You are on page 1of 146

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................................................... IV
BÀI 1 PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ
CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM .......................... 1
1.1 Chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá
chủ nghĩa xã hội ......................................................................................................................... 1
1.1.1 Khái niệm, sự hình thành và phát triển của chiến lược “diễn biến hoà bình” ..................... 1
1.1.2 Bạo loạn lật đổ ..................................................................................................................... 4
1.1.3 Mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ ................................................. 5
1.2 Chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá
cách mạng Việt Nam ................................................................................................................. 5
1.2.1 Mục tiêu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam .................... 5
1.2.2 Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam .......................... 9
1.3 Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm và phương châm phòng, chống chiến lược “diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ......................................................................................................... 9
1.3.1 Mục tiêu ............................................................................................................................... 9
1.3.2 Nhiệm vụ ............................................................................................................................. 9
1.3.3 Quan điểm chỉ đạo ............................................................................................................. 10
1.3.4 Phương châm tiến hành ..................................................................................................... 10
1.4 Những giải pháp phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................................................... 10
1.4.1 Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế ................................................ 10
1.4.2 Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nắm chắc mọi diễn
biến không để bị động và bất ngờ ...................................................................................... 11
1.4.3 Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân ................................................................. 11
1.4.4 Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh về mọi mặt ................................................ 11
1.4.5 Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương vững mạnh ...................................... 12
1.4.6 Xây dựng, luyện tập các phương án, các tình huống chống “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của địch ............................................................................................................ 12
1.4.7 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và chăm lo nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động ................................................................. 12
BÀI 2 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ ĐẤU TRANH
PHÒNG CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC,
TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM ..................................................... 14
2.1 Một số vấn đề cơ bản về dân tộc ............................................................................................ 14
2.1.1 Một số vấn đề chung về dân tộc ........................................................................................ 14
2.1.2 Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm chính sách dân tộc của Đảng Nhà
nước ta hiện nay................................................................................................................. 16
2.2 Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo ........................................................................................... 19
i
2.2.1 Một số vấn đề chung về tôn giáo ...................................................................................... 19
2.2.2 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay 22
2.3 Đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam ....................................................................................................................... 25
2.3.1 Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế
lực thù địch ....................................................................................................................... 25
2.3.2 Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các
thế lực thù địch.................................................................................................................. 25
2.3.3 Giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch .......................................................................... 26
BÀI 3 PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ..................... 28
3.1 Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ........................................... 28
3.1.1 Khái niệm, vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường ................................ 28
3.1.2 Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ................................... 31
3.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi trường......................................... 35
3.2 Nhận thức về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường .............................. 38
3.2.1 Khái niệm, đặc điểm về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ............. 38
3.2.2 Nội dung, biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường .................. 39
3.2.3 Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường ................................................................................................................................ 44
3.2.4 Trách nhiệm phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường của nhà trường ................. 48
BÀI 4 PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN
GIAO THÔNG ........................................................................................................................ 50
4.1 Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông .............. 50
4.1.1 Nhận thức về pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ........................................ 50
4.1.2 Quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự,
an toàn giao thông ............................................................................................................. 53
4.1.3 Nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông .......................... 73
4.2 Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ......................... 74
4.2.1 Khái niệm phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ........ 74
4.2.2 Chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong thực hiện phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ................................................................................... 75
4.2.3 Nội dung biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông ................................................................................................................................. 76
4.2.4 Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trong nhà
trường ................................................................................................................................ 77
BÀI 5 PHÒNG, CHỐNG MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN
PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC ................................................................................................. 79
5.1 Nhận thức về tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác ........................ 79
5.1.1 Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác......................................................................................................................... 79
ii
5.1.2 Phân loại và quy định xử phạt các tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm ................... 82
5.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội danh dự, nhân phẩm.............................. 90
5.2 Nhận thức về công tác phòng, chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác................................................................................................................................ 93
5.2.1 Khái niệm phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác ......... 93
5.2.2 Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác ......................................................................................................... 93
5.2.3 Phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm trong nhà trường ........................ 98
BÀI 6 AN TOÀN THÔNG TIN VÀ PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN
KHÔNG GIAN MẠNG ........................................................................................................ 101
6.1 An toàn thông tin mạng ........................................................................................................ 101
6.1.1 Khái niệm thông tin mạng và an toàn thông tin mạng ..................................................... 101
6.1.2 Thực trạng an toàn thông tin mạng trên thế giới và ở Việt Nam ..................................... 103
6.1.3 Quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn thông tin mạng ........................................... 106
6.2 Không gian mạng và một số hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng ............. 110
6.2.1 Không gian mạng và nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng ................................................... 110
6.2.2 Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trên không gian mạng .................... 113
6.2.3 Một số biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng ..................... 122
6.2.4 Chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong thực hiện phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ................................................................................. 124
6.2.5 Phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng trong nhà trường ....................... 126
BÀI 7 AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN
THỐNG Ở VIỆT NAM......................................................................................................... 129
7.1 Những vấn đề cơ bản về an ninh phi truyền thống ............................................................ 129
7.1.1 Khái niệm an ninh truyền thống và phi truyền thống ...................................................... 129
7.1.2 Nhận diện an ninh phi truyền thống ................................................................................ 133
7.2 Những thách thức và mối đe dọa từ an ninh phi truyền thống ......................................... 134
7.2.1 Những thách thức từ an ninh phi truyền thống ................................................................ 134
7.2.2 Những mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam hiện nay ................................. 135
7.3 Quan điểm của Đảng và một số giải pháp phòng ngừa, ứng phó đe dọa từ an ninh phi
truyền thống ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 137
7.3.1 Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống ..................................................................................................................... 137
7.3.2 Một số giải pháp phòng ngừa, ứng phó đe dọa từ an ninh phi truyền thống ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................................... 138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 141

iii
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện Thông tư số 05/2020/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 3 năm 2020 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương trình Giáo dục quốc
phòng và an ninh trong trường trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm và cơ sở giáo
dục đại học; góp thêm tài liệu môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh nhằm phục vụ
giảng dạy, học tập cho sinh viên, theo trình độ đào tạo tại trường hiện nay. Nhóm
tác giả Bộ môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh thuộc Khoa Giáo dục Quốc phòng
và Giáo dục thể chất đã tổ chức biên soạn tài liệu Giáo dục Quốc phòng và An ninh
học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh. Tài liệu học tập luôn bám sát mục
tiêu và yêu cầu của chương trình môn học, cập nhật thông tin mới, hướng tới phát
huy phẩm chất và năng lực của người học trên tinh thần chủ động, tích cực.
Tài liệu Giáo dục Quốc phòng và An ninh gồm 7 bài, đề cập đến những nội
dung cơ bản nhiệm vụ công tác quốc phòng và an ninh của Đảng, Nhà nước trong
tình hình mới, bao gồm: Phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và cách mạng Việt
Nam; Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống địch lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; Phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; Phòng, chống vi phạm pháp luật về đảm bảo
trật tự an toàn giao thông; Phòng, chống một số loại tội phạm xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của người khác; An toàn thông tin và phòng, chống vi phạm pháp luật
trên không gian mạng; An ninh phi truyền thống và các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống ở Việt Nam, giúp người học nắm được những nội dung cơ bản trong
công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình hiện nay.
Tài liệu Giáo dục quốc phòng và an ninh, dùng cho đối tượng Cao đẳng và Đại
học đã cập nhật hệ thống các kiến thức cơ bản, có chọn lọc, bám sát Thông tư số:
05/2020/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; nội dung, đối tượng,
phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường, gắn liền với đặc điểm hoạt
động của cơ sở giáo dục đào tạo. Nhóm tác giả đã có nhiều cố gắng, song trong quá
trình biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự góp ý
của các đồng chí cán bộ, giảng viên, giáo viên và sinh viên để việc biên soạn tài
liệu đạt kết quả tốt, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của
Nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn!

iv
BÀI 1
PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”,
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Từ giữa thế kỷ XX, chiến lược “diễn biến hòa bình” bắt đầu hình thành. Ban
đầu “diễn biến hòa bình” được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược
“ngăn chặn”, “phản ứng linh hoạt”... của chủ nghĩa đế quốc để chống phá chủ nghĩa
xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đang ra sức thực hiện “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá quyết
liệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Vì vậy
phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách
hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1 Chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
chống phá chủ nghĩa xã hội
1.1.1 Khái niệm, sự hình thành và phát triển của chiến lược “diễn biến hoà bình”
1.1.1.1 Khái niệm “diễn biến hòa bình”
Khái niệm: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ
chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong,
chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động tiến hành1.
Chiến lược “diễn biến hoà bình” còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như
“chuyển hoá hoà bình”, “biến đổi hoà bình”, “cạnh tranh hoà bình”, “vượt trên hoà
bình”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”,...
nhưng tựu chung, nó là bộ phận trọng yếu của “chiến lược toàn cầu phản cách mạng
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thực hiện dưới một phương
thức, thủ đoạn mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi, đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Bản chất của “diễn biến hòa bình” là chiến lược chống chủ nghĩa xã hội do chủ
nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch, phản động tiến hành nhằm thủ tiêu chế độ xã hội
chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, chống phá độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của
các quốc gia bằng các biện pháp phi vũ trang là chủ yếu, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong các nước xã hội chủ nghĩa và các nước độc lập dân tộc, lái chệch
hướng phát triển các quốc gia, dân tộc theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Mục tiêu của “diễn biến hòa bình” là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn cầu. Để đạt được mục đích đó, các thế lực thù địch đặt ra 6 mục tiêu cụ thể sau: Một
là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản, làm cuộc đảo
chính hòa bình về hệ tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa; hai là, xóa bỏ sự

1
Trung tâm từ điển Bách khoa quân sự, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2005, tr.303.
1
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”
trong các nước xã hội chủ nghĩa; ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước
xã hội chủ nghĩa; bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến
tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; năm là,
chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo giá trị phương Tây,
xóa bỏ nền văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa, từng bước thay vào đó là
văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản; sáu là, “phi chính trị hóa” để “vô hiệu hóa” quân
đội và công an trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, để đạt mục tiêu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc sử
dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” hết sức thâm độc, bằng các biện pháp phi
quân sự, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, len lỏi vào mọi đối tượng, mọi
lúc, mọi nơi với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt nên rất khó nhận diện, rất
phức tạp, khó khăn.
1.1.1.2 Sự hình thành và phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình”
- Giai đoạn từ 1945 - 1980:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của
một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh
chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược toàn cầu: Ngăn chặn sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do Tổng thống Mỹ Truman khởi
xướng ngày 12/3/1947, trong đó coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây,
can thiệp vũ trang, cùng với tiến hành chiến tranh để “ngăn chặn” ảnh hưởng của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Trước đó ngày 22/12/1946, Kennan đại diện lâm thời của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ tại Liên Xô trình lên Chính phủ Mỹ một bức điện 8000 từ về kế hoạch
chống Liên Xô toàn diện hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế; lật đổ
chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong thời gian này, giám đốc CIA
(cơ quan tình báo Mỹ) tuyên bố: Mục tiêu là phải reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và
phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lý thay giá trị của Liên Xô bằng đồ rởm và tìm
mọi cách ủng hộ và nâng đỡ đám gọi là “nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy,
chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội vào Liên Xô.
Tháng 4/1948, Quốc hội Mỹ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng
viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các Đảng cộng sản để
phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu,
hướng họ phụ thuộc vào Mỹ.
Tháng 7 năm 1949, thuật ngữ “diễn biến hòa bình” đã xuất hiện, khi Ngoại
trưởng Mỹ Dean Akison nhìn thấy sự thất bại trong việc can thiệp quân sự của Mỹ
đối với các nước xã hội chủ nghĩa, là không thể đảo ngược. Trong thư gửi Tổng
thống Mỹ Truman (ngày 20/7/1949), Dean Akison đã dùng cụm từ “diễn biến hòa
bình” để sự chuyển hóa các nước xã hội chủ nghĩa thành tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Truman ý tưởng “diễn biến hòa
bình “đã được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự của Mỹ chống Liên Xô.
2
Từ năm 1953, Aixenhao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ
II đến năm 1961, chính phủ Mỹ đã đề ra chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” Aixenhao
dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện “ngăn chặn” chủ nghĩa
cộng sản. Mỹ đã đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp vào nội bộ chính trị các nước
trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính
để phá hoại chủ nghĩa xã hội và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang”
của Kennan được tán dương và hưởng ứng, bổ sung bởi các học giả của tập đoàn
thống trị Mỹ, xuất hiện ý tưởng “hoà bình giải phóng” của AlenDalet. Như vậy, ý
tưởng “diễn biến hòa bình” được bổ sung và trở thành biện pháp của chiến lược
“ngăn chặn” của đế quốc Mỹ.
Đến tháng 01/1961 John F.Kennedy thay Aixenhao và đã đưa ra chiến lược
“phản ứng linh hoạt” cùng chiến lược “hòa bình”, thực hiện chính sách “mũi tên và
cành Ôliu”. Từ đây, “diễn biến hòa bình” đã bước đầu trở thành chiến lược cơ bản
của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự.
Tháng 12/1963, John F.Kennedy bị ám sát, phó tổng thống B.Johnson thay
thế, kiêm nhiệm tới năm 1969, B. Johnson thúc đẩy chạy đua vũ trang, triệt để dùng
sức mạnh quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà điển hình
là: các vụ bạo loạn ở Cộng hòa dân chủ Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956) Tiệp
khắc (1968). Do lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên bang Xô viết
lớn mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ
ạt” và tìm kiếm những biện pháp mới đi song song cùng các hoạt động quân sự
hòng chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1961 đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục
bộ” chúng đã đưa 50.000 quân đế quốc Mỹ vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh
cho thất bại thảm hại. Tháng 3/1968 B. Johnson buộc phải tuyên bố ngừng ném
bom Miền Bắc Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Paris, “chiến lược
phản ứng linh hoạt” bị phá sản.
Từ năm 1968 đến năm 1972, Richard Nixon trúng cử tổng thống trong bối
cảnh so sánh lực lượng Mỹ - Liên Xô đã thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến
lược đang ở thế cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam.
Richard Nixon thực hiện chiến lược quân sự “răn đe thực tế” mà mục đích cơ bản là
ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng xã hội
chủ nghĩa đang diễn ra trên toàn thế giới.
Cũng trong thời gian này, Mỹ thực hiện chính sách ngoại giao “cây gậy và củ
cà rốt”. Tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân, nhưng Mỹ đã chủ trương tăng
cường tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm thấu tư
tưởng văn hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong, thúc đẩy tiến trình “diễn
biến hòa bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Chính Richard Nixon đã nêu ra
chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng
đối thoại thay cho đối đầu. Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Richard Nixon
để thực hiện “diễn biến hòa bình”
3
Đến tháng 12/1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố “Mỹ sẽ giành thắng lợi
bằng hoà bình” và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã
hội chủ nghĩa.
- Giai đoạn từ năm 1980 đến nay:
Bước vào thập kỷ 80, trong khi chủ nghĩa tư bản đạt được ổn định và có bước
phát triển, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thực hiện đường lối
cải tổ, cải cách sai lầm, càng dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó,
chủ nghĩa đế quốc hoàn chỉnh chiến lược “diễn biến hòa bình” và ráo riết thực hiện
nhằm làm sụp đổ Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng các nước xã
hội chủ nghĩa khác. Có thể lấy năm 1988, Richard Nixon xuất bản cuốn sách “1999,
chiến thắng không cần chiến tranh” làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược “diễn
biến hòa bình”.
Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển hình là Việt
Nam - Trong nhiệm kỳ 2 (giữa những năm 1980) của Tổng thống Ronald Reagan,
bắt đầu điều chỉnh chiến lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự” sang chiến
lược “diễn biến hòa bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa mà khởi nguồn là
chính sách ngoại giao của cựu ngoại trưởng Mỹ Henkitxin và công cuộc cải tổ
chính trị của nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev mà
kết quả của nó là sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, sự
thoái trào của chủ nghĩa xã hội.
Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược “diễn biến
hòa bình” để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó
có Việt Nam
1.1.2 Bạo loạn lật đổ
Khái niệm: Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức
do lực lượng phản động hay lực lượng ly khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với
nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ
chính quyền ở địa phương hay trung ương.
Mục tiêu trực tiếp của bạo loạn lật đổ là lật đổ chính quyền cách mạng, lập
nên chính quyền phản cách mạng.
Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc
bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang.
Phương thức và lực lượng tiến hành: Các thế lực thù địch thường dùng
phương thức kích động, mua chuộc, lôi kéo quần chúng và sử dụng lực lượng quần
chúng do chúng tổ chức và điều hành. Khi có điều kiện và thời cơ, chúng sẽ dùng
lực lượng phản ứng nhanh trực tiếp can thiệp để hỗ trợ cho các lực lượng bên trong
đang tiến hành gây bạo loạn.
Địa bàn xảy ra bạo loạn có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước, trọng
điểm là những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của Trung ương và địa phương;
4
nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà cơ sở chính trị của địa
phương yếu kém.
Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ đến lớn.
Thời điểm xảy ra bạo loạn, có thể là trong thời bình, thời kỳ đầu chiến tranh
hoặc trong chiến tranh.
1.1.3 Mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ
“Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy
khác nhau về phương thức tiến hành và thủ đoạn cụ thể nhưng giống nhau về mục
đích. “Diễn biến hòa bình” là cơ sở, điều kiện thúc đẩy bạo loạn xảy ra nhanh hơn;
nếu bạo loạn xảy ra thì lại là điều kiện thúc đẩy “diễn biến hòa bình” diễn ra thuận
lợi và nhanh chóng đạt kết quả hơn.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đang đẩy mạnh âm mưu
“diễn biến hòa bình” gắn với bạo loạn lật đổ, tăng cường các hoạt động chống phá
hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.2 Chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam
1.2.1 Mục tiêu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam
1.2.1.1 Khái lược quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc đối với Việt Nam
Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để xâm
lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng
đã bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đòn tấn công bằng quân sự để xâm
lược Việt Nam không thành công, chúng đã chuyển sang chiến lược mới như “bao
vây cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao” kết hợp với “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng thời kì nước
ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 - 1994 do hậu quả của chiến
tranh để lại và sự biến động chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực
thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ “cấm vận kinh tế” và bình thường hoá
quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập
như: “dính líu”, “ngầm”, “sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
1.2.1.2 Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam
Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng
chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam là nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ độc lập dân tộc của Việt Nam và
buộc Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc.
5
Để thực hiện mục tiêu đó, tư tưởng chỉ đạo của chúng là: Kết hợp “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ với quá trình “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”, thúc đẩy
“tư nhân hoá kinh tế”, “tự do hoá chính trị”, “phi chính trị hoá” quân đội và công
an, từng bước làm “đổi màu”, “biến chất” Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Chống toàn diện nhưng tập trung mũi nhọn vào lĩnh vực chính
trị, tư tưởng, văn hoá. Hướng trọng tâm chống phá vào cơ quan lãnh đạo cao nhất
của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an và các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thế hệ
trẻ. Kích động, chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, nghi ngờ lẫn nhau, kích thích quá
trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Lợi dụng dân chủ, nhân quyền
chia rẽ các dân tộc, chia rẽ các tôn giáo, chia rẽ người theo đạo với người không
theo đạo, chia rẽ dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, công an để phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
1.2.1.3 Thủ đoạn chống phá
Để thực hiện được mục tiêu của “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch tiến
hành những thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, xảo quyệt và vô cùng thâm độc trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực chủ
yếu sau:
- Trên lĩnh vực chính trị:
Các thế lực thù địch coi đây là khâu đột phá, giữ vai trò quan trọng hàng đầu
của chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.
Các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng là
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm thay đổi định
hướng xã hội chủ nghĩa trong đường lối chính trị của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện
“đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, tự do, dân chủ tư sản; thực chất là gây
dựng các thế lực chống đối chính trị ngay trong lòng Việt Nam, tạo dựng “ngọn cờ”
để tập hợp các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng Cộng sản, làm đối
trọng chính trị với Đảng Cộng sản tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chúng lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”,
bảo vệ “môi trường”, chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền để chống phá Việt
Nam, gây sức ép về chính trị đối với Đảng, Nhà nước, can thiệp và mặc cả với Việt
Nam trong các quan hệ quốc tế; ra sức tuyên truyền, đưa ra những luận điệu phản
động nhằm phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
cách mạng Việt Nam và vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam;
triệt để tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ nội bộ, xây dựng lực lượng
ngầm và tổ chức đảng phái chính trị đối lập; vận động thành lập các tổ chức “hội”,
“nhóm” phản động; tổ chức các “chiến dịch” xuyên tạc, đòi xét lại lịch sử nhằm hạ
uy tín của Đảng, lôi kéo quần chúng chống Đảng, v.v.
6
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn chống phá nhằm chuyển hóa nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, và từ chuyển hóa về kinh tế tiến tới chuyển hóa về
chính trị.
Chúng đẩy mạnh chống phá nền kinh tế Việt Nam thông qua thủ đoạn “chiếm
lĩnh đầu tư”, “chi phối thị trường”; lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư
vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để đặt ra những điều kiện ràng buộc về
chính trị, kể cả gây sức ép chính trị hoặc can dự vào nội bộ, từng bước chuyển hóa
theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa; triệt để khai thác những hạn chế trong đàm phán
thương mại để ép ta về chính trị, mở cửa thị trường có lợi cho chúng; dùng vật chất
để dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, tác động làm cho một bộ phận cán bộ, công chức
công tác trong các ngành kinh tế, nhất là ngành kinh tế mũi nhọn bị thoái hóa biến
chất để phục vụ theo ý đồ của chúng,... Đặc biệt, lợi dụng chủ trương phát triển kinh
tế tư nhân của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện ý đồ chỉ chú trọng đầu tư, liên
doanh, liên kết, thúc đẩy kinh tế tư bản, tư nhân phát triển và cố tình phủ định, tìm
cách làm suy yếu, vô hiệu hóa, làm mất dần vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể nhằm đưa nền kinh tế nước ta phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa:
Các thế lực thù địch xác định tiến công trên trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là
“mũi đột phá”, là một nội dung trọng yếu, là vũ khí lợi hại nhất. Trong cuốn sách
“1999 - chiến thắng không cần chiến tranh”, Níchxơn đã xác định: “Mặt trận tư
tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu
dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt
trận tư tưởng”.
Thực chất của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa đối với
Việt Nam là xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phá vỡ nền tảng
tư tưởng của Đảng và của toàn xã hội, tạo ra trong xã hội Việt Nam “khoảng trống
về ý thức hệ”, từ đó truyền bá tư tưởng tư sản, làm giảm niềm tin của nhân dân vào
con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền, đưa ra những luận điệu nhằm phủ
nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; xuyên tạc thân thế và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tách rời và
đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng còn đang đẩy mạnh
các hoạt động tuyên truyền nhằm xuyên tạc lịch sử, vu cáo lịch sử, phủ nhận những
thành tựu của cách mạng nhằm đổi trắng thay đen, lẫn lộn giữa công và tội, hạ bệ
thần tượng và các nhân vật lịch sử. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du
nhập những sản phẩm văn hoá, đạo đức, lối sống phương Tây, để kích động lối sống
tư bản trong, từng bước làm mất đi bản sắc văn hoá Việt Nam, làm phai mờ các giá
trị văn hóa truyền thống và cách mạng, biến Việt Nam thành “thuộc địa văn hóa” và
dùng “đòn văn hóa” để tiến công về chính trị, chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa.

7
- Trên lĩnh vực tôn giáo - dân tộc:
Các thế lực thù địch lợi dụng những khó khăn ở những vùng đồng bào dân tộc
ít người, những tồn tại do lịch sử để lại, trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào
còn thấp và những khuyết điểm trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của
một bộ phận cán bộ để kích động tư tưởng đòi li khai, tự quyết dân tộc.
Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo trái
phép để thực hiện âm mưu tôn giáo hoá dân tộc, từng bước gây mất ổn định xã hội
và làm chệch hướng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh:
Các thế lực thù địch thực hiện các thủ đoạn thâm độc nhằm làm suy yếu tiềm
lực của nền quốc phòng toàn dân, an ninh, làm suy yếu lực lượng vũ trang, tách
quân đội và công an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng đẩy mạnh các hoạt động nhằm phủ nhận, xuyên tạc đường lối quốc
phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng, tuyệt đối hóa nhiệm vụ phát triển
kinh tế, coi nhẹ, buông lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đề cao thuyết “vũ khí luận”
trong điều kiện mới, coi nhẹ yếu tố chính trị tinh thần, gây chia rẽ mất đoàn kết giữa
Đảng với quân đội, quân đội với nhân dân và công an; ra sức tuyên truyền phủ nhận
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuyên tạc tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta, “phi chính
trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội, “vô hiệu hóa” các lực lượng vũ trang, tách quân đội
và công an ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây chia rẽ, mất đoàn
kết giữa quân đội với Đảng, giữa quân đội với công an và nhân dân; làm lu mờ bản
chất, truyền thống của quân đội, công an, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, chiến sĩ, làm mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của lực
lượng vũ trang. Chúng còn xuyên tạc các sự kiện lịch sử có quân đội tham gia, thổi
phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị quân đội, công an để xuyên tạc
truyền thống, bản chất cách mạng của quân đội, công an làm phai nhạt hình ảnh “Bộ
đội Cụ Hồ”, Công an nhân dân. Trong hợp tác quân sự, chúng tìm cách thúc đẩy, lôi
kéo Việt Nam tham gia liên minh quân sự hoặc đồng ý cho nước ngoài lập căn cứ
quân sự tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng các tổ chức phản động người
Việt Nam ở nước ngoài móc nối, câu kết với các tổ chức phản động trong nước
chống phá chính quyền, đe dọa an ninh quốc gia, tổ chức hoạt động bạo loạn, lật đổ.
- Trên lĩnh vực đối ngoại:
Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế,
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để tuyên truyền và hướng Việt
Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Chúng tìm cách cản trở những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam; tuyên
truyền gây chia rẽ Việt Nam với các nước, đặc biệt là gây chia rẽ Việt Nam với
Trung Quốc, với Lào và Campuchia; hạ thấp vị thế, uy tín và vai trò của Việt Nam
trên trường quốc tế; mặt khác, chúng tìm mọi cách mua chuộc, lôi kéo Việt Nam

8
bằng các khoản đầu tư, viện trợ, giúp đỡ về kinh tế nhằm từng bước chuyển hóa chế
độ chính trị ở Việt Nam theo hướng tư bản chủ nghĩa.
1.2.2 Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam
Các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu
vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất mãn trong nước gây
rối, làm mất ổn định xã hội ở một số vùng nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam bộ của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo,
mua chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền
địa phương. Vùng Tây Bắc, chúng kích động người H’Mông đòi thành lập khu tự trị
riêng. Vùng Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ
thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo loạn lật
đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: Kích động sự bất bình của quần
chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động
trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa
phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng
phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để
tăng sức mạnh.
Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm
mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa
điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lý trong đấu tranh chống bạo loạn lật
đổ là: Nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và
phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài.
1.3 Mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm và phương châm phòng, chống chiến lược
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ
1.3.1 Mục tiêu
Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch tiến
hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
là phải làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của kẻ
thù đối với cách mạng Việt Nam. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước,
tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc
1.3.2 Nhiệm vụ
Đảng ta khẳng định kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn
biến hòa bình” bạo loạn lật đổ. Đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm
vụ quốc phòng - an ninh hiện nay, đồng thời, còn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu
dài. Chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối
9
với nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu. Xử lý nhanh chóng, hiệu quả khi có bạo
loạn xảy ra và luôn bảo vệ tốt chính trị nội bộ.
1.3.3 Quan điểm chỉ đạo
Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực. Thực chất
chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách
mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó là nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng,
làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và chuyển hoá theo quỹ đạo của
chủ nghĩa tư bản. Do đó, cuộc đấu tranh sẽ hết sức gay go, quyết liệt và lâu dài trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chống “diễn biến hòa bình” là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xuất phát
từ các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch sử dụng trong chiến lược
“diễn biến hoà bình” với nhiều đòn tấn công “mềm” trên tất cả các lĩnh vực để
chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, Đảng ta đã xác định rõ nội dung bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là toàn diện, coi trọng giữ vững an ninh
kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh chống
“diễn biến hòa bình”. Các thế lực thù địch sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống phá
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đánh vào mọi tầng lớp nhân dân
lao động, mọi tổ chức chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực. Do đó, phải phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
1.3.4 Phương châm tiến hành
- Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững bên trong với chủ động ngăn chặn, phòng
ngừa và chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch.
- Chủ động, kiên quyết, khôn khéo xử lý tình huống và giải quyết hậu quả khi
có bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn.
- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ
thù đối với Việt Nam.
1.4 Những giải pháp phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ ở Việt Nam hiện nay
1.4.1 Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực xã hội, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế
Muốn ngăn chặn, đấu tranh đạt hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta thì
10
phải giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi
mặt. Tệ quan liêu, tham nhũng được kẻ thù lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ,
kích động nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương,
chống Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định xã hội. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan
liêu, tham nhũng, tiêu cực xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các
lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và
thúc đẩy yếu tố bên trong của đất nước luôn ổn định.
1.4.2 Nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nắm chắc
mọi diễn biến không để bị động và bất ngờ
Chủ động nắm địch, phát hiện kịp thời những âm mưu, chủ động của các thế lực
thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Do vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt Nam, mọi tổ
chức chính trị - xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược
“diễn biến hòa bình” của kẻ thù chống phá cách mạng Việt Nam. Cần phải đấu tranh
phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác cách mạng trong một bộ phận nhân
dân, đặc biệt là sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” của kẻ thù chống phá nước ta hiện nay. Mỗi người dân Việt Nam phải
có tri thức, có bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét phát hiện và báo cáo kịp
thời thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho cơ quan chức năng xử lý không để bất ngờ.
1.4.3 Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc cho toàn dân
Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều
diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù
địch lợi dụng sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu, lợi dụng cuộc
chiến chống khủng bố, tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia,
dân tộc, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta. Vì vậy, khi đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nêu cao tinh thần cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các
thành quả cách mạng.
Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân
phải mang tính toàn diện, nhưng tập trung vào: Giáo dục tình yêu quê hương, đất
nước; tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá đất nước
ta; quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn cách mạng mới; tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ
quốc quyết sinh... hình thức giáo dục phải đa dạng, phù hợp với từng đối tượng.
1.4.4 Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh về mọi mặt
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ xã hội
luôn ổn định, phát triển. Do vậy, phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vững mạnh theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh
tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất nước; đoàn kết trong Đảng và
11
ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, người trong nước và người
đang sinh sống ở nước ngoài.
Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của Đảng
viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả, nền nếp hoạt động
của các tổ chức quần chúng... Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lý kịp
thời những Đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những
đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.4.5 Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương vững mạnh
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở tất cả
các làng, bản, phường, xã, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở. Phải chú
trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng nhưng lấy chất
lượng là chính.
Ở mỗi địa phương, phải chú trọng kết hợp phát động phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Quần chúng là nền
tảng, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Vì vậy, quần chúng cũng là đối tượng để kẻ thù lợi dụng, mua chuộc nhằm thực
hiện âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ nhằm
chống phá cách mạng nước ta.
1.4.6 Xây dựng, luyện tập các phương án, các tình huống chống “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ của địch
Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, cần có phương thức xử lý cụ thể, hiệu quả.
Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân và của cả hệ thống chính trị, xử trí theo nguyên tắc nhanh gọn - kiên quyết -
linh hoạt - đúng đối tượng - không để lan rộng, kéo dài. Từ đó, xây dựng đầy đủ
luyện tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp,
từng ngành. Hoạt động xử lý bạo loạn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều
hành của chính quyền, các ngành tham mưu, quân đội và công an.
1.4.7 Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực lượng sản xuất
và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; đồng thời, là điều kiện
để tăng năng suất lao động của xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân lao động, để tạo nên sức mạnh của thế trận “lòng dân”.

12
Những giải pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh
thể thống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt
Nam hiện nay. Vì vậy trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này không nên
coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một giải pháp nào.
Sinh viên là đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung lợi dụng, chống phá
nhằm làm suy thoái về đạo đức, lối sống và phai nhạt niềm tin, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, mỗi người phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công dân
tốt, cống hiến cho đất nước, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, phát hiện và góp phần đấu tranh, ngăn ngừa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/chị hãy trình bày âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng chống phá các nước xã
hội chủ nghĩa như thế nào?
2. Anh/chị hãy trình bày chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá đối với Việt Nam hiện nay?
3. Anh/chị hãy cho biết phương hướng, giải pháp cơ bản phòng, chống “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ?
4. Hãy liên hệ với vai trò, trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong phòng,
chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ?

13
BÀI 2
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO
VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI
DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Vấn đề dân tộc, tôn giáo luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp nhất của mỗi
quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn
giáo nên giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc, tôn giáo được Đảng, Nhà nước ta
coi đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhưng cũng là cấp bách của cách
mạng nước ta. Đặc biệt, trước những âm mưu, thù đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, tập trung lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền tác động vào các
cộng đồng dân tộc thiểu số, các tôn giáo, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta
nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn định chính trị, đe dọa đến
an ninh quốc gia và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2.1 Một số vấn đề cơ bản về dân tộc
2.1.1 Một số vấn đề chung về dân tộc
2.1.1.1 Khái niệm
Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một
quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: Lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ,
truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lý, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ dân tộc dùng để chỉ tộc người trong một quốc gia và
cộng đồng quốc gia dân tộc.
Dân tộc theo nghĩa tộc người dùng để chỉ các thành viên trong cộng đồng tộc
người có chung ngôn ngữ tộc người, cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn hoá
vật chất, văn hoá tinh thần, tạo nên bản sắc văn hoá của tộc người..
Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng
chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung,
như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa…
2.1.1.2 Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới
Hiện nay, trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn
cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức
tạp, khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc. Toàn cầu hoá và các vấn đề
toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc
tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hoá. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập,
tự chủ, tự lực tự cường, chống can thiệp áp đặt và cường quyền.
Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức
tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân
14
tộc, sắc tộc, xu hướng ly khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia, các
khu vực, các châu lục trên thế giới... Đúng như Đảng ta nhận định: “Chủ nghĩa dân
tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo,… là những thách thức lớn đe dọa
sự ổn định và phát triển ở khu vực, quốc gia”1. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đã
gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường
cho các quốc gia, đe doạ hoà bình, an ninh khu vực và thế giới.
2.1.1.3 Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc:
Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.
Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Nguyên nhân là do dân số và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều nhau; do sự khác biệt về lợi ích; do
sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc
hẹp hòi, tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi chính sách
kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống trị, kích động chia rẽ của các
thế lực phản động đối với các dân tộc.
- Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình
độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh
vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc, và giữa các quốc gia
dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xoá bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân
tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hoá và thực hiện trên thực tế. Đây
là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan
hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân
tộc: Quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình,
bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp
với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính
đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để
can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc
trong phạm vi quốc gia và quốc tế, và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các
lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn
đề dân tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của
giai cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2021, tr.87-88.
15
và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng
để giành thắng lợi.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc:
Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách
mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm
dân tộc đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân
tộc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc
Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về
nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng; đó là những luận
điểm cơ bản chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng
dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc
trên thế giới.
Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân
xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan
tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân
tộc hẹp hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án,
vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
2.1.2 Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm chính sách dân tộc của
Đảng Nhà nước ta hiện nay
2.1.2.1 Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam
Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó xây dựng
quốc gia dân tộc thống nhất.
Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam. Trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách quan của công cuộc
đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ dân tộc ta đã phải sớm đoàn kết thống nhất. Các
dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng chung của điều kiện tự
nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản - quyền được tồn tại,
phát triển. Đoàn kết thống nhất đã trở thành giá trị tinh thần truyền thống quý báu
của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước.
Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa bàn
rộng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo.

