Professional Documents
Culture Documents
(LuongVinhTri@gmail.com)
Sưu tầm - Bình giải
Bí ẩn
Huyền sử
Đại Việt
Dự thảo 2021
1
Thông báo 1:
Tác giả: Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri (tên
thật là N.M.D) nhận đặt hàng cuốn sách này bản cứng
A5 giấy trắng đẹp, bìa Couche định lượng 300gms cán
mờ gập cạnh 2 lớp bảo vệ sách. Tác giả sẽ giao hàng
tận nơi toàn quốc và có chữ ký cảm ơn Quý bạn đọc.
Nhận hàng xong thanh toán cho Shipper. Ai có nhu
cầu xin liên hệ email: Luongvinhtri@gmail.com.
Thông báo 2:
Tôi không giữ bản quyền cuốn sách này. Tôi chia sẻ
miễn phí toàn bộ tác phẩm cho quý bạn đọc tùy nghi
sử dụng ở dạng file PDF. Tôi khuyến khích bạn đọc và
người hâm mộ có năng lực lập Facebook, Youtube,
Tiktok... sử dụng nghiên cứu của tôi để chia sẻ kiến
thức cho nhiều người. Toàn bộ nội dung sách đều là
kiến thức bổ ích nên đây là công đức lớn và phúc lớn.
Thông báo 3:
Tôi khuyến khích các dịch giả dịch tác phẩm này
của tôi ra nhiều thứ tiếng. Người Tây Âu rất thích học
thuật và kiến thức bổ ích nên đây là điều lợi ích lớn và
phúc lớn.
Xin trân trọng thông báo!
Lời ngỏ 5
Cuốn sách này sẽ giúp bạn khi nghĩ đến Sử Việt
Nam là các bạn cảm thấy yêu Sử Việt với các tích
truyện hấp dẫn mê hoặc lòng người. Mặc dù chưa
chắc 100% là đúng sự thật, nhưng các nhân vật
trong truyện là có thật, thời đại là có thật, cốt truyện
là có thật, còn chi tiết có thể là hư cấu, hoang đường.
Điều đặc biệt nhất là những truyện này được chép
bởi tình cảm của người dân Việt và nó có sức sống
mãnh liệt trong dân gian qua nhiều thế hệ.
Ngoài ra, đặc điểm nổi bật nhất của cuốn Huyền
Sử này là: Giải thích được sự huyền bí trong lịch
sử Việt Nam mà Chính Sử không thể giải thích nổi.
Đó là Thời Vận của đất nước và Tâm Linh của dân
tộc Việt.
Chính sử chỉ nêu ra diễn biến, kết quả, thành công
thất bại mà hoàn toàn bỏ quên yếu tố Tâm Linh của
Sử. Điều này đã khiến cho Chính Sử không hấp dẫn
vì chỉ có lý trí “thấy vậy thì chép vậy” chứ tình cảm
thì khô khan nhạt nhẽo.
Chính Sử đã bỏ quên mất yếu tố Đạo Phật là cái
gốc xây dựng hình thành lên nền Tâm Linh và Phúc
Đức của dân tộc. Vua Lý Thái Tổ là một cậu bé mồ
côi sinh ra ở chùa Ứng Tâm được Thiền Sư Lý Khánh
Vân nhận làm con nuôi. Lên 8,9 tuổi theo học đạo với
Thiền sư Vạn Hạnh rồi ra đời làm tướng đến chức
Tứ Tướng Quân Chế Chỉ Huy Sứ. Vua xây dựng lên
nhà Lý tồn tại 216 năm mở đầu thời kỳ độc lập bền
vững của dân tộc. Nhưng cái gốc của vua là Đạo Phật
thì lại ít được nhắc đến.
Có khi nào các vị Sử thần tiền bối như: Lê Văn
Hưu, Ngô Sĩ Liên... vốn dĩ là nho sĩ Đạo Khổng đã cố
6 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
tình quên hoặc cho rằng là mê tín, là tà ma ngoại đạo
không? Dẫn chứng là vua Trần Nhân Tông chết thiêu
được 3000 ngọc xá lợi ngũ sắc. Trong Đạo Phật thì
các vị Thiền Sư chết hỏa thiêu được ngọc xá lợi là
bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy sự chứng đắc
Đạo Quả. Nhưng các vị Sử thần lại cho là chuyện tầm
phào, nhảm nhí và bàn rằng: “Các sư thanh tịnh dục
thì khi chết thiêu, tinh liên kết lại mà thành ra vậy”.
Thế sao hàng ngàn vị Sư tịnh dục lại chỉ có những vị
Thánh Tăng khi sống đã được coi là chứng đắc Đạo
Quả, khi chết thiêu mới có xá lợi? Hay trường hợp Sư
Vạn Hạnh báo trước ngày giờ mất rồi ngài ngồi thiền
nhập định mà tịch thì các vị Sử thần lại bảo là:
“Người Quân tử không làm như vậy”. Cũng không thể
trách cứ được các vị Sử thần nho sĩ ấy vì những lĩnh
vực ngoài chuyên môn của các vị.
Đặc biệt ở giai đoạn cuối thời Bắc Thuộc, một
nhân vật huyền bí có pháp thuật tâm linh cao siêu là
Cao Biền đã đến cai quản đất Tĩnh Hải Quân (Việt
Nam). Thấy đất Phương Nam có “khí tượng đế
vương” nên người này đã yểm bùa, cắt đứt long
mạch của Đất Việt để mãi mãi về sau Việt Nam
không thể ngóc đầu lên được. Nhưng điều này Chính
Sử không hề chép mà chỉ có các truyện tích Huyền
Sử cổ và Sử Trung Hoa nói rất rõ về nhân vật này
(Đặc biệt là Sử Trung Hoa vì đất nước ta thời đó
thuộc nhà Đường. Các vị Sử thần Trung Hoa cũng
sống trong cùng thời đại sự việc diễn ra).
Tuy vậy, đất nước Việt Nam ta vào thời gian đó đã
có những vị Thiền sư với khả năng tâm linh huyền
học cao thâm hơn Cao Biền. Có vị Thiền sư đoán
Lời ngỏ 7
trước được thời điểm Cao Biền đến đất Việt mà
khuyên đệ tử 120 năm sau tìm người họ Đinh để
giải. Khoảng 120 năm sau đó có vị Thiền sư họ Đinh
đã nối hết 19 điểm long mạch bị cắt đứt. Sư trồng
cây miên (cây gạo) ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị
đứt. Sư viết Sấm Ký lên cây gạo tiên toán sẽ có người
họ Lý lên làm vua.
Rồi 120 năm sau nữa vào thời Lý Công Uẩn đang
làm Tứ Tướng Quân Chế Chỉ Huy Sứ thì cây gạo đó bị
sét đánh tại vết cháy hiện bài thơ. Vạn Hạnh Thiền
Sư đến và giải thích ý nghĩa của bài thơ đó điềm báo
nhà Lý lên ngôi và các sự kiện lịch sử Việt Nam diễn
ra trong 500 năm sau đó đến tận thời nhà Lê Sơ. Lý
Công Uẩn nghe thấy sợ hãi phải đưa Sư phụ trú ẩn
trong chùa vì sợ tin này đến tai vua Lê Ngọa Triều
(vị bạo chúa thời đó). Sấm Ký Vạn Hạnh vô cùng nổi
tiếng trong giới Sử Gia Việt Nam mà cho đến ngày
nay rất nhiều người vẫn nghĩ rằng tác giả là Sư Vạn
Hạnh.
Tất cả những điều bí ẩn trên tôi đều vô tình đọc
được trong cuốn Lịch Sử Thiền Tông Việt Nam của
cố Hòa Thượng Thích Thanh Từ mà không một bộ
sách Sử nào, cả chính sử và huyền sử nói về điều
này.
Có thể suy đoán rằng: mạch nghiên cứu lịch sử
của các vị Sử thần phong kiến tách biệt hẳn với mạch
nghiên cứu lịch sử của các vị Tăng Tổ Thiền Sư trong
Đạo Phật. Và tài liệu nghiên cứu Sử của bên này thì
bên kia không biết đến.
Khi tôi ghép nối lại hai nguồn dữ liệu của Lịch Sử
Thiền Tông và Lịch Sử Việt Nam thì toàn bộ yếu tố
8 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Tâm Linh Huyền Bí của Sử Việt đã hoàn toàn rõ ràng
mạch lạc. Chính xác đến cả về thời gian lẫn tên tuổi
các nhân vật trong Chính Sử và sử Thiền Tông.
Chính bởi sự Huyền Bí kì diệu đó đã khiến cho
cuốn Huyền Sử này vô cùng hấp dẫn đối với tôi và
chắc bạn đọc cũng sẽ vậy.
