bỏ ra đào cái giếng, trồng cái
cây là ít ỏi mà lợi ích thì hàng ngàn hàng vạn người được
8
hưởng. Đặc biệt quan trọng khi họ đang đói khát ở Châu Phi.
Quả báo sẽ đến với ta là vĩ đại. Còn ngàn đời nay ta cứ hiểu ý
nghĩa câu nói đó là: “Chỉ hưởng thành quả lao động của
người rồi biết ơn họ”. Điều đó sẽ mãi mãi khiến ta không thể
vĩ đại, mà còn nghèo hèn chỉ vì hiểu sai lời dạy Tổ Tiên.

Sự vĩ đại của dân tộc A khiến cho dân tộc B phải quỳ gối là
vì ơn nghĩa lớn, vì công đức lớn, vì tình yêu lớn mà dân tộc A
đã mang đến cho họ. Sự vĩ đại của một dân tộc không bao
giờ đến bằng vũ lực và đàn áp hay bằng chiến tranh và giết
chóc. Vũ lực chỉ tạo ra kẻ thù vĩ đại mà thôi.

Triết học gia nổi tiếng người Đức Johann Wolfgang von
Goethe có câu nói mà tôi rất thích: “Trước bộ óc vĩ đại tôi
cúi đầu, trước trái tim vĩ đại tôi quì gối”.

Cuối cùng tôi xin chúc nước Việt Nam chúng ta được
Hùng Cường và tạo được nhiều công đức vĩ đại giúp đời.

Xin trân trọng cảm ơn quý bạn đọc đã lắng nghe chia sẻ!

Cư sỹ, thiền sinh: Lương Vinh Tri

You might also like