16
Không có dân tộc thiểu số nào cư trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen
kẽ với một vài dân tộc khác. Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số
dân số như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...
Ba là, các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển không đều.
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thu thập thông tin cơ bản về dân số
và nhân khẩu học của trên 96,2 triệu người là nhân khẩu thực tế thường trú tại gần
26,9 triệu hộ dân cư sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam vào thời điểm 0 giờ ngày
01/4/2019, dân số thuộc dân tộc Kinh là 82.085.826 người, chiếm 85,3%. Trong 53
dân tộc thiểu số, 6 dân tộc có dân số trên 1 triệu người là: Tày, Thái, Mường, Mông,
Khmer, Nùng (trong đó dân tộc Tày có dân số đông nhất với 1,85 triệu người); 11
dân tộc có dân số dưới 5 nghìn người, trong đó Ơ Đu là dân tộc có dân số thấp nhất
(428 người). Do các nguyên nhân lịch sử, xã hội và điều kiện tự nhiên nơi cư trú
nên các dân tộc nước ta có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội không đồng
đều. Một số dân tộc đã phát triển kinh tế - xã hội tương đối cao như dân tộc Kinh,
Hoa, Tày, Mường, Thái..., nhưng cũng có một số dân tộc trình độ phát triển thấp, đời
sống còn nhiều khó khăn, đặc biệt các dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên.
Bốn là, mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hoá riêng, góp phần làm
nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của văn hoá Việt Nam.
Các dân tộc đều có sắc thái văn hoá về nhà cửa, ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục
tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng,
phong phú của văn hoá Việt Nam. Đồng thời, các dân tộc cũng có điểm chung thống
nhất về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, ý thức quốc gia
dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hoá của dân tộc Việt Nam.
2.1.2.2 Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
- Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc:
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, xuyên suốt mọi thời
kỳ cách mạng là: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của
Đảng xác định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng
phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư
phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đông đồng bào
dân tộc thiểu số... Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”1.
Có thể khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, đoàn
kết dân tộc bao gồm những nội dung cơ bản là:
Một là, dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng
thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2021, tr.170-171.
17
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đồng thời kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh -
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo;
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền
vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào
các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ
của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
- Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng
về công tác dân tộc trong các nghị quyết của Đảng; xác định công tác dân tộc là vấn
đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân và của cả hệ thống chính trị.
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân
tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân
tộc miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi
thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng
thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực,
vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng với đất nước.
Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển bền
vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quốc phòng, an ninh;
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải quyết có
hiệu quả những vấn đề bức thiết.
Bốn là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa,
phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hóa, tập quán từng dân tộc. Hình
thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng
cao; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, tạo sản phẩm đặc sản, giá trị cao.

18
Năm là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và
đào tạo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Sáu là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn
với “thế trận lòng dân” vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết những mâu thuẫn ngay từ cơ sở, kiên quyết
không để xảy ra các “điểm nóng”, “điểm phức tạp” về an ninh, trật tự, đặc biệt ở các
địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung.
Bảy là, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn
thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số và khắc phục tình trạng
không có tổ chức đảng và đảng viên ở các thôn, bản, nhất là đảng viên là người dân
tộc thiểu số ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới.
Tám là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác
dân tộc. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, lồng ghép, tích hợp các chính sách hiện hành để
hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi, biển đảo.
2.2 Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo
2.2.1 Một số vấn đề chung về tôn giáo
2.2.1.1 Khái niệm tôn giáo
Khái niệm: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực
khách quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lý, hành vi
của con người.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là gắn với cộng đồng xã hội, bao gồm các yếu
tố như: Hệ thống giáo lý tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ
giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.
Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là những hiện tượng
(ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và
hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật
chất tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội, nên đây là một hiện tượng xã hội tiêu
cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội. Tôn
giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố: Hệ thống giáo lý tôn giáo, nghi lễ tôn
giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động tôn giáo.
2.2.1.2 Nguồn gốc, tính chất của tôn giáo
- Nguồn gốc của tôn giáo:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng
sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên.
Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên có sức mạnh, quyền
lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ. Khi xã hội có giai cấp đối
19
kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao
động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: Sự bất lực của giai cấp bị
bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia. Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ
tự nhiên và xã hội; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh
tật,... vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn
hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận của con người.
Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn
giáo. Mặt khác, trong quá trình biện chứng của nhận thức, con người nảy sinh
những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện thực khách quan, hình thành nên
các biểu tượng tôn giáo.
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo: Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi,
buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được
bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết ơn, sự tôn kính
đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức
trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh.
- Tính chất của tôn giáo:
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có tính lịch sử, tính quần
chúng, tính chính trị.
Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh và phụ
thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn tại rất lâu dài,
nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng
bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã trở
thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân cư. Hiện nay, một bộ
phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tôn giáo.
Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp. Giai
cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức bóc lột và mê
hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn
là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác nhau lợi dụng tôn giáo để
thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
2.2.1.3 Tình hình tôn giáo trên thế giới
Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế giới
có tới 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn 1 triệu tín
đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo (bao gồm Công
giáo, Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2 tỉ tín đồ, chiếm 33%
dân số thế giới; Hồi giáo có 1,3 tỉ tín đồ, chiếm 22% dân số thế giới; Ấn Độ giáo
có 900 triệu tín đồ, chiếm 15% dân số thế giới; Phật giáo có 360 triệu, chiếm 6%

20
dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn đã có 4,2 tỉ người tin theo,
chiếm 76% dân số thế giới.
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra
theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn
cầu; các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hoá, bình dân hoá, mềm hoá các giới
luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn
giáo cũng tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các chức năng phi tôn giáo
theo hướng thế tục hoá, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh
hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi động và không kém phần phức tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu
hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hoá, thần bí hoá giáo chủ đang nổi lên; đồng thời,
nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một
trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới
hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để
chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc độc lập.
Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao lưu giữa
các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đã giúp cho việc tăng
cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận
điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào
tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở
rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2.1.4 Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo
dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Để
giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc sau:
Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi
ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự
nhiên, nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo
phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một
thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không
được sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên chiến, xoá bỏ tôn giáo.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan.

21
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của
quyền tự do tín ngưỡng là: Bất kì ai cũng được tự do theo tôn giáo mà mình lựa
chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đều
được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt,
bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng
pháp luật.
Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét,
đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan
điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt
động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được
khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo
pháp luật.
Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối
kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn
giáo chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của
tôn giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau
hoặc giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn
giáo. Do vậy, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt
khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi
dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn
đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng
nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của
những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lý kịp thời
theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.
2.2.2 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước
ta hiện nay
2.2.2.1 Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người tin theo các tôn giáo.
Hiện nay, ở nước ta có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo,
Cao Đài, Hoà Hảo. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm
2019 của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 với số
tín đồ lên tới trên 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được
22
đăng ký chính thức. Có người cùng lúc tham gia nhiều hành vi tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau.
Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển
tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng
cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ
chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang
đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Đại đa số tín đồ chức sắc
tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, theo hướng “tốt đời đẹp đạo”.
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực
đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc; vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen
lẫn với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an toàn
xã hội.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách
mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với cái gọi là “tự do
tôn giáo” để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ, xúi giục các phần tử xấu trong các tôn
giáo truyền đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những hoạt động trái pháp luật,
gây mất ổn định chính trị.
2.2.2.2 Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn
giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng
định: tôn giáo còn tồn tại lâu dài, còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân;
tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức tích cực phù hợp với xã hội mới; đồng bào
tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và
xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”1. Quán
triệt quan điểm trên, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh chủ trương “Vận động, đoàn
kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp
tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn
giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công
nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn
giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh
những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa; chia rẽ và phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối địa đoàn kết dân tộc”2.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. 81.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2021, tr.171.
23
Có thể khái khẳng định những quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta như sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Tín
ngưỡng là nhu cầu tinh thần chính đáng của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Các tôn
giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị
đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là điểm tương
đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các
cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ
hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện
toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi
dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động
quần chúng.
Năm là, việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp
theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc,

24
nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo
của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm
các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2.3 Đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo chống phá
cách mạng Việt Nam
2.3.1 Âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và
không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu
khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn
giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam; vô hiệu hoá sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời
sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi
tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu
thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn
giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hoá chế độ chính trị ở Việt Nam.
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo
như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước
Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục
chống phá cách mạng Việt Nam.
2.3.2 Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch
Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm,
chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu
sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ
can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo
và giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế xã hội; mua chuộc, lôi kéo,
ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép,
gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam
25
đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy
yếu cách mạng Việt Nam.
Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động
người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong
các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam
như: truyền đạo trái phép để “tôn giáo hoá” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành
đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo
loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép vào các
vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên.
2.3.3 Giải pháp đấu tranh phòng, chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn dân. Đây là giải pháp
đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức, tư tưởng của cả hệ
thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn giáo về
các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, vô
hiệu hoá được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch.
Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững
ổn định chính trị- xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng
cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kẻ
thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa
trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực
hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, da dạng hoá các hình thức tập hợp
nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Kiên quyết đấu
tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý
nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh
thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện
tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.
Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí
và cán bộ chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người có tôn
giáo. Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách
dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương
châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương
pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo.
26
Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu
thủ đoạn lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch;
kịp thời giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản
động của kẻ thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo
vệ đồng bào các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ
đoạn xảo trá của chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng
trong cuộc đấu tranh này.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi dân tộc có những đặc
trưng riêng về văn hóa, tâm lý, ý thức tộc người, có trình độ phát triển không đều
nhau; mỗi tôn giáo có hệ thống giáo lý và tổ chức giáo luật khác nhau nhưng đều là
bộ phận trong khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Để chống phá cách mạng
Việt Nam, phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch tiến
hành những âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm chia rẽ đồng bào thuộc các
tộc người, các tôn giáo khác nhau, kích động sự chia rẽ kỳ thị dân tộc, tôn giáo,
xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc tôn giáo của Đảng, gây rối loạn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm ngòi nổ cho âm mưu thủ đoạn gây bạo loạn lật
đổ cách mạng từ bên trong. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải hết sức nâng cao cảnh
giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu thâm độc của kẻ
thù nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Anh/chị trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề
dân tộc?
2. Anh/chị trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề
tôn giáo?
3. Anh/chị trình bày âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?
4. Những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo chống phá cánh mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?

27
BÀI 3
PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường diễn biến rất phức tạp, phổ biến trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Tội phạm
môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu, chất
lượng môi trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và
sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, đấu tranh phòng chống vi phạm pháp
luật về môi trường nhằm bảo vệ môi trường sống được trong lành không chỉ có ý
nghĩa đến sức khỏe, đời sống của mỗi người mà còn tác động đến tình hình an ninh,
trật tự của xã hội và quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước.
3.1 Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.1 Khái niệm, vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.1.1 Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường
Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động
đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
Thành phần môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh
vật và các hình thái vật chất khác.
Pháp luật về bảo vệ môi trường: “Là hệ thống các văn bản pháp luật quy định
những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm giữ gìn, phòng
ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc
phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành”1.
Vi phạm pháp luật môi trường là hành vi trái với pháp luật về bảo vệ môi
trường, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện, xâm hại đến các lĩnh vực môi trường được pháp luật bảo vệ.
Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua cho thấy, Việt Nam đã mở
ra một giai đoạn mới trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh hiệu quả về phát triển kinh tế xã hội.
Việt Nam cũng đối diện với vấn đề môi trường bị ô nhiễm.
Các khu công nghiệp, làng nghề, khu đô thị được hình thành nhanh chóng làm
cho nguồn rác thải công nghiệp cũng như rác thải sinh hoạt đưa vào môi trường
ngày càng nhiều, gây ô nhiễm không khí, đất, nước.
Hầu hết các khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý môi trường tập trung
hoặc có nhưng hoạt động chỉ mang tính chất đối phó; việc các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất xả nước thải trực tiếp ra sông, biển là khá phổ biến.

1
Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh, Tài liệu tập huấn quản lý, giảng viên giảng dạy môn Giáo dục Quốc
phòng và An ninh các trường Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Hà Nội, 2020, tr.79.
28
Tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu
làm nguyên liệu sản xuất trong nước, kể cả thiết bị công nghệ lạc hậu dẫn đến nguy
cơ biến nước ta thành bãi thải công nghiệp.
Tình trạng săn bắt, buôn bán động vật hoang dã, quý hiếm xảy ra hết sức
nghiêm trọng, làm giảm tính đa dạng sinh học; số vụ ngộ độc thực phẩm, ngộ độc
hóa chất bảo vệ thực vật tăng nhanh làm cho tình hình tội phạm về môi trường và vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam ngày càng gia tăng, không những
ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức mà còn gây thiệt
hại nghiêm trọng đối với môi trường nói chung.
3.1.1.2 Vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường
Thứ nhất, pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực
hiện khi khai thác và sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường.
Thứ hai, pháp luật xây dựng hệ thống các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn
môi trường để bảo vệ môi trường.
Thứ ba, phát luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự
buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đòi hỏi pháp luật trong
việc khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
Thứ tư, pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường.
Thứ năm, pháp luật giải quyết các tranh chấp liên quan đến bảo vệ môi trường.
Trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường thì giữa các
cá nhân, tổ chức có thể xảy ra những tranh chấp. Các tranh chấp đó có thể là giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với doanh nghiệp; giữa cá nhân, doanh nghiệp với Nhà
nước…và pháp luật với tư cách là “hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi” sẽ
giải quyết các tranh chấp đó trên cơ sở những quy định đã được ban hành.
3.1.1.3 Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
- Pháp luật về tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường:
Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền
vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ
động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích
mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng
tái tạo. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên
nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc
phục, bồi thường thiệt hại (Theo Điều 63, Hiến pháp 2013).
- Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường:
Về xử lý hình sự: Chương 19, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về các tội
phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường với 12 điều (từ Điều 235 đến Điều 246)
trong đó, Điều 235, Bộ luật Hình sự quy định: Người nào thực hiện một trong các
hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc
29
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải nguy hại
hoặc chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000
kilôgam; xả thải ra môi trường từ 5.000 m3/ngày đến dưới 10.000 m3/ngày nước thải
có các thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 10 lần
trở lên; xả nước thải ra môi trường có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường
vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 lần đến dưới 04 lần; xả ra môi trường từ 5.000
m3/ngày đến dưới 10.000 m3/ngày nước thải có độ pH từ 0 đến dưới 2 hoặc từ 12,5
đến 14; thải ra môi trường từ 300.000 m3/giờ đến dưới 500.000 m3/giờ bụi, khí thải
vượt quá quy chuẩn kỹ thuật về chất thải 10 lần trở lên; chôn, lấp, đổ, thải ra môi
trường chất thải rắn thông thường trái quy định của pháp luật từ 200.000 kilôgam
đến dưới 500.000 kilôgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi
trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm trung bình theo quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt
quy chuẩn cho phép; phát tán ra môi trường bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn
kỹ thuật hoặc vượt mức giới hạn theo quy định từ 02 lần đến dưới 04 lần.
Về xử lý vi phạm hành chính: Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016
của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường, bao gồm:
Các hành vi vi phạm các quy định về kế hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá
tác động môi trường và đề án bảo vệ môi trường.
Các hành vi gây ô nhiễm môi trường;
Các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải;
Các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường của cơ sở sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ và khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công
nghiệp, khu kinh doanh dịch vụ tập trung;
Các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập
khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu, phế liệu, chế phẩm sinh học; nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; hoạt
động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản;
Các hành vi vi phạm các quy định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường;
Các hành vi vi phạm hành chính về đa dạng sinh học bao gồm: Bảo tồn và
phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn và phát triển bền vững các loài
sinh vật và bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền;
Các hành vi cản trở hoạt động quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, xử phạt
vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm quy định khác về bảo vệ môi trường.
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bị áp dụng một trong
các hình thức xử phạt là cảnh cáo, hoặc phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân
và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức. Ngoài các hình thức xử phạt trên, cá nhân,
30
tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn có thể bị áp dụng
một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như buộc khôi phục lại tình trạng môi
trường đã bị ô nhiễm hoặc phục hồi môi trường bị ô nhiễm do vi phạm hành chính
gây ra; buộc trồng lại, chăm sóc và bảo vệ diện tích khu bảo tồn đã bị phá hủy, phục
hồi sinh cảnh ban đầu cho các loài sinh vật, thu hồi nguồn gen từ các hoạt động tiếp
cận nguồn gen trái pháp luật; buộc tháo dỡ hoặc di dời cây trồng, công trình, phần
công trình xây dựng trái quy định về bảo vệ môi trường; buộc tháo dỡ công trình,
trại chăn nuôi, khu nuôi trồng thủy sản, nhà ở, lán trại xây dựng trái phép trong khu
bảo tồn; v.v.
Ngoài ra, luật còn quy định xử lý trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Cùng với các văn bản pháp luật nêu trên, việc bảo vệ môi trường còn được
quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước như: Luật đất đai; Luật khoáng
sản; Luật tài nguyên nước; Luật bảo vệ và phát triển rừng; Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, v.v.
3.1.2 Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.1.2.1 Khái niệm vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Vi phạm pháp luật về môi trường là một loại vi phạm pháp luật nói chung, bao
gồm hai khía cạnh, tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính về bảo
vệ môi trường.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi có lỗi
do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử lý vi phạm hành chính1.
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy định của Nhà nước
về bảo vệ môi trường, xâm phạm đến các thành phần của môi trường làm thay đổi
trạng thái, tính chất của môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại, phát triển con
người và sinh vật, mà theo quy định phải bị xử lý hình sự2.
Phân biệt tội phạm về môi trường và vi phạm hành chính về môi trường:
Tội phạm về môi trường phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi của cá
nhân hay pháp nhân thương mại, xâm hại đến các khách thể được luật hình sự bảo
vệ, phải chịu trách nhiệm hình sự.

1
Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh, Tài liệu tập huấn quản lý, giảng viên giảng dạy môn Giáo dục Quốc
phòng và An ninh các trường Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Hà Nội, 2020, tr.81.
2
Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh, Tài liệu tập huấn quản lý, giảng viên giảng dạy môn Giáo dục Quốc
phòng và An ninh các trường Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Hà Nội, 2020, tr.81.
31
Vi phạm hành chính về môi trường bao gồm những hành vi vi phạm pháp luật
về môi trường, do cá nhân hay tổ chức thực hiện, có lỗi của cá nhân hay tổ chức,
phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài ra, để phân biệt tội phạm về môi trường với các loại tội phạm khác cần
dựa vào yếu tố môi trường. Sự khác biệt đó thể hiện, tội phạm về môi trường tác
động đến các thành phần của môi trường dẫn đến làm thay đổi trạng thái, tính chất
của môi trường hoặc xâm phạm đến quyền con người được sống trong môi trường
trong lành.
3.1.2.2 Dấu hiệu vi phạm pháp luật về môi trường
- Các tội phạm về môi trường:
Tội phạm về môi trường được quy định tại Chương 19, Bộ luật hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung 2017), gồm 12 tội danh được quy định từ Điều 235 đến Điều 246,
đó là: Tội gây ô nhiễm môi trường, tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy
hại; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; tội
vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
thiên tai, vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông; tội đưa chất thải vào lãnh thổ
Việt Nam; tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người; tội làm lây
lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật; tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản; tội
hủy hoại rừng; tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý,
hiếm; tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên; tội nhập khẩu,
phát tán các loài ngoại lai xâm hại.
- Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm về môi trường:
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm về môi trường được thể hiện dưới 4
yếu tố cấu thành tội phạm sau đây:
Một là, khách thể của tội phạm: Khách thể của các tội phạm về môi trường là
sự xâm phạm vào các quy định của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường, xâm
phạm vào sự trong sạch, tính tự nhiên của môi trường thiên nhiên vượt quá mức
giới hạn cho phép, xâm phạm vào sự ổn định của môi trường sống gây ảnh hưởng
hoặc làm tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người và các loài sinh vật.
Đối tượng tác động của các tội phạm về môi trường chủ yếu là các thành phần
môi trường như đất, nước, không khí, hệ sinh thái, đa dạng sinh học, khu bảo tồn
thiên nhiên, các loài động vật, thực vật sống trong môi trường tự nhiên. Ngoài ra
trong một số tội danh, đối tượng tác động của tội phạm về môi trường còn trực tiếp
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc gây thiệt hại về tài sản như
Điều 237, Điều 238 Bộ luật hình sự hiện hành.
Hai là, khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của các tội phạm về môi
trường được thể hiện bởi những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các
quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường được thực hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động. Hầu hết các tội phạm về môi trường có cấu thành tội phạm
vật chất.
32
Mặt khách quan của tội phạm về môi trường được thể hiện dưới các nhóm
hành vi cụ thể sau:
Nhóm các hành vi gây ô nhiễm môi trường bao gồm các hành vi chôn, lấp, đổ,
thải, xả thải trái pháp luật các chất thải ra môi trường (đất, nước, không khí,…); cho
phép chôn, lấp, đổ, thải trái quy định của pháp luật về chất thải nguy hại; vi phạm quy
định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; đưa chất thải vào lãnh thổ
Việt Nam (Quy định tại các Điều 235, 236, 237, 239 trong Bộ luật hình sự),
Nhóm các hành vi hủy hoại tài nguyên, môi trường bao gồm các hành vi vi
phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên
tai; hủy hoại nguồn lợi thủy sản; hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về bảo vệ
động vật nguy cấp, quý, hiếm (Quy định tại các Điều 238, 242, 243, 244, 245, 246
trong Bộ luật hình sự),
Hành vi vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và
phòng, chống thiên tai như xây nhà, công trình trái phép trong phạm vi bảo vệ công
trình thủy lợi, đê điều, công trình phòng, chống thiên tai; làm hư hỏng công trình
thủy lợi, đê điều, công trình phòng, chống thiên tai, công trình bảo vệ, khai thác, sử
dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra; khoan, đào thăm dò, khảo sát, khai thác đất, đá, cát
sỏi, khoáng sản, nước dưới đất trái phép; sử dụng chất nổ, gây nổ, gây cháy trong
phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, đê điều, công trình phòng, chống thiên tai, công
trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình
phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, trừ trường hợp có giấy
phép hoặc trường hợp khẩn cấp do luật định; vận hành hồ chứa nước không đúng
quy trình vận hành hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa; vận hành công trình
phân lũ, làm chậm lũ không đúng với quy trình, quy chuẩn kỹ thuật cho phép, trừ
trường hợp đặc biệt thực hiện theo quyết định của người có thẩm quyền.
Hủy hoại nguồn lợi thủy sản gồm các hành vi sử dụng chất độc, chất nổ, các
hoá chất khác, dòng điện hoặc các phương tiện, ngư cụ khác bị cấm để khai thác
thuỷ sản hoặc làm huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản; khai thác thuỷ sản tại khu vực bị
cấm, trong mùa sinh sản của một số loài hoặc vào thời gian khác mà pháp luật cấm;
khai thác các loài thuỷ sản quý hiếm bị cấm theo quy định của Chính phủ; phá hoại
nơi cư ngụ của các loài thuỷ sản quý hiếm được bảo vệ theo quy định của Chính
phủ; vi phạm các quy định khác về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản;
Hủy hoại rừng gồm các hành vi đốt rừng làm cho rừng bị cháy toàn bộ hoặc
chỉ cháy một phần; phá rừng như khai thác gỗ, khai thác các lâm sản trái phép; hủy
hoại rừng như dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết
khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng, v.v.
Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm với các hành vi
săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục
loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; săn bắt động vật thuộc danh mục loài
nguy cấp, quý, hiếm là dùng các loại vũ khí hoặc phương tiện khác để bắt sống hoặc
có thể bắn chết; giết là làm cho động vật nguy cấp, quý, hiếm hoang dã quý hiếm
33
chết sau khi đã bắt được; nuôi, nhốt là việc đưa động vật nguy cấp, quý, hiếm còn
sống đem đi giam cầm, nhốt giữ hoặc chăm nuôi mà không được cơ quan có thẩm
quyền cấp phép hoặc cho phép nuôi, nhốt; vận chuyển động vật nguy cấp, quý,
hiếm là hành vi dịch chuyển động vật hoang dã quý hiếm từ này sang nơi khác bằng
bất cứ phương tiện gì, không bao gồm hành vi buôn bán; buôn bán trái phép động
vật nguy cấp, quý, hiếm là mua để bán động vật hoang dã quý hiếm nhằm thu lợi
nhuận; tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể
tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật.
Nhóm các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm bao gồm các hành vi cụ
thể như làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người và nguy hiểm cho
động vật, thực vật (quy định tại các Điều 240, 241 trong Bộ luật hình sự).
Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là hành vi đưa ra
hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động
vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho
người; đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc
sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả
năng lây truyền cho người hoặc có hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho người.
Làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật là hành vi đưa vào
hoặc mang ra khỏi khu vực hạn chế lưu thông động vật, thực vật, sản phẩm động
vật, thực vật hoặc vật phẩm khác bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh; đưa vào
hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực
vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiện các quy định của pháp luật về
kiểm dịch; hoặc có hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật,
thực vật.
Ba là, chủ thể của tội phạm:
Về cá nhân, đa số các tội phạm về môi trường được thực hiện bởi chủ thể là
bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo qui định
của Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó cũng có tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc
biệt là người có chức vụ quyền hạn.
Về pháp nhân thương mại phải đảm bảo các quy định: Được thành lập hợp
pháp theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan; có cơ cấu tổ chức
theo quy định của bộ luật dân sự; có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh mình tham gia quan hệ pháp
luật một cách độc lập; có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được
chia cho các thành viên.
Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều
kiện: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; hành vi
phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; hành vi phạm tội
được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương
mại; chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Bộ luật Hình sự.
34
Bốn là, mặt chủ quan của tội phạm: Các tội phạm về môi trường được thực
hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. Hầu hết tội phạm về môi trường thực hiện
hành vi phạm tội dưới hình thức lỗi cố ý. Có nghĩa là chủ thể thực hiện tội phạm
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và sẽ gây ra hậu quả nhất
định cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện hành vi. Động cơ, mục đích phạm tội đa dạng,
nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội phạm
về môi trường.
- Dấu hiệu của vi phạm hành chính về môi trường:
Về chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính về môi trường: Bao gồm các
cá nhân hoặc tổ chức có đủ điều kiện về chủ thể.
Đối với cá nhân, người vi phạm phải có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi, đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật. Luật quy định: Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý;
người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính.
Đối với tổ chức vi phạm phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là các tổ chức này
được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân,
tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản độc lập đó, đồng thời được nhân
danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Các quy định khác về vi phạm bảo vệ môi trường gồm hình thức lỗi và thức
thức xử lý.
Hình thức lỗi: Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm bởi lỗi cố ý hoặc vô ý.
Tuy nhiên, vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường chủ yếu được thực hiện dưới
hình thức lỗi cố ý. Các tổ chức, cá nhân nhận thức được hành vi của mình xâm
phạm đến môi trường nhưng vẫn cố ý thực hiện.
Hình thức xử lý: Hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường sẽ bị xử lý
theo quy định của pháp luật hành chính bao gồm phạt tiền, cảnh cáo, tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính khác cũng
như buộc chủ thể vi phạm phải khắc phục nguyên trạng ban đầu.
3.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi trường
3.1.3.1 Nguyên nhân, điều kiện khách quan
Do sự phát triển “quá nhanh” và “nóng” của kinh tế - xã hội không tính đến
yếu tố bảo vệ môi trường của các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội là một trong
những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm môi trường và là mảnh đất tốt
để tội phạm môi trường phát triển.
Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại
nhằm thu hút đầu tư với nhiều chính sách ưu đãi, nhập khẩu máy móc, phương tiện,
thiết bị phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng công tác kiểm tra, kiểm soát

35
và quản lý xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật về môi trường.
Việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện phát triển cho các ngành
công nghiệp, khai thác khoáng sản, xuất nhập khẩu, sản xuất hàng hóa sẽ có điều
kiện phát triển, song cũng sẽ phải đối mặt với một thách thức đó là các hành vi gây
ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên môi trường, vi phạm
các chế độ về bảo vệ môi trường, đặc biệt đối với các hành vi vận chuyển chất thải
nguy hại, phóng xạ trái phép qua biên giới, xả thải không qua xử lý ra môi
trường…với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp và đa dạng. Các doanh nghiệp
nước ngoài sẽ lợi dụng những hạn chế trong công tác quản lý môi trường, sơ hở của
pháp luật, thiếu kinh nghiệm, non kém về kiến thức khoa học - kỹ thuật hoặc lợi
dụng những cán bộ thoái hóa biến chất ký cấp phép các dự án mà không chú trọng
các cam kết bảo vệ môi trường.
3.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân thuộc về cơ quan chức năng:
Nhận thức của một số bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường chưa cao, ý thức bảo vệ môi trường của các cơ quan, doanh nghiệp và công
dân còn kém, chưa tự giác, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm chú trọng
đúng mức. Chính quyền các cấp, các ngành chỉ chú trọng phát triển kinh tế chưa coi
trọng công tác bảo vệ môi trường; thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư, cấp phép
dự án nhưng chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường, đầu
tư hệ thống hạ tầng đảm bảo cho công tác xử lý chất thải, rác thải.
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường còn thiếu và chưa đồng bộ:
Văn bản pháp luật về môi trường hiện nay đang trong giai đoạn xây dựng, bổ sung
và hoàn thiện. Hệ thống các văn bản pháp luật về môi trường hiện nay “vừa thiếu lại
vừa thừa”. Thiếu những văn bản pháp quy mang tính thống nhất và có hiệu lực cao.
Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo, trùng dẫm. Trong khi đó, thiếu các Thông
tư hướng dẫn thực hiện dẫn đến khó khăn cho lực lượng thực hiện nhiệm vụ.
Các cơ quan chức năng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây là những thiếu sót thuộc về chủ
quan của các ngành, các cấp trong toàn xã hội dẫn đến vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường có điều kiện còn tồn tại và phát triển.
Lực lượng trực tiếp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn
còn thiếu và còn yếu: Đội ngũ cán bộ chiến sĩ trực tiếp đấu tranh phòng chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn thiếu, chưa đủ biên chế ở các cấp Công
an, dẫn đến công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng có điều kiện, khả năng
phạm tội về môi trường còn có những thiếu sót, bất cập, một số địa bàn còn bỏ
trống, đối tượng đi đâu, làm gì chưa nắm bắt. Vì vậy, dẫn đến các hành vi vi phạm
hành chính về môi trường ngay từ ban đầu còn chưa kịp thời phát hiện, giải quyết
triệt để đã trở thành tội phạm. Bên cạnh đó, một số cán bộ trong lực lượng trực tiếp
đấu tranh phòng, chống còn yếu về năng lực nghiệp vụ chuyên môn chưa đáp ứng
36
được yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm môi trường thời kỳ hội nhập, thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phần lớn cán bộ trong lực lượng trực tiếp đấu
tranh phòng, chống còn thiếu các kiến thức chuyên sâu về môi trường, đặc biệt là
trong các lĩnh vực quản lý môi trường, công nghệ môi trường, xử lý chất thải. Một
số được tuyển dụng từ ngành ngoài vào, có kiến thức về môi trường song lại hạn
chế về năng lực nghiệp vụ, dẫn đến những bất cập trong phát hiện, xử lý các hành vi
phạm tội và vi phạm pháp luật về môi trường. Công tác quản lý địa bàn, lĩnh vực
trọng điểm, quản lý đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật về môi trường của lực
lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống còn chưa tốt. Các đối tượng có biểu hiện vi
phạm pháp luật về môi trường còn có điều kiện để lợi dụng thực hiện hành vi vi
phạm. Trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng,
chống còn chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn của công tác đấu tranh đòi hỏi
như về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ phương tiện công tác cũng
các điều kiện làm việc chưa được đảm bảo... đây là các điều kiện yếu tố có tác động
trực tiếp đến sự tồn tại, phát sinh, phát triển của các hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường trong giai đoạn hiện nay.
Các cơ quan chức năng có liên quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi
phạm pháp luật về môi trường như: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hải quan, Kiểm
lâm, quản lý thị trường, Thanh tra của ngành y tế, xây dựng,... còn chưa làm hết
chức năng của mình trong phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường, còn cho đó là nhiệm vụ của cơ quan Công an, chưa phát huy hết trách
nhiệm của mình trong phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường.
Công tác phối hợp giữa các lực lượng trong phòng, chống tội phạm về môi
trường còn chưa tốt, chưa xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng, việc phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chưa đồng bộ, chưa thường xuyên.
Áp lực tăng trưởng kinh tế, các cơ quan ở địa phương mới chỉ quan tâm đến
lợi ích kinh tế trước mắt, chưa chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường,
thậm chí nhận thức không đầy đủ về công tác bảo vệ môi trường đã kêu gọi đầu tư
dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng
của các dự án đối với môi trường. Bên cạnh đó, việc giải quyết “mâu thuẫn” giữa
phát triển tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, an sinh xã hội với công
tác bảo vệ môi trường là một “bài toán” hết sức nan giải chưa thể giải quyết một
sớm một chiều đối với nhiều cấp, nhiều ngành.
Những tồn tại, thiếu sót nêu trên của các cơ quan chức năng là những điều
kiện thuận lợi cho tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường tồn tại và phát triển.
Do đó, cần chăm lo xây dựng lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật về môi trường vững mạnh, giỏi về pháp luật, tinh thông về nghiệp
vụ chuyên môn, có mối quan hệ chặt chẽ với các lực lượng có liên quan sẽ có ý
nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn tội phạm, vi
phạm pháp luật khác về môi trường, góp phần quan trọng vào công tác đảm bảo an
ninh trật tự và phát triển bền vững của đất nước.

37
- Nguyên nhân thuộc về phía đối tượng vi phạm:
Vi phạm pháp luật về môi trường nói chung phần lớn đều có động cơ, mục
đích tư lợi cá nhân, đặc biệt là đối tượng phạm tội về môi trường. Hầu hết các tội
phạm cụ thể trong lĩnh vực môi trường đều có động cơ, mục đích vụ lợi, đều nhằm
mục đích thu lợi bất chính về kinh tế. Các đối tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường trong từng lĩnh vực cụ thể nhằm mục đích làm sao để kiếm được nhiều
lợi nhuận nhất và chi phí bỏ ra ít nhất như trong các lĩnh vực gây ô nhiễm, suy thoái
môi trường. Phần lớn các đối tượng đều biết song do chi phí cho xử lý chất thải
thường tốn kém nên giá thành sản phẩm sẽ cao, không cạnh tranh được trên thị
trường nên các đối tượng không đầu tư, chấp nhận bị xử phạt còn rẻ hơn là đầu tư
xử lý chất thải.
Ý thức coi thường pháp luật, sống thiếu kỷ cương không tuân thủ các quy tắc,
chuẩn mực xã hội cùng với việc ý thức sai lệch về cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân là
yếu tố chủ quan dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của
các đối tượng. Do đó, việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức cho mọi người về công tác bảo vệ môi trường, về ý thức tuân thủ
pháp luật cũng như những chuẩn mực của cuộc sống sẽ góp phần quan trọng vào
phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhận thức về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.2.1 Khái niệm, đặc điểm về phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường
3.2.1.1 Khái niệm
Hiểu theo nghĩa rộng (bao gồm cả tội phạm và vi phạm hành chính): Phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là thuật ngữ được sử dụng tương đối
phổ biến trong xã hội, được nhìn nhận và đánh giá từ nhiều góc độ, phạm vi khác
nhau. Nhưng nhìn chung nó hàm chứa các nội dung liên quan đến các biện pháp
nhằm loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật
khác về bảo vệ môi trường; phát hiện, ngăn chặn tội phạm, vi phạm pháp luật khác
về bảo vệ môi trường cũng như tiến hành điều tra, xử lý tội phạm, vi phạm pháp
luật khác về bảo vệ môi trường nhằm hạn chế hậu quả tác hại do các hành vi này
gây ra cho xã hội.
Dưới góc độ tội phạm học, phòng ngừa tội phạm và khoa học điều tra hình sự
(tiếp cận dưới góc độ nhiều chủ thể tham gia): Phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường là hoạt động các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân
bằng việc sử dụng tổng hợp các biện pháp, phương tiện nhằm ngăn chặn, hạn chế tình
hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; phát hiện, loại trừ các nguyên nhân,
điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; khi vi phạm pháp luật về bảo

38
vệ môi trường xảy ra thì hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại, kịp thời phát
hiện, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường”1.
Từ nhận thức như trên có thể thấy: Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường cũng có đặc trưng chung của hoạt động phòng, chống các loại tội phạm,
vi phạm pháp luật khác nói chung, đó là tiến hành có hệ thống các biện pháp nhằm
ngăn chặn, hạn chế không để vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra, đảm
bảo môi trường không bị ô nhiễm, suy thoái, đồng thời đảm bảo kịp thời các hoạt
động điều tra, xử lý người có hành vi phạm tội hoặc vi phạm hành chính để giáo
dục, cải tạo họ tiến bộ, trở thành công dân có ích cho xã hội, tôn trọng pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Chủ thể tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là cơ
quan, tổ chức xã hội và mọi công dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn được phân công sẽ tác động vào các yếu tố làm phát sinh các hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn không để cho tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra cũng như tiến
hành các biện pháp điều tra, xử lý để răn đe, giáo dục và cảm hóa họ trở thành
người có ích cho xã hội.
3.2.1.2 Đặc điểm
Chủ thể tiến hành tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường rất đa dạng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hành được quy định
trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để tiến
hành các hoạt động phòng ngừa cũng như điều tra, xử lý phù hợp.
Biện pháp tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
được triển khai đồng bộ, có sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp phòng ngừa
(phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn) với các
biện pháp điều tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường (cả tội phạm và vi phạm hành chính).
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp
đến việc sử dụng các công cụ, phương tiện nghiệp vụ và ứng dụng tiến bộ của khoa
học công nghệ.
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể tham gia trên cơ sở chức năng, quyền hạn được phân công.
3.2.2 Nội dung, biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
3.2.2.1 Nội dung phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Thứ nhất, nắm tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nghiên cứu
làm rõ những vấn đề có tính quy luật trong hoạt động vi phạm pháp luật của các
đối tượng.