Để hoàn thiện cuốn sách này tôi xin cảm ơn đội
ngũ các nhà Khoa Học, các nhà Sử Học, các vị Học Giả
và các vị Thiền Sư đã bỏ công sức nghiên cứu Lịch
Sử Việt Nam và đã có những công trình nghiên cứu
được ghi chép thành sách truyện. Đây là nguồn tư
liệu vô giá để tôi tham khảo, trích đoạn và hoàn
thành cuốn sách này.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn đọc, các bạn là những
người đã yêu mến đất nước Việt Nam, muốn tìm
hiểu Sử Việt và là nguồn động viên tích cực cho tôi
hoàn thiện cuốn sách.
Ghi chú thêm: Đại Việt là tên gọi của nước Việt
Nam ta thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn. Đây là
khoảng thời gian 900 năm lịch sử giữ nước hào hùng
nhất của dân tộc Việt. Với bao nhiêu sự kiện quan
trọng diễn ra, bao nhiêu trận đánh chống ngoại xâm
oanh liệt của các triều đại vua tôi Đại Việt. Ngoài ra,
để có được hệ thống đầy đủ Sử Việt, tôi xin mạn phép
có thêm giai đoạn đầu dựng nước thời Hồng Bàng và
thời Bắc Thuộc. Các tích truyện Huyền sử và Giai
thoại được chọn lọc trong cuốn sách này trải dài
trong khoảng thời gian đó đến khi Vua Nguyễn Thế
Thổ lên ngôi và đổi tên nước Đại Việt thành Việt Nam.
Do vậy, tôi xin phép lấy tên cuốn sách là: “Bí ẩn
Lời ngỏ 9
Huyền sử Đại Việt” mong quý vị độc giả vui vẻ đồng
ý với tôi.
Xin trân trọng cảm ơn!
Cư sỹ, Thiền sinh - Lương Vinh Tri
(Luongvinhtri@gmail.com)
(Do Sử không ghi chính xác thời của Chử Đồng Tử,
nên tôi xin lấy niên đại 200 năm sau thời Đức Phật
Thích Ca tại thế. Khi đó đạo Phật phát triển mạnh
sang phía Đông qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia
rồi vào đến Việt Nam)
Hùng Vương truyền tới đời thứ ba (đời thứ 3 có vẻ
sai) thì sinh hạ được người con gái tên là Tiên Dung
mỵ nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không
muốn lấy chồng mà chỉ vui chơi, chu du khắp thiên
hạ. Vua cũng không cấm đoán nàng. Mỗi năm vào
khoảng tháng hai tháng ba lại sắm sửa thuyền bè
chèo chơi ở ngoài bể, vui quên trở về.
Hồi đó ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân
tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, cha từ
con hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn
lại một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc.
Kíp tới lúc cha lâm bệnh, bảo con rằng:
- Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho
con.
Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở
bên sông hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì
đứng ở dưới nước mà ăn xin, khi thì câu cá độ thân
không ngờ thuyền Tiên Dung xốc tới, chiêng trống
nhã nhạc, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất
kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm
ba cây, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ
nằm xuống mà phủ cát lên mình.
Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi
thế, Khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang,
Vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến
64 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi
nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là
nước Văn Lang mất.
Năm Giáp Thìn (257 TCN), Thục Phán dẹp yên
mọi bề, Xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu Âu
Lạc (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đóng
đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú).
(Tham khảo từ: Đại Việt sử ký toàn thư,
1697 (Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên -
NXB VHTT, 2006)
Lời bình: Thời Hùng Vương kéo dài 18 đời (mà sử
cũ còn ghi chép được, theo tôi, chắc còn thiếu sót vài
ba đời) trải dài hơn 2000 lịch sử với những chiến
thắng hiển hách trước giặc ngoại xâm nhà Ân. Đây là
một thời đại thịnh trị bền lâu.
Nhưng lẽ đời là vậy, có sinh thì phải có tử, có hình
thành thì phải có kết thúc. Đến đời Hùng Vương 18,
vận khí vua Hùng đã đến hồi đi xuống, tự nhiên sinh
ra chủ quan, tự kiêu, khinh thường giặc và mất nước
đó là lẽ thường tình. Dù rằng, vua Hùng thứ 18 vẫn vô
cùng tài giỏi, ngài có “Sức Thần” và chưa bao giờ
thua An Dương Vương.
Vóc dáng nhỏ bé nhưng văn hay chữ tốt, tính tình
lại khẳng khái, Trương Trọng trong lần đi sứ đã
khiến vua nhà Hán không ít lần bẽ mặt.
Trương Trọng, người quận Nhật Nam (vùng đất
cuối cùng phía nam Việt Nam thời đó) nhờ hay chữ
nên được viên Thái thú Nhật Nam lấy vào làm thuộc
lại trong quận.
Cuối năm 78, theo lệ nhà Hán, Trương Trọng
được viên Thái thú cử sang kinh đô Lạc Dương để
tâu bầy công việc trong quận lên vua Hán. Hán Minh
Đế thấy Trương Trọng người thấp bé lại là dân "man
di" bèn hỏi xách mé:
- Viên tiểu lại kia người quận nào?
Trương Trọng trong lòng khó chịu nhưng điềm
tĩnh đáp:
- Tôi là người thay mặt Thái thú quận Nhật Nam
vào chầu vua chứ không phải một viên tiểu lại.
Bệ hạ muốn dùng người tài cán hay chỉ muốn
đo xương thịt?
Bất ngờ bị đối thủ trả lời cứng cỏi lại đứng đắn
vua Hán giận lắm nhưng không làm gì được.
Mấy ngày sau, nhân tết Nguyên đán, vua mở tiệc
yến. Nhận thấy trong số các quan vào chúc tết có
Trương Trọng, vua Hán muốn rửa nhục bữa trước
bèn hỏi Trương Trọng:
- "Nhật Nam" có nghĩa là "phương Nam mặt
trời". Ta nghe nói tất cả nhà cửa xứ ấy đều
112 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
quay về phương Bắc để trông thấy mặt trời có
phải không?
Thấy vua Hán kiêu ngạo tự ví mình là mặt trời, bắt
mọi người phải ngưỡng mộ sùng bái, Trương Trọng
quyết trả miếng. Bởi thế, trước trăm quan cùng một
tâm địa cậy thế nước lớn miệt thị nước nhỏ, Trương
Trọng chậm rãi đáp:
- "Nhật Nam" không phải là phía nam mặt trời.
Một bậc túc Nho không ai hiểu như thế. Ví như:
Đất Trung Nguyên (Trung Quốc) có quận "Vân
Trung" nhưng quận ấy có ở trong mây đâu? Có
quận "Kim Thành" nhưng có phải là thành xây
bằng vàng đâu? Ấy là đặt tên thế thôi chứ thực
không phải như thế.
Sau đó lại nói tiếp:
- Lại nữa, ở nơi nào thì mặt trời cũng đều mọc ở
đằng Đông, kẻ thất phu cũng hiểu được như thế.
Còn ở xứ Nhật Nam không ai xoay nhà về
phương Bắc để trông thấy mặt trời. Ngược lại
"lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam" là tục lệ
của dân Nhật Nam là vậy. Nhà cửa ở Nhật Nam
toàn quay lưng về phương Bắc và chẳng ai thay
đổi được tục lệ đó cả.
Vua Hán và quần thần ngây người trước câu đối
đáp rắn rỏi, mạnh mẽ của viên sứ thần có tầm vóc bé
nhỏ mà trí tuệ lớn. Về sau Trương Trọng được vua
Hán cho làm Thái thú quận Kim Thành.
(Tham khảo từ: Các triều đại Việt Nam (trang
32-33) NXB Thanh niên)
(Sử không chép rõ niên đại của Thần khi sống nên
xin mạn phép lấy theo niên đại nhà Tấn 266 - 420)
Sách Giao Châu Ký và truyện Báo Cực thì Vương vốn
họ Tô, tên Lịch, làm quan Lệnh ở Long Độ; Vương
vẫn ở Long Độ, làng ở trên bờ sông nhỏ, gia tư không
hào phú lắm, tề gia lấy sự hiếu đễ làm trọng, đã ba
đời nhân nhượng nhau không ở riêng biệt.
Thời nhà Tấn thì đậu Hiếu Liêm, có lời chiếu biểu
dương môn lư của Vương, gặp năm mất mùa thiếu
ăn, chiếu đong lúa kho cho Vương, lấy tên Vương là
Tô Lịch đặt tên thôn.