1
Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh, Tài liệu tập huấn quản lý, giảng viên giảng dạy môn Giáo dục quốc
phòng và an ninh các trường Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Hà Nội, 2020, tr.89.
39
Trong phạm vi nhiệm vụ, các cơ quan chuyên môn cần nắm vững: Số vụ vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong từng thời gian (từng quý, năm)
trên từng địa bàn cụ thể gắn với lĩnh vực công tác chuyên môn; các loại vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra phổ biến (tội phạm vi phạm hành chính; các
hành vi vi phạm cụ thể về gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại tài nguyên, môi
trường, làm lây lan dịch bệnh,...); lĩnh vực xảy ra nhiều là những lĩnh vực nào; đối
tượng gây ra các vụ vi phạm thuộc loại người nào trong xã hội quốc tịch, dân tộc
(nhân thân của đối tượng), các pháp nhân thương mại nào là chủ yếu (công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở sản xuất, kinh doanh có đăng ký pháp
nhân,...); phương thức, thủ đoạn hoạt động; hậu quả, tác hại gây ra cho xã hội và
cho nhân dân,…
Thứ hai, xác định và làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường.
Tiến hành nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay và nguyên nhân, điều
kiện của từng loại vi phạm cụ thể, từng vụ việc vi phạm cụ thể. Xác định rõ các
nguyên nhân và điều kiện thuộc ngành nào, lĩnh vực nào cụ thể. Trên cơ sở đó, cần
kiến nghị với các ngành, các cấp và trực tiếp tiến hành bịt kín những sơ hở thiếu sót,
những hiện tượng tiêu cực làm phát sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thứ ba, xây dựng các kế hoạch, biện pháp, các giải pháp chủ động hạn chế các
nguyên nhân, khắc phục các điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nội dung này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải xây dựng các phương án, các
kế hoạch cụ thể, những giải pháp để phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, trong đó, phải xác định rõ những công việc phải làm trước mắt, những việc
phải làm dâu lài, các lực lượng tham gia hỗ trợ, các biện pháp cụ thể sẽ sử dụng,…
Thứ tư, tổ chức lực lượng tiến hành các hoạt động khắc phục các nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm về môi trường, từng bước kiềm chế, đẩy lùi tình trạng
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đây là nội dung cụ thể đòi hỏi các lực lượng, cơ quan chuyên môn tổ chức
thực hiện các phương án, kế hoạch đã đề ra. Huy động sức mạnh tổng hợp của các
ngành, các cấp, các đoàn thể, các tổ chức quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh.
Trong đó, Công an là lực lượng nòng cốt, xung kích sử dụng đồng bộ các biện pháp
bao gồm các biện pháp chung của toàn xã hội và các biện pháp nghiệp vụ chuyên
môn của mình để đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực xã hội là nguyên nhân nảy
sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở từng lĩnh vực, trên từng địa bàn
nhằm hạn chế sự gia tăng tội phạm về môi trường, tiến tới loại trừ vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường ra khỏi đời sống xã hội trong tương lai.
Thứ năm, tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường.
40
Khi tội phạm về môi trường xảy ra, căn cứ vào tính chất mức độ, mức độ của
hành vi phạm tội mà các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền (Công an, Viện Kiểm
sát, Tòa án,...) sẽ tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Đối với các vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường tùy theo cơ quan
chuyên môn nào phát hiện (Công an, Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trường,
Hải Quan, Kiểm lâm,...) sẽ tiến hành xử lý hành chính theo thẩm quyền.
3.2.2.2 Biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
- Các biện pháp phòng, chống chung:
Biện pháp tổ chức - hành chính: Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ
quan quản lý Nhà nước về môi trường, các chủ thể tham gia bảo vệ môi trường,
nâng cao năng lực các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, đoàn
thể quần chúng và nhân dân trong bảo vệ môi trường; thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường...;
Biện pháp kinh tế: Biện pháp này chủ yếu dùng các lợi ích vật chất để kích
thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường, bảo vệ môi trường
và ngược lại xử lý, hạn chế lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm;
Biện pháp khoa học - công nghệ: Là ứng dụng các biện pháp khoa học công
nghệ vào giải quyết những vấn đề môi trường;
Biện pháp tuyên truyền, giáo dục: Là giáo dục, tuyên truyền đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng
vào việc bảo vệ môi trường;
Biện pháp pháp luật: Là biện pháp xây dựng các quy phạm pháp luật và tổ
chức thực hiện, áp dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến
việc bảo vệ môi trường.
- Các biện pháp phòng, chống cụ thể:
Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan, ban ngành có liên
quan trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tham mưu là một chức năng quan trọng của các cơ quan, tổ chức khi tham gia
các hoạt động nói chung. Trong phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các lực lượng có liên quan tới
hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường mà các cơ quan, tổ
chức sẽ có các hoạt động tham mưu cụ thể khác nhau, nội dung, phương pháp khác
nhau. Nhìn chung, hoạt động tham mưu của các chủ thể bao gồm:
Tham mưu về nội dung của công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường như trong việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội, phát
triển bền vững gắn với công tác bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự trong lành của
môi trường sống, an sinh xã hội. Thể hiện ở các phương diện như: tham mưu cho
các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành hệ thống các văn
bản pháp luật về môi trường, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
41
về môi trường. Trong đó, tập trung nêu rõ các hành vi bị nghiêm cấm, nghĩa vụ,
trách nhiệm của cơ quan, đoàn thể và của công dân trong công tác bảo vệ môi
trường; những khuyến cáo cần thực hiện trong đấu tranh phòng chống tội phạm và
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tham mưu cho các cơ quan chức năng có liên quan về phương pháp, cách
thức tổ chức các hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường,
theo chức năng nhiệm vụ của ngành đó như: cách thức tổ chức các hoạt động phòng
ngừa, phương pháp huy động lực lượng, phương tiện tham gia vào công tác phòng
chống, các hình thức phát động quần chúng tham gia vào phòng, chống… gắn với
việc thực hiện các phong trào, công tác chuyên môn của các cơ quan ban ngành đó.
Phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây là một hoạt động
mang tính xã hội và mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài có ý nghĩa quan trọng
trong biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Chỉ khi nào
quần chúng trong xã hội tự giác tham gia vào các hoạt động phòng, chống cụ thể thì
khi đó hiệu quả của công tác phòng ngừa cũng như điều tra khám phá tội phạm và
vi phạm pháp luật về môi trường mới được nâng cao, đáp ứng được với mục tiêu,
yêu cầu đề ra. Để thực hiện tốt nội dung nêu trên các lực lượng có liên quan làm tốt
những nội dung cụ thể sau:
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý thức trách
nhiệm trong công tác bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên. Trên cơ sở đó đề
xuất quần chúng nhân dân tự giác tham gia vào phòng ngừa và đấu tranh.
Tuyên truyền cho quần chúng nhân dân thấy được hậu quả trước mắt cũng như
lâu dài do các hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tài nguyên
gây ra cho xã hội và cho nhân dân, những ảnh hưởng nặng nề cho đời sống xã hội
hiện tại và tương lai. Trên cơ sở đó để quần chúng nhân dân không có các hành vi
phạm tội và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền cho mọi người trong xã hội thấy được phương thức thủ đoạn
hoạt động của tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, để quần chúng
nhân dân cảnh giác không bị lôi kéo vào các hoạt động phạm tội; chủ động phát
hiện và báo cho cơ quan chức năng (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thanh tra
chuyên ngành, Kiểm lâm, Hải quan,...) biết các hành vi vi phạm, đối tượng nghi vấn
có liên quan đến tội phạm và vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường, có biện
pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Tuyên truyền cho quần chúng nhân dân nắm được những kiến thức cơ bản về
bảo vệ môi trường và phòng, chống tội phạm về môi trường.
Về hình thức tuyên truyền: Lực lượng Cảnh sát môi trường có thể trực tiếp
tiến hành các hoạt động tuyên truyền thông qua các buổi nói chuyện chuyên đề hoặc
qua các hội nghị. Hình thức về chuyên đề bảo vệ môi trường có thể phối hợp với
các cơ quan thông tin đại chúng như đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các loại
42
báo viết, … hoặc thông qua nhà trường để có các nội dung tuyên truyền phù hợp; có
sự phối hợp với các cơ quan văn hóa trong kẻ vẽ pano, áp phích, hoặc tiến hành sân
khấu hóa các nội dung cần tuyên truyền. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về
môi trường cho các thành viên trong xã hội. Tùy theo từng đối tượng cụ thể mà có
các nội dung tuyên truyền, hình thức tuyên truyền cho phù hợp.
Phối hợp với các lực lượng, các ngành có liên quan để vận động quần chúng
tham gia tích cực vào hoạt động phòng, chống tội phạm, vi phạm hành chính về môi
trường và bảo vệ môi trường.
Tội phạm và vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đều là các hiện tượng
tiêu cực xã hội, có nguyên nhân phát sinh bởi các nhân tố tiêu cực ngay trong xã
hội. Vì vậy, để đấu tranh loại trừ hiện tượng tiêu cực xã hội này cần phải huy động
được đông đảo lực lượng của toàn xã hội tham gia. Muốn vậy, các cơ quan chuyên
môn cần làm tốt công tác vận động quần chúng, tổ chức cho quần chúng tham gia
một cách tự giác vào các tổ chức phù hợp để đấu tranh với các hành vi vi phạm
pháp luật, phạm tội về bảo vệ môi trường môi trường nhằm bảo vệ môi trường.
Nội dung tổ chức vận động quần chúng tham gia tích cực vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm về môi trường bao gồm:
Tổ chức cho quần chúng tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp với điều kiện
cụ thể của mỗi người, mỗi vùng để thông qua đó vận động quần chúng tham gia tích
cực vào công tác bảo vệ môi trường, có các hành vi xâm hại đến môi trường.
Vận động quần chúng tham gia phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp
luật, phạm tội về bảo vệ môi trường cho cơ quan công an và các cơ quan chức năng
để có biện pháp ngăn chặn, xử lý.
Vận động quần chúng tham gia vào việc quản lý, giám sát, giáo dục các đối
tượng có điều kiện, khả năng, có biểu hiện nghi vấn phạm tội về môi trường, tác
động để các đối tượng từ bỏ ý định phạm tội về môi trường trở thành người có ích
cho xã hội.
Vận động, tổ chức cho quần chúng tham gia trực tiếp vào công tác đấu tranh
với các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội về môi trường phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của mỗi người như: Tham gia vào công tác kiểm điểm, giáo dục đối
tượng, ngăn chặn hành vi phạm tội về môi trường.
Về hình thức tổ chức vận động quần chúng:
Phối hợp với các lực lượng có liên quan vận động quần chúng tham gia vào
các hoạt động phòng ngừa tội phạm môi trường ở tại địa bàn cơ sở, nơi cư trú, cam
kết thi đua giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp, cam kết không vi phạm pháp luật về
môi trường. Sử dụng những người có uy tín trong dòng họ, thôn xóm, khu phố, già
làng, trưởng bản... để vận động quần chúng nhân dân ở địa bàn cơ sở tham gia vào
công tác bảo vệ môi trường và đấu tranh chống các hành vi phạm tội, vi phạm pháp
luật về môi trường.

43
Tổ chức cho quần chúng tham gia vào các tổ chức xã hội phù hợp như: Tổ dân
phố, các câu lạc bộ, các tổ chức của các học sinh trong các nhà trường để thực hiện
các hoạt động: Xây dựng khu phố văn minh, đường phố, thôn xóm xanh, sạch,
đẹp... góp phần bảo vệ môi trường.
Sử dụng những người có uy tín để cảm hóa, giáo dục các đối tượng trong diện
quản lý, tổ chức cho quần chúng tham gia kiểm điểm, giáo dục các đối tượng vi
phạm; tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng phạm tội, vi phạm pháp
luật về môi trường đi cơ sở giáo dục, trại cải tạo trở về địa phương.
Phối hợp với lực lượng có liên quan xây dựng lực lượng nòng cốt ở cơ sở
(thôn xóm, khối phố, bản làng) để thực hiện nhiệm vụ xung kích trong bảo vệ môi
trường ở địa bàn cơ sở, giáo dục đối tượng thuộc diện giáo dục ở cơ sở, vận động
đối tượng phạm tội về môi trường ra đầu thú, ngăn chặn các hành vi xâm hại trực
tiếp đến môi trường.
Việc tổ chức vận động quần chúng tham gia vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm về môi trường, bảo vệ môi trường phải được tiến hành một cách
thường xuyên, phải được lồng ghép vào việc thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Đặc biệt là phải gắn giữa phát triển bền vững với bảo
vệ môi trường. Bên cạnh đó phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể để có các hình
thức tổ chức vận động cụ thể phù hợp với điều kiện cụ thể của quần chúng, có như
vậy mới phát huy được hiệu quả công tác vận động quần chúng trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm về môi trường.
Sử dụng các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn để phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường như Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Thanh tra chuyên
ngành, Kiểm Lâm, Hải Quan, Quản lý Thị trường,... trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ và thẩm quyền của mình được sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để tiến
hành các hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường một cách
hiệu quả.
3.2.3 Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường
3.2.3.1 Chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường là một bộ phận
của công tác bảo vệ môi trường có liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Do vậy, chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường là mọi tổ chức, mọi cơ quan, gia đình, cá nhân và toàn xã hội.
Khoản 1, Điều 4, Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định: “Bảo vệ môi trường
là trách nhiệm và nghĩa vụ mọi của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân”. Theo
đó, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được phân định, các chủ thể có trách nhiệm
trong bảo vệ môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
như sau:

44
Đối với tổ chức Đảng: Đảng lãnh đạo Nhà nước, các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia vào phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường thông qua việc hoạch định các chủ trương, chính sách,
ban hành các văn bản hướng dẫn, nghị quyết, chỉ thị. Đảng lãnh đạo trực tiếp đối
với các cơ quan trực tiếp phòng, chống tội phạm về môi trường như Công an nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân…; kiểm tra, giám sát, kịp thời uốn
nắn nhằm khắc phục những sai sót, tồn tại, bất cập của công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các pháp lệnh, nghị quyết về
công tác bảo vệ môi trường trong đó có công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường.
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, ban hành
các nghị định, nghị quyết, quyết định,… về công tác bảo vệ môi trường. Trực tiếp
tiến hành: Chỉ đạo và phân công, phân cấp cụ thể cho các bộ, ngành, các cơ quan
đoàn thể xã hội trong phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; đề ra các chế độ, chính sách, cung cấp kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan tổ chức tiến hành hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường; sử dụng các cơ quan chuyên trách trực thuộc phạm vi quản lý tiến hành
các hoạt động phòng, chống tội phạm về môi trường (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án,
…); chỉ đạo tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường của các cơ quan do mình quản
lý, kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cả về tổ chức và các văn bản đáp ứng yêu
cầu phòng, chống tội phạm; có chính sách, biện pháp nhằm động viên, huy động
sức mạnh toàn dân tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và môi trường: Bộ Tài nguyên và môi trường
chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường và có trách nhiệm ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực, ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia làm tiêu chuẩn đánh giá, xác định môi trường phục vụ công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường, trình Chính phủ quyết định chính
sách, chiến lược, kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường; hướng dẫn, kiểm tra,
thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật (Công an, Viện kiểm sát, Toà án,...):
Cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm về môi trường, tham
mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đề ra các chủ trương, chính sách
phù hợp, kịp thời để phòng ngừa tội phạm, điều tra, xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Cụ thể là:
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình trạng tội phạm và vi phạm pháp luật khác
về môi trường; xác định nguyên nhân, điều kiện của nó, từ đó tham mưu, đề xuất,

45
kiến nghị trong việc hoạch định các chính sách, áp dụng các biện pháp hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có hiệu quả;
Sử dụng các biện pháp theo luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn
theo chức năng cụ thể để trực tiếp tiến hành phòng, chống tội phạm về môi trường;
Làm lực lượng nòng cốt, xung kích trong việc phối hợp, hướng dẫn các cơ
quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trong quá
trình phòng, chống tội phạm về môi trường;
Theo quy định thì Bộ Công an có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng
ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và các văn bản pháp luật khác về bảo vệ
môi trường; phối hợp xây dựng các văn bản pháp luật về phòng ngừa tội phạm và
bảo vệ môi trường; huy động lực lượng ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường trong lực lượng vũ
trang thuộc thẩm quyền quản lý.
Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật thì lực lượng công an nhân dân là lực
lượng chính, tham gia trực tiếp, toàn diện vào phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường. Là lực lượng nòng cốt, xung kích trong phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân trong quá trình truy tố, xét xử phát
hiện ra nguyên nhân điều kiện của tội phạm về môi trường, từ đó đề xuất các giải
pháp khắc phục; phối hợp với lực lượng Công an trong điều tra, truy tố, xét xử, giáo
dục, cảm hoá người phạm tội về môi trường.
Nhiệm vụ của Bộ Xây dựng: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động
xây dựng cơ bản, xử lý chất thải rắn trong phạm vi trách nhiệm quản lý.
Nhiệm vụ của Bộ Y tế: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra, ban hành quy chế quản lý chất thải y tế; công tác bảo vệ môi trường tại các
cơ sở y tế.
Nhiệm vụ của Bộ Thông tin và truyền thông: Thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp
chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc Bộ phối hợp với các ngành liên quan thống
nhất nội dung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường nói riêng và công tác bảo vệ môi
trường nói chung.
Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung
các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực y tế, tạo hành lang pháp
lý đầy đủ, vững chắc phục vụ công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật môi trường.
Nhiệm vụ của Bộ Tài chính: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong phạm vi trách nhiệm được phân công. Trực tiếp chỉ đạo, hướng
46
dẫn Tổng cục Hải Quan kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động nhập khẩu từ
nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đối với các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng: Các tổ chức xã hội như Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, ... là cơ sở chính trị vững chắc của Nhà nước có vị trí quan
trọng trong công tác bảo vệ môi trường nói chung, trong phòng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật khác về môi trường nói riêng. Những tổ chức này phối hợp, hỗ
trợ cho chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên trách soạn thảo, tham gia
xây dựng kế hoạch phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi
trường; trực tiếp tham gia thực hiện công tác phòng ngừa và tuyên truyền pháp luật
về bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác về môi trường.
Trách nhiệm hộ gia đình và công dân: Thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ
công dân đã được Hiến pháp, pháp luật quy định về công tác bảo vệ môi trường;
chủ động phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường;
tham gia cảm hoá giáo dục người phạm tội, giáo dục các thành viên trong gia đình
mình có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường...; tích cực hợp tác, chia sẻ
thông tin với các cơ quan Nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật trong phát hiện, điều
tra, xử lý các tội phạm về môi trường cũng như các hành vi vi phạm hành chính về
bảo vệ môi trường...
3.2.3.2 Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng, chống vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, các
chủ thể tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thường phối
hợp trên các nội dung cơ bản sau:
Một là, tham mưu, đề xuất trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã
hội gắn với công tác bảo vệ môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường;
Hai là, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, các nội quy, quy
định, thiết chế về bảo vệ môi trường cũng như phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn, từng thời kỳ;
Ba là, tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện các chính sách pháp luật về bảo
vệ môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường;
Bốn là, tổ chức và phối hợp tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ
môi trường và phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; tiến hành vận
động quần chúng tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Năm là, phối hợp trong công tác nắm tình hình, trao đổi thông tin về tình hình
tội phạm, vi phạm pháp luật khác về môi trường; trong kiểm tra, xác minh các thông

47
tin; huy động lực lượng, phương tiện tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường;
Sáu là, phối hợp trong tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm;
cảm hóa, giáo dục đối tượng phạm tội về môi trường,...
Bảy là, phối hợp tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm trong phòng, chống tội
phạm và các vi phạm pháp luật về môi trường;
Tám là, phối hợp trong các hoạt động hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm,
vi phạm pháp luật về môi trường có yếu tố nước ngoài, xuyên quốc gia;
Chín là, thực hiện các yêu cầu phối hợp khác khi được phân công.
3.2.4 Trách nhiệm phòng, chống vi phạm pháp luật về môi trường của nhà trường
3.2.4.1 Trách nhiệm của nhà trường
Tổ chức học tập, nghiên cứu và tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, giảng viên
và sinh viên tham gia tích cực các hoạt động bảo vệ môi trường và phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Phối hợp với các cơ quan chuyên môn như ngành Tài nguyên và Môi trường,
Công an (Cảnh sát môi trường), Thông tin truyền thông,… tổ chức các buổi tuyên
truyền, tọa đàm trao đổi, các cuộc thi tìm hiểu về bảo vệ môi trường và phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tham gia tích cực và hưởng ứng các chương trình, hành động về bảo vệ môi
trường do Nhà nước, các Bộ ngành phát động.
Xây dựng các phong trào bảo vệ môi trường như: “Vì môi trường xanh - sạch -
đẹp”, “Phòng, chống rác thải nhựa”,… và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi
trường và pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhà trường.
Xây dựng đội tình nguyện vì môi trường, thành lập các câu lạc bộ vì môi
trường và tiến hành thu gom, xử lý chất thải theo quy định (rác thải, nước thải,…).
3.2.4.2 Trách nhiệm của sinh viên
Nắm vững các quy định của pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường;
Xây dựng ý thức trách nhiệm trong các hoạt động bảo vệ môi trường như sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên (nước, năng lượng,…);
Tham gia tích cực trong các phong trào về bảo vệ môi trường.
Xây dựng văn hóa ứng xử, ý thức thức trách nhiệm với môi trường như sống
thân thiện với môi trường xung quanh; tích cực trồng cây xanh; hạn chế sử dụng các
phương tiện giao thông cá nhân để bảo vệ môi trường không khí; tham gia thu gom
rác thải tại nơi sinh sống và học tập.

48
Trong những năm tới, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
dự báo vẫn còn nhiều diễn biến mới, phức tạp, chưa thể giải quyết một sớm một
chiều. Vi phạm pháp luật môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất; vấn
đề xử lý chất thải công nghiệp vẫn còn nhức nhối và khó kiểm soát; vấn đề vệ sinh
an toàn thực phẩm, quản lý môi trường trong lĩnh vực y tế, trong lĩnh vực quản lý
thuốc bảo vệ thực vật, vẫn đặt ra cho các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên trách
phòng chống tội phạm môi trường những thách thức mới. Sinh viên cần gương mẫu
chấp hành và đề cao trách nhiệm trong tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành
nghiêm pháp luật về bảo vệ môi trường, góp phần bảo vệ môi trường sống của con
người và xã hội loài người.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/chị trình bày khái niệm, vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ
môi trường?
2. Anh/chị trình bày những khái niệm, đặc điểm, nội dung, biện pháp phòng
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường?
3. Trách nhiệm của sinh viên trong bảo vệ môi trường trong tình hình nay?

49
BÀI 4
PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG
Hoạt động giao thông vận tải có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia, phản ánh trình độ phát triển xã hội thể hiện ở mức độ đáp ứng những
nhu cầu kinh tế, văn hóa, xã hội, đi lại, sinh hoạt của các tầng lớp dân cư. Trong đó,
giao thông đường bộ đóng vai trò rất quan trọng xét trên tất cả mọi phương diện
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Tuy vậy, giao thông vận tải nói chung,
giao thông đường bộ nói riêng luôn tiềm ẩn những nguồn nguy hiểm hay phát sinh
những rủi ro, bất lợi cho xã hội như: ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tai nạn
giao thông. Do đó, phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông là nội dung quan trọng góp phần bảo đảm an toàn tính mạng cũng như tài sản
của con người và xã hội.
4.1 Nhận thức chung về vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
4.1.1 Nhận thức về pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
4.1.1.1 Khái niệm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Trật tự, an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng,
nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế đến
mức thấp nhất tai nạn giao thông.
Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là một nội dung của bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
trong đó Bộ Công an chịu trách nhiệm chính. Mọi hành vi vi phạm trật tự, an toàn
giao thông phải được phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng
pháp luật. Mọi hậu quả do vi phạm trật tự an toàn giao thông gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật.
Pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một bộ phận của hệ thống
pháp luật hành chính nhà nước, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước,
tổ chức xã hội và công dân trên lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
4.1.1.2 Vai trò của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là cơ sở, công cụ pháp lý quan
trọng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông, trật tự, an toàn xã hội với mục tiêu là bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe
cho người tham gia giao thông, an ninh con người.
4.1.1.3 Quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Quy định pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thể hiện ở các văn
bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành như Luật giao thông đường bộ (ngày
50
13/11/2008), Luật giao thông đường thủy nội địa (ngày 24/6/2004 được sửa đổi, bổ
sung năm 2014), Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (ngày 29/6/2006 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014), Luật xử lý vi phạm hành chính (ngày 20/6/2012); Luật bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ (dự thảo năm 2020)
Các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành như Nghị định số
36/2001/NĐ-CP ngày 10/7/2001 quy định về việc bảo đảm trật tự an toàn giao
thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị; Nghị định số 100/2019/NĐ-CP
ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt; Nghị định số 162/2018/NĐ-CP ngày 30/11/2018 quy định
xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
Các văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành ban hành có liên quan đến
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông như Thông tư số 65/2020/TT-BCA ngày
19/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội
dung và quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ của cảnh sát giao thông; Thông tư số 02/2014/TT-BGTVT ngày
25/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quy định về quy trình thanh tra
chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải; Thông
tư số 105/2014/TT-BTC ngày 07/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về
thủ tục thu nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt vi phạm hành chính.
Từ các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có thể rút ra một số nội dung pháp
luật bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ như sau:
Về chủ thể áp dụng: Các tổ chức, cá nhân liên quan đến giao thông trên lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về quy tắc chung: Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi
của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo
hiệu đường bộ; xe ô tô có trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng
ghế phía trước trong xe ô tô phải thắt dây an toàn.
Về các hành vi bị nghiêm cấm: Luật quy định nghiêm cấm 33 hành vi sau:
Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng
độ cồn; điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy
hoặc chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng; điều khiển xe cơ giới, xe máy
chuyên dùng chạy quá tốc độ quy định; đi không đúng phần đường, làn đường;
tránh, vượt không đúng quy định; điều khiển xe đi ngược chiều, quay đầu xe, lùi xe
trên đường cao tốc và trong hầm đường bộ, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ
khẩn cấp theo quy định; điều khiển xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, xe đạp buông
cả hai tay hoặc dùng chân điều khiển; người đi bộ, xe thô sơ, xe gắn máy, xe mô tô;
xe máy chuyên dùng có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70 km/h đi vào đường cao tốc, trừ
người, phương tiện, thiết bị phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc; dùng tay sử
dụng điện thoại di động khi điều khiển xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia
giao thông đường bộ; điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy
định; điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có giấy
phép lái xe, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng; giao xe cơ giới,
51
xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao
thông đường bộ; rú ga liên tục trong đô thị và khu đông dân cư; đua xe, cổ vũ đua
xe, tổ chức đua xe trái phép; lạng lách, đánh võng; điều khiển xe cơ giới, xe máy
chuyên dùng sử dụng giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe không do cơ quan có
thẩm quyền cấp; đưa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không có giấy đăng ký xe
tham gia giao thông đường bộ hoặc có nhưng đã hết niên hạn sử dụng; đưa xe cơ
giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường tham gia giao thông đường bộ; tự ý cắt, hàn, đục lại số khung, số máy; đưa
phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số máy trái quy định tham gia giao
thông; tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ đăng ký xe; tự ý thay đổi khung, máy,
hình dáng, kích thước, đặc tính của xe; khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng
các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, giấy đăng ký xe; sản xuất, sử dụng,
mua, bán trái phép biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, trừ trường hợp mua,
bán biển số xe trúng đấu giá; lắp đặt, sử dụng còi, đèn, bộ phận giảm thanh không
đúng thiết kế của nhà sản xuất đối với từng loại xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, sử
dụng thiết bị âm thanh, ánh sáng gây mất trật tự an toàn giao thông, trật tự công
cộng; gắn biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không đúng vị trí hoặc che, dán
toàn bộ hoặc một phần biển số khi tham gia giao thông; cản trở hoặc không chấp
hành yêu cầu kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ; bỏ trốn sau khi gây
tai nạn giao thông để trốn tránh trách nhiệm; thay đổi, xóa dấu vết, tạo hiện trường
giả vụ tai nạn giao thông; khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn
giao thông; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người
bị nạn và người gây tai nạn; lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung,
đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự, cản trở giao thông, cản trở việc xử lý
tai nạn giao thông; vận chuyển hàng cấm lưu thông, vận chuyển trái phép hoặc
không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm, động vật
hoang dã; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường; ném đinh, rải đinh hoặc vật
sắc nhọn khác, đổ dầu nhờn hoặc các chất gây trơn khác trên đường bộ; chăng dây
hoặc các vật cản khác qua đường gây nguy hiểm đến người và phương tiện tham gia
giao thông; ném gạch, đất, đá, cát hoặc vật thể khác vào phương tiện đang tham gia
giao thông trên đường bộ; sử dụng lòng đường, lề đường, hè phố trái phép; tụ tập
đông người trái phép gây cản trở giao thông; họp chợ, mua, bán hàng hóa trên
đường bộ; thả rông súc vật trên đường bộ; phơi thóc, lúa, rơm rạ, nông sản hoặc để
vật khác trên đường bộ; đặt biển quảng cáo trên đất của đường bộ; lắp đặt biển hiệu,
biển quảng cáo hoặc thiết bị khác làm giảm sự chú ý, gây nhầm lẫn nội dung biển
báo hiệu hoặc gây cản trở người tham gia giao thông, che khuất biển báo hiệu, đèn
tín hiệu giao thông, sử dụng bàn trượt, pa-tanh, các thiết bị tương tự trên phần
đường xe chạy, đổ rác hoặc phế thải không đúng nơi quy định, xây, đặt bục, bệ trái
phép trên đường; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp của bản thân hoặc
người khác để vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ;
hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho
người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Theo Điều 6 - Luật bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông đường bộ (dự thảo năm 2020).

52
Điều kiện phương tiện tham gia giao thông đường bộ: Phương tiện tham gia
giao thông đường bộ phải bảo đảm điều kiện an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường;
được cấp đăng ký và gắn biển số; có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, xe máy chuyên dùng theo quy định của pháp luật (Theo Điều 33 - Luật
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ (dự thảo năm 2020).
Điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ:
Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông phải có sức khỏe bảo đảm điều
khiển xe an toàn; có giấy phép lái xe còn hiệu lực phù hợp với loại xe được phép
điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (đối với người điều khiển xe cơ
giới), có chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng và có một trong các hạng giấy
phép lái xe còn hiệu lực; phải hiểu biết quy tắc giao thông; đủ độ tuổi theo quy định
(Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3, xe
máy điện; người đủ 18 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng A1, A2, A3, B;
người đủ 21 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng C, BE; người đủ 24 tuổi trở
lên được cấp giấy phép lái xe hạng D2, CE; người đủ 27 tuổi trở lên được cấp giấy
phép lái xe hạng D, D2E, DE; tuổi tối đa của người hành nghề lái xe ô tô chở người
trên 30 chỗ phù hợp với tuổi lao động được quy định trong Bộ luật Lao động (Theo
Điều 38 - Luật bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ (dự thảo năm 2020).
4.1.2 Quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông
4.1.2.1 Khái niệm vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông
Pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông quy định về quy tắc giao
thông; phương tiện tham gia giao thông; người điều khiển phương tiện giao thông;
tổ chức an toàn giao thông, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao
thông; giải quyết tai nạn giao thông; thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi
phạm; quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông.
Đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông phải được xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng vi phạm, đúng pháp luật.
Tùy theo mức độ, tính chất vi phạm mà có thể xứ lý vi phạm hành chính hoặc vi
phạm hình sự.
Vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là những hành vi trái
với quy định của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông do chủ thể có năng lực
hành vi thực hiện, có lỗi và xâm hại đến quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông có 2 dạng vi phạm:
Vi phạm hành chính và vi phạm hình sự (cấu thành các tội xâm phạm an toàn giao
thông), cụ thể như sau:
Vi phạm hành chính về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là những hành vi
có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm các quy định của pháp luật về bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính

53
Vi phạm hình sự về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn giao thông mà theo
quy định của Bộ Luật hình sự phải bị xử lý hình sự”1.
4.1.2.2 Quy định của pháp luật về xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật
về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
- Quy định của pháp luật về xử lý hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông:
Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định các tội như vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ; tội cản trở giao thông đường bộ; tội đưa vào
sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy chuyên dùng không bảo
đảm an toàn; tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham
gia giao thông đường bộ; tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương
tiện tham gia giao thông đường bộ; tội tổ chức đua xe trái phép; tội đua xe trái phép;
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt; tội cản trở
giao thông đường sắt; tội đưa vào sử dụng phương tiện, thiết bị giao thông đường
sắt không bảo đảm an toàn; tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển
phương tiện giao thông đường sắt; tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển
phương tiện giao thông đường sắt; tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường thủy; tội cản trở giao thông đường thủy; tội đưa vào sử dụng
phương tiện giao thông đường thủy không bảo đảm an toàn; tội điều động người
không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy; tội giao cho
người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy; tội vi
phạm quy định về điều khiển tàu bay; tội cản trở giao thông đường không; tội đưa
vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn; tội
điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay; tội vi phạm
quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý công trình giao thông; tội chiếm đoạt tàu bay,
tàu thủy; tội điều khiển tàu bay vi phạm quy định về hàng không của Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm quy
định về hàng hải của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể như sau:
- Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, Điều 260- Bộ
luật hình sự quy định:
Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ gây chết người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 01 người mà tỷ lệ tổn thương có thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những
người này từ 61% đến 121%; gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới

1
Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh, Tài liệu tập huấn quản lý, giảng viên giảng dạy môn Giáo dục quốc
phòng và an ninh các trường Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Hà Nội, 2020, tr.76.
54
500.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Người nào tham gia giao thông đường bộ mà không có giấy phép lái xe theo
quy định; trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng
độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh
khác; bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; làm
chết 02 người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; gây thiệt
hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm
Bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở
lên; gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
- Với tội cản trở giao thông đường bộ, Điều 261 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào đào, khoan, xẻ, san lấp trái phép công trình giao thông đường bộ;
đặt, để, đổ trái phép vật liệu, phế thải, rác thải, vật sắc nhọn, chất gây trơn hoặc
chướng ngại vật khác gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái
phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủy biển báo hiệu, đèn tín hiệu, cọc tiêu,
gương cầu, dải phân cách hoặc thiết bị an toàn giao thông đường bộ khác; mở
đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có dải phân cách; sử dụng trái phép
lề đường, hè phố, phần đường xe chạy, hành lang an toàn đường bộ hoặc vi phạm
quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ sẽ bị phạt tiền
từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu gây thiệt hại cho người khác thuộc một
trong các trường hợp sau: Làm chết người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này từ 61% đến 121%; gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng
đến dưới 500.000.000 đồng.
Bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02
năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Tại đèo, dốc,
đường cao tốc hoặc đoạn đường nguy hiểm; làm chết 02 người; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể
của những người này từ 122% đến 200%; gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000
đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

55
- Với tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy
chuyên dùng không bảo đảm an toàn, Điều 262- Bộ luật Hình sự quy định:
Người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ
thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe
máy chuyên dùng rõ ràng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu gây thiệt hại cho người khác thuộc một
trong các trường hợp sau: Làm chết người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể
của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 02 người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến
200%; Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 03 người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Với tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia
giao thông đường bộ, Điều 263- Bộ luật Hình sự quy định:
Người nào có thẩm quyền mà biết rõ người không có giấy phép lái xe, không
đủ sức khỏe, độ tuổi để điều khiển phương tiện hoặc người đang trong tình trạng có
sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy
định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều
kiện khác theo quy định của pháp luật mà vẫn điều động người đó điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm
đến 03 năm nếu gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau:
Làm chết người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến
121%; gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 02 người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến
200%; gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

56
Bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
- Với tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia
giao thông đường bộ, Điều 264- Bộ luật Hình sự quy định:
Người nào giao cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc
đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác
hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương
tiện tham gia giao thông đường bộ thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm nếu gây thiệt hại
cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau: Làm chết người; gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở
lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ
lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; gây thiệt hại về tài sản
từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Làm chết 02
người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; gây thiệt hại về tài
sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
- Với tội tổ chức đua xe trái phép, Điều 265 – Bộ luật Hình sự quy định:
Người nào tổ chức trái phép việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có
gắn động cơ, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 04
năm đến 10 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Tổ chức cho 10
xe tham gia trở lên trong cùng một lúc hoặc tổ chức 02 cuộc đua xe trở lên trong
cùng một lúc; tổ chức cá cược; chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép; tại nơi tập
trung đông dân cư; tháo dỡ thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; làm chết người;
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở
57
lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; gây
thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; tái phạm về tội
này hoặc tội đua xe trái phép.
Bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 02 người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến
200%; gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
tái phạm nguy hiểm.
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những
người này 201% trở lên; gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
- Với tội đua xe trái phép, Điều 266 - Bộ luật Hình sự quy định:
Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ
thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm hoặc gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường
hợp sau: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng.
Bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm
đến 10 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Làm chết người; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; gây thiệt hại
về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; bỏ chạy để trốn tránh
trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; tham gia cá cược; chống lại
người có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm
giải tán cuộc đua xe trái phép; tại nơi tập trung đông dân cư; tháo dỡ thiết bị an toàn
khỏi phương tiện đua; tái phạm nguy hiểm.
Bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường
hợp: Làm chết 02 người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến
200%; gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Làm chết 03 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

58
03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
* Quy định của pháp luật về xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm
pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông:
Quy định pháp luật xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm pháp luật
về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đã được xác định trong Luật Giao thông
đường bộ năm 2008 và được bổ sung bằng Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày
30/12/2019 Quy định hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với
từng hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và
đường sắt.
- Đối với những vi phạm quy định về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
đường sắt, Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt hành chính đối với
12 lỗi vi phạm, tương ứng với 12 điều (Điều 39 - 50)
- Đối với những hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, Nghị định
100/2019/NĐ-CP quy định các mức xử phạt tương ứng với 7 điều (Từ Điều 5 -11),
bao gồm mức xử phạt đối với người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô
tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ; xử phạt người điều khiển xe mô tô, xe gắn
máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe
gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ; xử phạt người điều khiển máy kéo,
xe máy chuyên dùng (sau đây gọi chung là xe) vi phạm quy tắc giao thông đường
bộ; xử phạt người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều
khiển xe thô sơ khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ; xử phạt người đi bộ vi
phạm quy tắc giao thông đường bộ; xử phạt người điều khiển, dẫn dắt súc vật, điều
khiển xe súc vật kéo vi phạm quy tắc giao thông đường bộ; xử phạt các hành vi vi
phạm khác về quy tắc giao thông đường bộ. Cụ thể:
Đối với người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc
giao thông đường bộ, Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt như sau:
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không
chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường; chuyển hướng
không nhường quyền đi trước cho: người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua
đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần
đường dành cho xe thô sơ; chuyển hướng không nhường đường cho các xe đi ngược
chiều, người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có
vạch kẻ đường cho người đi bộ; khi dừng xe, đỗ xe không có tín hiệu báo cho người
điều khiển phương tiện khác biết; khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy không
đặt ngay báo hiệu nguy hiểm theo quy định, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm c
khoản 6 điều này và trường hợp đỗ xe tại vị trí quy định được phép đỗ xe; không
gắn biển báo hiệu ở phía trước xe kéo, phía sau xe được kéo; điều khiển xe kéo
rơmoóc không có biển báo hiệu theo quy định; bấm còi trong đô thị và khu đông
dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, trừ các
xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định thì bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến
400.000 đồng.