Thời Vua Mục Tông nhà Đường, năm Trường
Khánh thứ hai, quan Đô Hộ Lý Nguyên Hỷ thấy ngoài
cửa bắc thành Long Biên có dòng nước chảy ngược,
địa thế khả quan mới tìm chỗ cao ráo để dời Phủ Lỵ
đến; quy chế trù liệu là cửa kép tường đôi, bốn
hướng vây tròn, nhà cửa san sát, ấy là cố trạch của
Vương lúc sinh thời vậy.
Nhân cơ hội ấy, quan Đô Hộ tiết trâu đặt rượu,
mời tất cả các kỳ lão hương thôn đến ăn uống, rồi
thuật truyện muốn tâu xin phụng Vương làm thành
hoàng thì trên dưới một lòng, mưu tính bàn bạc với
nhau rất là thỏa thiếp. Khi ấy bàn tính việc khởi công
làm đền thờ, chẳng bao lâu đền thờ làm xong thì là
một toà đền lớn, nguy nga tráng lệ; ngày khánh
thành, trăm điệu múa đều có, đàn địch vang trời. Đất
bởi người mà đẹp, người bởi đức mà long trọng, có
phải vậy không?
Chắc các bạn đọc cuốn sách này thì đa phần cũng
tin vào một số Y lý Đông Y mà không thể dùng khoa
học chứng minh được như: châm cứu, diện chẩn, xoa
bóp, bấm huyệt... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật
đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch,
huyệt, lạc trong cơ thể con người.
Người ta xác định được hàng ngàn vị trí huyệt đạo
trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp
khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm
vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông
sâu khác nhau.
Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,
điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của
cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn
là bộ phận đó không còn sử dụng được.
Các nhà khoa học Tây Y muốn tìm hiểu huyệt đạo
bằng phẫu thuật. Thì sau khi mổ cơ thể bệnh nhân
ra, nghiên cứu tại các vị trí huyệt đạo thấy không
khác gì các vị trí khác. Ở đó không tập chung dây
thần kinh, không dẫn thần kinh đến các vị trí có tác
dụng... nhưng thực tế thì châm cứu vào vị trí đó thì
khỏi bệnh.
Ta vẫn biết rằng Thiên, Địa, Nhân là hợp nhất. Mọi
vật thể từ vi mô cho đến vĩ mô đều phải tuân theo
những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Do
vậy trên Trái Đất này cũng sẽ có những đường kinh
mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái
Đất này là một cơ thể sống, chứ không phải là một
khối vật chất chết như nhiều người lầm tưởng.
Chương 3: Thời Bắc Thuộc 187
Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng: Tại một
điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào
đó để ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long
Mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa
gọi là trấn ếm cũng giống như châm cứu vào đúng
huyệt trên cơ thể người vậy.
Nhưng Cao Biền giỏi về Địa Cát Trạch xem thế đất,
tìm long mạch, trấn ếm, lúc thắt lúc mở, tạo thịnh tạo
suy... nhưng đó chỉ giỏi về Địa mà thôi.
Tổng hòa của Vũ Trụ phải bao gồm đầy đủ 3 yếu
tố: Thiên, Địa, Nhân. Xem địa và cải địa là thuật
phong thủy. Xem thiên và cải thiên là thuật của tử vi
lý số, chiêm tinh học. Xem nhân và cải vận là Nhân
Tướng Học và Đắc Nhân Tâm hay thuật ứng nhân xử
thế.
Ba yếu tố Thiên Thời - Địa Lợi - Nhân Hòa phải
đạt được sự hài hòa cả ba mới thành. Ví như một
chiếc kiềng 3 chân, nếu cả 3 chân đều chắc khỏe cao
bền thì vô cùng vững trãi. Nếu một trong 3 chân đó
bị yếu, gãy, gục thì toàn bộ sẽ đổ vỡ. Một người giỏi
thiên, giỏi địa, am hiểu rõ trời đất mà tâm tính không
tốt, ác độc, bị trên ghét, dưới thù oán thì không thể
thành được và Cao Biền là một ví dụ điển hình của
sự thiếu hụt yếu tốt Nhân Hòa.
Thiên Thời - Địa Lợi - Nhân Hòa như đã nói thì
Thiên Thời là thời cơ, vận mệnh, số mệnh do trời
mang đến. Địa Lợi là các vấn đề về tâm linh, thờ
cúng, lễ bái, phong thủy. Nhân Hòa là lòng người
hiền hòa thánh thiện tạo phúc tích đức sâu dày.
Trong 3 yếu tố trên thì Nhân Hòa là trung tâm là yếu
tố quyết định nên có câu rằng: “Đức năng thắng số”.
188 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Thiên thời chỉ là Dương trợ, Địa lợi chỉ là Âm phù và
đó là 2 yếu tố phù trợ cho Nhân mà thôi.
Triết học phương đông với những vị học giả nổi
tiếng mọi người kính phục tôn là Bậc Thánh Nhân và
lập đền thờ đều là các vị dạy Đạo Đức con người ví
như: Khổng Tử với đạo người Quân Tử (Nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín) hay Đức Phật Thích Ca với đạo Từ, Bi, Hỉ,
Xả... mặc dù các vị này cũng vô cùng giỏi về trời, về
đất, giỏi về Huyền môn Phép thuật. Nhưng cái gốc để
giúp mọi người đi lên lại là Nhân Đức chứ không
phải là Thiên Địa.
Nhân tướng học có câu“Tướng tự tâm sinh -
Tướng vi tâm diệt” để thay đổi nhân tướng thì ta chỉ
cần thay đổi tâm của mình, tướng sẽ thay đổi và trời
đất, thời vận sẽ đồng hòa cùng thay đổi theo.
Nói thì dễ, nhưng làm mới khó, tâm người đâu dễ
thay đổi, ai tham thì vẫn tham, ai ác độc thì vẫn ác
độc, rồi ích kỉ, nhỏ nhen, cố chấp, kiêu ngạo...tất cả
các thói xấu đó chẳng hề dễ thay đổi. Do vậy mới có
câu: “Non sông dễ đổi, bản tánh khó rời”.
Từ xưa đến nay, thay vì tự sửa lấy tâm của mình
cho Đạo Đức được dày, Phúc Lộc được lớn thì người
ta lại chọn cách làm là: chỉnh sửa tử vi lá số, ngày
giờ, ngũ hành, bát quái, phong thủy, linh vật... để
được may mắn và thành công. Nhưng họ đâu biết
rằng đó chỉ là sửa ngọn mà thôi.
Có câu rằng: ”Đức trọng quỷ thần kinh” một người
với Uy Đức to lớn như núi thái sơn thì Thần và Trời
phải nể phục. Khi đó thế đất đẹp, vận số tốt sẽ tự tìm
đến với họ.
Do nhiều nỗi khổ và lòng ray rứt bất an, lúc mười
giờ đêm ngày mồng ba tháng tư năm 1236, vua Thái
Tông bỏ ngai vàng, trốn lên núi Yên Tử đi tu.
Vua đem theo một số tùy tùng, nói đi để nghe dư
luận dân gian, biết rõ sự thật cho dễ bề trị nước.
Sang sông, đoàn người đi về phía đông. Bây giờ Vua
mới nói rõ ý định đi tu với các người tùy tùng và bảo
họ trở về. Mọi người đều ngạc nhiên và khóc lóc.
Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau Vua đến bến đò
Đại Than ở núi Phả Lại. Trời sáng, sợ người nhận ra,
Vua lấy vạt áo che mặt mà qua đò, rồi theo đường tắt
lên núi.
Đến tối, Vua vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi
sáng lại đi. Khó khăn trèo núi hiểm, lội suối sâu, con
ngựa đã yếu không thể lên núi được nữa, Vua phải
bỏ ngựa vịn vào các tảng đá mà đi. Khoảng hai giờ
trưa mới đến chân núi Yên Tử.
Sáng hôm sau, Vua lên thẳng đỉnh núi và vào tham
kiến Thiền sư Trúc Lâm (có lẽ Thiền sư Đạo Viên).
“Thấy Trẫm, Quốc sư mừng rỡ. Người ung dung
bảo Trẫm: Lão tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương
cứng mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước
suối, vui cảnh núi rừng đã quen, lòng nhẹ như đám
mây nổi, cho nên mới theo gió mà đến đây. Nay Bệ hạ
bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng
núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở đây cho nên mới đến,
phải không? Trẫm nghe lời thầy hỏi, hai hàng nước
mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng: Trẫm còn thơ ấu,
Chương 6: Thời nhà Trần 417
đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có
nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế
vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới
vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chớ chẳng muốn
tìm gì khác. Thầy đáp: Trong núi vốn không có Phật,
Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất
hiện, đó chính là Phật. Nếu Bệ hạ giác ngộ được tâm
ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi
tìm cực khổ ở bên ngoài.”
(Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam)
Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi Yên
Tử đón Vua về kinh. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam,
Thái Tông viết:
“Thấy Trẫm, Trần Công thống thiết nói: Tôi chịu lời
ủy thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua trong việc
làm chủ thần dân. Nhân dân đang mong đợi Bệ hạ
như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay các
vị cố lão trong triều đều là họ hàng thân thích, sĩ thứ
trong nước ai nấy đều vui vẻ phục tùng, đến đứa trẻ
lên bảy cũng biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái
Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa
ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng, thế mà Bệ hạ
đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí
riêng của mình. Tôi dám nói rằng Bệ hạ vì sự tự tu
cho riêng mình mà làm vậy thì được, nhưng còn quốc
gia xã tắc thì sao? Nếu để lời khen suông cho đời sau
thì sao bằng lấy ngay thân mình làm người dẫn đạo
cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần
chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong
ngày hôm nay, quyết không trở về.
Bởi vậy trừ các buổi thiết triều Vua mới phân biệt
trên dưới, còn thường ngày Vua cho các hoàng thân
vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, thật hòa
hợp thân ái.
Đối nội, Vua dốc lòng xây dựng đất nước thái
bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hóa dân,
khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi
chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy dưới triều
Vua Thánh Tông, không chỉ có các ông hoàng hay
chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc
Đĩnh Chi. Bộ Đại Việt sử bộ quốc sử đầu tiên của ta
được Lê Văn Hưu hoàn thành năm Nhâm Thân
(1272).
Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra
lệnh cho các vương hầu phò mã chiêu tập những
người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang,
422 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
lập trang bộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm
làm Vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân
chúng yên ổn làm ăn.
Đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong
nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Đại
Việt. Khi Vua Thái Tông, Vua Mông Cổ sai sứ sang
phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không
còn bắt Đại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể
chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt Vua ta cứ 3 năm
phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói,
thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3
người cùng các sản vật: sừng tê, ngà voi, đồi mồi,
châu báu vật lạ khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan
Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Đại Việt,
thật ra là để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương
thường cho các nước láng giềng. Vua Trần Thánh
Tông thừa biết dã tâm xâm lược của nhà Nguyên,
nên tuy bề ngoài thần phục nhưng vẫn tích cực
chuẩn bị binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó.
Năm Bính Dần (1266), Vua Nguyên cho sứ sang
giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn
việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám trị. Vua
Nguyên bằng lòng việc cống người nhưng lại bắt
tuân thủ 6 điều khác: Vua phải thân vào chầu, phải
đưa con em sang làm con tin, nộp sổ hộ khẩu, phải
chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ
đặt quan giám trị.
Vua Đại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm
Tân Mùi (1271), Vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt nhân
đổi quốc hiệu Đại Nguyên đòi Vua Thánh Tông vào
chầu. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Chúng cho
Chương 6: Thời nhà Trần 423
sứ sang tìm Cột đồng trụ mà Mã Viện dựng ngày
trước, Vua Thánh Tông trả lời rằng: “cột ấy lâu ngày
đã mất”.
Nhìn chung, dưới thời Vua Trần Thánh Tông thực
hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên
quyết, chằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, năn chặn
từ xa mọi sự dòm ngó, tạo sự xâm lược của nhà
Nguyên.
Trong thời gian làm Thái Thượng Hoàng, nhà
Nguyên phải liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh
xâm lược vào các năm 1285 và 1287, toan làm cỏ
nước Nam. Trong hai lần kháng chiến này, Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông và Vua Trần Nhân Tông đã
trở thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân
dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi huy hoàng.
Năm Đinh Sửu (1277), Thái thượng hoàng Trần
Thánh Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc).
Năm sau, Vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là
Thái tử Khâm (Trần Nhân Tông) rồi về ở phủ Thiên
Trường làm Thái thượng hoàng.
Vua Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái
thượng hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.
(Tham khảo từ: Lịch sử Việt Nam (Ủy Ban Khoa
học Xã hội Việt Nam-1985)
Lời bình: Quả là một đức vua anh minh khiến 21
năm dân chúng hưởng bình an không loạn lạc đói
kém. Và cũng là quãng thời gian vô cùng quan trọng
để chuẩn bị luyện tập binh sĩ, chuẩn bị lương thảo,
sản xuất vũ khí. Tướng lĩnh chăm chỉ luyện rèn binh
Vua hỏi:
Ông đáp:
- Tâu bệ hạ, chỉ một mình tôi cũng có thể đương
được với chúng nó.
Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên
quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò
tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông nhảy tòm xuống nước
trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân
giặc đã bị thiệt hại khá nặng, lại nghe Yết Kiêu nói
nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng
chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy
nhiễu nữa.
Nhà Vua mừng quá, khen ngợi Yết Kiêu vô cùng,
phong ông làm đại vương. Sau khi ông mất, mọi
người nhớ ơn lập đền thờ ở cửa Vạn-ninh và ở nhiều
cửa biển khác.
(Tham khảo từ: Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế
Pháp, 1493), (NXB Giáo dục, 1997)
Vào thời nhà Trần có một ông Vua sinh được năm
nàng Công Chúa, trong đó có hai nàng xinh đẹp: một
người tên là Bảo Nương, một người tên là Ngọc
Nương.
Năm hai nàng đến tuổi lấy chồng, Vua cha toan hạ
chiếu kén rể nhưng cả hai đều từ chối. Họ chỉ thích
đi xem núi sông cảnh vật trong nước. Họ tâu với Vua
cha trong một buổi vấn an:
- Thưa phụ hoàng! Phong cảnh nước nhà thật
muôn phần cẩm tú. Chúng con chưa muốn lấy
chồng. Chúng con chỉ xin phép phụ hoàng đi
chơi một chuyến để xem cho thỏa thích.
Vua Trần không biết làm sao can ngăn được, đành
phải chiều ý hai con. Họ cải trang thành hai gã con
trai, mang theo một số người hầu hạ, và từ đấy, đoàn
du hành không quản gió sương, đi khắp mọi nơi
trong nước, đặt dấu chân ở nhiều danh lam thắng
cảnh.
Vào hồi đó, có giặc Nguyên sang cướp nước ta.
Quân của chúng rất hung ác, đi đến đâu thì cướp bóc
tàn phá đến đấy. Dưới tay chúng, những đình đài
miếu mạo cũng như nhà cửa dân cư đều lâm kiếp tro
bụi.
Nhà Vua phái bao nhiêu quân đội đến biên thùy
nhưng không sao ngăn được bước tiến của chúng.
Chẳng bao lâu, chúng đã chia nhau chiếm khắp đầu
gò cuối bãi một vùng hữu ngạn sông Thương, đóng
đồn la liệt, để rồi hãm hiếp, chém giết, đốt phá không
còn kiêng nể gì.
488 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Bấy giờ, hai nàng Công Chúa đang ở bên tả ngạn
sông Thương. Vì vùng Đa-mỗi có nhiều phong cảnh
đẹp, nên hai chị em sai làm nhà trên bờ sông để tiện
trú chân ngắm cảnh. Thấy đất nước và dân cư bị tàn
phá vì lũ giặc hung hãn, hai nàng xiết bao căm tức.
Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép Vua cha
một phen liều mình diệt giặc.
Cầm đầu lũ giặc lúc đó ở vùng Bắc Giang có hai tên
tướng tiên phong. Chúng lăm le vượt sông tiến
nhanh về phía Kẻ Chợ. Hai nàng bí mật bàn với các
phụ lão làng Đa-mỗi giúp cho mình thực hiện được
mưu kế.
Thấy họ quả quyết, các phụ lão đành vâng lời. Hai
nàng bèn trang điểm rất đẹp, giả làm hai cô gái bán
hàng ở chợ ben sông, cố làm cho giặc ở bên kia trông
thấy.
Quả nhiên, hai tên tướng giặc vừa nhác thấy bóng
hồng thì tâm thần mê mẩn, chúng liền rút lệnh tiễn
cho quân hầu sang sông, truyền lệnh cho lang Đa-
mỗi phải đưa sang dâng nạp hai người con gái đó,
nếu kháng cự thì dân làng sẽ không thoát được cái
vạ "làm cỏ" một khi quân "thiên triều" sang sông. Hai
nàng bảo chúng:
- Chị em chúng tôi vẫn có lòng chờ hai tướng
quân. Nhưng chúng tôi vốn là con Vua cháu
chúa cũng biết chút lễ nghĩa. Nếu hai tướng
quân có lòng thương thì cho sang đây hai chiếc
thuyền hoa, chọn ngày lành tháng tốt, đón về tử
tế. Nếu tính truyện "cẩu hợp" thì chị em chúng
Quân hầu trở về tin lại. Hai tên tướng giặc bèn sai
lấy hai chiếc thuyền, trang sức đẹp đẽ, cho mười
quân hầu và thị nữ mang vàng bạc chèo sang đón về.