59
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Chuyển làn
đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu báo trước; điều khiển xe
chạy tốc độ thấp hơn các xe khác đi cùng chiều mà không đi về bên phải phần
đường xe chạy, trừ trường hợp các xe khác đi cùng chiều chạy quá tốc độ quy định;
chở người trên buồng lái quá số lượng quy định; không tuân thủ các quy định về
nhường đường tại nơi đường bộ giao nhau; điều khiển xe có liên quan trực tiếp đến
vụ tai nạn giao thông mà không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, không
tham gia cấp cứu người bị nạn; xe được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát
tín hiệu ưu tiên không đúng quy định hoặc sử dụng thiết bị phát tín hiệu ưu tiên mà
không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc có giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền cấp nhưng không còn giá trị sử dụng theo quy định; dừng xe, đỗ xe
trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe,
đỗ xe không sát mép đường phía bên phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường
hẹp hoặc không có lề đường; dừng xe, đỗ xe ngược với chiều lưu thông của làn
đường; dừng xe, đỗ xe trên dải phân cách cố định ở giữa hai phần đường xe chạy;
đỗ xe trên dốc không chèn bánh; mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn;
dừng xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe
gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; dừng xe trên đường xe điện, đường
dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường
điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; rời vị trí lái, tắt
máy khi dừng xe; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí
nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua
đường; dừng xe nơi có biển “cấm dừng xe và đỗ xe”; quay đầu xe trái quy định
trong khu dân cư; quay đầu xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường, trên
cầu, đầu cầu, ngầm, gầm cầu vượt, trừ trường hợp tổ chức giao thông tại những khu
vực này có bố trí nơi quay đầu xe thì bị phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h; bấm còi, rú ga liên tục;
bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên
đang đi làm nhiệm vụ theo quy định;chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không
có tín hiệu báo hướng rẽ (trừ trường hợp điều khiển xe đi theo hướng cong của đoạn
đường bộ ở nơi đường không giao nhau cùng mức); không tuân thủ các quy định về
dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe
trong phạm vi an toàn của đường sắt; dừng xe, đỗ xe tại vị trí: nơi đường bộ giao
nhau hoặc trong phạm vi 05 m tính từ mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả
khách của xe buýt; trước cổng hoặc trong phạm vi 05 m hai bên cổng trụ sở cơ
quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra vào; nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ
cho một làn xe; che khuất biển báo hiệu đường bộ; nơi mở dải phân cách giữa; đỗ
xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần
nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng
cho xe buýt; đỗ xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại,
điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; đỗ, để xe ở hè phố trái quy
định của pháp luật; đỗ xe nơi có biển “cấm đỗ xe” hoặc biển “cấm dừng xe và đỗ
xe”; không sử dụng hoặc sử dụng không đủ đèn chiếu sáng trong thời gian từ 19 giờ
60
ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm
nhìn; sử dụng đèn chiếu xa khi tránh xe đi ngược chiều; điều khiển xe ô tô kéo theo
xe khác, vật khác (trừ trường hợp kéo theo một rơ moóc, sơ mi rơ moóc hoặc một
xe ô tô, xe máy chuyên dùng khác khi xe này không tự chạy được); điều khiển xe ô
tô đẩy xe khác, vật khác; điều khiển xe kéo rơ moóc, sơ mi rơ moóc kéo thêm rơ
moóc hoặc xe khác, vật khác; không nối chắc chắn, an toàn giữa xe kéo và xe được
kéo khi kéo nhau; chở người trên xe được kéo, trừ người điều khiển; quay đầu xe tại
nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; quay đầu xe tại nơi đường hẹp,
đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo “cấm quay đầu
xe”; không giữ khoảng cách an toàn để xảy ra va chạm với xe chạy liền trước hoặc
không giữ khoảng cách theo quy định của biển báo hiệu “cự ly tối thiểu giữa hai
xe”; không giảm tốc độ và nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ,
đường nhánh ra đường chính; không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên,
đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau;lùi xe ở đường một
chiều, đường có biển “cấm đi ngược chiều”, khu vực cấm dừng, trên phần đường
dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, nơi đường bộ giao nhau
cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất; lùi xe không quan sát hoặc
không có tín hiệu báo trước; không thắt dây an toàn khi điều khiển xe chạy trên
đường; chở người trên xe ô tô không thắt dây an toàn (tại vị trí có trang bị dây an
toàn) khi xe đang chạy; chạy trong hầm đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng
gần; điều khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những đoạn đường bộ có quy định
tốc độ tối thiểu cho phép thì bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Dùng tay
sử dụng điện thoại di động khi đang điều khiển xe chạy trên đường; đi vào khu vực
cấm, đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang
điều khiển; điều khiển xe không đủ điều kiện để thu phí theo hình thức điện tử tự
động không dừng đi vào làn đường dành riêng thu phí theo hình thức điện tử tự
động không dừng tại các trạm thu phí; dừng xe, đỗ xe tại vị trí: bên trái đường một
chiều hoặc bên trái (theo hướng lưu thông) của đường đôi; trên đoạn đường cong
hoặc gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với
một xe khác đang dừng, đỗ; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe trái quy định gây ùn tắc
giao thông; xe không được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của
xe được quyền ưu tiên; không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn theo quy định
khi xe ô tô bị hư hỏng ngay tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt;
không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn; lùi xe, quay đầu
xe trong hầm đường bộ; dừng xe, đỗ xe, vượt xe trong hầm đường bộ không đúng
nơi quy định thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không
chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; không chấp hành hiệu lệnh, hướng
dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; đi ngược
chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường có biển “cấm đi ngược
chiều”, trừ các trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định;
vượt xe trong những trường hợp không được vượt, vượt xe tại đoạn đường có biển
báo hiệu có nội dung cấm vượt (đối với loại phương tiện đang điều khiển); không
61
có báo hiệu trước khi vượt; vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được
phép, trừ trường hợp tại đoạn đường có nhiều làn đường cho xe đi cùng chiều được
phân biệt bằng vạch kẻ phân làn đường mà xe chạy trên làn đường bên phải chạy
nhanh hơn xe đang chạy trên làn đường bên trái; điều khiển xe không đi bên phải
theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường hoặc làn đường quy định (làn
cùng chiều hoặc làn ngược chiều); điều khiển xe đi qua dải phân cách cố định ở
giữa hai phần đường xe chạy; điều khiển xe đi trên hè phố, trừ trường hợp điều
khiển xe đi qua hè phố để vào nhà; tránh xe đi ngược chiều không đúng quy định;
không nhường đường cho xe đi ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp,
đường dốc, nơi có chướng ngại vật; không tuân thủ các quy định khi vào hoặc ra
đường cao tốc; điều khiển xe chạy ở làn dừng xe khẩn cấp hoặc phần lề đường của
đường cao tốc; chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu
báo trước khi chạy trên đường cao tốc; không tuân thủ quy định về khoảng cách an
toàn đối với xe chạy liền trước khi chạy trên đường cao tốc; không nhường đường
hoặc gây cản trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ;
điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h thì bị phạt tiền từ
3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h đến 35 km/h; dừng xe, đỗ xe trên đường
cao tốc không đúng nơi quy định; không có báo hiệu để người lái xe khác biết khi
buộc phải dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc không đúng nơi quy định; quay đầu xe
trên đường cao tốc; điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ
cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25
miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không chú
ý quan sát, điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định gây tai nạn giao thông; dừng xe,
đỗ xe, quay đầu xe, lùi xe, tránh xe, vượt xe, chuyển hướng, chuyển làn đường
không đúng quy định gây tai nạn giao thông; không đi đúng phần đường, làn đường,
không giữ khoảng cách an toàn giữa hai xe theo quy định gây tai nạn giao thông
hoặc đi vào đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện
đang điều khiển, đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường
có biển “cấm đi ngược chiều” gây tai nạn giao thông; điều khiển xe lạng lách, đánh
võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ; dùng chân điều khiển vô lăng xe
khi xe đang chạy trên đường; điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 35 km/h
thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe đi ngược chiều trên đường cao tốc, lùi xe trên đường cao tốc, trừ các xe ưu tiên
đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; gây tai nạn giao thông không dừng
lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm
quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn; điều khiển xe trên đường mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít
máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ
16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng.

62
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100
mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; không chấp hành yêu cầu kiểm
tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ; điều khiển xe trên đường mà trong
cơ thể có chất ma túy; không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người
thi hành công vụ thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe
tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông
đường bộ, Điều 6 - Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt như sau:
Người điều khiển xe gắn máy thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường; không có
báo hiệu xin vượt trước khi vượt; không giữ khoảng cách an toàn để xảy ra va chạm
với xe chạy liền trước hoặc không giữ khoảng cách theo quy định của biển báo hiệu
“cự ly tối thiểu giữa hai xe”;chuyển hướng không nhường quyền đi trước cho:
người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành
cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần đường dành cho xe thô sơ; chuyển
hướng không nhường đường cho: Các xe đi ngược chiều; người đi bộ, xe lăn của
người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ;
lùi xe mô tô ba bánh không quan sát hoặc không có tín hiệu báo trước; chở người
ngồi trên xe sử dụng ô (dù); không tuân thủ các quy định về nhường đường tại nơi
đường giao nhau; chuyển làn đường không đúng nơi được phép hoặc không có tín
hiệu báo trước; điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 03 xe trở lên; không sử dụng
đèn chiếu sáng trong thời gian từ 19 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau
hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn; tránh xe không đúng quy định;
sử dụng đèn chiếu xa khi tránh xe đi ngược chiều; không nhường đường cho xe đi
ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật;
bấm còi trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, sử
dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm
nhiệm vụ theo quy định; xe được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín
hiệu ưu tiên không đúng quy định hoặc sử dụng thiết bị phát tín hiệu ưu tiên mà
không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc có giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền cấp nhưng không còn giá trị sử dụng theo quy định; quay đầu xe tại
nơi không được quay đầu xe; điều khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những
đoạn đường bộ có quy định tốc độ tối thiểu cho phép thì bị phạt tiền từ 100.000
đồng đến 200.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Dừng xe,
đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường; không
giảm tốc độ và nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra
đường chính; điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h;
điều khiển xe chạy tốc độ thấp mà không đi bên phải phần đường xe chạy gây cản
trở giao thông; dừng xe, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông; tụ tập từ
03 xe trở lên ở lòng đường, trong hầm đường bộ; đỗ, để xe ở lòng đường đô thị, hè
phố trái quy định của pháp luật; không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ
điều kiện an toàn; không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính
63
từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau; xe không được quyền ưu tiên lắp
đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên; dừng xe, đỗ xe trên
đường xe điện, điểm dừng đón trả khách của xe buýt, nơi đường bộ giao nhau, trên
phần đường dành cho người đi bộ qua đường; dừng xe nơi có biển “cấm dừng xe và
đỗ xe”; đỗ xe tại nơi có biển “cấm đỗ xe” hoặc biển “cấm dừng xe và đỗ xe”; không
tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với
đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt; không đội “mũ bảo
hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe
máy” không cài quai đúng quy cách khi điều khiển xe tham gia giao thông trên
đường bộ; chở người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe
máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy
cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người
có hành vi vi phạm pháp luật; chở theo 02 người trên xe, trừ trường hợp chở người
bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
ngồi phía sau vòng tay qua người ngồi trước để điều khiển xe, trừ trường hợp chở
trẻ em ngồi phía trước thì bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Chuyển
hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ (trừ trường hợp điều
khiển xe đi theo hướng cong của đoạn đường bộ ở nơi đường không giao nhau cùng
mức); chở theo từ 03 người trở lên trên xe; bấm còi, rú ga (nẹt pô) liên tục trong đô
thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; dừng
xe, đỗ xe trên cầu; điều khiển xe thành đoàn gây cản trở giao thông, trừ trường hợp
được cơ quan có thẩm quyền cấp phép; điều khiển xe có liên quan trực tiếp đến vụ
tai nạn giao thông mà không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, không tham
gia cấp cứu người bị nạn; điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình;
đi không đúng phần đường, làn đường quy định (làn cùng chiều hoặc làn ngược
chiều); điều khiển xe đi qua dải phân cách cố định ở giữa hai phần đường xe chạy;
điều khiển xe đi trên hè phố, trừ trường hợp điều khiển xe đi qua hè phố để vào nhà;
vượt bên phải trong trường hợp không được phép; đi vào khu vực cấm, đường có
biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều khiển;
người đang điều khiển xe hoặc chở người ngồi trên xe bám, kéo, đẩy xe khác, vật
khác, dẫn dắt súc vật, mang vác vật cồng kềnh; chở người đứng trên yên, giá đèo
hàng hoặc ngồi trên tay lái; xếp hàng hóa trên xe vượt quá giới hạn quy định; điều
khiển xe kéo theo xe khác, vật khác; chở hàng vượt trọng tải thiết kế được ghi trong
giấy đăng ký xe đối với loại xe có quy định về trọng tải thiết kế; chạy trong hầm
đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng gần thì bị phạt tiền từ 400.000 đồng đến
600.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h; dừng xe, đỗ xe trong hầm
đường bộ không đúng nơi quy định; vượt xe trong những trường hợp không được
vượt, vượt xe tại đoạn đường có biển báo hiệu có nội dung cấm vượt đối với loại
phương tiện đang điều khiển; vượt xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy
định; quay đầu xe trong hầm đường bộ; không nhường đường hoặc gây cản trở xe
được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ; không chấp hành
64
hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của
người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; người đang điều
khiển xe sử dụng ô (dù), điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính
phạt tiền từ 600.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện hành vi đi ngược chiều của đường một chiều, đi
ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều” thì bị phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 2.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Sử dụng
chân chống hoặc vật khác quệt xuống đường khi xe đang chạy; điều khiển xe đi vào
đường cao tốc; điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn
nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25
miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h; không chú ý quan sát, điều khiển xe chạy
quá tốc độ quy định gây tai nạn giao thông; đi vào đường cao tốc, dừng xe, đỗ xe,
quay đầu xe, lùi xe, tránh xe, vượt xe, chuyển hướng, chuyển làn đường không đúng
quy định gây tai nạn giao thông; không đi đúng phần đường, làn đường, không giữ
khoảng cách an toàn giữa hai xe theo quy định gây tai nạn giao thông hoặc đi vào
đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều
khiển, đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường có biển
“cấm đi ngược chiều” gây tai nạn giao thông; điều khiển xe trên đường mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít
máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ
4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Buông cả
hai tay khi đang điều khiển xe, dùng chân điều khiển xe, ngồi về một bên điều khiển
xe, nằm trên yên xe điều khiển xe, thay người điều khiển khi xe đang chạy, quay
người về phía sau để điều khiển xe hoặc bịt mắt điều khiển xe; điều khiển xe lạng
lách hoặc đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị; điều khiển xe chạy bằng
một bánh đối với xe hai bánh, chạy bằng hai bánh đối với xe ba bánh; điều khiển xe
thành nhóm từ 02 xe trở lên chạy quá tốc độ quy định; gây tai nạn giao thông không
dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có
thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn; điều khiển xe trên đường mà
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc
vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ
cồn của người thi hành công vụ; điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất
ma túy; không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người thi hành công
vụ thì bị phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.
Đối với người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng (sau đây gọi chung là
xe) vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, Điều 7- Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy
định mức xử phạt như sau:
Người điều khiển xe máy kéo thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường; chuyển
hướng không nhường quyền đi trước cho: người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật
65
qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, xe thô sơ đang đi trên
phần đường dành cho xe thô sơ; chuyển hướng không nhường đường cho các xe đi
ngược chiều, người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường tại nơi không
có vạch kẻ đường cho người đi bộ thì bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Quay đầu
xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường, trên cầu, đầu cầu, ngầm, gầm
cầu vượt, trừ trường hợp tổ chức giao thông tại những khu vực này có bố trí nơi
quay đầu xe; lùi xe ở đường một chiều, đường có biển “cấm đi ngược chiều”, khu
vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ
giao nhau, nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che
khuất, lùi xe không quan sát hoặc không có tín hiệu báo trước; đỗ, để xe ở hè phố
trái quy định của pháp luật; dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường
ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe, đỗ xe không sát mép đường phía bên
phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường hẹp hoặc không có lề đường; dừng xe,
đỗ xe ngược với chiều lưu thông của làn đường; dừng xe, đỗ xe trên dải phân cách
cố định ở giữa hai phần đường xe chạy; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở
những đoạn đường đã có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; đỗ xe trên dốc không chèn bánh;
dừng xe nơi có biển “cấm dừng xe và đỗ xe”; đỗ xe nơi có biển “cấm đỗ xe” hoặc
biển “cấm dừng xe và đỗ xe”; dừng xe, đỗ xe tại các vị trí bên trái đường một chiều
hoặc bên trái (theo hướng lưu thông) của đường đôi, trên đoạn đường cong hoặc
gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với một
xe khác đang dừng, đỗ; nơi đường bộ giao nhau hoặc trong phạm vi 05 m tính từ
mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả khách của xe buýt, trước cổng hoặc trong
phạm vi 05 m hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra
vào, nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe, che khuất biển báo hiệu
đường bộ, nơi mở dải phân cách giữa; dừng xe, đỗ xe ở lòng đường đô thị trái quy
định; dừng xe, đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt, trên miệng
cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, các chỗ dành riêng
cho xe chữa cháy lấy nước, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, rời vị
trí lái, tắt máy khi dừng xe, mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn; khi
dừng xe, đỗ xe không có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết;
khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy không đặt ngay báo hiệu nguy hiểm theo
quy định thì bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Chạy quá
tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h; đi vào khu vực cấm, đường có biển
báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều khiển; không đi
bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường hoặc làn đường quy
định (làn cùng chiều hoặc làn ngược chiều), điều khiển xe đi qua dải phân cách cố
định ở giữa hai phần đường xe chạy; bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi hơi, sử dụng
đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ
theo quy định; không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ
bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau; không sử dụng hoặc sử dụng không
đủ đèn chiếu sáng trong thời gian từ 19 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm
sau, khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn; sử dụng đèn chiếu xa khi tránh
66
xe đi ngược chiều; điều khiển xe có liên quan trực tiếp đến vụ tai nạn giao thông mà
không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, không tham gia cấp cứu người bị
nạn; tránh xe, vượt xe không đúng quy định; không nhường đường cho xe đi ngược
chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật; điều
khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những đoạn đường bộ có quy định tốc độ tối
thiểu cho phép thì bị phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Chạy quá
tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h; chạy xe trong hầm đường bộ không sử
dụng đèn chiếu sáng; đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên
đường có biển “cấm đi ngược chiều”; không tuân thủ các quy định khi vào hoặc ra
đường cao tốc; điều khiển xe chạy ở làn dừng xe khẩn cấp hoặc phần lề đường của
đường cao tốc; chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu
báo trước khi chạy trên đường cao tốc; không tuân thủ quy định về khoảng cách an
toàn đối với xe chạy liền trước khi chạy trên đường cao tốc; không tuân thủ các quy
định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng
xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt; không nhường đường hoặc gây cản
trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ; quay đầu xe
tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; quay đầu xe tại nơi đường hẹp,
đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo “cấm quay đầu
xe” thì bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Lùi xe,
quay đầu xe trong hầm đường bộ; không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn theo
quy định khi phương tiện bị hư hỏng trên đoạn đường bộ giao nhau cùng mức với
đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định; không
chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm
soát giao thông; không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì bị phạt
tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Dừng xe,
đỗ xe trên đường cao tốc không đúng nơi quy định; không có báo hiệu để người lái
xe khác biết khi buộc phải dừng xe, đỗ xe trên đường cao tốc không đúng nơi quy
định, quay đầu xe trên đường cao tốc; chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h; điều
khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt
quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở thì bị
phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không chú
ý quan sát, điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định gây tai nạn giao thông; dừng xe,
đỗ xe, quay đầu xe, lùi xe, tránh xe, vượt xe, chuyển hướng, chuyển làn đường
không đúng quy định gây tai nạn giao thông; không đi đúng phần đường, làn đường,
không giữ khoảng cách an toàn giữa hai xe theo quy định gây tai nạn giao thông
hoặc đi vào đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện
đang điều khiển, đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường
có biển “cấm đi ngược chiều” gây tai nạn giao thông; điều khiển xe trên đường mà
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100

67
mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền
từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Lùi xe trên
đường cao tốc; đi ngược chiều trên đường cao tốc; điều khiển xe máy chuyên dùng
có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70 km/h, máy kéo đi vào đường cao tốc, trừ phương tiện,
thiết bị phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc; gây tai nạn giao thông không
dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có
thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 12.000.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100
mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; không chấp hành yêu cầu kiểm
tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ; điều khiển xe trên đường mà trong
cơ thể có chất ma túy; không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người
thi hành công vụ thì bị phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng.
Đối với người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều
khiển xe thô sơ khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, Điều 8 - Nghị định
100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt như sau:
người điều khiển xe đạp thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không
đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng phần đường quy định; dừng xe
đột ngột; chuyển hướng không báo hiệu trước; không chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ
dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường; vượt bên phải trong các trường hợp không
được phép; dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi
có lề đường; chạy trong hầm đường bộ không có đèn hoặc vật phát sáng báo hiệu;
dừng xe, đỗ xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định; quay đầu xe trong
hầm đường bộ; điều khiển xe đạp, xe đạp máy đi dàn hàng ngang từ 03 xe trở lên,
xe thô sơ khác đi dàn hàng ngang từ 02 xe trở lên; người điều khiển xe đạp, xe đạp
máy sử dụng ô (dù), điện thoại di động; chở người ngồi trên xe đạp, xe đạp máy sử
dụng ô (dù); điều khiển xe thô sơ đi ban đêm không có báo hiệu bằng đèn hoặc vật
phản quang; để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định của pháp luật; đỗ xe ở
lòng đường đô thị gây cản trở giao thông, đỗ xe trên đường xe điện, đỗ xe trên cầu
gây cản trở giao thông; không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi
đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dùng xe đẩy làm quầy hàng lưu động
trên đường, gây cản trở giao thông; không nhường đường cho xe đi trên đường ưu
tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau; xe đạp, xe đạp
máy, xe xích lô chở quá số người quy định, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp
cứu; xếp hàng hóa vượt quá giới hạn quy định, không bảo đảm an toàn, gây trở ngại
giao thông, che khuất tầm nhìn của người điều khiển; điều khiển xe trên đường mà
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít
máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ 80.000 đồng
đến 100.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Buông cả
hai tay; chuyển hướng đột ngột trước đầu xe cơ giới đang chạy, dùng chân điều
khiển xe đạp, xe đạp máy; không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của người điều khiển
68
giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; người đang điều khiển xe hoặc chở
người ngồi trên xe bám, kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang vác vật cồng kềnh; điều
khiển xe kéo theo xe khác, vật khác; không nhường đường cho xe xin vượt khi có
đủ điều kiện an toàn hoặc gây cản trở đối với xe cơ giới xin vượt, gây cản trở xe ưu
tiên; không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông thì bị phạt tiền từ
100.000 đồng đến 200.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Lạng lách,
đánh võng, đuổi nhau trên đường; đi xe bằng một bánh đối với xe đạp, xe đạp máy; đi
xe bằng hai bánh đối với xe xích lô; đi vào khu vực cấm; đường có biển báo hiệu nội
dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều khiển; đi ngược chiều đường của
đường một chiều, đường có biển “cấm đi ngược chiều”; người điều khiển xe đạp máy
(kể cả xe đạp điện) không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội
“mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham
gia giao thông trên đường bộ; chở người ngồi trên xe đạp máy (kể cả xe đạp điện)
không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho
người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người
bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật; điều
khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam
đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí
thở thì bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Điều khiển
xe đi vào đường cao tốc, trừ phương tiện phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao
tốc; gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn
không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị
nạn; điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá
80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; không chấp
hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ thì bị phạt tiền từ
400.000 đồng đến 600.000 đồng.
Đối với người đi bộ vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, Điều 9 - Nghị định
100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt như sau:
Người đi bộ thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không đi đúng phần
đường quy định, vượt qua dải phân cách, đi qua đường không đúng nơi quy định
hoặc không bảo đảm an toàn; không chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của đèn tín
hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường; không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của
người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; mang, vác vật cồng
kềnh gây cản trở giao thông; đu, bám vào phương tiện giao thông đang chạy thì bị
phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng.
Người đi bộ đi vào đường cao tốc, trừ người phục vụ việc quản lý, bảo trì
đường cao tốc thì bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.
Đối với người điều khiển, dẫn dắt súc vật, điều khiển xe súc vật kéo vi phạm
quy tắc giao thông đường bộ, Điều 10 - Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định mức
xử phạt như sau:
Người điều khiển xe súc vật kéo vi phạm một trong các hành vi sau: Không
nhường đường theo quy định, không báo hiệu bằng tay khi chuyển hướng; không
69
chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường;
không đủ dụng cụ đựng chất thải của súc vật hoặc không dọn sạch chất thải của súc
vật thải ra đường, hè phố; điều khiển, dẫn dắt súc vật đi không đúng phần đường
quy định, đi vào đường cấm, khu vực cấm, đi vào phần đường của xe cơ giới; để
súc vật đi trên đường bộ không bảo đảm an toàn cho người và phương tiện đang
tham gia giao thông; đi dàn hàng ngang từ 02 xe trở lên; để súc vật kéo xe mà
không có người điều khiển; điều khiển xe không có báo hiệu theo quy định sẽ bị
phạt tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng.
Vi phạm một trong các hành vi sau: Không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của
người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; dắt súc vật chạy theo
khi đang điều khiển hoặc ngồi trên phương tiện giao thông đường bộ; xếp hàng hóa
trên xe vượt quá giới hạn quy định thì bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.
Người điều khiển, dẫn dắt súc vật, điều khiển xe súc vật kéo đi vào đường cao
tốc trái quy định thì bị phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng.
Với các hành vi vi phạm khác về quy tắc giao thông đường bộ, Điều 11- Nghị
định 100/2019/NĐ-CP quy định mức xử phạt như sau:
Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người được chở trên xe
đạp, xe đạp máy sử dụng ô (dù);
Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân thực hiện một
trong các hành vi vi phạm sau: Tập trung đông người trái phép, nằm, ngồi trên
đường bộ gây cản trở giao thông; đá bóng, đá cầu, chơi cầu lông hoặc các hoạt động
thể thao khác trái phép trên đường bộ; sử dụng bàn trượt, pa-tanh, các thiết bị tương
tự trên phần đường xe chạy; người được chở trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe
máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy sử
dụng ô (dù); người được chở trên xe đạp, xe đạp máy bám, kéo, đẩy xe khác, vật
khác, mang vác vật cồng kềnh.
Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng đối với người được chở trên xe
mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô, các loại xe
tương tự xe gắn máy, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện) không đội “mũ bảo hiểm cho
người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy”
không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ.
Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân, từ 400.000 đồng
đến 800.000 đồng đối với tổ chức để vật che khuất biển báo, đèn tín hiệu giao thông.
Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với người được chở trên xe ô
tô không thắt dây an toàn (tại vị trí có trang bị dây an toàn) khi xe đang chạy.
Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người được chở trên xe
mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô, các loại xe
tương tự xe gắn máy bám, kéo, đẩy xe khác, vật khác, dẫn dắt súc vật, mang vác vật
cồng kềnh, đứng trên yên, giá đèo hàng hoặc ngồi trên tay lái.
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.000.000
đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm
sau: Không cứu giúp người bị tai nạn giao thông khi có yêu cầu; ném gạch, đất, đá,
cát hoặc vật thể khác vào phương tiện đang tham gia giao thông trên đường bộ.

70
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000
đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức cố ý thay đổi, xóa dấu vết hiện trường vụ
tai nạn giao thông.
Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 8.000.000
đồng đến 12.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện hành vi cản trở hoặc không
chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ.
Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với cá nhân thực hiện một
trong các hành vi vi phạm sau: Ném đinh, rải đinh hoặc vật sắc nhọn khác, đổ dầu
nhờn hoặc các chất gây trơn khác trên đường bộ; chăng dây hoặc các vật cản khác
qua đường gây nguy hiểm đến người và phương tiện tham gia giao thông; xâm
phạm sức khỏe, tài sản của người bị nạn hoặc người gây tai nạn; lợi dụng việc xảy
ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự,
cản trở việc xử lý tai nạn giao thông.
- Nghị định 100/2019/NĐ-CP còn quy định mức xử phạt đối với những vi
phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Cụ thể:
Đối với người điều khiển xe ô tô (bao gồm cả rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc
được kéo theo) và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy định về điều kiện của
phương tiện khi tham gia giao thông, Điều 16 - Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy
định mức xử phạt như sau:
Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi điều khiển xe
không có kính chắn gió hoặc có nhưng vỡ hoặc có nhưng không có tác dụng (đối
với xe có thiết kế lắp kính chắn gió).
Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm sau: Điều khiển xe không có đủ đèn chiếu sáng, đèn soi biển số, đèn báo hãm,
đèn tín hiệu, cần gạt nước, gương chiếu hậu, dây an toàn, dụng cụ thoát hiểm, thiết
bị chữa cháy, đồng hồ báo áp lực hơi, đồng hồ báo tốc độ của xe hoặc có những
thiết bị đó nhưng không có tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế (đối với loại xe
được quy định phải có những thiết bị đó); điều khiển xe không có còi hoặc có
nhưng còi không có tác dụng; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm
khói hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm quy chuẩn môi trường về
khí thải, tiếng ồn.
Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
vi phạm sau: Điều khiển xe lắp thêm đèn phía trước, phía sau, trên nóc, dưới gầm,
một hoặc cả hai bên thành xe; điều khiển xe có hệ thống chuyển hướng của xe
không đúng tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật; điều khiển xe không gắn đủ biển số hoặc
gắn biển số không đúng vị trí; gắn biển số không rõ chữ, số; gắn biển số bị bẻ cong,
bị che lấp, bị hỏng; sơn, dán thêm làm thay đổi chữ, số hoặc thay đổi màu sắc của
chữ, số, nền biển (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc); điều khiển xe không lắp đủ
bánh lốp hoặc lắp bánh lốp không đúng kích cỡ hoặc không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ
thuật (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc); điều khiển xe ô tô tải có kích thước thùng
xe không đúng thiết kế của nhà sản xuất hoặc thiết kế đã đăng ký với cơ quan đăng
ký xe hoặc thiết kế cải tạo đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (kể cả rơ
moóc và sơ mi rơ moóc); điều khiển xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách lắp thêm
hoặc tháo bớt ghế, giường nằm hoặc có kích thước khoang chở hành lý (hầm xe)
71
không đúng thiết kế của nhà sản xuất hoặc thiết kế đã đăng ký với cơ quan đăng ký
xe hoặc thiết kế cải tạo đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
vi phạm sau: Điều khiển xe không có Giấy đăng ký xe theo quy định hoặc sử dụng
giấy đăng ký xe đã hết hạn sử dụng (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc); điều khiển
xe không gắn biển số (đối với loại xe có quy định phải gắn biển số); điều khiển xe
có giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
nhưng đã hết hạn sử dụng dưới 01 tháng (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc); điều
khiển xe lắp đặt, sử dụng còi vượt quá âm lượng theo quy định; điều khiển xe không
đủ hệ thống hãm hoặc có đủ hệ thống hãm nhưng không có tác dụng, không đúng
tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật.
Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
vi phạm sau: Điều khiển xe đăng ký tạm, xe có phạm vi hoạt động hạn chế hoạt
động quá phạm vi, thời hạn cho phép; điều khiển xe quá niên hạn sử dụng tham gia
giao thông (đối với loại xe có quy định về niên hạn sử dụng); điều khiển loại xe sản
xuất, lắp ráp trái quy định tham gia giao thông (bao gồm cả xe công nông thuộc
diện bị đình chỉ tham gia giao thông); điều khiển xe gắn biển số không đúng với
giấy đăng ký xe hoặc gắn biển số không do cơ quan có thẩm quyền cấp (kể cả rơ
moóc và sơ mi rơ moóc); sử dụng giấy đăng ký xe, giấy chứng nhận, tem kiểm định
an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường không do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc bị
tẩy xóa, sử dụng giấy đăng ký xe không đúng số khung, số máy của xe (kể cả rơ
moóc và sơ mi rơ moóc); điều khiển xe không có giấy chứng nhận hoặc tem kiểm
định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm
định, trừ xe đăng ký tạm thời) hoặc có nhưng đã hết hạn sử dụng từ 01 tháng trở lên
(kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc).
Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe
tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy định về điều kiện
của phương tiện khi tham gia giao thông, Điều 17- Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy
định mức xử phạt như sau:
Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm sau: Điều khiển xe không có còi, đèn soi biển số, đèn báo hãm, gương chiếu
hậu bên trái người điều khiển hoặc có nhưng không có tác dụng; điều khiển xe gắn
biển số không đúng quy định, gắn biển số không rõ chữ, số, gắn biển số bị bẻ cong,
bị che lấp, bị hỏng, sơn, dán thêm làm thay đổi chữ, số hoặc thay đổi màu sắc của
chữ, số, nền biển; điều khiển xe không có đèn tín hiệu hoặc có nhưng không có tác
dụng; sử dụng còi không đúng quy chuẩn kỹ thuật cho từng loại xe; điều khiển xe
không có bộ phận giảm thanh, giảm khói hoặc có nhưng không bảo đảm quy chuẩn
môi trường về khí thải, tiếng ồn; điều khiển xe không có đèn chiếu sáng gần, xa
hoặc có nhưng không có tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế; điều khiển xe
không có hệ thống hãm hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm tiêu
chuẩn kỹ thuật; điều khiển xe lắp đèn chiếu sáng về phía sau xe.
Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm sau: Điều khiển xe không có giấy đăng ký xe theo quy định hoặc sử dụng giấy
đăng ký xe đã hết hạn sử dụng; sử dụng giấy đăng ký xe đã bị tẩy xóa; sử dụng giấy
72
đăng ký xe không đúng số khung, số máy của xe hoặc không do cơ quan có thẩm
quyền cấp; điều khiển xe không gắn biển số (đối với loại xe có quy định phải gắn
biển số); gắn biển số không đúng với giấy đăng ký xe hoặc gắn biển số không do cơ
quan có thẩm quyền cấp.
Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
vi phạm sau: Điều khiển xe đăng ký tạm hoạt động quá phạm vi, thời hạn cho phép;
điều khiển loại xe sản xuất, lắp ráp trái quy định tham gia giao thông.
4.1.2.3 Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông
- Mặt khách thể của tội phạm: Tội phạm về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về trật tự, an toàn giao thông.
Điều luật được đặt ra là để đấu tranh với những hành vi vi phạm quy định về
trật tự, an toàn giao thông nhằm đảm bảo cho các hoạt động giao thông vận tải được
tiến hành bình thường, bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bảo vệ tài
sản của Nhà nước, của tổ chức và tài sản của công dân.
- Mặt khách quan của tội phạm: Tội phạm được thể hiện ở hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước về trật tự an toàn giao thông.
Phương tiện giao thông theo quy định của pháp luật. Đối với giao thông đường
bộ được phân loại gồm các phương tiện giao thông cơ giới (gồm xe ô tô, máy kéo,
rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba
bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự) và phương tiện giao thông thô sơ (gồm xe
đạp, xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe
tương tự)
Người điều khiển phương tiện giao thông là người có quan hệ trực tiếp đến
việc bảo đảm an toàn cho quá trình vận hành của các phương tiện giao thông.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện dưới hình thức cố ý
- Chủ thể của tội phạm: Ngoài hai dấu hiệu chung về chu thể của tội phạm là
người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi theo quy định, còn có thêm
dấu hiệu đặc biệt là người tham gia giao thông.
Đối với giao thông đường bộ, người tham gia giao thông là người trực tiếp
thực hiện chức năng lái hoặc chỉ huy, hướng dẫn các phương tiện giao thông.
4.1.3 Nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
4.1.3.1 Nguyên nhân khách quan
Chất lượng công trình giao thông vẫn còn nhiều hạn chế: Tình trạng quy hoạch
giao thông chưa đồng bộ, hệ thống đường bộ của chúng ta chưa đạt tiêu chuẩn kỹ
thuật, như độ nghiêng, độ bám dính mặt đường, độ phẵng, tầm nhìn… chưa đảm bảo;
tình trạng công trình giao thống xuống cấp dẫn đến những điểm đen về tại nạn giao
thông chưa được xử lý dứt điểm; hệ thống sơn vạch, tín hiệu, biển báo giao thông còn