Thấy chúng đến, hai nàng đón tiếp rất tử tế, sai dọn
cỗ bàn mời chúng ăn.
Trong khi đó, có mấy người thợ mộc đã cắt đặt
sẵn, kín đáo lôi thuyền lên bãi dùng khoan đục mỗi
thuyền chừng vài chục lỗ nhưng chú ý đút nút kín
lại, rồi đưa xuống nước như cũ. Sau khi phái mấy
người thân tín phi ngựa về Kẻ Chợ báo tin cho quân
triều, hẹn ngày tiến quân, đồng thời gửi lời vĩnh biệt
của mình tới hoàng hậu, Vua cha và anh chị em
hoàng thân quốc thích, hai nàng quay ra bảo mấy tên
quân hầu của giặc:
- Các người về bẩm với hai tướng rằng chị em
chúng tôi đã chọn được ngày lành tháng tốt,
đúng giờ thân sẽ xin xuống thuyền sang sông.
Nhưng hai chị em chúng tôi phải lên chỗ muôn
tên nghìn giáo thì rất sợ hãi, chỉ mong hai
tướng quân cùng đi thuyền đến làm lễ hợp cẩn
ngay trên thuyền hoa này.
Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân biết rằng
Công Chúa sẽ bị hỏa táng, nhưng không biết làm thế
nào, thấy sứ Trần Khắc Chung tới mới hát lên một
câu ngụ ý cho sứ Nam biết mà lo liệu cứu Công Chúa
khỏi bị lên thang hỏa đàn:
“Đàn kêu tích tịch tình tang,
508 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
Ai đem Công Chúa lên thang mà ngồi”.
Người Chiêm Thành nghe theo lời giải bày của
Trần Khắc Chung, để Công Chúa Huyền Trân xuống
thuyền ra giữa biển làm lễ Chiêu Hồn cho Chế Mân.
Trần Khắc Chung đã bố trí sẵn sàng, cỡi một chiếc
thuyền nhẹ trực sẵn, đợi thuyền chở Công Chúa ra
xa, lập tức xông tới cướp Công Chúa qua thuyền
mình, dong buồm ra khơi nhắm thẳng về phương
bắc.
Huyền Trân Công Chúa gặp lại người tình cũ đến
cứu mạng về, hoa xưa ong cũ ai ngờ còn có ngày tái
ngộ, đôi trai tài gái sắc kéo dài cuộc tình duyên trên
mặt biển, hơn một năm mới về đến kinh sư.
(Tham khảo từ: Những liệt nữ trong lịch
sử Việt Nam (NXB Lao Động, 2013)
Lời bình: Công chúa Huyền Trân được ghi vào sử
Việt nhờ có công mở mang bờ cõi Đại Việt thêm hai
châu Ô, châu Rí trong hòa bình và thỏa hiệp. Công đức
này nếu so với những vị tướng quân hào hùng đánh
giặc Chiêm Thành cũng không kém phần oanh liệt.
Trong lịch sử cũng có nhiều vị công chúa được gả
cho vua nước lân bang để đổi lấy hòa hiếu (giống như
đi làm con tin, nếu có chiến sự xảy ra giữa hai nước
thì các vị sẽ là người đầu tiên bị giết). Nhưng vì không
có công trao đổi đấy đai nên không được ghi chi tiết
trong sử như Công chúa Huyền trân. Lịch sử còn ghi
nhận công lao mở nước của nhị vị công chúa con Sãi
Vương Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Vạn lấy vua
Chân Lạp, Công chúa Ngọc Hoa lấy vua Chiêm Thành.
Sự tàn bạo quá đáng của ông "vua quỷ" này đã dẫn
tới cuộc nổi dậy của một số người trong tôn thất
cùng sự hỗ trợ của nhiều quan lại.
Đó là vua Lê Uy Mục, tên thật là Lê Tuấn, ngoài ra
còn có tên khác là Lê Huyên. Lên ngôi cuối năm Giáp
Tý (1504), Lê Uy Mục đã bộc lộ ngay bản tính bạo
tàn của mình bằng việc giết hại tổ mẫu là Thái Hoàng
Thái Hậu cùng nhiều đại thần đã không ủng hộ việc
lên ngôi của mình như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang
Bật,...
“Túc Tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thân”.
(Theo Đại Nam quốc sử diễn ca)
Từ khi lên ngôi, Lê Uy Mục chỉ ham rượu chè, gái
đẹp và giết chóc; triều chính bỏ bê cho bọn hoạn
quan và bên họ ngoại khuynh đảo, lộng hành.
Đêm nào Lê Uy Mục cũng cùng với cung nhân
uống rượu vô độ, đến khi say thì giết đi; có khi lại
bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để mua vui. Sứ nhà
Minh là Hứa Thiên Tích khi sang, thấy tướng mạo đã
làm thơ gọi Uy Mục là "vua Quỷ" (Quỷ Vương).
Sách Đại Việt sử ký toàn thư bình rằng: "Vua thích
uống rượu, hiếu sắc, làm oai, giết hại người tôn thất,
giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ
oán giận, người đời gọi là Quỷ vương, điềm loạn hiện
ra từ đây!".
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 631
Sự tàn bạo quá đáng của ông "vua quỷ" này đã dẫn
tới cuộc nổi dậy của một số người trong tôn thất
cùng sự hỗ trợ của nhiều quan lại. Tháng 12 năm Kỷ
Tỵ (1509), Lê Uy Mục bị giết, quân nổi dậy đặt xác
vào miệng súng bắn tan cả hài cốt.
(Tham khảo từ: Những chuyện lạ khó
tin về các vị vua Việt Nam, trang 12-13, NXB Hồng
Đức)
Lời bình: Uy Đức của vua khai quốc là cao nhất
sau đó luôn mất dần Phúc Đức ở các thế hệ về sau. Tại
sao vậy? Vì rằng khi lập quốc Vua là một người
thường nếm mật nằm gai và chịu khổ cực nên ngài
biết quý trọng cái ngôi vua, yêu mến nhân dân vì cảm
nhận được nỗi khổ của dân. Vua không kiêu ngạo
không tham lam hưởng thụ.
Đến thế hệ con cháu sinh ra đã là thái tử cung vàng
điện ngọc, không bao giờ biết đến nỗi khổ của dân,
nên không quý ngôi vua và không thương dân. Vua
sinh kiêu ngạo, tham lam, ích kỷ và thích hưởng thụ,
thích khoái lạc.
“Thượng bất chính, Hạ tắc loạn”
Vua và đình thần mất Đức, mất Phúc, mất Nhân thì
xã hội loạn từ trong loạn ra, loạn từ trên loạn xuống.
Thế mới hay chữ Đức và chữ Phúc quan trọng biết
chừng nào. Phúc Đức của một vị vua có thể cảm hóa
cả trời và thần. Người dân có Đức, toàn dân có Đức
thì dẫu kẻ thù trăm vạn quân cũng sẽ bị thất bại. Khi
vua không có Đức thì dân chúng tham lam ích kỉ. Khi
đó không cần kẻ thù nào mà căn bệnh “ung thư” bên
trong sẽ phá tiêu đất nước.
Anh học trò bái phục thầy, xin nhận những lời chỉ
bảo quí. Trạng Trình thật là người suy đoán giỏi.
(Tham khảo từ: Bí ẩn văn hóa việt nam
và thế giới, NXB Văn hóa thông tin 2008)
Lời bình: Trong lý thuyết âm dương thì cái âm là
cái không hình không tướng luôn ẩn chứa nhiều bí
mật hơn cái dương có hình tướng.
Lý và Cảm thì cái Lý là dương vì 1+1=2 dễ nhìn
thấy, cái Cảm là cái âm vì Cảm do tâm ứng hiện
không hình không tướng.
Quẻ kinh dịch hiện ra vậy cũng là có hình tướng và
thuộc về Lý 1+1=2. Một thầy tướng giỏi chỉ căn cứ
30% quẻ dịch mà thôi. Để đoán chính xác thì phải kết
hợp với duyên hiện có và cái tâm cảm ứng của mình
mà đoán thì mới đạt.
Ở đây Trạng Trình và học trò cũng một quẻ mà
đoán. Cậu học trò 100% toàn bộ dựa vào lý luận mà
suy đoán. Còn Trạng thì đã dùng cảm để đoán và dựa
vào cái duyên hiện có như: thời tiết, ngày giờ, mùa
vụ... thì việc mới thành.
Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc
và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến
là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ
Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫụ.
Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch
xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùạ Đôi khi cũng xây
chùa theo kiểu chữ đinh.
Tại gian chính giữa, là nơi đặt tượng Mẫụ. Trường
hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh Mẫu, được
hiểu là Mẫu của tất cả. Trường hợp đặt ba tượng
Mẫu thì đó là Mẫu Thượng Ngàn (ở bên phải), Mẫu
Liễu (ở chính giữa) và mẫu Thoải (ở bên trái). Ba
pho tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc
hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay
chắp. Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫụ
Đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh là người đứng đầu hệ
thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Người mặc áo
đỏ, chùm khăn đỏ, ngồi chính giữa.
Liễu Hạnh Công Chúa là một trong những
vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn
được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu
Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà
được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu
Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là
con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, đã 3 lần
giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ
thời nhà Hậu
Chương Lênhà
7: Thời đếnHồ,
thời nhà
giặc Nguyễn
Minh, cấp nhiều Sắc,
Hậu Lê
659
tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn
dân" và cuối cùng quy y cửa Phật.
Lần giáng sinh thứ nhất:
Vào đầu thời nhà Hậu Lê (khoảng 1433), tại ấp
Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa
Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên,
người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng,
người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ
Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích
đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có
con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo
mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công
Chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai.
Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý
Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang.
Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một
nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà,
và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm
Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc
nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến
năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng
nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc
cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia
đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của
nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi
tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở
phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La
671
156. Mẫu Thoải - Thủy cung Thánh Mẫu (?-?)
Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc
và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến
là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ
Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫụ.
Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch
xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùạ Đôi khi cũng xây
chùa theo kiểu chữ đinh. Tại gian chính giữa, là nơi
đặt tượng Mẫụ. Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì
đó là Thánh Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả.
Trường hợp đặt ba tượng Mẫu thì đó là Mẫu Thượng
Ngàn áo xanh chùm khăn xanh (ở bên phải), Mẫu
Liễu áo đỏ chùm khăn đỏ (ở chính giữa) và mẫu
Thoải áo trắng chùm khăn trắng (ở bên trái). Ba pho
tượng này đều tạc hình một phụ nữ, đẹp, phúc hậu,
ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp.
Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.
Ở đây chỉ xin nói đến truyền thuyết của một mẫụ
Đó là: Thủy cung Thánh Mẫu (còn gọi là Mẫu Đệ
Tam, Mẫu Thoải, chữ thoải là đọc trệch từ chữ thủy)
là vị nữ thần dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm
quản lý các miền sông nước. Theo quan niệm dân
gian Việt Nam, Mẫu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để
âm phù.
Mẫu thoải phủ là con gái út của Bát Hải Long
Vương, hay rẽ nước biển lên trần dạo chơi. Nhưng
ngày kia Vua cha cho đóng cửa biển nàng Công Chúa
thủy phủ này không còn đường về thủy cung, nên đã
ở trên trần đầu thai thành người. Nàng tu nhân tích
đức giúp đời giúp người. Từ cô bé nhỏ dần trưởng
672 Ủng hộ tác giả: Vietcombank 0011000528521 N.M.D
thành xinh đẹp, công đức được dày và được phong là
Công Chúa thủy phủ rồi đức hạnh ngày càng cao nên
được mệnh danh là Mẫu thủy phủ, mẹ của người dân
miền sông nước. Mẹ có thể cứu dân vùng sông nước
bị chết nước, đưa vong lên bờ để không phải chịu sự
lạnh giá miền sông nước.
Có thuyết nói: Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng
tính theo nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc
Hoàng Thượng đế ban cho sức mạnh và tài năng,
nhất là tài sông nước, như nam giới. Thuyết này cho
rằng Mẫu Thoải là vợ của Vua Thủy Tề, là Hoàng hậu
ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở
biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, suối. Do
sông suối có ở khắp nơi nên Mẫu cũng có mặt ở khắp
nơi, nhất là tại các bến sông lớn.
Cũng có thuyết nói: Mẫu, không phải một, mà là
ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu
Cơ. Trong số các con, Lạc Long Quân đã chọn ba
người giao cho việc cai quản sông biển nước Nam.
Thủy tinh Động đình Ngọc nữ Công Chúa. Hoàng Bà
Đoan khiết Phu nhân. Tam giang Công Chúa. Ba bà
đóng dinh cơ ở sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi
sóc các sông nước, luồng lạch, dạy dân chế tạo
thuyền bè và đan các thứ lưới bắt cá, chế ngự các vị
thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm
hại đến hạ giới. Các Mẫu còn làm mưa và giúp dân
chống lụt.
Có thuyết nói: Bà vốn là con Vua Bát Hải Thủy
Quốc Động Đình, kết duyên cùng Kính Xuyên (là con
Vua Đất). Nghe lời tiểu thiếp Thảo Mai, Kính Xuyên
vu cho bà thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho
Chương 7: Thời nhà Hồ, giặc Minh, Hậu Lê 673
thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu bà không những
được thú rừng yêu quý, mang vật quả đến dâng mà
còn gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Bà bèn nhờ Liễu Nghị
mang thư kể hết sự tình về cho Vua cha. Sau đó bà
được minh oan, kết duyên cùng Liễu Nghị, còn Kính
Xuyên và Thảo Mai thì bị trừng phạt.
(Tham khảo từ: Tín ngưỡng và văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) - NXB Trẻ
2012)
Lời bình: Truyện tích rất mơ hồ, chẳng rõ thực hư.
Chỉ biết rằng có một vị Thần chuyên cai quản vùng
sông nước, giúp dân thuyền chài thoát khỏi tai nạn
sóng gió bão tỗ. Nếu khi ai bị chết nước thì Thần giúp
các vong đó biết đi vào bờ không bị lang thang lạnh
lẽo cô đơn và cảm giác xặc nước khổ sở.
Còn cụ thể Thần là ai? Tên họ là gì? Sinh ra năm
nào? mất năm nào? Quê quán ở đâu? Công đức cụ thể
khi sống như thế nào? Thì không rõ.
Nhưng chắc chắn đó phải là một con người thật,
tạo Công đức thật và người đó có duyên với sông
nước Việt Nam cũng như với người dân miền sông
nước.
Cũng có thể là do Nguyện Ước của Thần mà thành
Phúc Thần độ trì miền sông nước cũng nên. Nhưng
thôi: “Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân
vô danh” đã là Thần thì không chấp vào công đức đã
làm, đã là Thánh thì không cần danh tiếng hão huyền.
Chập sau quân Tây Sơn kéo tới, xúm bao vây ông
sư nọ mà hỏi:
- Nguyễn Ánh đâu rồi? Nói mau bằng không ta
chém đầu.
Sư cụ nói:
- Mô phật, xin các ông cứ lục xét chùa. Nếu có
bần tăng cam chịu tội.
Viên chỉ huy bèn đem cây đèn trên bàn Phật
xuống mà rọi từ trong ra ngoài. Bỗng nhiên, hắn
dòm xuống bàn phật mà la lớn:
- Ba đứa nào đây? Quân đâu! Mau chém nó.
737
Việt Nam. Và cuốn sách này cũng xin tạm khép lại với
cái tên “Bí ẩn Huyền sử Đại Việt”.
22. Quân Nam Chiếu (111 TCN - 942 sau CN) ............... 97
23. Hai Bà Trưng (40 - 43) ................................................. 100
24. Bát Nàn Công Chúa (40 - 43) ..................................... 103
25. Quý Lan Nữ Tướng (40 - 43)...................................... 108
26. Dân nước Nam làm nhà quay lưng về Bắc (78) .. 112
27. Vương Sĩ Nhiếp (136 - 226) ....................................... 115
28. Phật Mẫu Man Nương (136 - 226) ........................... 121
29. Triệu Thị Trinh, Bà Triệu (225 - 248) .................... 126
30. Thần Tô Lịch (266 - 420) ............................................ 129
31. Lý Bôn - Lý Nam Đế (503 - 548) ............................... 132
32. Chùa Trấn Quốc, Hồ Tây, Hà Nội (544) .................. 135
33. Triệu Việt Vương (? - 571), Lý Phật Tử (? - 602) 137
34. Chu Phúc Uy (?-545) ..................................................... 143
35. Trương Hống và Trương Hát (502 - 571) ............. 149
36. Tổ sư Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594) .................. 156
37. Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế (? - 722) .................... 163
38. Phùng Hưng - Bố cái Đại vương (? - 791) ............. 167
39. Thiền sư Định Không (730 - 808) và Sấm Kí ....... 172
40. Cao Biền (821 - 887) ..................................................... 177
41. Nói về Cao Biền, lại bàn về Long Mạch ................... 187
42. Cao Biền, Cao Lỗ, ếm Tản Viên (821 - 887) .......... 194
745
64. Vua nhà Lý lấy Đức để an dân (1009 - 1225) ...... 281
65. Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018).................................... 285
66. Giải mã Sấm Ký trên cây gạo (1008) ....................... 290
67. Vua Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) ................................ 294
68. Đền Bạch Mã và sự tích Thăng Long (1010) ........ 298
69. Thổ địa xứ Đằng Châu (1010) .................................. 300
70. Lý Thái Tổ an định trời đất (1012).......................... 303
71. Lê Phụng Hiểu (982 - 1059) ....................................... 305
72. Lý Phục Man (1020) ...................................................... 309
73. Lý Thái Tông dẹp loạn tam vương (1028)............ 312
74. Mỵ Ê - Hoàng hậu Chiêm Thành (1044) ................ 316
75. Mục Thận cứu Vua (1028 - 1054) ............................ 322
76. Phạm Cự Lượng (1028 - 1054) ................................. 325
77. Lý Nhật Quang - Uy Minh Vương (?-1057) ........... 328
78. Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm (1069) ............... 332
79. Hậu Thổ Phu Nhân (1069) .......................................... 336
80. Lý Thường Kiệt phá Tống (1075-1076) ................ 340
81. Lê Văn Thịnh đòi vua Tống đất đai (1084) ........... 348
82. Lý Nhân Tông (1072 - 1128)và ông bà Dầu ......... 352
83. Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? - 1115)............................. 358
84. Thiền sư Nguyễn Minh Không (1076 - 1141) ..... 366
85. Nguyên Phi Ỷ Lan (? - 1117)....................................... 372
86. Thái Úy Tô Hiến Thành (1102 - 1179) ................... 376
87. Dương Tự Minh - Thánh Đuổm (1105-1150) ..... 380
88. Lý Anh Tông (1136-1175) anh minh sáng suốt . 385
89. Lý Cao Tông (1176 - 1210) thời suy mạt .............. 388
92. Đại thắng Nguyên Mông (1258, 1285, 1288) .... 397
93. Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278) .................................. 405
94. Trần Thủ Độ (1194 - 1264) ........................................ 410
95. Trần Thái Tông (1225-1258) trốn lên Yên Tử .... 413
96. Vua Thiền Sư Trần Thái Tông (1225 - 1258) ...... 417
97. Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) ..................... 422
98. Vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) ........................ 426
99. Trần Nhân Tông (1279 - 1293) Sơ Tổ Trúc Lâm 429
100. Trần Hưng Đạo (? - 1300) ........................................... 434
101. Thiên Tướng giúp Trần Hưng Đạo (1284) ........... 439
102. Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) .................................... 443
103. Trần Thừa (cha của Trần Cảnh) (1184 - 1234) .. 446
104. Trần Nhật Duật (1255 - 1330) .................................. 451
105. Trần Quang Khải (1241 - 1294) ............................... 458
106. Trần Khánh Dư (1240 - 1340) .................................. 461
107. Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 - 1291) ...................... 468
108. Yết Kiêu (1242 - 1301) ................................................. 471
109. Bà chúa bơi, mẹ nuôi Yết Kiêu (? - 1285) .............. 475
110. “Trạo Nhi” đặc công nước (1285) ............................ 479
111. An Tư Công Chúa (? - 1285) ....................................... 485
112. Nhị vị Công Chúa nhà Trần (? - 1285) .................... 488
113. Công Chúa Phụng Dương (1244 - 1291) ............... 493
747
114. Bà chúa kho Lý Thị Châu (1225 - 1300) ................ 495
115. Nguyễn Bá Linh (? - 1285) .......................................... 498
116. Quốc sư Quán Viên (1293-1314) ............................. 501
117. Trần Thì Kiến (1260 - 1330) ...................................... 504
118. Huyền Trân Công Chúa (1306) ................................. 507
119. Đoàn Nhữ Hài (1280 - 1335) ..................................... 510
120. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346).......... 515
121. Chu Văn An (1292 - 1370) .......................................... 519
122. Trần Dụ Tông (1336 - 1369) thời suy mạt ........... 524
123. Công chúa Thiên Ninh (1324 - 1371) ..................... 529
124. Tuệ Tĩnh Thiền Sư (1330 - 1400) ............................ 534
125. Trần Duệ Tông (1372 - 1377) chết vì khinh giặc 538
126. Trần Khát Chân (1370 - 1399) .................................. 545
158. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ (1753 - 1792) .... 677
159. Truyện tích về Nguyễn Nhạc (1743 - 1793) ........ 682
160. Truyện tích về Nguyễn Huệ (1753 - 1792) .......... 691
749
161. Nguyễn Hữu Chỉnh (? - 1788) .................................... 694
162. Bí ẩn về cái chết Vua Quang Trung .......................... 698
163. Bùi thị Xuân (1771-1802) nữ Tướng giết hổ....... 711
164. Hai nữ tướng dân tộc nhà Tây Sơn (1771)........... 715
165. Công chúa Lê Ngọc Hân (1770 - 1799) .................. 722
166. Nguyễn Ánh, Vua Gia Long (1762 - 1820) ............ 724
167. Truyện tích về vua Gia Long (1762 - 1820) ......... 727
168. Tây Phương chép về vua Gia Long........................... 731
Lời cảm ơn cuối sách ! ............................................................. 739
Mục lục .................................................................................. 743
Mục tiêu năm 2045 nước Việt Nam ta sẽ thành nước giàu
có hùng mạnh với thu nhập GDP đầu người cao trên 30.000
USD/năm. Tôi xin kiến nghị Chính phủ nên thay đổi Sologan
Việt Nam ta có từ năm 1945 do Bác Hồ viết là “Độc lập - tự
do - hạnh phúc” thành “Độc lập - tự do - ấm no - hạnh
phúc”. Điều này tuy nhỏ nhưng thật sự ấn tượng. Đây chính
là “Đại cách mạng trong tư tưởng nhân dân Việt Nam”.
Tôi đoán rằng các bạn chắc ai cũng biết câu nói: “Có thực
mới vực được đạo - Vật chất có trước tinh thần có sau -
1
Vật chất quyết định ý thức”. Vậy nên vật chất “ấm no” cần
có trước thì tinh thần “hạnh phúc” mới đến sau. Đó là chân
lý của mọi thời đại, của mọi xã hội trên Thế giới này.
Từ xưa đến nay, hễ mỗi khi dân chúng đói nghèo là nước
loạn: “Bần cùng sinh đạo tặc”, “Túng quá hóa liều” từ Tây
sang Đông đều diễn ra đúng y như vậy. Từ cách mạng Mỹ
(1765-1783), cách mạng Pháp (1789-1799) đến cách mạng
tháng 10 Nga 1917 hay cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam
ta đều có nguồn gốc từ đói nghèo và áp bức bóc lột mà ra.
Mà “Độc lập tự do” là thoát áp bức bóc lột. Thế sao không
thấy mục tiêu thoát đói nghèo?
Xứ Tàu thì có “Tứ đại mỹ nhân”: Tây Thi, Đắc Kỷ, Điêu
Thuyền, Dương Quý Phi. Rồi “Tứ đại danh tác”: Tây du ký,
Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Hồng lâu mộng. Việt Nam ta
thì có “Tứ đại hộ pháp” hay “Tứ trụ triều đình”. Thế giới thì
có “Bộ tứ kim cương”.
Phật giáo thì có: “Tứ thánh quả” 4 tầng bậc chứng đắc
thánh quả. “Tứ thiền” 4 tầng thiền định viên mãn. “Tứ như ý
2
túc” 4 món báu như ý của Chuyển luân thánh vương. “Tứ
nhiếp pháp” 4 pháp giáo hóa chúng sinh của các vị Bồ Tát.
Khoa học nói rằng: “Sự sống trong vũ trụ này tồn tại cần
hội đủ 4 yếu tố: Đất, nước, gió, lửa” Phật gọi là “Tứ đại”.
Nhưng theo bạn “Sinh - Lão - Bệnh - Tử” thì có Sinh ắt phải
có Tử, vậy liệu có thoát được Tử hay không? Mãi mãi không
bao giờ có “Sinh” mà không có “Tử” các bạn nhé. Vậy nên
thích số 3 sợ số 4 vì sợ “Tử” nhưng sự thật họ đã bỏ bớt
“Lão” thành ra “Sinh, bệnh, tử”, người này sẽ bị chết trẻ.