73
thiếu và bất cập; công ác duy tu, bảo trì đường chưa đáp ứng yêu cầu; vi phạm hành
lang giao thông, lấn chiếm lòng, lề đường còn diễn ra tràn lan.
Phương tiện tham gia giao thông chưa đảm bảo quy định an toàn: Phương tiện
tham gia giao thông ở nước ta tăng nhanh về số lượng và đa dạng về chủng loại nên
dẫn đến khó khăn trong điều tiết giao thông, gây nên tình trạng ùn ứ, ách tắc giao
thông; sử dụng phương tiện tham gia giao thông chưa đảm bảo an toàn kỹ thuật và
hết niên hạn sử dụng vẫn còn nhiều, đặc biệt, các loại xe ba bánh tự chế vẫn còn được
một số đối tượng người lao động sử dụng bừa bãi, bất chấp quy định luật pháp.
4.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Ý thức của người tham gia giao thông còn hạn chế: Nhận thức về pháp luật bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông của một bộ phận người dân vẫn còn hạn chế; một số người
tham gia giao thông vẫn còn có thói quen lạc hậu như: Chỉ quan tâm đến việc “đường này
có đi được không” chứ không hề quan tâm đến việc “đường này có được đi không”,
thế nên cứ thấy bất cứ chỗ trống nào là lại chen lên, cố đi vào bất kể phải trái, trên
dưới, thản nhiên rẽ trái rẽ phải, sang đường tùy tiện, thản nhiên đi vào đường cấm,
vượt đèn đỏ…; không ít người vẫn điều khiển phương tiện ô tô, xe máy sau khi đã sử
dụng rượu bia với nồng độ cồn cao quá mức cho phép. Đây là nguyên nhân hàng đầu
dẫn đến vi phạm trật tự an toàn giao thông, xảy ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ
ở nước ta.
Công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông vẫn còn nhiều yếu
kém: Chiến lược quy hoạch phát triển giao thông còn chưa phù hợp, chậm đổi mới,
kết cấu vận tải giao thông đường bộ còn nhiều yếu kém, bất cập; việc phát triển quá
nhanh các phương tiện giao thông cơ giới, đặc biệt là mô tô, xe máy, nhất là ở các đô
thị đã gây nên nhiều hậu quả phức tạp về trật tự an toàn giao thông; công tác quản lý
nhà nước về kinh doanh vận tải, đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe còn nhiều bất
cập; sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành, địa phương vẫn còn hạn chế, và sự chỉ
đạo của hệ thống chính quyền các cấp trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông còn
chưa kiên quyết, chưa hiệu quả; khi lực lượng chức năng thực hiện các nhiệm vụ
thanh tra, tuần tra kiểm soát vẫn còn hạn chế về cả số lượng và nghiệp vụ; công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa tốt, chưa hiệu quả nên chưa phát huy
được sức mạnh của toàn xã hội trong đảm bảo an toàn giao thông.
4.2 Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
4.2.1 Khái niệm phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông
Phòng ngừa vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là hoạt
động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều hình
74
thức, biện pháp hướng đến việc triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm
pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông nhằm ngăn chặn, hạn chế làm giảm
và từng bước loại trừ vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông ra
khỏi đời sống xã hội.
Đấu tranh chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các quy
định của pháp luật, tiến hành tổng hợp các biện pháp theo quy định để chủ động
nắm tình hình, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông do cá nhân, tổ chức thực hiện, từ đó áp dụng các biện pháp xử lý
tương ứng với mức độ của các hành vi vi phạm đó, góp phần bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông.
4.2.2 Chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong thực hiện phòng, chống vi phạm
pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là một nội dung của bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân, trong đó Bộ Công an chịu trách nhiệm chính.
Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ được thực hiện
thống nhất trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương về phòng, chống vi phạm
pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông bằng các nghị quyết của Đảng.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
ban hành các pháp lệnh, nghị quyết về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về trật tự, an
toàn giao thông đường bộ, và có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà
nước về giao thông và các quy định khác của pháp luật có liên quan; thực hiện các
biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; phối hợp với Bộ Giao thông vận tải
bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và cung cấp số liệu đăng ký phương
tiện giao thông đường bộ, dữ liệu về tai nạn giao thông và cấp, đổi, thu hồi giấy
phép lái xe.
Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về giao thông, bao gồm: công tác quy hoạch, đầu tư, xây dựng, quản lý, bảo trì
kết cấu hạ tầng, phát triển phương tiện giao thông và quản lý vận tải.
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tích hợp nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về trật tự, an toàn giao thông vào trong các môn học thuộc chương trình chính
khóa phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, mục tiêu giáo dục, ngành đào
tạo; xây dựng các tài liệu tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông kỹ năng tham gia giao thông an toàn và văn hóa ứng xử khi tham gia giao
thông cho học sinh, sinh viên.
75
Bộ Y tế: Quản lý điều kiện về sức khỏe của người lái xe tham gia giao thông;
phối hợp với Bộ Công an trong việc kiểm soát người điều khiển phương tiện giao
thông sử dụng chất ma túy, nồng độ cồn và các chất kích thích khác mà pháp luật
cấm sử dụng; xây dựng và triển khai các trạm cấp cứu tai nạn giao thông trên các
quốc lộ, cao tốc theo lộ trình Chính phủ quy định.
Bộ Thông tin và Truyền thông: Chỉ đạo các cơ quan báo chí tuyên truyền, phổ
biến pháp luật bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ thường xuyên, liên tục,
rộng rãi đến toàn dân.
Bộ Khoa học và Công nghệ: Phối hợp với Bộ Công an xây dựng, ban hành
tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông theo quy định.
Bộ Xây dựng: Chỉ đạo các cơ quan thuộc ngành xây dựng thực hiện pháp luật
về trật tự, an toàn giao thông trong công tác quy hoạch xây dựng, xây dựng tiêu
chuẩn, quy chuẩn về xây dựng.
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ
chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông theo quy định của
pháp luật trong phạm vi địa phương; phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý
nhà nước về trật tự, an toàn giao thông; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ tại địa phương.
Trách nhiệm hộ gia đình và công dân: Thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ
công dân đã được Hiến pháp, pháp luật quy định về trật tự, an toàn giao thông; tích
cực hợp tác, chia sẻ thông tin với các cơ quan Nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật
trong phát hiện, điều tra, xử lý các tội phạm cũng như các hành vi vi phạm hành
chính về trật tự an toàn giao thông.
4.2.3 Nội dung biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông
Tham mưu, đề xuất với Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn
bản pháp luật phục vụ phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn
giao thông.
Tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đề ra chủ trương, biện pháp
phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phù hợp với
điều kiện thực tế ở từng địa phương cụ thể.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao
thông để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
cho người dân.
Tổ chức phát động phong trào toàn dân tham gia phòng, chống vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, gắn với vận động thực hiện phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đảm bảo huy động sức mạnh của cả
hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông.

76
Tổ chức thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông gắn với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng ngành,
từng lực lượng theo quy định của pháp luật.
Phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông theo quy định của pháp luật.
Phối hợp tốt các ngành, các cấp, các lực lượng và các tổ chức xã hội trong việc
thực hiện phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
4.2.4 Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
trong nhà trường
4.2.4.1 Trách nhiệm của nhà trường
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao thông.
Đây là nội dung, nhiệm vụ rất quan trọng cần được thực hiện thường xuyên,
liên tục trong nhà trường.
Nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông bao gồm: Quy tắc giao thông; hệ thống báo hiệu giao thông đường bộ; Điều
kiện an toàn của người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ; những hành
vi bị cấm; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bảo đảm trật tự, an toàn giao thông;
nghĩa vụ tôn trọng và chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện
pháp luật về trật tự, an toàn giao thông; Văn hóa khi tham gia giao thông; các biện
pháp phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ; kỹ năng lái xe an toàn; những
nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông; Hành vi vi phạm và chế tài xử lý; Các nội
dung cần thiết khác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
Hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông đường bộ như phổ biến, hướng dẫn pháp luật trực tiếp; cung cấp thông tin, tài
liệu pháp luật về an toàn giao thông; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền về
kỹ năng tham gia giao thông, phòng ngừa tai nạn giao thông; thông qua hoạt động
văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của Hội sinh viên, Đoàn thanh niên, câu lạc bộ, tủ sách
pháp luật và các thiết chế văn hóa khác; thông qua chương trình giáo dục pháp luật
trong chương trình giáo dục của nhà trường, v.v.
- Kiểm tra, đôn đốc, giám sát và có chế tài nhất định đối với những hành vi vi
phạm pháp luật về đảm bảo trật tự an, toàn giao thông của giảng viên, cán bộ công
nhân viên, sinh viên của nhà trường.
4.2.4.2 Trách nhiệm của sinh viên trong phòng, chống vi phạm trật tự, an toàn
giao thông
- Sinh viên phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn giao thông; nêu
cao ý thức chấp hành luật giao thông, tích cực tham gia xây dựng văn hóa giao
thông không chỉ bằng những lời nói mà cả bằng hành động cụ thể, thiết thực để góp
phần làm giảm thiểu tai nạn giao thông.

77
- Thực hiện tốt “ba có”, “bốn không”:
“Ba có” gồm: Có hiểu biết đầy đủ pháp luật về giao thông; có ý thức trách
nhiệm cao nhất với bản thân và cộng đồng; có hành vi ứng xử văn hoá, hợp tác giúp
đỡ người bị nạn khi xảy ra tai nạn giao thông.
“Bốn không” gồm: Không uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu, vượt đèn đỏ,
vận hành phương tiện không đủ giấy tờ quy định; không lấn chiếm vỉa hè, lòng
đường, hành lang bảo vệ an toàn giao thông; không có thói hư tật xấu trong ứng xử
với mọi người cùng tham gia giao thông cũng như khi xảy ra tai nạn, giao thông;
không để xảy ra tai nạn khi tham gia giao thông.
- Với thông điệp “An toàn giao thông là trách nhiệm của mọi người, mọi nhà”,
tất cả mọi người, trong đó có sinh viên cần nhận thức sâu sắc về vấn đề An toàn
giao thông và bằng việc làm của mình trong việc chấp hành luật giao thông, xây
dựng văn hóa giao thông. Mỗi lời nói gắn với việc làm của mỗi người, tuy rất nhỏ
nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn đối với bản thân, gia đình và xã hội. Mỗi sinh viên
cần thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trên “Mặt trận giao thông”, để
đem lại hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho toàn xã hội.
Tai nạn giao thông vẫn đang là hiểm họa của mỗi quốc gia, dân tộc trên toàn thế
giới, là nguyên nhân dẫn đến thương vong cho loài người. Chính vì vậy thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông không chỉ góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà còn là trách nhiệm của mỗi dân tộc, mỗi
người với sự trường tồn, phát triển nhân loại. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm
bảo trật tự an toàn giao thông là quá trình hoạt động có mục đích của cơ quan, đơn vị,
tổ chức, gia đình và cá nhân làm cho các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an
toàn giao thông được thực hiện trong thực tế cuộc sống nhằm mục đích đảm bảo trật
tự an toàn xã hội. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao
thông cho thấy, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này đã đạt được những kết
quả nhất định góp phần kiềm chế, giảm thiểu vi phạm giao thông, đem lại an toàn,
hạnh phúc cho bản thân và toàn xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Anh/chị trình bày những đặc điểm cơ bản về bảo đảm trật tự an toàn giao
thông?
2. Anh/chị trình bày những nội dung, biện pháp phòng chống vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông?
3. Trách nhiệm của sinh viên trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong
tình hình hiện nay?

78
BÀI 5
PHÒNG, CHỐNG MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM XÂM PHẠM
DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC
Con người là vốn quý nhất của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật
bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và quyền tự do của họ, trong đó việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm có ý nghĩa
vô cùng quân trọng. Do đó, công tác phòng, chống các tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của con người là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng được Đảng
và Nhà nước ta đặt ra cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa tội phạm này cần thực hiện đồng bộ, tổng
hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp phòng ngừa xã hội và các biện pháp
phòng ngừa nghiệp vụ.
5.1 Nhận thức về tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
5.1.1 Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác
5.1.1.1 Khái niệm tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
Con người là thực thể đặc biệt trong xã hội, xã hội loài người chỉ có thể phát
triển khi mỗi cá nhân được phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có
Việt Nam đều đề cao vai trò của con người và ngày càng hoàn thiện cơ chế bảo vệ
các quyền con người. Một trong những công cụ hữu hiệu để ghi nhận, củng cố, bảo
vệ quyền con người là pháp luật; đặc biệt để bảo vệ một cách toàn diện và hiệu quả
nhất đó là việc cụ thể hóa các chế định bảo vệ quyền con người được đưa pháp luật
hình sự. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tự do của họ, trong đó bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Không chỉ đối với Việt Nam, pháp luật quốc tế cũng ghi
nhận quyền này của con người, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 “Không ai
phải chịu can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc
thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân...”; và quyền nhân thân
này cũng được quy định trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
“Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư,
gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”. Đây
là một trong những yếu tố hình thành quyền công dân nói chung và quyền con
người nói riêng, nó là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi
bất cứ ai và bất cứ chính thể nào.
Danh dự, nhân phẩm của một con người không cùng lúc xuất hiện ngay khi
con người đó được sinh ra mà nó được hình thành thông qua quá trình sinh trưởng,
phát triển và hoàn thiện của mỗi con người. Con người tham gia vào các mối quan
hệ xã hội, thông qua hành vi của mình mà thiết lập các giao dịch làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Những thành tựu, công lao
mà một người gây dựng được tích lũy qua thời gian, được xã hội đánh giá theo hệ
tiêu chuẩn và các nguyên tắc nhất định của từng thời kỳ. Nhân phẩm của mỗi cá
79
nhân được đánh giá trên cơ sở sự tích lũy cá nhân và những chuẩn mực chung của
xã hội. Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với
tính cách là một con người; mỗi con người luôn có những phẩm chất nhất định,
những phẩm chất này sẽ làm nên giá trị của cá nhân. Quá trình xây dựng và bảo vệ
nhân phẩm của cá nhân tạo nên danh dự của con người. Vì vậy, danh dự và nhân
phẩm là hai khái niệm luôn có mối quan hệ quy định lẫn nhau.
Mỗi người trong xã hội có thể có những giá trị danh dự, nhân phẩm giống
hoặc khác nhau, tuy nhiên những giá trị nhân thân này đều được bảo vệ một cách
bình đẳng bởi nhiều công cụ khác nhau, đặc biệt là pháp luật hình sự. Mọi hành vi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người đều bị trừng trị nghiêm khắc.
Danh dự, nhân phẩm con người là một trong những quyền bất khả xâm phạm.
Điều 20, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm”. Để đảm bảo và thực hiện các quyền con người, quyền công dân cơ bản
được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận, Bộ luật hình sự năm 2015 đã dành một
chương riêng – Chương XIV (từ Điều 123 đến Điều 156) quy định về các tội phạm
xâm phạm tới quyền sống, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người và quy định trách nhiệm hình sự đối với những người thực
hiện các hành vi phạm tội này. Đây là cơ sở quan trọng để các cơ quan nhà nước và
toàn xã hội bảo vệ tốt các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Vì thế,
không ai hoặc cơ quan, tổ chức nào có quyền xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm
của người khác, những hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác
đều bị pháp luật trừng trị. Việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được
Hiến pháp xác lập, ghi nhận và được pháp luật hình sự bảo vệ. Những quy định
trong pháp luật hình sự về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người thể
hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
con người của Nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, công
dân, đây cũng là cơ sở pháp lý hình sự đầy đủ và thống nhất để các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án đối với các hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người
sao cho đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Danh dự, nhân phẩm của con người là những yếu tố về tinh thần, bao gồm
phẩm giá, giá trị, sự tôn trọng, tình cảm yêu mến của những người xung quanh, của
xã hội đối với người đó.
Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người là làm cho người đó bị
xúc phạm, tổn thương về tinh thần và xấu hổ đối với những người xung quanh,
người trong gia đình, tập thể, trong nhân dân, trong xã hội tùy thuộc vào vị thế, vai
trò và nhiệm vụ, tuổi tác của người đó và mức độ của hành vi phạm tội.
Xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người được thể hiện ở những
hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm của con người. Đa số hành vi nguy hiểm được thực hiện bằng hành động cụ
thể, thường thể hiện bằng cách: Dùng hành động làm tổn hại đến đến thể chất và
80
tinh thần của người khác và dùng những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ,
khinh bỉ để làm nhục người khác hoặc gán một sự kiện xấu xa cho người khác làm
cho xã hội đánh giá sai hoặc hình dung sai về người đó. Sự đánh giá sai sự thật
không phụ thuộc vào việc người đưa ra những tin tức đó vô tình hay cố ý, “tiêu
chuẩn để đánh giá những sự việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những
nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của những
tin tức đưa ra có thể khác nhau tùy theo nhân thân của người bị hại”. Do đó, những
hành vi có lỗi xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về danh dự, nhân phẩm
của người khác là các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người.
Từ những cơ sở nêu trên, có thể khẳng định: Tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền được tôn
trọng và bảo vệ về nhân phẩm và danh dự được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi
nhận và bảo vệ.
5.1.1.2 Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con
người
- Khách thể của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người:
Khách thể của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người là các tội
phạm xâm phạm đến quyền được bảo hộ về nhân phẩm, danh dự của con người.
Đối tượng tác động của các tội phạm này là con người cụ thể (phải là một cơ thể
còn sống và được tính khi sinh ra cho đến khi chết)
Nhân phẩm được hiểu là phẩm chất, giá trị của một con người cụ thể và được
pháp luật bảo vệ. Nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc trưng của
mỗi cá nhân, những yếu tố đặc trưng này tạo nên giá trị một con người.
Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức
tốt đẹp và là cái nhằm mang lại danh dự, nhằm tỏ rõ sự kính trọng của xã hội, của
tập thể.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người:
Khách thể của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người là những
hành vi hoặc gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành động)
xâm phạm trực tiếp tới nhân phẩm, danh dự của con người như: Sử dụng các công
cụ, phương tiện khác nhau để gây nên sự tác động tới con người cụ thể, gây ra
những thiệt hại hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho con người đó; bằng lời nói,
cử chỉ, hành vi phát tán… xâm phạm tới uy tín, danh dự, nhân phẩm của người
khác; gây thiệt hại về thể chất và tinh thần như xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự
của con người.
- Chủ thể của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người:
Chủ thể của tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người là người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện. Tuy nhiên, đối
81
với một số tội phạm, thì ngoài dấu hiệu chung, chủ thể của tội phạm còn cần có các
dấu hiệu đặc biệt như: người đang thi hành công vụ; người có chức vụ, quyền hạn
hoặc có quan hệ nhất định đối với người bị lệ thuộc.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người từ đủ 16 tuổi và người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi. Đa số chủ thể thực hiện tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở
lên, một số trường hợp như tội hiếp dâm thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
người từ đủ 14 tuổi. Cá biệt, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào
mục đích khiêu dâm thì chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối tội này phải là người
từ đủ 18 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người:
Phần lớn các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Ngoài ra, Bộ luật
hình sự còn quy định động cơ hoặc mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tăng nặng như động cơ đê hèn, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, vì mục
đích mại dâm, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo,...
5.1.2 Phân loại và quy định xử phạt các tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm
5.1.2.1 Phân loại các tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm
Tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm được phân thành 4 nhóm, bao gồm:
Các tội xâm phạm tình dục; các tội mua bán người; các tội làm nhục người khác và
nhóm tội khác như lây truyền HIV cho người khác, chống người thi hành công vụ.
Các tội xâm phạm tình dục bao gồm: Tội hiếp dâm; tội cưỡng dâm; tội dâm ô
với người dưới 16 tuổi; tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục
đích khiêu dâm
Các tội mua bán người bao gồm: Tội mua bán; tội mua bán người dưới 16 tuổi;
tội đánh tráo người dưới 1 tuổi; tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi; tội mua bán,
chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người.
Các tội làm nhục người khác bao gồm: Tội làm nhục người khác; tội vu
khống; tội hành hạ người khác.
Nhóm tội khác như: Tội lây truyền HIV cho người khác; tội chống người thi
hành công vụ.
Đối với hành vi chống người thi hành công vụ, người phạm tội không những
xâm phạm đến hoạt động quản lý xã hội của cơ quan Nhà nước mà còn làm ảnh
hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cán bộ trực tiếp thi hành nhiệm
vụ. Do đó, theo PGS,TS Trần Văn Luyện, tội chống người thi hành công vụ vẫn
được xếp vào nhóm các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người.
5.1.2.2 Quy định của pháp luật về mức xử phạt tội phạm xâm phạm danh dự,
nhân phẩm
* Quy định xử phạt hình sự đối với tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm:
82
- Các tội xâm phạm tình dục:
Đối với tội hiếp dân, Điều 141- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; đối với người
mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; nhiều người hiếp
một người; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; có tính chất loạn luân;
làm nạn nhân có thai; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ 11% đến 45%; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; biết
mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
46% trở lên; làm nạn nhân chết hoặc tự sát thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc
tù chung thân.
Nếu phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm.
Ngoài ra, người phạm tội hiếp dâm còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Điều 142- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây: Dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn
khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người dưới 13 tuổi thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tính chất loạn luân; làm
nạn nhân có thai; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ 11% đến 45%; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; tái phạm
nguy hiểm thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình nếu phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau: Có tổ chức; nhiều người hiếp một người; phạm tội đối với
người dưới 10 tuổi; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
46% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi còn có thể bị cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
83
Đối với tội cưỡng dâm, Điều 143- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Nhiều người cưỡng dâm một
người; cưỡng dâm 02 lần trở lên; cưỡng dâm 02 người trở lên; có tính chất loạn luân;
làm nạn nhân có thai; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ 11% đến 45%; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở
lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Nếu cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm.
Ngoài ra, người phạm tội cưỡng dâm còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 144- Bộ luật
hình sự năm 2015 quy định:
Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang
ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tính chất loạn luân; làm
nạn nhân có thai; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ 11% đến 45%; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; tái phạm
nguy hiểm thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: Nhiều người cưỡng dâm một người; gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; gây
rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà
vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 145- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

84
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Phạm tội 02 lần trở lên; đối
với 02 người trở lên; có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến
60%; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa
bệnh thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên; Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, Điều 146- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ
tình dục khác thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Phạm tội có tổ chức; phạm
tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người mà người phạm tội có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
từ 11% đến 45%; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm, Điều 147- Bộ
luật hình sự quy định:
Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi
trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi
hình thức thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Phạm tội có tổ chức; phạm
tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người mà người phạm tội có
trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; có mục đích thương mại; gây rối loạn
tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt
tù từ 03 năm đến 07 năm.
Bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

85
- Các tội mua bán người:
Thực tế hiện nay ở nước ta, lợi dụng nhu cầu của những bệnh nhân cần thay
thế mô hoặc bộ phận cơ thể, trong xã hội đã xuất hiện những nhóm người môi giới,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người.
Đối với tội mua bán người, Điều 150- Bộ luật hình sự quy định:
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác
thực hiện một trong các hành vi sau đây: Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao,
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để
bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục
đích vô nhân đạo khác; tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện
hành vi thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; vì động cơ đê
hèn; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở
lên; đưa nạn nhân ra khỏi biên giới; đối với từ 02 đến 05 người; phạm tội 02 lần trở
lên thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Có tính chất chuyên nghiệp; đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; gây rối loạn
tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đối
với 06 người trở lên; tái phạm nguy hiểm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản.
Đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi, Điều 151 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 12 năm: Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích vật chất khác trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; Chuyển giao
hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ
phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp
người dưới 16 tuổi để thực hiện các hành vi đã nêu.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn; lợi dụng hoạt động cho nhận con nuôi để phạm tội; đối với từ 02 người đến 05
người; đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; đưa nạn nhân ra
khỏi biên giới; phạm tội 02 lần trở lên; vì động cơ đê hèn; gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: Có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm
nạn nhân chết hoặc tự sát; đối với 06 người trở lên; tái phạm nguy hiểm.

86
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu
một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đối với tội đánh tráo người dưới 01 tuổi, Điều 152 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi này với người dưới 01 tuổi khác thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng; phạm tội 02 lần trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Có tính chất chuyên nghiệp; tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi, Điều 153 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc
giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi
dưỡng; đối với từ 02 người đến 05 người; phạm tội 02 lần trở lên; gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm.
Bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Có tính chất chuyên nghiệp; đối với 06 người trở lên; gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân chết; tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, Điều 154 - Bộ
luật hình sự quy định:
Người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác thì bị
phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; vì mục đích
thương mại; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; đối với từ 02 người đến 05
người; phạm tội 02 lần trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm.

87
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: Có tính chất chuyên nghiệp; gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; đối với 06
người trở lên; gây chết người; tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Các tội làm nhục người khác:
Đối với tội hành hạ người khác, Điều 140 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả
năng tự vệ; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 11% trở lên; đối với 02
người trở lên thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Đối với tội làm nhục người khác, Điều 155 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Phạm tội 02 lần trở lên; đối
với 02 người trở lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người đang thi hành công
vụ; đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; sử dụng mạng
máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45% thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Gây rối loạn tâm thần và hành
vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân tự sát thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Đối với tội vu khống, Điều 156 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây: Bịa đặt hoặc loan truyền
những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; bịa đặt người khác
phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ
03 tháng đến 01 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn; đối với 02 người trở lên; đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đối với người đang thi hành
công vụ; sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để
88
phạm tội; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; vu khống
người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
01 năm đến 03 năm.
Bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Vì động cơ đê hèn; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
làm nạn nhân tự sát.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm.
- Nhóm tội khác như: Tội lây truyền HIV cho người khác; tội cố ý truyền HIV
cho người khác; tội chống người thi hành công vụ
Đối với tội lây truyền HIV cho người khác, Điều 148 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác,
trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự
nguyện quan hệ tình dục thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau: Đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi; đối với phụ nữ mà biết là
có thai; đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình; đối
với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Đối với tội cố ý truyền HIV cho người khác, Điều 149 - Bộ luật hình sự quy định:
Người nào cố ý truyền HIV cho người khác thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; đối với người
đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với người dưới 18
tuổi; đối với từ 02 người đến 05 người; lợi dụng nghề nghiệp; gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45% thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau: đối với phụ nữ mà biết là có thai; đối với 06 người trở
lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; làm nạn nhân tự sát.
Cùng với đó, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
* Quy định về xử phạt hành chính với một số hành vi xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của con người:
Bên cạnh bị xử phạt hình sự, pháp luật còn quy định xử phạt hành chính đối
với những hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người trong Bộ luật
hình sự năm 2015 và Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính
phủ về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống
bạo lực gia đình.

89
- Theo Điều 34, Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: Danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; cá nhân bị thông tin
làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ
thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công
khai và bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được quy định tại Điều 592 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Cụ thể là: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi
xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân phải bồi thường chi phí hợp lý
để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại
khác nếu có và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
- Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính phủ về quy định:
Đối với hành vi có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác thì bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng (Điều 5).
Đối với hành vi có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm người thi hành công vụ thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng (Điều 20).
Đối với hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình thì bị phạt tiền từ
1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng (Điều 50).
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì
chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình, và phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc
bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, hoặc sử
dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia
đình, hoặc phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của nạn nhân (Điều 51);
Đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người ngăn chặn, phát hiện,
báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình thì bị phạt cảnh
cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (Điều 58).
5.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội danh dự, nhân phẩm
5.1.3.1 Nguyên nhân khách quan
Do sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đã hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy
lạc của một bộ phận người trong xã hội, làm xuống cấp nhiều mặt về văn hoá, đạo
đức, lối sống làm mất đi truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; đẩy mạnh tốc độ
90
phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc, một bộ phận giàu lên
nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất chính từ đó dẫn đến phạm tội,
mặt khác không ít người không có tư liệu sản xuất phải ra thành phố, thị xã làm
thuê kiếm sống bị tác động bởi những hiện tượng tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội.
Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế độ
cũ để lại: Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong
nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham
lam, ích kỉ, sa đoạ trụy lạc trong một bộ phận nhân dân. Tàn dư của chế độ phong
kiến, đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại trong đời sống xã hội ở
một bộ phận nhân dân đã nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, những hành vi xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng
của đất nước dẫn đến sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các
quốc gia khác.
Cơ sở vật chất, nguồn lực phục vụ cho công tác phòng ngừa các tội xâm phạm
danh dự, nhân phẩm của con người vẫn còn hạn chế, nhiều địa phương, đặc biệt ở
vùng sâu, vùng xa điều kiện kinh tế - xã hội ở nhiều huyện, xã vẫn còn đặc biệt khó
khăn, vì thế kinh phí phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao nhận thức và các kỹ năng phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là cấp cơ sở gặp nhiều khó
khăn. Kinh phí dành mua sách pháp luật ở một số xã chưa có. Hiện nay, việc sách,
tài liệu, báo pháp luật giá bán còn cao, việc vận chuyển đến sách báo pháp luật đến
các xã chi phí quá cao, nên việc cung cấp những tài liệu cần thiết để phục cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các xã còn khó khăn...
Ngoài ra, việc trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vục cho công
tác phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người gặp nhiều khó
khăn, điều này cũng ảnh hưởng lớn đến việc triển khai, thực hiện tốt các nhiệm vụ
phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người trong thời gian qua.
5.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém
hiệu quả, một số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội
phạm hoạt động phát triển. Sự chậm đổi mới chủ trương, chính sách về kinh tế -
xã hội và pháp luật đã bộc lộ những sơ hở khiến cho một số đối tượng lợi dụng để
hoạt động phạm tội.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ, công chức tham gia phòng ngừa các tội xâm phạm
danh dự, nhân phẩm của con người hiện nay ở nhiều nơi còn nhiều hạn chế; lực
lượng trực tiếp tham gia phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con
người ở vùng sâu, vùng xa “khá mỏng”. Ngoài ra, tình hình tội phạm ẩn các tội
phạm này trong thực tế còn chiếm tỷ lệ rất lớn, đặc biệt các tội về xâm phạm tình
dục trẻ em, vẫn còn những vụ việc gia đình biết nhưng vì các lý do khác nhau đã
không tố giác tội phạm. Việc điều tra, khởi tố vụ án cũng gặp khó khăn vì các nạn
nhân và gia đình không hợp tác, không khai báo kịp thời hoặc tự giải quyết, thương
lượng; một số vụ việc chỉ đến khi hai bên không tự giải quyết được với nhau mới
91
đưa ra chính quyền can thiệp, dẫn đến việc thu thập chứng cứ gặp rất nhiều khó
khăn. Cho nên, với lực lượng cán bộ, công chức, chiến sĩ tham gia hạn chế như hiện
nay đang là “áp lực” lớn để công tác phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm đạt kết quả cao.
Thứ ba, công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các lực lượng, các cấp
trong phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người trên thực tế
chưa thực sự tốt, việc phối hợp tuyên truyền phòng ngừa tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của con người của Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật còn
mang tính hình thức trong chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện. Các chức năng,
nhiệm vụ của Hội đồng chưa có sự tách bạch trong chức năng, nhiệm vụ của Hội
đồng với các cơ quan thường trực của Hội đồng; hoạt động của Hội đồng chủ yếu
dựa vào hoạt động của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp các huyện, thị xã và chưa thể
hiện được ý chí tập thể của tập thể của tất cả các thành viên của Hội đồng. Do các
thành viên của Hội đồng là hoạt động kiêm nhiệm nên không có thời gian triển khai
nhiệm vụ của các thành viên, tạo nên sự không thống nhất khi triển khai thực hiện
các nhiệm vụ chung của Hội đồng.
Thứ tư, mối quan hệ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ,
thiếu thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo
phạm nhân. Số vụ phát hiện, điều tra ít hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm
ẩn còn nhiều; hoạt động điều tra, xử lý tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao,
xử lý chưa nghiêm minh; hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ
giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa
học, hiệu quả vận hành chưa cao. Hoạt động phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa
tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người chưa được diễn ra thường xuyên,
chưa dựa vào một quy chế nhất định cho nên hoạt động phối hợp này vẫn chưa đạt
được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số
cơ quan, đơn vị chưa được chú trọng. Nhiều nội dung pháp luật mới ban hành chưa
được phổ biến kịp thời, đầy đủ đến đối tượng được thụ hưởng. Hình thức phổ biến
pháp luật chưa có nhiều đổi mới, vận dụng thiếu linh hoạt, thiếu sức thu hút đối với
người đọc, người nghe. Chưa triển khai được nhiều các hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật cho các đối tượng đặc thù, cho đối tượng có nguy cơ cao vi phạm
pháp luật.
Thứ năm, việc vận động quần chúng nhân dân tham gia vào công tác phòng
ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn, một mặt do trình độ, kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức, chiễn
sĩ trong quá trình thực hiện công tác “dân vận” chưa tốt, mặt khác, do trình độ dân
trí của người dân còn nhiều hạn chế, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, do đó
người dân chưa thực sự có ý thức tốt trong việc tham gia với các cơ quan chức năng
trong công tác phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, nên
cạnh đó, bản thân người dân chưa hiểu hết sự nguy hiểm của các tội xâm phạm
danh dự, nhân phẩm của con người, đặc biệt các tội xâm phạm tình dục trẻ em
(vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng miền núi), cho nên họ không hợp
tác với cơ quan chức năng để tố giác, truy tố những người thực hiện hành vi vi

92
phạm. Chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng trong công tác giáo dục, cải
tạo và tái hoà nhập cộng đồng cho người phạm tội.
5.2 Nhận thức về công tác phòng, chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác
5.2.1 Khái niệm phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
khác
Phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người là việc các cơ
quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm
khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn,
hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của người khác ra khỏi đời sống xã hội.
Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
nhằm không để tội phạm xảy ra.
Phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người mang ý nghĩa
chính trị xã hội sâu sắc, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức khoẻ,
danh dự, uy tín và phẩm giá của mọi người dân.
5.2.2 Chủ thể và quan hệ phối hợp trong phòng, chống tội phạm xâm phạm danh
dự, nhân phẩm của người khác
5.2.2.1 Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm
của người khác
Bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người là một nội dung của bảo vệ quyền
con người, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và phòng, chống tệ nạn xã hội.
Bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác được
thực hiện thống nhất trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, chính quyền
địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương về phòng, chống vi
phạm pháp luật về bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người bằng các nghị quyết
của Đảng.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
ban hành các pháp lệnh, nghị quyết về phòng chống các hành vi xâm phạm danh dự
nhân phẩm của người khác..
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội và phòng
chống tệ nạn xã hội, trong đó có bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người.

93
Bộ Công an chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội và các quy định khác của pháp luật có liên quan; thực hiện các biện
pháp bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người. Nghiên cứu, phân tích tình trạng
phạm tội, xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, tham mưu
đề xuất các biện pháp phòng chống thích hợp, đồng thời sử dụng các biện pháp luật
định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức năng, trực tiếp tiến hành các
hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người.
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tích hợp nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người vào trong các môn học thuộc
chương trình chính khóa phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, mục tiêu
giáo dục, ngành đào tạo.
Bộ Thông tin và Truyền thông: Chỉ đạo các cơ quan báo chí tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về bảo vệ danh dự, nhân phẩm thường xuyên, liên tục, rộng rãi đến
toàn dân.
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ
chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, chống xâm phạm danh
dự, nhân phẩm của con người theo quy định của pháp luật trong phạm vi địa
phương; phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ danh dự,
nhân phẩm của con người; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người tại địa phương.
Trách nhiệm hộ gia đình và công dân: Thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ
công dân đã được Hiến pháp, pháp luật quy định về bảo vệ danh dự, nhân phẩm của
con người; tích cực hợp tác, chia sẻ thông tin với các cơ quan Nhà nước, cơ quan
bảo vệ pháp luật trong phát hiện, điều tra, xử lý các tội phạm xâm phạm đến danh
dự, nhân phẩm của người khác.
5.2.2.2 Các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm
Thứ nhất, đẩy mạnh xây dựng, triển khai, áp dụng biện pháp phòng ngừa các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ở các địa phương, bao gồm các
biện pháp sau:
Các biện pháp về kinh tế - xã hội: Biện pháp kinh tế - xã hội là biện căn bản,
có ảnh hưởng rất lớn về mặt xã hội nhằm hạn chế và loại trừ dần những nguyên
nhân làm phát sinh tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, cho nên để
phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người ở các địa phương
trong thời gian tới cần phải tập trung vào những nội dung sau:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn các tỉnh.
Nâng cao dân trí, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Các địa phương huy động, lồng ghép các nguồn lực xã hội để đẩy mạnh đầu tư ở
vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn, nhằm giảm nhanh tỷ lệ hộ
nghèo; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chế độ, chính sách với người có
công, đối tượng bảo trợ xã hội và hộ nghèo.

94
Tăng cường mở các lớp đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở các địa phương, đặc biệt ưu tiến đối với đồng bào dân tộc thiểu số,
người dân ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp cần có chính
sách xoá mù chữ cho phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, tạo cơ hội học tập cho trẻ
em thông qua các biện pháp miễn giảm học phí, hỗ trợ cơ sở vật chất; mở các lớp
tình thương cho trẻ em mồ côi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trong đó, đặc biệt
chú trọng gắn kiến thức văn hoá cho học sinh với giáo dục kỹ năng sống để trẻ em,
phụ nữ tự bảo vệ mình trước các nguy cơ bị xâm hại.
Các biện pháp về văn hoá - giáo dục: Trong thời gian qua, các vụ án xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của con người chủ yếu ở nhóm có trình độ dân trí còn
thấp, trình độ học vấn còn thấp, có nhân thân xấu hoặc có những đặc điểm đạo đức,
tâm lý lệch chuẩn, cùng với, hủ tục của một số đồng bào dân tộc thiểu trên địa bàn
còn phổ biến (hủ tục này dẫn đến việc tảo hôn). Ngoài ra, nhận thức của người dân
(phụ huynh của nạn nhân hoặc bản thân nạn nhân) về tội phạm nói chung và tội
xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người chưa đầy đủ, có tâm lý e ngại, xấu hổ
cho nên không dám tối giác tội phạm (đặc biệt tội xâm phạm tình dục). Vì vậy,
phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người trong thời gian tới
cần phải tập trung vào những nội dung sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tội phạm và
vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và vi phạm pháp luật về xâm phạm danh dự,
nhân phẩm nói riêng trong cộng đồng dân cư, xác định đây là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục cần được triển khai sâu rộng với nhiều hình thức, đa dạng, phong
phú, có nội dung, hình thức phù hợp với từng đối tượng, vùng miền và địa phương.
Đổi mới hình thức, nội dung, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng vùng,
miền, từng đối tượng, coi trọng các biện pháp truyền thống như: Truyền miệng, in
ấn tờ rơi, panô, áp phích, tranh ảnh biếm họa, nhất là tuyên truyền qua hệ thống loa
truyền thanh của các thôn, bản, khu phố...
Các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền hình tập trung tuyên truyền về
giá trị đạo đức, truyền thống gia đình, xóm, làng, truyền thống của dân tộc; lên án
mạnh mẽ những người có hành vi phản văn hóa, vi phạm pháp luật; tuyên truyền về
quyền và nghĩa vụ của người dân trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày như: Giải
quyết tranh chấp mâu thuẫn về dân sự, kinh tế, đất đai, hôn nhân và gia đình...; Bộ
luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều
tra, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đặc biệt chú ý đến các điều luật quy định các tội
xâm phạm danh dự, nhân phẩm.
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, dưới nhiều hình thức (băng rôn, khẩu hiệu,
phát thanh, truyền hình, phóng sự, kịch, sân khấu hóa....) về phương thức, thủ đoạn
hoạt động và hậu quả tác hại cũng như tính nghiêm khắc của chế tài xử lý hình sự
đối với các loại tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm để nhân
dân hiểu rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh.
Nâng cao kỹ năng của mọi tổ chức, công dân trong phát hiện, phòng ngừa, xử
lý đối với những biểu hiện, hành vi và hậu quả tác hại của tội phạm xâm phạm danh
dự, nhân phẩm đối với mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội.

95
Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, nếp sống văn minh ở các
cộng đồng dân cư ở các địa phương; xoá bỏ những hủ tục của người dân, đặc biệt
của các đồng bào dân tộc thiểu số.
Đối với mỗi gia đình, phải thực hiện tốt việc xây dựng gia đình văn hoá, thực
hiện nếp sống văn hoá văn minh là hành lang để bảo vệ hạnh phúc bền vững cho
các gia đình; các thành viên gia đình thường xuyên chăm sóc, quan tâm đến nhau,
con cháu vâng lời ông bà, cha mẹ; ông bà, cha mẹ chăm sóc, giáo dục con cháu
mình về đạo đức, lễ phép, tác phong, phẩm hạnh theo triết lý “tiên học lễ, hậu học
văn”; kiểm soát chặt chẽ để con cháu không sử dụng những sản phẩm văn hoá phẩm
đồi truỵ, khiêu dâm, v.v..; phải quan tâm và có chiến lược giáo dục con cháu hiệu
quả, tạo nên một gia đình có truyền thống, nền nếp gia phong để con cháu phấn đấu
để xứng đáng với truyền thống của gia đình. Giáo dục bằng cách cách nêu gương
của cha mẹ, anh chị trong gia định của như lối sống, ứng xử đúng mực của mình
người xung quanh để từ đó con cái học tập, noi theo; cha mẹ phải gương mẫu trong
mọi lời nói, hành động, tránh xa các vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã
hội, v.v... Bên cạnh việc yêu thương, giáo dục thương yêu con cháu, các gia đình
cũng phải nghiêm khắc để giúp con cháu nhận ra những sai phạm và sửa chữa và
không mắc phải những sai phạm đó sau này.
Đối nhà trường, cần chú trọng đến giáo dục cả đạo đức lẫn kiến thức; lồng
ghép nội dung giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho học sinh; giáo dục cho học
sinh (đặc biệt bé gái) biết cách phòng vệ và tránh những nguy cơ có thể dẫn đến các
hành vi xâm phạm tình dục và buôn bán người.
Đối với đoàn thể xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân), cần tăng
cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục để mọi người cảnh giác trước các hành
vi phạm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người. Trong đó, Đoàn thanh
niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh tăng cường giáo dục hội viên
và nhân dân trên địa bàn, tình hình tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con
người trên địa bàn tỉnh; phổ biến những nội dung pháp luật liên quan đến tội xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của con người như Bộ luật Hình sự, để người dân nâng
cao cảnh giác và từ đó nhận thức rõ các hình thức, thủ đoạn của loại tội phạm này;
Đoàn thanh niên tiếp tục phát huy tốt tinh thần xung kích, tình nguyện; thông qua
hình thức sân khấu hóa với những tiểu phẩm về tuyên truyền phòng, chống tội
phạm, trong đó đặc biệt tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, từ đó
nhằm nâng cao nhận thức của thanh thiếu niên về các vấn đề pháp luật. Ngoài ra,
trong bối cảnh phát triển khoa học, công nghệ hiện nay, đặc biệt công nghệ thông
tin, truyền thống, các đoàn thể nhân dân cần tuyên truyền và hướng dẫn người dân
những kỹ năng cần thiết khi sử dụng internet, facebook, e-mail, twitter, zalo,
instagram, v.v... để không mắc phải những sai sót đặc biệt lộ thông tin cá nhân, để
không bị đối tượng xấu lợi dụng, khống chế (đặc biệt liên qua đến tội mua bán
người và tội làm nhục người khác).
Đối với cộng đồng, phải thường xuyên phát động phong trào “toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, xoá bỏ những phong tục, tập quán
không còn phù hợp; thực hiện tốt phong trào “quản lý, giáo dục, giúp đỡ những

96
người lỗi lầm tại cộng đồng, dân cư” và phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc”; v.v..
Thứ hai, tăng cường quản lý nhà nước về trật tự xã hội ở các địa phương.
Cần tăng cường hiệu quả quản lý hành chính về an ninh, trật tự như: Tăng
cường các biện pháp quản lý giáo dục đối với các đối tượng có tiền án, tiền sự, có
biểu hiện vi phạm pháp luật tại cộng đồng; tăng cường trách nhiệm của chính quyền
các cấp trong việc quản lý nhân khẩu, hộ tịch, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn dân cư
của tỉnh, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số; quản
lý các ngành nghề kinh doanh, dịch vụ có điều kiện và các loại hình dịch vụ khác có
liên quan đến tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, đặc biệt là tội mua
bán người như: Dịch vụ du lịch, xuất khẩu lao động; massage, karaoke; v.v...
Tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân trong đấu tranh,
phòng ngừa tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người.
Chính quyền các cấp tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
đặc biệt pháp luật hình sự trên địa bàn; cùng với đó, chính quyền các cấp cần phải
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên
truyền chiều sâu ở các địa bàn dân cư nhằm nâng cao cảnh giác cho cộng đồng
trước những thủ đoạn của tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, đặc
biệt là các tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô, tội mua
bán người (phụ nữ và trẻ em). Ngoài ra, chính quyền các cấp phối hợp với các tổ
chức đoàn thể tích cực vận động quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm,
chủ động hỗ trợ các lực lượng chức năng tấn công trấn áp tội phạm.
Tăng cường các biện pháp liên quan đến hoạt động phát hiện và xử lý hành vi
phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
Lực lượng Công an cần phải tăng cường hợp tác với quần chúng nhân dân,
phối hợp với các cơ quan chức năng và các đoàn thể trong việc tiếp nhận tin báo tố
giác về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người để phát hiện, ngăn
chặn và xử lý kịp thời; thực hiện tốt công tác “dân vận”, hợp tác với quần chúng
nhân dân để nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết về các tội xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của con người, chủ động, tích cực tham gia đấu tranh, tố
giác tội phạm.
Thứ ba, nâng cao năng lực chủ thể phòng ngừa các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người ở các địa phương.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan như: Cấp ủy Đảng, Ủy ban
nhân dân, cơ quan Công an, các cơ quan chuyên môn trong quản lý hành chính nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong phòng ngừa các tội xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của con người ở các địa phương.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phòng ngừa các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của con người, đặc biệt ở vùng sâu,vùng xa, trước hết, cần phải đảm bảo
số lượng cán bộ, công chức, chiến sĩ Công an thực hiện phòng ngừa các tội phạm
này, đặc biệt, cần tăng cường cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật ở các địa phương. Đồng thời tăng cường đầu tư trang
bị, phương tiện, thiết bị nghiệp vụ hiện đại phục vụ hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh có hiệu quả đối với tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm.
97
Bên cạnh đó, cần bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng, bản lĩnh chính trị, kiến thức về văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức và chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ này. Trong
đó, đặc biệt chú trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực hiên nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, lực lượng Công an xã và cán bộ Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể lực phòng ngừa các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ở các địa phương.
Các cơ quan chức năng ở các địa phương tăng cường thực hiện công tác phòng
ngừa tội phạm, gắn phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ. Tiếp tục đổi mới,
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là tại
các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự, các nhóm đối tượng có nguy cơ
phạm tội và nguy cơ bị xâm hại cao, gắn với phong trào xây dựng khu dân cư văn
hóa, không có tội phạm, tệ nạn xã hội và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
khác ở địa phương.
Các cơ quan, đơn vị ở địa phương thực hiện kế hoạch, chương trình hành động
đã ký kết giữa các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng
kết, đánh giá rút kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đấu tranh
phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong tình hình mới. Củng cố và nhân rộng
các mô hình quần chúng tham gia đảm bảo an ninh, trật tự ở cơ sở theo hướng “tự
quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải”.
Nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; tập
trung giải quyết những vấn đề bức xúc về tội phạm và tệ nạn xã hội, không để hình
thành địa bàn phức tạp; ba ngành Công an - Viện Kiểm sát - Tòa án tăng cường
công tác phối hợp trong điều tra, tuy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, đồng thời tổ chức xét xử lưu động các vụ án điểm phục
vụ công tác phòng ngừa tội phạm này.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, khắc phục sơ hở,
thiếu sót trong công tác quản lý nhằm phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật,
nhất là các lĩnh vự quản lý cư trú.
5.2.3 Phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm trong nhà trường
5.2.3.1 Trách nhiệm của nhà trường
Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự,
nhân phẩm trong nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm để cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình, của nhà
trường trong đấu tranh phòng chống tội phạm danh dự, nhân phẩm.
Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng tiêu cực,
tệ nạn xã hội và tội phạm.
Xây dựng quy chế quản lý sinh viên, quản lý ký túc xá, các tổ chức sinh viên
tự quản, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm soát trong khu vực trường.
Tổ chức cho sinh viên tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội, không có
hành vi hoạt động phạm tội.
98
Tổ chức cho sinh viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật Hình sự,
phòng chống tệ nạn xã hội, trong đó có tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác.
Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận động toàn
dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của nhà trường.
Phối hợp với lực lượng công an cơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp số sinh
viên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản lý, giáo dục;
đấu tranh xoá bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực xung quanh trường.
5.2.3.2 Trách nhiệm của sinh viên
Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ bản
nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật về bảo vệ danh dự,
nhân phẩm của con người cho gia đình, người thân và người dân nơi cư trú.
Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của nhà trường trong học
tập, sinh hoạt tập thể.
Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào các tổ
chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong
khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh trong trường,
lóp; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn nghiện ma tuý, cờ
bạc, chơi lô đề, cá cược bóng đá... có thể dẫn đến tội phạm nói chung và tội phạm
danh dự, nhân phẩm nói riêng.
Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực trường, lớp phát hiện và cung cấp
cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội, người
phạm tội, nhất là tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; tùy theo từng
điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công
an một cách công khai hay bí mật.
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ. Do đó, mọi hành vi xâm phậm đến danh dự, nhân phẩm của người khác
đều bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào tính chất, mức
độ nghiêm trọng mà hành vi đó gây ra cho bị hại. Thực hiện tốt bảo vệ danh dự
nhân phẩm của con người không chỉ góp phần bảo vệ quyền con người, quyền được
đối xử công bằng, bình đẳng của mọi công dân mà còn góp phần đảm bảo trật tự xã
hội và đẩy lùi tệ nạn xã hội, đem lại cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho mỗi người
dân và cả cộng đồng. Do đó, bảo vệ danh dự nhân phẩm và đấu tranh nhằm đẩy lùi,
xóa bỏ tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác là trách nhiệm của mọi tổ
chức, cá nhân và toàn xã hội, trong đó sinh viên là lực lượng có vai trò rất quan
trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện, nhằm xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh trong nhà trường, gia đình và cộng đồng, góp phần xây
dựng đất nước văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.

99
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/chị trình bày khái niệm và phân loại các tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của con người?
2. Anh/chị trình bày các nguyên nhân của tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm
của con người?
3. Anh/chị trình bày các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của con người?

100
BÀI 6
AN TOÀN THÔNG TIN VÀ PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG
Trong xã hội đương đại, thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa
tác động, chi phối mạnh mẽ đến đời sống con người, đặc biệt là những thông tin
thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế, đã thúc đẩy nhu
cầu tìm kiếm, thu thập thông tin và biến thông tin thành một dạng hàng hóa đặc biệt
hình thành mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa chủ thể có thông tin và chủ thể cần
thông tin. Từ đó, xuất hiện các vi phạm pháp luật trên không gian mạng liên quan
đến thông tin. Vì vậy, việc nghiên cứu nắm vững an toàn thông tin và phòng, chống
vi phạm pháp luật trên không gian mạng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sinh viên
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
6.1 An toàn thông tin mạng
6.1.1 Khái niệm thông tin mạng và an toàn thông tin mạng
6.1.1.1 Khái niệm thông tin mạng
Khái niệm thông tin: Thông tin là kết quả, là một dạng thức liên kết trong xã
hội loài người bao gồm tất cả sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự
hiểu biết của con người, hình thành trong quá trình giao tiếp.
Một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác, từ phương tiện truyền
thông đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc qua quan sát các hiện tượng tự
nhiên, xã hội. Thông tin được thể hiện dưới nhiều hình thức: nói, viết, dưới dạng
điện tử,... có ảnh hưởng đến đời sống xã hội, tác động đến nhận thức, tâm tư, tình
cảm của con người. Thông tin cũng là đối tượng tìm hiểu, nắm bắt để phục vụ nhu
cầu của các chủ thể.
Thông tin mang đậm tính chủ quan của con người nên trước một sự việc, hiện
tượng, với những mục đích khác nhau, thông tin sẽ biến dạng thành những nội dung
khác nhau. Thông tin chỉ có giá trị cao khi đảm bảo được đầy đủ các thuộc tính với
nhiều yều cầu phức tạp đối với công tác quản lý, đặc biệt là đối với thông tin mạng
do kỹ thuật truyền nhận và xử lý thông tin ngày càng phát triển, mức độ rủi ro ngày
càng lớn. Quản lý an toàn và sự rủi ro được gắn chặt với quản lý chất lượng. Khi
đánh giá độ an toàn thông tin cần phải dựa trên phân tích các rủi ro, khả năng ứng
phó, trình độ, năng lực của các chủ thể... Các đánh giá cần hài hoà với đặc tính, cấu
trúc hệ thống và quá trình kiểm tra chất lượng.
Hiện nay, thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa tác động, chi
phối mạnh mẽ đến đời sống con người, đặc biệt là những thông tin thuộc danh mục
bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế... Từ đó, thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm,
thu thập thông tin và biến thông tin thành một dạng hàng hóa đặc biệt hình thành
mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa chủ thể có thông tin và chủ thể cần thông tin.

101
Khái niệm mạng: Mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp,
truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua mạng viễn thông và mạng
máy tính (Theo Điều 3 - Luật an toàn thông tin mạng).
Thông tin trên mạng là thông tin được lưu trữ, truyền đưa, thu thập và xử lý
thông qua mạng (Theo Điều 3 - Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ).
Hệ thống thông tin mạng là tập hợp phần cứng, phần mềm và cơ sở dữ liệu được
thiết lập phục vụ mục đích tạo lập, cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao
đổi thông tin trên mạng (Theo Khoản 3, Điều 3 - Luật an toàn thông tin mạng).
6.1.1.2 Khái niệm an toàn thông tin mạng
An toàn thông tin mạng là sự bảo vệ thông tin, hệ thống thông tin trên mạng
tránh bị truy nhập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái phép nhằm
bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin (Theo Điều 3
- Luật An toàn thông tin mạng).
Theo đó, tính bảo mật (Confidentiality) là đảm bảo thông tin chỉ có thể được
truy cập bởi những người được cấp quyền truy cập nhằm tránh để lộ thông tin đến
những đối tượng không thuộc diện biết thông tin. Tính bảo mật trong an ninh mạng
bao gồm việc bảo vệ các dữ liệu được truyền qua mạng trước nguy cơ dữ liệu đó bị
những người không được cấp quyền truy cập chiếm đoạt. Ví dụ: một giao dịch tín
dụng qua Internet, số thẻ tín dụng được gửi từ người mua hàng đến người bán, và từ
người bán đến nhà cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng. Hệ thống sẽ mã hóa số thẻ trong
suốt quá trình truyền tin, giới hạn nơi nó có thể xuất hiện bằng việc giới hạn truy
cập những nơi được lưu lại.
Tính toàn vẹn (Integrity) là đảm bảo thông tin đáng tin cậy, không bị thay đổi
hoặc hủy hoại một cách trái phép hoặc bởi những người không được phân quyền
thực hiện các hoạt động đó, cũng như bảo vệ tính khách quan của thông tin, tránh
việc bị thay đổi hay bị làm sai lệch dù cố ý hoặc vô ý. Thuộc tính này đảm bảo từng
thông điệp được nơi nhận đúng như khi nó gửi đi mà không bị mất, bị lặp lại, bị
thay đổi trật tự và chắc chắn không bị gửi trả lại. Tất cả các dữ liệu được gửi đi phải
đến nơi nhận một cách toàn vẹn.
Tính khả dụng (Availability) là khả năng đảm bảo cho hệ thống truyền tin
vận hành hiệu quả, liên tục trong khoảng thời gian đã định. Tính khả dụng đảm
bảo các tài nguyên thông tin luôn sẵn sàng cho việc khai thác, sử dụng đúng mục
đích đã định.
Hệ thống thông tin được phân loại theo 5 cấp độ an toàn như sau:
Cấp độ 1 là cấp độ mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân nhưng không làm tổn hại tới lợi ích công cộng, trật tự, an
toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia.
Cấp độ 2 là cấp độ mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại nghiêm trọng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc làm tổn hại tới lợi ích công cộng
nhưng không làm tổn hại tới trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia.
102
Cấp độ 3 là cấp độ mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại nghiêm trọng tới sản
xuất, lợi ích công cộng và trật tự, an toàn xã hội hoặc làm tổn hại tới quốc phòng, an
ninh quốc gia.
Cấp độ 4 là cấp độ mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại đặc biệt nghiêm trọng tới
lợi ích công cộng và trật tự, an toàn xã hội hoặc làm tổn hại nghiêm trọng tới quốc
phòng, an ninh quốc gia.
Cấp độ 5 là cấp độ mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại đặc biệt nghiêm trọng tới
quốc phòng, an ninh quốc gia.
6.1.1.3 Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thông tin mạng
Người nào có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về an toàn thông tin
mạng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật (Theo Điều 8 - Luật an toàn thông tin mạng).
Những hành vi vi phạm quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng
bao gồm:
Một là, ngăn chặn việc truyền tải thông tin trên mạng, can thiệp, truy nhập, gây
nguy hại, xóa, thay đổi, sao chép và làm sai lệch thông tin trên mạng trái pháp luật.
Hai là, gây ảnh hưởng, cản trở trái pháp luật tới hoạt động bình thường của hệ
thống thông tin hoặc tới khả năng truy nhập hệ thống thông tin của người sử dụng.
Ba là, tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng của biện pháp bảo
vệ an toàn thông tin mạng của hệ thống thông tin; tấn công, chiếm quyền điều
khiển, phá hoại hệ thống thông tin.
Bốn là, phát tán thư rác, phần mềm độc hại, thiết lập hệ thống thông tin giả
mạo, lừa đảo.
Năm là, thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá
nhân của người khác; lợi dụng sơ hở, điểm yếu của hệ thống thông tin để thu thập,
khai thác thông tin cá nhân.
Sáu là, xâm nhập trái pháp luật bí mật mật mã và thông tin đã mã hóa hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tiết lộ thông tin về sản phẩm mật mã dân sự,
thông tin về khách hàng sử dụng hợp pháp sản phẩm mật mã dân sự; sử dụng, kinh
doanh các sản phẩm mật mã dân sự không rõ nguồn gốc.
6.1.2 Thực trạng an toàn thông tin mạng trên thế giới và ở Việt Nam
6.1.2.1 Thực trạng an toàn thông tin mạng trên thế giới
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin là một dạng tài nguyên.
Chính vì thế, đảm bảo an ninh, an toàn thông tin là nhiệm vụ quan trọng và cấp
thiết. Tuy nhiên hiện nay, các mối đe dọa từ không gian mạng không ngừng tăng
lên và thay đổi nhanh chóng. An ninh mạng đang trở thành vấn đề nóng, đặt ra
nhiều thách thức đối với tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Tình hình an toàn
thông tin mạng diễn biến phức tạp, liên tục xảy ra các vụ tấn công, xâm nhập, đánh
cắp dữ liệu trên hệ thống mạng của các cơ quan chính phủ, các cơ sở an ninh quốc
103
phòng, tập đoàn kinh tế, cơ quan truyền thông của nhiều quốc gia, như các vụ tấn
công vào hệ thống thư điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, hệ thống máy tính của Nhà
trắng, Hạ viện Đức, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại và Cảnh sát liên bang Australia.
Các mục tiêu tấn công đã thay đổi, kỹ thuật trở nên phức tạp hơn, hướng tấn
công đa dạng hơn và công cụ tấn công được thiết kế chuẩn xác hơn. Những kẻ tấn
công đã nghiên cứu kỹ các nạn nhân để có những chiến lược tấn công phù hợp,
nhằm tạo ra những ảnh hưởng lớn nhất có thể.
Tài chính là mục tiêu lớn nhất thúc đẩy tin tặc hành động, với 73% số lượng
các cuộc tấn công mạng; chính trị, tình báo là mục tiêu lớn thứ hai, với 21% các
cuộc tấn công.
Các nhóm tội phạm mạng có tổ chức xuất hiện nhiều hơn. Chiến tranh mạng
và đội quân tác chiến mạng cũng được chú trọng hơn. Trong cuộc chạy đua vũ trang
trên không gian mạng toàn cầu, các quốc gia đang xây dựng các trung tâm chỉ huy
không gian mạng, nhằm củng cố hệ thống phòng thủ chống lại các cuộc tấn công
mạng vào các cơ quan và cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, sự phát triển và phổ biến của
mạng xã hội đã làm nảy sinh một nguy cơ an toàn thông tin nữa đó là việc lan
truyền tin tức giả mạo thông qua mạng xã hội, gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức,
thậm chí là tình hình an ninh, chính trị của cả một đất nước. Tiền ảo và các hành vi
tội phạm liên quan đến tiền ảo cũng đang tiếp tục phát triển, bao gồm lây nhiễm
phần mềm độc hại đào tiền ảo tới máy tính, máy chủ; lây nhiễm mã độc đào tiền ảo
tới một trang web, sử dụng tài nguyên thiết bị của người tải trang web; đánh cắp
tiền từ giao dịch tiền ảo.
6.1.2.2 Thực trạng an toàn thông tin ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tình hình an toàn an ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, tồn
tại nhiều cơ sở gây nguy cơ bị tấn công, phá hoại hạ tầng mạng thông tin, ảnh
hưởng tới an ninh quốc gia.
Báo cáo của hãng bảo mật Kaspersky và Symantec cho thấy, Việt Nam đứng
thứ 3 (3,96%) sau Nga (4%) và Ấn Độ (8%) về số người dùng di động bị mã độc
tấn công nhiều nhất trên thế giới; thứ 6 trên thế giới về số lượng địa chỉ IP trong
nước được dùng trong các mạng máy tính; thứ 7 trên thế giới về phát tán tin nhắn
rác và đứng thứ 12 trên thế giới về các hoạt động tấn công mạng. Đáng chú ý là
hoạt động tấn công mạng nhằm vào Việt Nam gia tăng về số lượng, gây nguy cơ bị
kiểm soát, khống chế hệ thống thông tin.
Tin tặc nước ngoài thường xuyên lợi dụng các điểm yếu về an ninh mạng của
hệ thống thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của Việt Nam để tấn công, xâm
nhập, chiếm quyền điều khiển, chỉnh sửa nội dung với số lượt và mức độ nguy hại
ngày càng gia tăng. Cụ thể như sau:
Năm 2011, có trên 1.500 cổng thông tin Việt Nam bị tin tặc sử dụng mã độc
gián điệp dưới hình thức tập tin hình ảnh xâm nhập, kiểm soát, cài mã độc thay đổi
giao diện trang chủ.

104
Trong năm 2012 - 2013, Bộ Công an đã phát hiện gần 6.000 lượt cổng thông
tin, trang tin điện tử của Việt Nam (trong đó có hơn 300 trang của cơ quan nhà
nước) bị tấn công, chỉnh sửa nội dung và cài mã độc.
Năm 2014, Bộ Công an phát hiện gần 6.000 trang bị tấn công, chiếm quyền
quản trị, chỉnh sửa nội dung (có 246 trang tên miền gov.vn). Đặc biệt, sau sự kiện
giàn khoan HD 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, tin tặc
nước ngoài đã tấn công hơn 700 trang mạng Việt Nam và hơn 400 trang trong dịp
Quốc khánh (2/9) để chèn các nội dung xuyên tạc chủ quyền của Việt Nam với quần
đảo Hoàng Sa. Vào cuối năm 2014, tin tặc cũng đã mở đợt tấn công vào trung tâm
dữ liệu của VCCorp khiến nhiều tờ báo mà công ty này đang vận hành kỹ thuật bị tê
liệt như Dân trí, Người lao động, Soha, VNEconomy, Kenh14,…v.v.
Năm 2015, có trên 2.460 website của các cơ quan, doanh nghiệp bị xâm nhập.
Cuối năm 2016, thông tin hơn 73.000 camera IP, trong đó có gần 1.000
camera tại Việt Nam có thể bị theo dõi được công bố rộng rãi. Nguy hiểm nhất là
cuộc tấn công mạng vào một số màn hình hiển thị thông tin chuyến bay tại khu vực
làm thủ tục chuyến bay của các sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Sân bay quốc tế Nội
Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay Phú Quốc. Các màn hình của sân bay đã bị
chèn những hình ảnh và nội dung xuyên tạc về biển Đông. Hệ thống phát thanh của
sân bay cũng phát đi những thông điệp tương tự. Đồng thời, website của
VietnamAirlines cũng bị tấn công với 411.000 dữ liệu của hành khách đi máy bay
đã bị hacker thu thập và phát tán.
Năm 2017 mã độc tống tiền (ransomware) có tên là Wanna Cry trở thành mối
nguy hiểm của ngành công nghệ thông tin và nó lây nhiễm với tốc độ chóng mặt ở
gần 100 quốc gia, hơn 100 nghìn máy tính. Tại Việt Nam, ghi nhận hơn 100 máy
tính bị nhiễm độc. Wanna Cry là một loại mã nhiễm độc tấn công vào máy nạn nhận
qua tệp tin đính kèm email hoặc đường link độc hại, như các dòng ransomware
khác. Mối nguy hiểm nhất ở mã độc này là nó có khả năng lây nhiễm trên các máy
tính ngang hàng. Cụ thể, Wanna Cry sẽ quét toàn bộ các máy tính trong cùng mạng
để tìm kiếm thiết bị chứa lỗ hổng của dịch vụ đọc và ghi file từ máy trạm yêu cầu
đến máy chủ trong hệ thống Windows. Từ đó, mã độc có thể lây lan vào các máy có
lỗ hổng mà không cần người dùng phải thao tác trực tiếp với tập tin (file) đính kèm
hay đường dẫn (link) độc hại.
Năm 2018, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã
lên mức kỷ lục 14.900 tỷ đồng, tương đương 642 triệu USD, nhiều hơn 21% so với
mức thiệt hại của năm 2017. Đây là kết quả được đưa ra từ chương trình đánh giá an
ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện tháng 12/2018. Mức thiệt hại
642 triệu USD tương đương 0,26% GDP của Việt Nam tuy chưa phải cao so với
khu vực và thế giới, nhưng cũng là kỷ lục đáng báo động. Theo Bkav, có tới hơn
60% cơ quan, doanh nghiệp tại Việt Nam bị nhiễm mã độc đào tiền ảo. Trung bình
cứ 10 cơ quan, doanh nghiệp, thì có 6 nơi bị mã độc chiếm quyền điều khiển máy
tính đào tiền ảo, gây mất an ninh thông tin.