Hoặc họ đã bỏ bớt “Bệnh” thành ra “Sinh, lão, tử”. Người này
sẽ bị chết bất đắc kỳ tử (đột tử), chết không kịp gặp mặt
người thân hay di chúc con cháu. Hoặc họ sẽ bị chết vì tai
nạn, chết đường, chết chợ, chết vì chiến tranh, chết vì gươm
đao, chết vì súng đạn... Vậy theo bạn, chúng ta có nên dừng ở
số 3 hay không? Hay ta nên đạt số 4 viên mãn vẹn toàn?
Ví dụ: Khi ta đói thì ta ăn bát cơm ngon lành là hạnh phúc.
Nhưng ta cứ giữ nguyên mục tiêu ăn cơm rồi ăn tiếp 5-6 bát
nữa thì lại thành đau khổ. Khi đó ta phải lập tức chuyển sang
mục tiêu mới: thư giãn, uống trà, nghe nhạc, xem thời sự...
thì hạnh phúc mới có tiếp tục.
Nên khi nước ta chưa có “độc lập tự do” thì Bác Hồ đặt
mục tiêu “độc lập tự do” để có “hạnh phúc”. Khi ta có nó rồi
4
và được hưởng hạnh phúc tột cùng trong ngày 30/4/1975
kéo dài được vài năm thời bao cấp xong thì ta lại thấy khổ.
Khi đó, dù nước ta đã có “độc lập tự do” mà hàng ngàn hàng
vạn con người Việt Nam vượt biên sống tị nạn tha hương thì
đâu gọi là đất nước “hạnh phúc”.
Vậy nên ta phải sửa và thêm mục tiêu mới “ấm no” thì
“hạnh phúc” mới có tiếp tục. Và sự thật ta đã làm rồi. Từ Đại
hội đảng VI năm 1986 với Chương trình cải cách toàn diện
gồm Kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội
mang tên “Đổi mới”. Đến khi tôi viết những dòng chữ này
năm 2021 đúng 35 sau “Đổi mới” thì đất nước ta kinh tế đã
phát triển vượt bậc. Năm 1986 GDP đầu người hàng năm
của Việt Nam là 85 USD đến nay ta đã vào hàng trung bình
của Thế giới là 3500 USD/người/năm. Việt Nam ta từ một
nước đói nghèo trong Top 10 Thế giới thì nay ta đã thành
nước có nền kinh tế đứng thứ 37 trên Thế giới.
Ngoài ra, Đạo Phật còn bàn về Triết lý Hạnh Phúc thâm
sâu hơn nữa. Phật Giáo chia Hạnh Phúc ra làm 2 loại: “Phúc
5
Hữu Lậu” và “Phúc Vô Lậu” (Hữu Lậu là có giới hạn. Vô Lậu
là không có giới hạn).
Hạnh Phúc Hữu Lậu là “Hạnh phúc mong manh dễ vỡ, nhỏ
bé và ngắn ngủi. Nó có được khi ta đạt mục tiêu cá nhân,
thành tựu cá nhân, thỏa mãn cá nhân. Ngay sau khi ta đạt
được các mục tiêu cá nhân đó thì Hạnh Phúc Hữu Lậu kéo
đến rồi biến mất đi nhanh chóng. Ta phải tìm mục tiêu khác
và phấn đấu đạt được để tạo ra hạnh phúc mới”.
Hạnh Phúc Vô Lậu là “Hạnh phúc bền lâu mãi mãi khi ta
mang Hạnh phúc đến cho người. Đây là Hạnh Phúc của các
bậc Thánh nhân, bậc Vĩ nhân, bậc Lãnh tụ cứu nước, các vị
Phúc thần dân tộc hay các vị Bồ Tát từ bi cứu khổ”. Thế vì sao
lại tồn tại một thứ Hạnh Phúc vĩ đại đến vô tận này?
Luật Nhân Quả của Đạo Phật nói rằng: “Ai làm gì khiến
cho người đau khổ (hoặc hạnh phúc) thì quả báo sẽ đến
với họ là đau khổ (hoặc hạnh phúc) giống như vậy”. Luật
Nhân Quả đã chứng minh rằng khi ta mang hạnh phúc đến
cho người thì tâm ta tự khởi lên niềm hạnh phúc vĩ đại bền
lâu mãi mãi. Nó hoàn toàn khác biệt với thứ hạnh phúc ngắn
ngủi được tạo ra bởi thỏa mãn lòng tham hay thỏa mãn
những mong ước cá nhân. Thỏa mãn xong thì “hạnh phúc
hữu lậu” tới rồi lại tan biến đi nhanh chóng. Khi đó ta phải
tìm mục tiêu cá nhân khác để có hạnh phúc hữu lậu khác.
Toàn bộ thế giới này mọi người đều quay cuồng theo
tham vọng cá nhân để truy tìm hạnh phúc. Nhưng sự thật
6
hạnh phúc đó mong manh, hư ảo, ngắn ngủi, dễ vỡ. Khổng
Tử cũng khuyên ta tìm về Hạnh Phúc Vô Lậu như sau:
“Những điều mình muốn hãy làm cho người. Điều mình
không muốn đừng làm cho ai”. Ta muốn gì? Ta muốn hạnh
phúc. Khổng Tử khuyên rằng: “Hãy mang hạnh phúc đến cho
người thì ta sẽ có hạnh phúc đúng như vậy nhưng bền lâu
mãi mãi”.
Tôi nghĩ, ta nên giúp các nước nghèo ở Châu Phi phát
triển nông nghiệp và chuyển giao công nghệ sản xuất lương
thực. Người dân Châu Phi họ đang rất đói nghèo khổ cực và
họ đang cần sự giúp đỡ. Tôi thấy đã có bạn Quang Linh Vlog
7
và nhiều bạn trẻ Việt Nam tự phát làm rồi nhưng ta nên xây
dựng thành một chiến lược quốc gia.
Làm phúc thì cần “Của một đồng công một nén” tức nên
giúp bằng sức lực trí tuệ hơn giúp bằng tiền bạc. “Một miếng
khi đói bằng một gói khi no” tức giúp một miếng cơm cho
người gần chết đói có thể cứu sống một sinh mạng. Và triết
lý cần câu con cá: “Giúp người cần câu và dạy họ cách câu cá
thì họ sẽ ấm no cả đời. Giúp người con cá họ ăn một ngày,
ngày sau họ lại đói.”
Nước ta nổi tiếng với thành tích “xóa đói giảm nghèo” và
trình độ sản xuất lúa gạo phát triển. Ta nên mang năng lực
đó giúp các nước Châu Phi vượt thoát đói nghèo. Bên cạnh
đó, nước ta còn nghèo nên không thể có nhiều tiền cho họ.
Ta nên tặng họ cái cần câu và dạy họ cách câu cá. Khi đó ta
đã giúp họ ấm no cả đời. Đó chính là Trí tuệ, đó chính là
Phúc Đức lớn.
Tôi thấy truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam
chúng ta là:
Nay ta hãy thay đổi chút xíu về tư duy câu nói trên. Ta hãy
làm người tạo ra nguồn nước và làm người trồng cây để cho
người khác hưởng. Công sức bỏ ra đào cái giếng, trồng cái
cây là ít ỏi mà lợi ích thì hàng ngàn hàng vạn người được
8
hưởng. Đặc biệt quan trọng khi họ đang đói khát ở Châu Phi.
Quả báo sẽ đến với ta là vĩ đại. Còn ngàn đời nay ta cứ hiểu ý
nghĩa câu nói đó là: “Chỉ hưởng thành quả lao động của
người rồi biết ơn họ”. Điều đó sẽ mãi mãi khiến ta không thể
vĩ đại, mà còn nghèo hèn chỉ vì hiểu sai lời dạy Tổ Tiên.
Sự vĩ đại của dân tộc A khiến cho dân tộc B phải quỳ gối là
vì ơn nghĩa lớn, vì công đức lớn, vì tình yêu lớn mà dân tộc A
đã mang đến cho họ. Sự vĩ đại của một dân tộc không bao
giờ đến bằng vũ lực và đàn áp hay bằng chiến tranh và giết
chóc. Vũ lực chỉ tạo ra kẻ thù vĩ đại mà thôi.
Triết học gia nổi tiếng người Đức Johann Wolfgang von
Goethe có câu nói mà tôi rất thích: “Trước bộ óc vĩ đại tôi
cúi đầu, trước trái tim vĩ đại tôi quì gối”.
Cuối cùng tôi xin chúc nước Việt Nam chúng ta được
Hùng Cường và tạo được nhiều công đức vĩ đại giúp đời.
Xin trân trọng cảm ơn quý bạn đọc đã lắng nghe chia sẻ!