105
Đến năm 2019, số cuộc tấn công mạng có giảm nhưng chỉ tính 6 tháng đầu năm
cũng đã ghi nhận 3.159 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 4 tháng đầu năm 2020, tổng cộng
1.056 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam dẫn đến sự cố
(553 cuộc Phishing, 280 cuộc Deface, 223 cuộc Malware), đã giảm 51,4% với cùng
kỳ năm 2019.
6.1.3 Quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn thông tin mạng
6.1.3.1 Về nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ an toàn thông tin mạng
- Nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin mạng:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng.
Hoạt động an toàn thông tin mạng của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải đúng quy định
của pháp luật, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội;
Tổ chức, cá nhân không được xâm phạm an toàn thông tin mạng của tổ chức,
cá nhân khác;
Việc xử lý sự cố an toàn thông tin mạng phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, không xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân,
bí mật gia đình của cá nhân, thông tin riêng của tổ chức;
Hoạt động an toàn thông tin mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục,
kịp thời và hiệu quả.
- Nội dung bảo đảm an toàn thông tin mạng:
Theo Luật an toàn thông tin mạng, bảo đảm an toàn thông tin mạng bao gồm 4
nội dung là: bảo vệ thông tin mạng, bảo vệ thông tin cá nhân bảo vệ hệ thống thông
tin, ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng.
- Nhiệm vụ bảo vệ an toàn thông tin mạng:
Thứ nhất, bảo đảm an toàn thông tin mạng quy mô quốc gia, bao gồm:
Xây dựng yêu cầu bảo đảm an toàn thông tin mạng tối thiểu đối với hệ thống
thông tin quan trọng quốc gia; tăng cường đầu tư bảo đảm an toàn thông tin mạng;
định kỳ kiểm tra, đánh giá về an toàn thông tin mạng đối với hệ thống thông tin
quan trọng quốc gia.
Xây dựng, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an
toàn thông tin mạng; xây dựng và hướng dẫn mô hình khung hệ thống quản lý an
toàn thông tin mạng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đầu tư xây dựng các hệ thống nền tảng để nâng cao năng lực kỹ thuật bảo đảm
an toàn thông tin mạng, bao gồm: Hệ thống xử lý tấn công mạng Internet Việt Nam;
hệ thống đánh giá, kiểm định an toàn thông tin; hệ thống xác thực điện tử quốc gia.
Nâng cao năng lực và tổ chức vận hành hiệu quả mạng lưới điều phối ứng cứu
sự cố an toàn thông tin mạng trên phạm vi toàn quốc.
Định kỳ tổ chức triển khai diễn tập bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia,
tham gia phối hợp diễn tập quốc tế.
106
Nâng cao năng lực phòng, chống phần mềm độc hại, cải thiện mức độ tin cậy
của quốc gia trong hoạt động giao dịch điện tử theo hướng xã hội hóa.
Thứ hai, bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức, bao gồm:
Xây dựng, ban hành và thường xuyên cập nhật quy chế, chính sách bảo đảm
an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Triển khai áp dụng hệ thống quản lý an toàn thông tin mạng theo tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật vào hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Phân công lãnh đạo phụ trách và thành lập hoặc chỉ định bộ phận đầu mối chịu
trách nhiệm về an toàn thông tin mạng.
Nâng cao nhận thức về an toàn thông tin cho lãnh đạo và cán bộ; tổ chức đào
tạo, tập huấn về kiến thức, kỹ năng an toàn thông tin cho cán bộ có trách nhiệm liên
quan.
Đầu tư nâng cao năng lực kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin mạng cho các hệ
thống thông tin thuộc phạm vi quản lý.
Xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố an toàn thông tin mạng; định kỳ hàng năm
thực hiện kiểm tra, đánh giá, diễn tập về an toàn thông tin mạng đối với các hệ
thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; tham gia, phối hợp với các chương trình
huấn luyện, diễn tập quốc gia;
Xây dựng và triển khai kế hoạch dự phòng, sao lưu dữ liệu, bảo đảm hoạt
động liên tục của cơ quan, tổ chức; sẵn sàng khôi phục hoạt động bình thường của
hệ thống sau khi gặp sự cố mất an toàn thông tin mạng.
Thứ ba, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ an toàn thông tin mạng,
bao gồm:
Thực hiện đặt hàng nghiên cứu, phát triển, sản xuất thử nghiệm và sản xuất
sản phẩm an toàn thông tin nội địa từ ngân sách khoa học và công nghệ.
Hỗ trợ xúc tiến đầu tư, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu, thúc đẩy
việc sử dụng các sản phẩm, giải pháp an toàn thông tin mạng thương hiệu Việt Nam.
Hỗ trợ phát triển một số sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng nội địa
Thúc đẩy ứng dụng chữ ký số công cộng trong các hoạt động kinh tế - xã hội;
tăng cường thuê ngoài dịch vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng do doanh nghiệp
cung cấp.
- Một số giải pháp bảo vệ an toàn thông tin mạng:
Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách.
Tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện hành lang
pháp lý về an toàn thông tin mạng.
Xây dựng, ban hành chính sách đãi ngộ cho chuyên gia quản lý, kỹ thuật trình
độ cao trực tiếp tham gia bảo đảm an toàn thông tin mạng.
Hai là, thúc đẩy hợp tác trong nước và quốc tế.
Xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, bài học kinh nghiệm, điều phối
liên ngành giữa các cơ quan nhà nước liên quan, giữa cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp trong và ngoài nước trong công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng.
107
Tham gia vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực trong lĩnh vực an toàn
thông tin mạng; thúc đẩy hợp tác, trao đổi kỉnh nghiệm với các nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối
tác truyền thống của Việt Nam.
Ba là, kiện toàn bộ máy, phát triển nguồn nhân lực.
Thiết lập cơ chế phối hợp điều hành liên bộ, ngành, địa phương để triển khai
công tác bảo đảm an toàn thông tin.
Tổ chức và duy trì nhóm chuyên gia về an toàn thông tin mạng nhằm hỗ trợ, tư
vấn, đề xuất cho cấp có thẩm quyền các kế hoạch ứng phó, đảm bào an toàn thông
tin mạng tổng thể của quốc gia.
Tổ chức triển khai đào tạo và phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông
tin Việt Nam.
Bốn là, tổ chức triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức
và trách nhiệm về an toàn thông tin.
Xây dựng, biên tập tài liệu tuyên truyền sử dụng chung cho các đối tượng và
theo chủ đề, chuyên đề phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về an toàn thông
tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông xã hội như mở chuyên
mục, chuyên trang trên các phương tiện thông tin đại chúng để thực hiện các nội
dung tuyên truyền; sản xuất phóng sự, chương trình, trao đổi, đối thoại trên hệ
thống phát thanh, truyền hình; đưa tin, bài viết trên hệ thống báo chí, báo điện tử,
trang tin điện tử, diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về an toàn thông
tin qua các hệ thống thông tin cơ sở: tuyên truyền theo từng điểm, các địa điểm
cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ mạng hoặc thiết bị công nghệ thông
tin; áp dụng với các khu vực có đông người sử dụng mạng, tại các điểm sử dụng
máy tính công cộng, các điểm phủ sóng mạng không dây và truy nhập internet công
cộng; tuyên truyền trên cổng/trang thông tin điện tử của các cơ quan, tố chức nhà
nước các cấp.
Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về an toàn thông
tin qua các phương thức khác như xây dựng, vận hành tổng đài hỗ trợ, tư vấn an
toàn thông tin cho người sử dụng thiết bị công nghệ thông tin; tuyên truyền trực
quan, sử dụng pa-nô, áp phích, các vật dụng được in ấn thông tin tuyên truyền, biểu
trưng nhận diện thông điệp tuyên truyền; tổ chức các sự kiện thường niên và các đợt
sự kiện theo tuần, tháng về an toàn thông tin, kết hợp với tổ chức hội thảo, tọa đàm
trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm; tổ chức đánh giá, công bố danh mục sản
phẩm, dịch vụ an toàn thông tin tiêu biểu để tổ chức, cá nhân biết và sử dụng; phối
hợp cùng các tổ chức quốc tế triển khai các chương trình nâng cao nhận thức và
trách nhiệm về an toàn thông tin trong khu vực và quốc tế.
6.1.3.2 Trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng.
Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng, có nhiệm vụ: Ban hành hoặc xây dựng,
108
trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn thông
tin mạng; thẩm định về an toàn thông tin mạng trong hồ sơ thiết kế hệ thống thông
tin; quản lý công tác giám sát an toàn hệ thống thông tin trên toàn quốc; quản lý
công tác đánh giá về an toàn thông tin mạng; cấp giấy phép kinh doanh sản phẩm,
dịch vụ an toàn thông tin mạng, giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về an toàn thông tin mạng; đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về an
toàn thông tin mạng; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về an toàn thông tin mạng; chủ trì, phối hợp với bộ, ngành, ủy ban
nhân dân cấp tỉnh và doanh nghiệp có liên quan trong việc bảo đảm an toàn thông
tin mạng; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn thông tin mạng; định
kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động an toàn thông tin mạng.
Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ: Ban hành hoặc xây dựng, trình cấp có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tiêu
chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn thông tin mạng thuộc lĩnh
vực do Bộ Quốc phòng quản lý; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động bảo đảm an toàn thông tin mạng thuộc lĩnh
vực do Bộ Quốc phòng quản lý; thực hiện quản lý công tác giám sát an toàn hệ
thống thông tin thuộc Bộ Quốc phòng.
Ban Cơ yếu Chính phủ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà
nước về mật mã dân sự, có các nhiệm vụ: Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý mật mã dân sự; chủ trì, phối hợp với
bộ, ngành có liên quan xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với sản phẩm, dịch vụ mật mã
dân sự; quản lý hoạt động kinh doanh, sử dụng mật mã dân sự; quản lý chất lượng
sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự, quản lý công tác đánh giá, công bố hợp chuẩn,
hợp quy đối với sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự; xây dựng, trình cấp có thẩm
quyền ban hành danh mục sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và danh mục sản phẩm
mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép; cấp giấy phép kinh doanh sản
phẩm, dịch vụ mật mã dân sự, giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân
sự; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong
hoạt động kinh doanh, sử dụng mật mã dân sự; hợp tác quốc tế về mật mã dân sự.
Bộ Công an có nhiệm vụ: Chủ trì, phối hợp với bộ, ngành có liên quan xây
dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và
hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước,
phòng, chống tội phạm mạng, lợi dụng mạng để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội; thực hiện quản lý công tác giám sát an toàn hệ thống thông tin thuộc
Bộ Công an; tổ chức, chỉ đạo, triển khai công tác phòng, chống tội phạm, tổ chức
điều tra tội phạm mạng và hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực an toàn
thông tin mạng; phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, bộ, ngành có liên quan
kiểm tra, thanh tra về an toàn thông tin mạng, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn
thông tin mạng theo thẩm quyền.
109
Bộ Nội vụ có trách nhiệm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ an
toàn thông tin mạng cho cán bộ, công chức, viên chức.
Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tổ chức đào tạo, phổ biến kiến thức về
an toàn thông tin mạng trong cơ sở giáo dục đại học.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng,
phổ biến kiến thức về an toàn thông tin mạng trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm quản lý an toàn thông tin mạng của ngành mình và phối hợp với Bộ Thông
tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng ở địa phương.
6.2 Không gian mạng và một số hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng
6.2.1 Không gian mạng và nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng
6.2.1.1 Một số nhận thức chung về không gian mạng
Khái niệm không gian mạng: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng
máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu;
là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và
thời gian” (Theo Điều 2 - Luật An ninh mạng).
Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất,
truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng viễn
thông, mạng Internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu (Theo Điều 4 - Luật công
nghệ thông tin).
Mạng viễn thông là tập hợp thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng
đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông
(Theo Điều 3 - Luật viễn thông).
Internet là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng giao thức Internet và tài
nguyên Internet để cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng
dịch vụ viễn thông (Theo Điều 3 - Luật viễn thông).
Mạng máy tính là một nhóm các máy tính và thiết bị ngoại vi kết nối với nhau
thông qua các phương tiện truyền dẫn như cáp xoắn, cáp quang, sóng điện từ, tia
hồng ngoại,… để chia sẻ dữ liệu cho nhau.
Cơ sở dữ liệu là một tập hợp các dữ liệu có tổ chức, được lưu trữ và truy cập
điện tử từ hệ thống máy tính.
Mạng xã hội là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng
mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin
với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (frorum),
trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ
tương tự khác (Theo Điều 3 - Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ).

110
Vì thế, dưới góc độ quản lý xã hội thì mạng xã hội là một khái niệm dùng để
chỉ xã hội ảo được tạo lập dựa trên sự kết nối giữa người với người trên internet, với
những mối quan hệ mô phỏng các mối quan hệ trong xã hội thực không phân biệt
thời gian, không gian và có khả năng lan rộng nhanh chóng dựa trên sự tương tác
giữa các thành viên trong cộng đồng.
6.2.1.2 Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng
- Bảo vệ an ninh mạng:
An ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây
phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Theo Điều 2 - Luật An ninh mạng).
An ninh thông tin là việc bảo đảm thông tin trên mạng không gây phương hại đến
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bí mật nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức và cá nhân (Theo Điều 3 - Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ).
Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm
phạm an ninh mạng (Theo Điều 2 - Luật An ninh mạng).
Huy động, phát huy hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để bảo vệ an
ninh mạng quốc gia; đấu tranh hiệu quả với âm mưu, hoạt động sử dụng không gian
mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Kiện toàn tổ chức, tăng cường nhân lực và trang thiết bị cho các lực lượng
chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; hình thành, phát triển
đội ngũ chuyên gia an ninh mạng giỏi, đủ năng lực đối hó với các thách thức, nguy
cơ đe dọa an ninh mạng quốc gia. Xây dựng mô hình đạo tào tiêu chuẩn, chính quy
và có chính sách phù hợp để phát triển đội ngũ chuyên gia, đáp ứng nhu cầu vừa
cấp bách, vừa lâu dài cho lĩnh vực an ninh mạng.
Bảo vệ toàn diện các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hình
thành, phát triển công nghiệp an ninh mạng của Việt Nam, có nguồn lực chất lượng
cao, có khả năng tự sản xuất các thiết bị, giải pháp bảo vệ an ninh mạng, không bị lệ
thuộc vào sản phẩm nước ngoài. Khuyến khích xây dựng hệ sinh thái ứng dụng
internet Việt Nam thay thế cho sản phẩm của nước ngoài.
- Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng:
Một là, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hai là, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân
tộc; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
111
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoạt động trên không gian mạng.
Bốn là, chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, làm thất bại
mọi hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sẵn sàng ngăn
chặn các nguy cơ đe dọa an ninh mạng.
Năm là, triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không
gian mạng quốc gia; áp dụng các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về
an ninh quốc gia.
Sáu là, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được thẩm định,
chứng nhận đủ điều kiện về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành, sử dụng;
thường xuyên kiểm tra, giám sát về an ninh mạng trong quá trình sử dụng và kịp
thời ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng.
Bảy là, mọi hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng phải được xử lý kịp
thời, nghiêm minh.
6.2.1.3 Các hành vi vi phạm quy định pháp luật trên không gian mạng
Theo Điều 8, Luật an ninh mạng, các hành vi sau đây bị nghiêm cấm về an
ninh mạng:
Một là, sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục,
mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới
tính, phân biệt chủng tộc; Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân,
gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ
quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán
người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Xúi giục, lôi kéo, kích động người
khác phạm tội.
Các hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện
tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội bao gồm: Đăng
tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an
ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế; có nội dung bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại
cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước
hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác; Hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật
công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư
trên không gian mạng; Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng
112
Internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền Internet; vi phạm bản quyền và
sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ
chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép
thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử
dụng trái phép các phương tiện thanh toán; Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng
hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; Hướng dẫn người
khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Hai là, thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm
mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn,
ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Ba là, sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có
hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng
máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện
điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông,
mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển
thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy
tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu,
phương tiện điện tử của người khác.
Bốn là, chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng;
tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
Năm là, lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm
chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.
Sáu là, các hành vi khác vi phạm quy định của Luật an nin mạng.
6.2.2 Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trên không gian mạng
6.2.2.1 Phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng
Quy định pháp luật về bảo đảm an ninh, an toàn trên không gian mạng thể hiện
ở các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành như Luật công nghệ thông
tin (năm 2006), Luật viễn thông (năm 2009), Luật an toàn thông tin mạng (năm
2015), Luật an ninh mạng (năm 2018), Bộ luật hình sự năm 2015 liên quan đến công
nghệ thông tin, mạng viễn thông, Luật xử lý vi phạm hành chính (năm 2012).
Các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Bộ Thông tin và truyền thông
ban hành như Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2013 của Chính
phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị
định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ về Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện,
công nghệ thông tin và giao dịch điện tử; Thông tư số 09/2014/TT-BTTTT ngày 19
tháng 08 năm 2014 về Quy định chi tiết về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng
thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội.

113
Từ các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có thể rút ra một số nội dung pháp
luật về xử lý vi phạm pháp luật trên không gian mạng như sau:
Xử lý vi phạm pháp luật trên không gian mạng: Người nào có hành vi vi phạm
quy định của pháp luật về an toàn thông tin và an ninh mạng thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Nội dung phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng:
Luật an ninh mạng quy định 8 nội dung, đó là: Phòng ngừa, xử lý thông tin
trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công
cộng, làm nhục, vu khống, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián
điệp mạng; bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng;
phòng, chống hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện
điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống
nguy hiểm về an ninh mạng
6.2.2.2 Quy định của pháp luật về xự phạt hành vi vi phạm pháp luật trên không
gian mạng
* Quy định xử lý trách nhiệm hành chính đối với những hành vi vi phạm pháp
luật trên không gian mạng:
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ về
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số
vô tuyến điện, cụ thể như sau:
- Đối hành vi bẻ khóa, trộm cắp, sử dụng mật khẩu, khóa mật mã và thông tin
của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng sẽ bị phạt phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng (Theo Khoản 1, Điều 80).
Đối với hành vi truy cập trái phép vào mạng hoặc thiết bị số của người khác để
chiếm quyền điều khiển thiết bị số, hoặc xâm nhập, sửa đổi, xóa bỏ nội dung thông
tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng, hoặc làm mất an toàn, bí mật
thông tin của tổ chức, cá nhân khác được trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường
mạng thì sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (Theo Khoản 2,
Điều 80).
- Đối với hành vi lợi dụng các phương tiện giao tiếp trực tuyến trên mạng
Internet, mạng viễn thông nhằm chiếm đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân có trị giá
dưới 2.000.000 đồng thì bị Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
(Theo Khoản 1, Điều 81).
- Đối với một trong các hành vi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của tổ
chức, cá nhân hoặc sử dụng trái phép thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của tổ
chức, cá nhân để trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại tài sản hoặc để
114
thanh toán hàng hóa, dịch vụ có trị giá dưới 2.000.000 đồng thì bị Phạt tiền từ
70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng (Theo Khoản 1, Điều 81).
- Đối với vi phạm quy định về thu thập, sử dụng thông tin cá nhân sẽ bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu có hành vi thu thập thông tin cá
nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của
việc thu thập và sử dụng thông tin đó; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000
đồng đối với hành vi cung cấp hoặc chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu
thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của chủ thông tin cá
nhân (Theo Khoản 1,2, Điều 84).
- Đối với hành vi gửi hoặc phát tán thư điện tử rác, tin nhắn rác (thư điện tử,
tin nhắn được gửi đến người nhận mà người nhận đó không mong muốn hoặc không
có trách nhiệm phải tiếp nhận theo quy định của pháp luật), phần mềm độc hại thì sẽ
bị phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng, và bị phạt tiền từ 80.000.000
đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo bằng thư điện tử hoặc quảng
cáo bằng tin nhắn hoặc cung cấp dịch vụ nhắn tin qua mạng Internet nhưng không có
hệ thống tiếp nhận, xử lý yêu cầu từ chối của người nhận (Theo Khoản 6,7, Điều 94).
- Đối với vi phạm quy định về cung cấp dịch vụ thư điện tử, tin nhắn quảng
cáo, dịch vụ nội dung qua tin nhắn sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000 nếu không có trang thông tin điện tử sử dụng tên miền quốc gia Việt
Nam “.vn” khi cung cấp dịch vụ gửi thư điện tử quảng cáo hoặc dịch vụ nhắn tin
qua mạng internet hoặc dịch vụ nội dung qua tin nhắn; bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 70.000.000 đồng nếu cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ bằng thư
điện tử mà máy chủ gửi thư điện tử không đặt tại Việt Nam (Theo Khoản 1,3, Điều
95).
- Đối với vi phạm quy định về trang thông tin điện tử, sẽ bị phạt tiền từ
5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp không đầy đủ hoặc
không chính xác thông tin về tên của tổ chức quản lý trang thông tin điện tử và tên
người chịu trách nhiệm quản lý nội dung trên trang chủ của trang thông tin điện tử;
phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu đối với hành vi tuyên truyền,
kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại
thuần phong, mỹ tục của dân tộc; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
đối với hành vi đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của
tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân, hoặc đăng, phát, sử dụng hình ảnh bản
đồ Việt Nam không thể hiện đầy đủ hoặc thể hiện sai chủ quyền quốc gia, hoặc
quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm, hoặc giả mạo trang
thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân khác, hoặc đăng, phát các tác phẩm báo chí,
văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ hoặc không được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành
hoặc tịch thu (Theo Khoản 1,2,3, Điều 99).
- Đối với vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thiết
lập mạng xã hội, Điều 100 quy định:
Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu sử dụng thông tin cá
nhân của người khác trên mạng xã hội nhưng chưa được sự đồng ý của cá nhân;

115
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau: chủ động lưu trữ, truyền đưa thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu
khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
chủ động cung cấp thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy,
không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc; chủ động cung cấp thông tin
miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; chủ động lưu trữ,
truyền đưa thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội
ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc; chủ động lưu trữ, truyền đưa nội
dung thông tin không phù hợp với lợi ích đất nước; chủ động đăng, phát, truyền
đưa, sử dụng hình ảnh bản đồ Việt Nam không thể hiện đầy đủ hoặc thể hiện sai chủ
quyền quốc gia; chủ động đăng, phát các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật,
xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc
không được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; chủ
động quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm; không thực hiện
việc ngăn chặn, loại bỏ thông tin vi phạm theo quy định pháp luật.
- Đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi:
Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; cung cấp, chia
sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với
thuần phong, mỹ tục của dân tộc; cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành
động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây
hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc
phục vụ đánh bạc; cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất
bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa
được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; quảng cáo,
tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm; cung cấp, chia sẻ hình
ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền
quốc gia; cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm thì
sẽ bị Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (Theo Khoản 1, Điều 101).
- Đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời
tư của cá nhân và bí mật khác trên mạng xã hội mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng (Theo
Khoản 2, Điều 101)
- Đối với vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy
nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin, Điều 102 quy định:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu có một trong các hành
vi: Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được
sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật; cung cấp, trao đổi, truyền
đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống,
xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác; cung cấp,
trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm quảng cáo, tuyên
truyền hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bị cấm; ngăn chặn trái pháp luật việc
truyền tải thông tin trên mạng, can thiệp, truy nhập, gây nguy hại, xóa, thay đổi, sao
chép và làm sai lệch thông tin trên mạng; không tiến hành theo dõi, giám sát thông
116
tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
không hợp tác, phối hợp điều tra các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong quá
trình truyền đưa hoặc lưu trữ thông tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước,
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự; giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai
sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chiếm đoạt thư,
điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa trên mạng
dưới bất kỳ hình thức nào; cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư, điện báo, telex,
fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa trên mạng; nghe, ghi âm
cuộc đàm thoại trái pháp luật; thu giữ thư, điện báo, điện tín trái pháp luật;
Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi: Không đảm bảo bí mật thông tin riêng chuyển qua mạng viễn thông công cộng
hoặc tiết lộ thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn thông; cung
cấp, trao đổi, truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin, dịch vụ có nội dung đánh bạc
hoặc phục vụ đánh bạc; dâm ô, đồi trụy, mê tín dị đoan, trái đạo đức, thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau: Mua bán hoặc trao đổi trái phép thông tin riêng của người sử dụng dịch vụ
viễn thông; che giấu tên, địa chỉ điện tử của mình hoặc giả mạo tên, địa chỉ điện tử
của tổ chức, cá nhân khác khi gửi thư điện tử, tin nhắn.
Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp,
trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số để tuyên truyền sai trái,
không đúng sự thật về chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam.
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau: Tuyên truyền, kích động bạo lực, truyền bá tư tưởng phản động mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự; cung cấp thông tin, hình ảnh vi phạm chủ quyền
quốc gia; xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân
tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Quy định xử lý trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật
trên không gian mạng:
Bộ luật hình sự quy định mức xử phạt truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
những tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, đặc biệt là tội
phạm liên quan đến an toàn thông tin, an ninh trên không gian mạng như sau:
- Đối với tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật, Điều 285, Bộ luật hình sự quy định
như sau:
Người nào sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm (là chương trình máy tính được mô tả bằng hệ thống ký hiệu, mã hoặc ngôn
ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định) có tính năng tấn công
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái
pháp luật, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

117
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Có tổ
chức; phạm tội 02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ
50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; gây thiệt hại về tài sản từ
100.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: thu
lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng
trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Đối với tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, Điều 286, Bộ luật hình sự quy
định như sau:
Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Thu lợi bất chính từ 50.000.000
đồng đến dưới 200.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng; làm lây nhiễm từ 50 phương tiện điện tử đến dưới 200 phương
tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 50 người sử dụng đến dưới 200 người sử
dụng; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Có tổ
chức; thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; gây thiệt
hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; làm lây nhiễm từ 200
phương tiện điện tử đến dưới 500 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ
200 người sử dụng đến dưới 500 người sử dụng; tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
12 năm: Đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục
vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin
điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống
thông tin điều khiển giao thông; thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; gây
thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên; làm lây nhiễm 500 phương tiện điện tử trở lên
hoặc hệ thống thông tin có từ 500 người sử dụng trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử, Điều 287, Bộ luật hình sự quy định như sau:
118
Người nào tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc
ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm: Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử từ 30 phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong
thời gian 24 giờ; làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72
giờ; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Có
tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; tái phạm nguy
hiểm; thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; gây thiệt
hại từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; làm tê liệt, gián đoạn,
ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ
24 giờ đến dưới 168 giờ hoặc từ 10 lần đến dưới 50 lần trong thời gian 24 giờ; làm
đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 72 giờ đến dưới 168 giờ.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến
12 năm: Đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước, hệ thống thông tin phục vụ
quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin
điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống
thông tin điều khiển giao thông; thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; gây
thiệt hại 1.500.000.000 đồng trở lên; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 168 giờ trở lên hoặc 50 lần
trở lên trong thời gian 24 giờ, làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức 168
giờ trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000
đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông, Điều 288, Bộ luật hình sự quy định như sau:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của Cơ
quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng,
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của
pháp luật; mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông

119
tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn
thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó;
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Có
tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; thu lợi bất chính
200.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên; xâm phạm bí mật
cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm tự sát; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội hoặc quan hệ đối ngoại của Việt Nam; dẫn đến biểu tình.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác, Điều 289, Bộ luật hình sự quy định như sau:
Người nào cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền
quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm quyền
điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử; lấy cắp,
thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ, thì bị phạt
tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
Có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000
đồng; đối với trạm trung chuyển internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền
và hệ thống máy chủ tên miền quốc gia; tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
12 năm: Đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục
vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin
điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống
thông tin điều khiển giao thông; thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; gây
thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, Điều 290, Bộ luật hình sự quy định như sau:
Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
thực hiện một trong những hành vi sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ
ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản,
chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu
120
hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc
thanh toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh
toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch
chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp trái phép dịch
vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm: Có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng
thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng; gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000
đồng; tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến
15 năm: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; số lượng thẻ giả từ
200 thẻ đến dưới 500 thẻ.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến
20 năm: Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại
500.000.000 đồng trở lên; số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Đối với tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép
thông tin về tài khoản ngân hàng, Điều 291, Bộ luật hình sự quy định như sau:
Người nào thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông
tin về tài khoản ngân hàng của người khác với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50
tài khoản hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì
bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm.
Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: Thu
thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản
ngân hàng của người khác với số lượng từ 50 tài khoản đến dưới 200 tài khoản; có
tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Thu
thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản
ngân hàng của người khác với số lượng 200 tài khoản trở lên; thu lợi bất chính
200.000.000 đồng trở lên.
121
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6.2.3 Một số biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng
Với đặc tính không biên giới, không gian mạng có phạm vi ảnh hưởng toàn
cầu và tác động đến toàn thế giới. Những nguy cơ từ không gian mạng gia tăng tỷ lệ
thuận đối với sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong đời sống xã
hội. Vì vậy, đảm bảo an ninh mạng đòi hỏi phải có giải pháp tổng thể, từ việc ban
hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước, sự sáng tạo, tự
chủ trong sản xuất, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ trên không gian mạng bảo đảm
an toàn, an ninh mạng của các doanh nghiệp đến ý thức tham gia xây dựng một
không gian mạng an toàn, lành mạnh của mỗi người dân.
Một là, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn chỉnh hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, doanh nghiệp trong
quản lý phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng.
Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản
hiện có về quản lý Internet, phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng
Internet phù hợp với yêu cầu thực tiễn; tăng cường các chế tài xử lý sai phạm
nghiêm khắc hơn, có tính răn đe cao hơn đối với những hành vi vi phạm pháp luật
và tội phạm trên không gian mạng. Nghiên cứu triển khai thực hiện có hiệu quả
Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng và xây dựng các văn bản hướng
dẫn thực hiện Luật phù hợp với thực tiễn quản lý. Xây dựng chính sách quản lý
thông tin trên mạng theo sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là mạng viễn thông di
động khi số lượng người sử dụng ngày càng tăng, tính chất thông tin ngày càng đa
dạng, phức tạp. Xây dựng cơ chế ưu đãi đặc thù và chính sách phù hợp khuyến
khích, thúc đẩy phát triển các dịch vụ Internet hấp dẫn của các doanh nghiệp Việt
Nam, tạo sức cạnh tranh với dịch vụ của doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng chính
sách khuyến khích sự hợp tác, hỗ trợ hợp pháp của các tổ chức, doanh nghiệp trong
và ngoài nước với các cơ quan chức năng trong phòng, chống vi phạm pháp luật
trên mạng không gian mạng.
Các cơ quan chuyên trách an ninh mạng (Cục An ninh mạng và phòng, chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an; Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian
mạng, Bộ Quốc phòng; lực lượng bảo vệ an ninh mạng tại bộ, ngành, ủy ban nhân
dân tỉnh, cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia) cung cấp đầy đủ thông tin về xu hướng phát triển, các nguy cơ từ không
gian mạng; các biện pháp phòng, chống tấn công trên không gian mạng.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tăng cường cảnh
báo khả năng mất an ninh mạng do đơn vị mình cung cấp và hướng dẫn biện pháp
phòng ngừa; xây dựng các phương án xử lý với sự cố an ninh mạng; phối hợp, tạo
điều kiện cho lực lượng chuyên trách trong hoạt động bảo vệ an ninh mạng. Cùng
với đó, cần phải tạo ra nhiều dịch vụ hấp dẫn, lành mạnh về thông tin và giải trí để
122
thu hút người sử dụng trong nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của thông tin xấu
độc, với phương châm “lấy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”
từ các hoạt động trên mạng xã hội.
Hai là, tăng cường năng lực cho các lực lượng tham gia quản lý nội dung
trên Internet, phòng, chống vi phạm pháp luật trên mạng Internet.
Tăng cường năng lực cho các lực lượng tham gia quản lý nội dung trên
Internet, phòng, chống vi phạm pháp luật trên mạng internet từ Trung ương xuống
địa phương đủ về số lượng và bảo đảm trình độ chuyên môn nghiệp vụ; lựa chọn
người có lý luận, chuyên môn, kỹ thuật cao để theo dõi hoạt động phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm trên mạng nternet. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
tham gia quản lý nội dung trên internet, phòng, chống vi phạm pháp luật trên mạng
Internet chuyên nghiệp, hiệu quả, liêm chính, tăng tính chủ động trong thực thi
nhiệm vụ, nắm chắc tình hình để tham mưu, giải quyết công việc đúng quy định
pháp luật; chấp hành nghiêm mệnh lệnh công tác; bám sát các quy định về hoạt
động nghiệp vụ, công tác thanh tra, điều tra; xây dựng, áp dụng và vận hành các hộ
thống quản lý chất lượng theo đúng tiêu chuẩn ISO. Hình thành bộ máy tiếp nhận,
xử lý các phản ánh về thông tin sai phạm trên mạng Internet từ cộng đồng.
Ba là, nâng cao năng lực kỹ thuật, nghiệp vụ để quản lý nội dung trên mạng
xã hội, phòng, chống vi phạm quy định của pháp luật về an ninh mạng.
Xây dựng hệ thống kiểm duyệt và triển khai phần mềm chặn lọc, phát hiện,
thu thập, xử lý thông tin sai phạm trên môi trường mạng; triển khai hệ thống cảnh
báo, cổng kiểm soát quốc gia chặn lọc các truy cập thông tin sai phạm từ người
dùng; xây dựng phần mềm bảo vệ an ninh máy tính cá nhân khi truy cập Internet
cho phép bảo vệ người sử dụng mạng Internet tránh được các sự cố an toàn thông
tin khi cố tình hoặc truy cập nhầm vào các trang thông tin có nội dung độc hại, nguy
hiểm và sai trái. Đầu tư, xây dựng hệ thống thiết bị có khả năng phân tích hành vi,
phương thức, thủ đoạn mà tội phạm mạng sử dụng để thực hiện các hành vi vi
phạm. Nâng cao năng lực phát hiện, đánh giá, thẩm định nội dung thông tin độc hại
trên Internet; thiết lập cơ chế thẩm định nội dung thông tin sai phạm một cách mềm
dẻo, hiệu quả. Hình thành mạng lưới cộng tác viên và mạng lưới phản bác thông tin
sai trái, thù địch trên môi trường mạng. Thường xuyên đôn đốc, yêu cầu các doanh
nghiệp viễn thông, doanh nghiệp Internet, đặc biệt là các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ viễn thông di động kịp thời có biện pháp kỹ thuật xử lý các nguồn phát tán
thông tin sai phạm, chủ động rà soát, có phương án xử lý đối với hành vi lợi dụng
hệ thống thông tin di động để phát tán tin nhắn rác, thông tin chống phá Đảng, Nhà
nước và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Khuyến khích liên kết, tạo cơ hội hợp
tác về an ninh mạng giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, trong nước và
ngoài nước.
Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức người dân trong
phòng, chống vi phạm pháp luật trên mạng Internet.

123
Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm nâng cao dân trí một
cách toàn diện, để mỗi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên có ý
thức tự bảo vệ mình và trở thành bộ lọc thông tin, hướng dẫn những người xung
quanh nhận biết, sàng lọc các thông tin xấu, thông tin độc hại. Nhóm giải pháp này
mang tính tuyên truyền và giáo dục, đòi hỏi phải xây dựng một đề án thông tin
riêng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đời sống, trình độ nhận thức và điều kiện
thực tiễn của Việt Nam; đặc biệt tránh kiểu lý luận mang tính giáo điều, xa rời thực
tiễn cuộc sống. Các cơ quan báo chí đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về
nguyên nhân, sự nguy hiểm, tác hại và ảnh hưởng do vi phạm pháp luật và tội phạm
trên mạng Internet gây ra đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; nâng cao
nhận thức, trách nhiệm trong phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên
mạng Internet cho toàn dân, chủ động đấu tranh chống lại các thông tin xuyên tạc,
chống phá từ các thế lực thù địch, phản động; thường xuyên cập nhật, đưa tin chính
xác, phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế -
xã hội; phản bác hiệu quả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước; qua đó làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng
cao nhận thức, tăng cường sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân. Làm tốt việc tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng như
báo chí, kết hợp với truyền thông xã hội, với gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn
thể nhằm hướng dẫn, nâng cao ý thức phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội
phạm trên mạng Internet, ý thức sử dụng thông tin trên Internet của người dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ để tự mình sàng lọc những nội dung xấu, khai thác những thông tin
có lợi phục vụ nhu cầu học tập, thông tin giải trí lành mạnh.
6.2.4 Chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong thực hiện phòng, chống vi phạm
pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng là một nội dung của bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân, trong đó Bộ Công an chịu trách nhiệm chính.
Quản lý nhà nước về an toàn thông tin và an ninh mạng được thực hiện thống
nhất trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương về phòng, chống vi phạm
pháp luật về an toàn thông tin và an ninh trên mạng xã hội bằng các nghị quyết của
Đảng trong các kỳ Đại hội và hội nghị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
ban hành các pháp lệnh, nghị quyết về công tác an toàn thông tin và an ninh mạng.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phát triển ngành công nghệ thông
tin, viễn thông và bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an
ninh mạng và có nhiệm vụ: Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật về an ninh mạng; xây
124
dựng, đề xuất chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch và phương án bảo vệ an
ninh mạng; phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng xâm
phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và phòng, chống tội
phạm mạng; bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng; xây dựng cơ chế xác
thực thông tin đăng ký tài khoản số; cảnh báo, chia sẻ thông tin an ninh mạng, nguy
cơ đe dọa an ninh mạng; tham mưu, đề xuất chính phủ, thủ tướng chính phủ xem xét,
quyết định việc phân công, phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh mạng,
phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng trong trường hợp nội dung quản
lý nhà nước liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều bộ, ngành; tổ chức diễn tập
phòng, chống tấn công mạng; diễn tập ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối
với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; kiểm tra, thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng.
Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về an ninh mạng trong phạm vi quản lý và có nhiệm vụ: Ban hành hoặc trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm
pháp luật về an ninh mạng trong phạm vi quản lý; Xây dựng, đề xuất chiến lược,
chủ trương, chính sách, kế hoạch và phương án bảo vệ an ninh mạng trong phạm vi
quản lý; Phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động sử dụng không gian mạng xâm
phạm an ninh quốc gia trong phạm vi quản lý; Phối hợp với Bộ Công an tổ chức
diễn tập phòng, chống tấn công mạng, diễn tập ứng phó, khắc phục sự cố an ninh
mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, triển khai thực hiện
công tác bảo vệ an ninh mạng; Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng trong phạm vi quản lý.
Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm: Ban hành hoặc trình cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông
tin; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ trong hoạt động bảo đảm an toàn thông tin; phối hợp với Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng trong bảo vệ an ninh mạng, chỉ đạo việc phối hợp hoạt động của
các đơn vị thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin của các bộ, ngành, địa
phương và doanh nghiệp; chủ trì, phối hợp với bộ công an hướng dẫn các doanh
nghiệp viễn thông, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet, tổ chức, doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ thông tin công cộng trên mạng bố trí mặt bằng, cổng kết nối và
các biện pháp kỹ thuật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin và
an ninh thông tin; phối hợp với các cơ quan và doanh nghiệp tổ chức tuyên truyền,
phản bác thông tin có nội dung vi phạm quy định của luật an ninh mạng; tăng cường
quản lý việc đăng ký, lưu trữ, sử dụng thông tin cá nhân của người đưa thông tin
công cộng lên mạng xã hội và người sử dụng các dịch vụ khác trên Internet.
Ban Cơ yếu Chính phủ có trách nhiệm: Tham mưu, đề xuất Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về mật mã để bảo vệ an
ninh mạng thuộc phạm vi Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý; bảo vệ an ninh mạng đối
với hệ thống thông tin cơ yếu thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ và sản phẩm mật mã do
125
Ban Cơ yếu Chính phủ cung cấp; thống nhất quản lý nghiên cứu khoa học, công
nghệ mật mã; sản xuất, sử dụng, cung cấp sản phẩm mật mã để bảo vệ thông tin
thuộc bí mật nhà nước được lưu trữ, trao đổi trên không gian mạng.
Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ an ninh mạng đối với thông tin, hệ
thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý
nhà nước về an ninh mạng của Bộ, ngành, địa phương.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng có trách nhiệm: Cảnh
báo khả năng mất an ninh mạng trong việc sử dụng dịch vụ trên không gian mạng
do mình cung cấp và hướng dẫn biện pháp phòng ngừa; xây dựng phương án, giải
pháp phản ứng nhanh với sự cố an ninh mạng, xử lý ngay điểm yếu, lỗ hổng bảo
mật, mã độc, tấn công mạng, xâm nhập mạng và rủi ro an ninh khác; khi xảy ra sự
cố an ninh mạng, ngay lập tức triển khai phương án khẩn cấp, biện pháp ứng phó
thích hợp, đồng thời báo cáo với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng theo
quy định của luật này; áp dụng các giải pháp kỹ thuật và các biện pháp cần thiết
khác nhằm bảo đảm an ninh cho quá trình thu thập thông tin, ngăn chặn nguy cơ lộ,
lọt, tổn hại hoặc mất dữ liệu; trường hợp xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra sự cố lộ, lọt,
tổn hại hoặc mất dữ liệu thông tin người sử dụng, cần lập tức đưa ra giải pháp ứng
phó, đồng thời thông báo đến người sử dụng và báo cáo với lực lượng chuyên trách
bảo vệ an ninh mạng theo quy định của pháp luật; phối hợp, tạo điều kiện cho lực
lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng trong bảo vệ an ninh mạng.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng có trách nhiệm: Tuân thủ
quy định của pháp luật về an ninh mạng; kịp thời cung cấp thông tin liên quan đến
bảo vệ an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an ninh mạng, hành vi xâm phạm an ninh
mạng cho cơ quan có thẩm quyền, lực lượng bảo vệ an ninh mạng; thực hiện yêu
cầu và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ an ninh mạng, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp
bảo vệ an ninh mạng.
6.2.5 Phòng chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng trong nhà trường
6.2.5.1 Trách nhiệm của Nhà trường
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho sinh viên
về an toàn thông tin và an ninh mạng với sự phù hợp về nội dung và linh hoạt đa
dạng các hình thức nhằm giúp cho sinh viên nhận thức rõ nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách trong phòng ngừa đấu tranh ngăn chặn hành vi vi phạm trên mạng Internet
trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu đưa nội dung giáo dục bảo đảm an ninh không gian mạng vào
chương trình dạy học bắt buộc và chính khóa phù hợp với từng đối tượng và nội
dung môn học.
Triển khai các biện pháp nhằm hướng dẫn, tạo điều kiện, định hướng học sinh,
sinh viên sử dụng Internet vào các hoạt động có ích, thiết thực trong học tập, cuộc
sống của bản thân và gia đình.

126
Triển khai các biện pháp cảnh báo, giám sát học sinh, sinh viên để tránh khỏi
các tác động tiêu cực của nội dung thông tin, ứng dụng có hại trên internet.
6.2.5.2 Trách nhiệm của sinh viên
Một là, mỗi sinh viên cần nâng cao nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tính hai
mặt của mạng xã hội; nghiên cứu, hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và
những hành vi bị cấm khi tham gia hoạt động trên không gian mạng.
Hai là, cần tự trau dồi kỹ năng nhận diện, ý thức phòng tránh, tự vệ khi tham
gia mạng xã hội.
Mỗi sinh viên cần nắm chắc các thủ đoạn tấn công mạng như đánh sập các
website; cài cắm vào máy tính cá nhân hoặc lấy tài khoản và mật khẩu; đánh cắp dữ
liệu cá nhân (hình ảnh, video); tấn công bằng mã độc (theo tệp đính kèm trong
email hoặc ẩn trong quảng cáo Skype); tấn công ẩn danh bằng những phần mềm độc
hại (phần mềm diệt virus, các trình duyệt); tấn công qua USB, đĩa CD…
Nghiên cứu kỹ trước khi like hoặc chia sẻ các file, các bài viết hoặc các đường
link; cảnh giác với trang web lạ (web đen), E-mail chưa rõ danh tính và đường dẫn
đáng nghi ngờ; tuyệt đối không a dua, hiếu kỳ, hoặc tham tiền bạc cùng với những lời
kích động, xúi giục của các đối tượng xấu. Kịp thời cung cấp thông tin, thực hiện yêu
cầu và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có trách nhiệm.
Sử dụng tốt các biện pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin như tạo thói
quen quét virus; thực hiện sao lưu dự phòng trên ổ cứng ngoài, trên mạng nội bộ
hoặc trên các dịch vụ lưu trữ đám mây; kiểm tra lộ lọt thông tin tài khoản cá nhân
qua Trung tâm xử lý tấn công mạng Việt Nam. Khi phát hiện bị tấn công mạng,
nhanh chóng ngắt kết nối mạng; sử dụng các công cụ giải mã độc; báo cho người có
trách nhiệm qua đường dây nóng.
Ba là, nâng cao trách nhiệm của sinh viên trong chủ động nhận diện, đấu
tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội nhằm chống
phá cách mạng Việt Nam.
Mỗi sinh viên cần nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn tán phát thông tin sai trái,
phản động của các cá nhân, tổ chức có ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước ta để không
bị chúng móc nối, kích động, lôi kéo tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật.
Khi dùng mạng xã hội, phải nâng cao ý thức cảnh giác và kỹ năng tự bảo vệ bản
thân trước những mặt trái, tránh tình trạng vô tình tiếp tay cho các hoạt động chống
phá, các hành vi tiêu cực, phản cảm, hành xử thiếu văn hóa trên mạng xã hội. Đặc
biệt, mọi người cần hết sức cảnh giác khi tiếp cận những thông tin được đăng tải từ
những trang không chính thống, giả mạo, có nguồn gốc từ nước ngoài, hoặc do các
cá nhân, phần tử xấu, tổ chức phản động có hoạt động chống phá Việt Nam lập ra.
Khi tiếp cận những thông tin tiêu cực trên mạng xã hội, hãy chủ động tìm
kiếm những trang báo chí, thông tin chính thống để so sánh, đối chiếu. Nếu không
xác định được nguồn gốc, động cơ, mục đích của thông tin và người chia sẻ thông
tin, cần bình tĩnh, thận trọng không bình luận, tán phát thông tin. Ngoài ra, cần xây
127
dựng cho bản thân thái độ tích cực luôn tìm kiếm, chia sẻ những thông tin hay, bổ
ích, hạn chế tìm đọc các thông tin tiêu cực, xấu độc, không rõ nguồn gốc. Mỗi sinh
viên cần biết cách tận dụng, sử dụng mạng xã hội một cách đúng đắn và hiệu quả,
biến mạng xã hội thành một phương tiện, một kênh hữu ích để mở mang kiến thức,
cùng nhau xây dựng môi trường văn hóa mạng xã hội lành mạnh, tránh bị các thông
tin ảo chi phối tác động, góp phần phòng chống, ngăn chặn những tư tưởng, quan
điểm sai trái, thù địch một cách có hiệu quả.
Năm là, tích cực tuyên truyền trong gia đình, người thân, bạn bè và nhân dân
nơi cư trú về mạng xã hội và quy định của pháp luật về an toàn, an ninh thông tin
trên mạng xã hội
Trên cơ sở hiểu biết của mình, mỗi sinh viên cần tích cực tuyên truyền trong
gia đình, người thân, bạn bè và nhân dân nơi cư trú về mạng xã hội và quy định của
pháp luật về an toàn, an ninh thông tin trên mạng xã hội để mọi người có nhận thức
đầy đủ và hành vi đúng đắn khi tham gia các hoạt động trên mạng xã hội, đồng thời
không thực hiện các hành vi vi phạm liên quan đến an ninh mạng, góp phần xây
dựng “không gian mạng lành mạnh từ cơ sở” và nâng cao cảnh giác trước những âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực và bọn tội phạm trên mạng xã hội nhằm
xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, ngày nay thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa tác
động, chi phối mạnh mẽ đến đời sống con người, đặc biệt là những thông tin thuộc
danh mục bí mật nhà nước, bí mật quân sự, bí mật kinh tế... Thúc đẩy nhu cầu tìm
kiếm, thu thập thông tin và biến thông tin thành một dạng hàng hóa đặc biệt hình
thành mối quan hệ trao đổi, buôn bán giữa chủ thể có thông tin và chủ thể cần thông
tin. Từ đó, xuất hiện các vi phạm pháp luật trên không gian mạng liên quan đến
thông tin. Do vậy, phòng chống vi phạm pháp luật về trên không gian mạng được
các nước đặc biệt quan tâm.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/chị hãy tìm hiểu thực trạng an toàn thông tin ở nước ta hiện nay?
2. Anh/chị hãy trình bày những dẫn chứng, ví dụ minh họa về các hành vi vi
phạm pháp luật trên không gian mạng ở nước ta hiện nay?
3. Anh/chị trình bày các biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trên không
gian mạng?

128
BÀI 7
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC MỐI ĐE DỌA
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM

Tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh mối đe dọa về quân sự, là sự tồn tại và
xuất hiện nhiều yếu tố mới đe dọa đến an ninh con người và an ninh quốc gia như:
khủng bố, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em,
di cư xuyên biên giới, tội phạm mạng... Trong bối cảnh đó, những nhận thức về an
ninh cũng thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh những quan niệm đã và đang được sử
dụng như: an ninh tập thể, an ninh chung, an ninh toàn diện, xuất hiện an ninh phi
truyền thống. Vì thế, đối phó với những thách thức từ an ninh phi truyền thống hiện
nay vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc,
vừa là điều kiện quan trọng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị
và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
7.1 Những vấn đề cơ bản về an ninh phi truyền thống
7.1.1 Khái niệm an ninh truyền thống và phi truyền thống
7.1.1.1 An ninh truyền thống
An ninh truyền thống là khái niệm đã có từ rất lâu, đồng nghĩa với khái niệm
an ninh quốc gia, liên quan đến chính trị, quyền lực, quân sự, chiến tranh.
Nội dung cơ bản của an ninh quốc gia chính là bảo vệ lợi ích của quốc gia,
loại trừ những mối uy hiếp đối với lợi ích cơ bản của quốc gia.
Mục tiêu của an ninh quốc gia là củng cố nền tảng vững chắc bên trong, phòng
ngừa sự tiến công xâm phạm từ bên ngoài, bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh
quốc gia.
Những thách thức, nguy cơ đối với an ninh truyền thống là nguy cơ xâm phạm
chủ quyền quốc gia, xâm phạm biên giới đất liền, biển đảo, vùng trời của Tổ quốc,
nguy cơ khủng hoảng kinh tế xã hội, nguy cơ tham nhũng, lãng phí, nguy cơ suy
thoái về chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên
và nhân dân.
Phương hướng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh truyền thống trong giai đoạn hiện nay
là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi
mới, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; giữ vững thế chủ động tiến công và tích cực
phòng ngừa trong đấu tranh chống các thế lực thù định, các loại tội phạm, không để
bị động bất ngờ.
129
7.1.1.2 An ninh phi truyền thống
Thuật ngữ an ninh phi truyền thống bắt đầu được nói đến vào những năm 80
của thế kỷ XX, sử dụng nhiều trong thập niên đầu thế kỷ XXI, an ninh phi truyền
thống trở thành một thuật ngữ phổ biến trong các hội nghị, diễn đàn khu vực, quốc
tế, hợp tác song phương, đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức cũng như các
chủ thể khác trong quan hệ quốc tế đương đại. Cho đến nay có nhiều quan điểm
khác nhau về an ninh phi truyền, nhưng khái quát nhất có thể hiểu:
An ninh phi truyền thống là một loại hình an ninh xuyên quốc gia do những
yếu tố phi chính trị và phi quân sự gây ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định,
phát triển về an ninh của mỗi nước, cả khu vực và toàn cầu1.
An ninh phi truyền thống có thể hiểu là một loại hình an ninh xuyên quốc gia,
do các yếu tố phi chính trị, phi quân sự gây ra. Đó là những nguy cơ an ninh mới
như khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố,
di cư bất hợp pháp, dịch bệnh… có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển
của mỗi quốc gia, của khu vực và toàn thế giới.
Đối tượng tác động của an ninh phi truyền thống là thế giới, quốc gia, con
người, rộng hơn đối tượng tác động của an ninh truyền thống chủ yếu là phạm vi
quốc gia. Chính vì vậy, giải quyết các nội dung về an ninh phi truyền thống phải là
nhiệm vụ mang tính toàn cầu. Kinh tế ngày càng phát triển, ngày càng sử dụng
nhiều tài nguyên làm cạn kiệt tài nguyên không kịp tái sinh là nguyên nhân dẫn đến
những tác hại về môi trường
Đối với nước ta, việc phối hợp quốc tế để giải quyết một số vấn đề về an ninh
phi truyền thống đã được Đảng, nhà nước hết sức quan tâm và thực hiện có hiệu quả.
Trong phạm vi quốc gia, Đảng ta đã ra nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3 tháng 6
năm 2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường, đây chính là một động thái thiết thực nhất, đối với việc xử lý
các vấn đề thuộc an ninh phi truyền thống. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ “sẵn sàng
ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống”
7.1.1.3 Một số đặc điểm chủ yếu của an ninh phi truyền thống
Dù còn nhiều quan niệm rất khác nhau, song có thể hiểu một số đặc điểm chủ
yếu của an ninh phi truyền thống như sau:
- Các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn ra ảnh hưởng trên phạm vi khu vực
hoặc toàn cầu, mang tính xuyên quốc gia. Nó có thể phát sinh từ một quốc gia này
nhưng có khả năng lan tỏa với tốc độ nhanh, phạm vi rộng đến quốc gia khác như biến
đổi khí hậu, tội phạm mạng, dịch bệnh lây lan nhanh ở người, gia súc và cây trồng.
- An ninh phi truyền thống thường do các tác nhân tự nhiên hoặc do các tổ
chức ngoài nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân tiến hành; còn an ninh truyền thống
là xung đột giữa quân đội các nhà nước.

1
Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.15
130
- An ninh phi truyền thống uy hiếp trực tiếp đến cá nhân con người hoặc cộng
đồng, rồi quốc gia - dân tộc; còn an ninh truyền thống uy hiếp trực tiếp đến chủ
quyền lãnh thổ quốc gia - dân tộc, uy hiếp an ninh quốc gia.
- An ninh phi truyền thống có cả những vấn đề mang tính phi bạo lực về kinh
tế, văn hóa, môi trường, an ninh mạng, dịch bệnh... và những vấn đề mang tính bạo
lực, nhưng đó là bạo lực phi quân đội như: Khủng bố, tội phạm có tổ chức.
- Giải quyết vấn đề an ninh phi truyền thống cần nhấn mạnh đến hợp tác, sử
dụng biện pháp ngoại giao, kể cả ngoại giao giữa quân đội các nước. Còn giải quyết
vấn đề an ninh truyền thống thường lấy biện pháp vũ trang - quân sự là chính, còn
ngoại giao là hỗ trợ.
- Về mặt thời gian, an ninh phi truyền thống xuất hiện muộn hơn an ninh
truyền thống. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền
thống đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử như: Dịch bệnh, khan hiếm lương thực,
khủng bố,.. nhưng do diễn ra ở phạm vi nhỏ hẹp, quy mô chưa lớn, truyền thông
chưa phát triển hoặc vấn đề quyền con người chưa được quan tâm, nên ít hoặc
không được nhìn nhận một cách đầy đủ. Còn ngày nay, do tác động của toàn cầu
hóa, mặt trái của sự phát triển khoa học - công nghệ, sự mở rộng các phương tiện
truyền thông đa phương tiện,.. các vấn đề an ninh phi truyền thống có điều kiện phát
tác nhanh, lan tỏa rộng, ảnh hưởng lớn, trở thành mối quan tâm toàn nhân loại.
- An ninh phi truyền thống hủy hoại an ninh quốc gia dần dần và lâu dài, vì nó
tác động đến các yếu tố mang tính hạt nhân hoặc bệ đỡ cho ổn định và phát triển cá
nhân con người, cộng đồng xã hội, hệ thống thể chế, hạ tầng kỹ thuật chiến lược và
môi trường sống.
- An ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống là hai mặt của khái niệm
an ninh toàn diện. Vì vậy, an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống cùng
tác động đến xây dựng chiến lược an ninh quốc gia,... bảo đảm ổn định và phát triển
của quốc gia.
7.1.1.4 Những tác động của thách thức an ninh phi truyền thống đến các quốc gia
Các thách thức an ninh phi truyền thống, điển hình như vấn đề an ninh môi
trường, tội phạm công nghệ cao, di cư bất hợp pháp,.. không chỉ đe dọa an ninh con
người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực,... mà còn là một trong những nguy cơ
lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Những thách thức này
thường lan tỏa rất nhanh qua nhiều quốc gia và để lại những hậu quả lâu dài. Các
mối đe doạ an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề cấp bách, mà còn là vấn đề
thường xuyên, lâu dài, liên quan tới toàn nhân loại.
Biến đổi khí hậu toàn cầu là một vấn đề quan trọng hàng đầu của an ninh môi
trường và đã trở thành thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất mà thế giới
đang phải đối mặt. Biến đổi khí hậu toàn cầu đã nổi lên như một yếu tố thách thức
và tiềm ẩn nguy cơ cho sự tồn tại trong tương lai của các quốc gia. Biến đổi khí hậu
gây ra các biến động không có lợi về môi trường, gây khủng hoảng sinh thái, từ đó
đe dọa tới an ninh con người, an ninh quốc gia. Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của
131
trái đất, băng tan, nước biển dâng; các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ,
sóng thần, động đất, hạn hán, giá rét kéo dài… ảnh hưởng tới tính mạng con người,
gây suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đa dạng sinh học, phá huỷ hệ
sinh thái, thiếu lương thực và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh…
Di cư bất hợp pháp dưới nhiều hình thức khác nhau đang là vấn đề an ninh phi
truyền thống cần phải được ngăn chặn. Hiện nay, thế giới đang phải đối mặt với làn
sóng di cư bất hợp pháp ở nhiều nơi, thực tế các cuộc di cư này đều rất mạo hiểm,
tiềm ẩn nhiều rủi ro về tính mạng. Theo Cơ quan quản lý biên giới Liên hiệp châu Âu
(EU) Frontex ước tính, trong năm 2014, số người nhập cư trái phép vào khu vực này
tăng gần gấp ba lần, với 276.000 trường hợp so với năm trước đó, trong đó có
220.000 người đi qua Địa Trung Hải. Libya và Syria là những quốc gia di cư bằng
đường biển đến châu Âu đông nhất. Ngoài ra, tình trạng di cư từ các quốc gia châu Á,
đặc biệt là Đông Nam Á cũng đáng báo động. Trong số đó, có nhiều người đã thiệt
mạng ngay trên đường đi sang châu Âu. Một trong những thảm hoạ tồi tề nhất trong
cuộc khủng hoảng di cư ở Địa Trung Hải, đó là hơn 700 người thiệt mạng trên một
con tàu đánh cá chở người di cư bất hợp pháp đến châu Âu bị lật ngoài khơi Libya
tháng 4/2015. Gần đây nhất là tháng 10/2019, sự việc 39 người Việt Nam thiệt mạng
trong vụ di cư bất hợp pháp sang Anh quốc đã để lại nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Di cư bất hợp pháp là vấn đề xuyên biên giới, cần phải được kiểm soát và
ngăn chặn, bởi lẽ nó tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng về mặt xã hội, chính trị và
kinh tế. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra sự gia tăng về tội phạm, tệ nạn xã hội trong
cộng đồng di cư tự do. Những người hành nghề mại dâm chủ yếu là người di cư,
mặt khác cũng làm lan truyền, phát tán các dịch bệnh sang vùng khác mà khó kiểm
soát được. Những dịch bệnh do đông dân như lao, HIV, bệnh ngoài da, ký sinh
trùng, dịch COVID-19... cũng trở nên không thể kiểm soát được trong các cộng
đồng di dân tự do.
Tội phạm công nghệ cao ngày càng gia tăng và phương thức thực hiện tinh vi
hơn là thách thức an ninh phi truyền thống nổi bật trong bối cảnh bùng nổ công
nghệ cao trên toàn thế giới. Hiện nay, tội phạm công nghệ cao rất phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới, với thủ đoạn chính là tấn công máy tính, mạng máy tính; lợi
dụng lỗ hổng bảo mật web, tấn công, truy cập, lấy cắp, phá hoại dữ liệu, lừa đảo
dưới nhiều hình thức; phát tán virus, phần mềm gián điệp; sử dụng trái phép trong
các dữ liệu của máy tính không được phép của cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền; đưa trái phép, lan truyền các thông tin thất thiệt, thiếu kiểm chứng lên
mạng xã hội... Nguy hiểm hơn, tội phạm công nghệ cao còn thực hiện tấn công hệ
thống hạ tầng thông tin, truyền thông quốc gia, gây ảnh hưởng đến an ninh, hoà
bình thế giới.
Tội phạm công nghệ cao thường để lại các hậu quả rất nặng nề, ảnh hưởng tới
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội với tốc độ nhanh chóng, gây hậu quả khôn
lường về kinh tế - xã hội, thậm chí là tác động tới vấn đề chính trị. Theo thống kê
chưa đầy đủ của các chuyên gia an ninh mạng Hoa Kỳ, nước này mỗi năm thiệt hại
từ 550 triệu đến 13 tỷ USD do các tội phạm công nghệ cao gây ra. Theo các chuyên
132
gia quốc phòng Mỹ, các cuộc tấn công mạng là một trong những mối đe dọa nghiêm
trọng nhất mà Mỹ đang phải đối mặt. Bên cạnh đó, việc sử dụng mạng xã hội thiếu
kiểm soát đã gây ra nhiều hệ lụy bất ổn cho các quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển, nó đã tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội của người
dân, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội của mỗi quốc gia.
7.1.2 Nhận diện an ninh phi truyền thống
An ninh là nói về sự ổn định, tồn tại và phát triển của các quốc gia. Nhận diện rõ
an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống là một nội dung hết sức quan trọng.
An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đều nói về an ninh quốc gia,
nhưng phạm vi nội hàm không hoàn toàn giống nhau. An ninh phi truyền thống liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề trong khi đó an ninh truyền thống liên quan
đến chính trị, quyền lực, quân sự, chiến tranh
An ninh truyền thống xuất phát từ ý thức hệ và thách thức từ các xung đột
quân sự là chủ yếu. An ninh phi truyền thống xuất phát từ rất nhiều các yếu tố do
con người, do tự nhiên và cũng có những yếu tố do cả con người và tự nhiên cùng
gây ra.
Ví dụ: Do con người gây ra như tội phạm, khủng bố, tham nhũng,… do tự
nhiên gây ra như biến đổi khí hậu, thiên tai, bảo lũ, hạn hán, sóng thần,… do con
người và tự nhiên cùng gây ra như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường …
An ninh phi truyền thống ở đây chúng ta có thể hiểu là phi chính trị, phi quân
sự, phi quốc gia. Nội hàm của nó rất rộng, rất đa dạng, giải quyết không phải một lần,
một giai đoạn nhất định mà hết, nó có thể ngày càng gia tăng, không có điểm dừng.
Hiện nay trên thế giới vẫn có những quan niệm khác nhau về an ninh phi
truyền thống bởi xuất phát từ các góc độ nghiên cứu, chế độ chính trị của từng
nước, vị thế và tiềm lực kinh tế của từng nước.
An ninh phi truyền thống là một thuật ngữ đã xuất hiện trong “Tuyên bố
chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống”
thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6, tại Campuchia ngày 01-11-2002.
Trong bản tuyên bố này các nhà lãnh đạo của ASEAN và Trung quốc bày tỏ “sự
quan ngại về những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng như buôn
lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa
tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao”.
Ở Việt Nam thuật ngữ “an ninh phi truyền thống” được dùng từ Đại hội Đảng
lần thứ XI và được phát triển cao hơn trong Đại hội Đảng lần thứ XII cho đến nay.
An ninh phi truyền thống là những vấn đề tác động ảnh hưởng lớn, không chỉ
đe dọa an ninh quốc gia, đến an ninh con người trong một nước hoặc một số nước
mà còn đe dọa đến toàn nhân loại.
Những vấn đề được thể hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng nằm ngoài vấn đề quân
sự, trong bối cảnh liên kết quốc tế ngày càng phát triển đe dọa đến an ninh phi
truyền thống, đó là: cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thảm
133
họa, thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán phụ
nữ trẻ em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ
cao,… đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn thế giới cũng là một ví dụ.
7.2 Những thách thức và mối đe dọa từ an ninh phi truyền thống
7.2.1 Những thách thức từ an ninh phi truyền thống
7.2.1.1 Lĩnh vực kinh tế
- Ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, gây ra những hệ lụy như sản xuất đình
trệ, thất nghiệp gia tăng, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng, kinh tế suy
thoái, kém phát triển, đời sống người dân gặp khó khăn… và tiềm ẩn nhiều mối
nguy hiểm khó lường.
- Biến đổi khí hậu làm nhiệt độ tăng cao, nước biển dâng là nguyên nhân gây
ra khô hạn và xâm nhập mặn để lại hậu quả nghiêm trọng cho cuộc sống của nhân
dân, làm nhiễm môi trường, dịch bệnh phát triển… phải tốn kém rất nhiều tiền, của,
công sức để khắc phục. Theo các nhà nghiên cứu nhận định 50 năm tới 40% diện
tích đồng bằng Sông Cửu Long và 10% diện tích thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị biển
xâm nhập làm sụt lún, sạt lỡ sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với vùng đồng bằng Nam Bộ
- An ninh lương thực, an ninh năng lượng, khủng hoảng quản trị tài chính thế
giới, rửa tiền, dịch bệnh đối với con người, vật nuôi, cây trồng cũng là những mối
đe dọa lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
- Các yếu tố an ninh phi truyền thống uy hiếp đến tính độc lập tự chủ của nền
kinh tế đất nước như: lợi ích kinh tế; chủ quyền kinh tế; định hướng phát triển kinh
tế; thể chế kinh tế; sự ổn định kinh tế, đặc biệt là về tài chính, tiền tệ và quan hệ hợp
tác kinh tế thương mại quốc tế của quốc gia. Vì vậy, an ninh kinh tế là nội dung
quan trọng trong an ninh quốc gia.
7.2.1.2 Lĩnh vực chính trị tinh thần
- Xu thế toàn cầu hóa làm nảy sinh tính chất xuyên quốc gia của mối đe dọa an
ninh phi truyền thống buộc chúng ta phải điều chỉnh cơ chế, luật pháp phù hợp với
các cam kết quốc tế. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề đó để đưa ra những yêu
cầu, khuyến nghị trong các quan hệ nhằm hạn chế hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực quản lý của nhà nước; gây tâm lý hoang mang, thiếu niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, với chế độ.
- An ninh thông tin có thể gây rối loạn đến hệ thống điều hành quốc gia, tạo ra
các luồng thông tin xuyên tạc bóp méo sự thật, gây chia rẽ nội bộ, mất đoàn kết. Từ
đó các thế lực thù địch có điều kiện đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy sự chuyển biến, sự chuyển hóa, kích động gây rối, biểu tình bạo loạn, làm mất
ổn định chính trị, tạo sự can thiệp từ nước ngoài
7.2.1.3 Lĩnh vực văn hóa xã hội
- Toàn cầu hóa, các yếu tố an ninh phi truyền thống đe dọa đến sự giữ gìn và
phát triển bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, những
134
giá trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, những giá trị
đạo đức, lối sống đang là thách thức đối với mỗi quốc gia dân tộc.
- Xu thế mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay là điều kiện cho
các luồng tư tưởng văn hóa khác nhau của nước ngoài du nhập vào nước ta. Chúng
ta phải chịu tác động không nhỏ từ các luồng văn hóa, đạo đức, lối sống thực dụng,
độc hại, không lành mạnh, làm lệch chuẩn tư tưởng, phẩm chất, đạo đức lối sống
của giới trẻ, làm biến dạng bản sắc văn hóa truyền thống ngàn năm văn hiến của
Việt Nam.
7.2.1.4 Lĩnh vực quốc phòng an ninh
- Những tác động từ các hiểm họa của an ninh phi truyền thống đã ảnh hưởng
lớn đến nguồn lực phát triển quốc phòng an ninh. Trước tiên là công tác xây dựng
lực lượng, thế trận quốc phòng, các công trình phòng thủ quốc gia, các mặt đảm bảo
cho hoạt động quốc phòng thường xuyên, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang thực
hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi thế giới xuất
hiện khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, xung đột dân tộc, sắc tộc…
- Tranh chấp xung đột trên biển Đông, sự mất ổn định trong xã hội do các thế
lực thù địch lợi dụng những yếu tố của an ninh phi truyền thống để chống phá…
7.2.2 Những mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam hiện nay
7.2.2.1 Mối đe dọa từ an ninh kinh tế
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, an ninh kinh tế có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc gia. Thực tế các cuộc khủng hoảng kinh tế
những năm vừa qua đã chứng minh một cách sâu sắc hơn vai trò trung tâm của an
ninh kinh tế trong an ninh quốc gia. Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã thoát
khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển trở thành nước đang phát triển. Tuy
nhiên, năng lực điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế còn nhiều yếu kém; cơ chế,
chính sách còn nhiều sơ hở, tạo điều kiện cho các loại tội phạm hoạt động gây tổn
thất cho các lợi ích kinh tế của đất nước, từ đó gây mất lòng tin của nhân dân; nguy
cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế; nguy cơ tham nhũng vẫn còn tồn tại.
7.2.2.2 Mối đe dọa từ an ninh xã hội
Hiện nay, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường đang phát sinh nhiều vấn
đề bất cập bên trong nước ta chưa thể giải quyết được dẫn đến những mâu thuẫn
tích tụ trong lòng xã hội, tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội. Chúng ta đã thực hiện
nhiều chính sách phát triển kinh tế, tôn giáo, dân tộc nhưng vẫn chưa giải quyết
được ổn thoả các vấn đề phức tạp trong tôn giáo, dân tộc, nhất là tại các vùng chiến
lược. Ở hầu hết các địa phương đều tồn tại các vụ khiếu kiện đông người đặc biệt
phức tạp kéo dài.
7.2.2.3 Mối đe dọa từ an ninh nội bộ
Mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập đã tác động trực tiếp đến tư
tưởng của cán bộ, Đảng viên, làm nảy sinh những vấn đề phức tạp mới trong nội bộ,
đe doạ đến sự ổn định và phát triển của chế độ chính trị và nhà nước. Không ít cán
135
bộ, Đảng viên bị lung lạc ý chí, bị tác động bởi luận điệu chiến tranh tâm lý, phá
hoại tư tưởng của các thế lực thù địch bộc lộ tư tưởng băn khoăn, lo lắng về tiền đồ
của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận thắng lợi của cách mạng;
mơ hồ mất cảnh giác, mất phương hướng, muốn Đảng ta phải “cải cách”, “mở rộng
dân chủ”. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên, thậm chí ở cả cán bộ quản lý
cấp cao suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, hách dịch, xa
rời quần chúng đã và đang làm giảm sút uy tín của Đảng, ảnh hưởng tiêu cực đến
hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền.
7.2.2.4 Mối đe dọa từ an ninh thông tin
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhất là sự bùng nổ của công
nghệ thông tin toàn cầu đã cho ra đời những công cụ vô cùng tiện ích, đó là internet
và công nghệ liên lạc không dây. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ an ninh, các công cụ
này cũng đang trở thành hiểm họa đối với sự ổn định và phát triển bình thường của
các nước. Internet đang được coi là “chiến trường thứ 5” trong cuộc tranh đấu vì lợi
ích của con người. Làm cho an ninh thông tin, nhất là an ninh mạng đang thực sự
trở thành mối lo ngại đối với an ninh quốc gia của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
7.2.2.5 Mối đe dọa từ tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông
Thời gian gần đây, tình hình tranh chấp Biển Đông diễn biến hết sức phức tạp.
Các nước và các bên có liên quan ở Biển Đông đều có những động thái để tuyên bố
và khẳng định chủ quyền của mình. Đặc biệt, Trung Quốc thực hiện mưu đồ “độc
chiếm Biển Đông” liên tiếp có những hành động khiêu khích và vi phạm nghiêm
trọng chủ quyền của Việt Nam. Họ ngang ngược nêu yêu sách về chủ quyền “đường
chữ U 9 đoạn” hay còn gọi là “đường lưỡi bò” chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông.
Trong vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc thường
xuyên tiến hành các hoạt động như cấm đánh bắt cá, gia tăng các hoạt động khống
chế và uy hiếp ngư dân Việt Nam trên Biển Đông, liên tục cho tàu hải giám, ngư
chính tuần tra…
7.2.2.6 Mối đe dọa từ khủng bố quốc tế
Đối với Việt Nam, hiện nay các hoạt động khủng bố quốc tế như đã diễn ra
trên thế giới chưa xảy ra, bởi Việt Nam không phải là mục tiêu của chủ nghĩa khủng
bố, không có xung đột lợi ích, đồng thời các tổ chức khủng bố quốc tế cũng chưa có
cơ sở xã hội tại Việt Nam. Tuy nhiên, mối đe dọa khủng bố tại nước ta cũng đang
hiện hữu, bởi ở trên lãnh thổ Việt Nam đang có những mục tiêu chính trị của các thế
lực phản động và thù địch.
7.2.2.7 Mối đe dọa từ biến đổi khí hậu toàn cầu
Theo báo cáo về chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn năm 2019 của tổ chức German
watch tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 2018
(COP 24) diễn ra ở Ba Lan từ ngày 02 đến ngày 14-12-2018, Việt Nam nằm trong
10 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu. Số liệu của Viện Khoa học
Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cũng cho thấy, trong hơn 30 năm qua, tại
Việt Nam, bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng 500 người,
136
bị thương hàng nghìn người, nền kinh tế thiệt hại bình quân lên tới 1,5% GDP hằng
năm. Bình quân mỗi năm Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp bởi 6 - 7 cơn bão.
Ngoài những mối đe dọa của an ninh phi truyền thống trên, còn có các mối đe
dọa từ an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh văn hóa, an ninh dịch
bệnh… Hiện nay, nước ta cũng đang phải đối mặt với các mối đe doạ an ninh phi
truyền thống khác của thế giới và khu vực. Những mối đe doạ này đã được Nhà
nước ta thống nhất quan điểm trong hợp tác với các nước ASEAN và một số nước
khác (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU), đó là: buôn bán ma tuý, buôn
người, cướp biển, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công
nghệ cao, cạn kiệt tài nguyên, thiên tai, dịch bệnh... Việc xác định rõ các mối đe doạ
an ninh phi truyền thống là cơ sở quan trọng để chủ động chuẩn bị lực lượng,
phương tiện, biện pháp, xây dựng phương án và tăng cường hợp tác với các nước.
7.3 Quan điểm của Đảng và một số giải pháp phòng ngừa, ứng phó đe dọa từ an
ninh phi truyền thống ở Việt Nam hiện nay
7.3.1 Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống
- Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII trở về trước, thuật ngữ an ninh phi truyền
thống chưa được Đảng ta sử dụng chính thức nhưng các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống đã được mô tả như: Hội Nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994) xác định 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ là: Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch; nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc VIII (6/1996) xác định: “Thế
giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng
nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc
gia nào có thể tự giải quyết, mà phải có sự hợp tác đa phương”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích
quốc gia dân tộc”, bổ sung thêm vấn đề chống tội phạm quốc tế. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X (04/2006), Đảng ta xác định bối cảnh tình hình là “Nhiều vấn
đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức phối hợp giải quyết; khoảng
cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng
dân số cùng với các luồng di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt
tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm
theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia
có chiều hướng tăng”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (4/2011), Đảng ta chính thức sử dụng
thuật ngữ an ninh phi truyền thống. Báo cáo chính trị nêu rõ: Trên thế giới, hòa
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp
mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc
137
tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ
diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao
trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường...còn
tiếp tục gia tăng, va những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai,dịch
bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
Từ nhận định, đánh giá tình hình đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định về
mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng
trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong
mọi tình huống”.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá: “Những vấn đề
toàn cầu như bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã
hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, ô nhiễm môi trường,..tiếp tục diễn biến phức tạp”1. Cộng đồng quốc tế phải
đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi
truyền thống và các hình thái chiến tranh kiểu mới. Đại hội đã xác định nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh là “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch… Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe
dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên
tai, dịch bệnh”2.
Ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội
phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống
và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”.
Như vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác định các
vấn đề an ninh phi truyền thống có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh
truyền thống và đều là những mối đe dọa đến sự ổn định và phát triển bền vững của
quốc gia.
7.3.2 Một số giải pháp phòng ngừa, ứng phó đe dọa từ an ninh phi truyền thống ở
Việt Nam hiện nay
7.3.2.1 Nâng cao nhận thức về các mối đe dọa của an ninh phi truyền thống đối
với an ninh con người, an ninh cộng đồng, an ninh quốc gia và an ninh nhân loại
- Đảng ta luôn đặt các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bên an ninh truyền
thống. Trong đó các mối đe dọa an ninh truyền thống mặc dù vẫn tiềm ẩn và biểu

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2021, tr.106-107.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2021, tr.156.
138
hiện dưới các hình thức, mức độ khác nhau, nhưng xu hướng hòa bình vẫn là chủ
đạo. Còn an ninh phi truyền thống là vấn đề đang nổi lên gay gắt.
- Các thách thức an ninh phi truyền thống đang diễn biến hết sức phức tạp do
mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường, của việc sử dụng các thành tựu
khoa học công nghệ tiên tiến.
- Định dạng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bao gồm an ninh con
người, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh, … Phạm vi các mối đe dọa của an ninh phi truyền thống sẽ còn
mở rộng và diễn biến phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục theo dõi, nghiên cứu
và bổ sung kịp thời các biện pháp khắc phục.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống không của riêng Việt Nam mà
mang tính toàn cầu.
- Một số mối đe dọa an ninh phi truyền thống, có khả năng chuyển hóa thành
an ninh truyền thống như xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố bạo loạn, …
7.3.2.2 Chủ động tích cực phòng ngừa ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống
- Chủ động và tích cực đầu tư, phát triển bền vững, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chăm lo và bảo vệ tốt môi trường sinh thái.
- Phân loại từng lĩnh vực an ninh phi truyền thống với các đặc điểm khác
nhau, để xác định những cơ chế, phương thức quản trị phù hợp.
- Chủ động tích cực hoàn thiện hệ thống thể chế quản trị an ninh phi truyền
thống, nâng cao tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về
phòng ngừa và ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.
- Chủ động xây dựng lực lượng, đầu tư nguồn lực cho quản trị an ninh phi
truyền thống, ở từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng nội dung cụ thể.
- Giữ vững an ninh chính trị, xử lý khôn khéo các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
giải tỏa các xung đột xã hội, phòng ngừa và ngăn chặn khả năng chuyển hóa của các
xung đột theo chiều hướng xấu
- Chủ động tích cực thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng ngừa và ứng phó với
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
7.3.2.3 Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội trong
quản trị và kiểm soát các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, các cấp đối với hoạt động
quản trị an ninh phi truyền thống. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về
an ninh phi truyền thống. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị, xã hội.

139
- Cộng đồng doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong phòng ngừa và ứng
phó với các mối đe dọa của an ninh phi truyền thống. Thu hút sự tham gia của người
dân trong phòng ngừa và ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
7.3.2.4 Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng ngừa kiểm soát và ứng
phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
- Quán triệt quan điểm của Đảng ta là chủ động, tích cực hợp tác cùng các
nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc ứng phó với các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống
- Thống nhất nhận thức xây dựng cơ chế lòng tin, hoàn thiện khuôn khổ, thể
chế pháp lý với các nước về an ninh phi truyền thống.
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong đó hợp tác về phòng ngừa và
ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thông qua cơ chế và phương
thức đa tầng, đa dạng và linh hoạt.
- Tăng cường chia sẻ thông tin giữa Việt Nam với các nước trên từng nội dung
về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
7.3.2.5 Huy động nguồn lực tài chính bằng nhiều kênh khác nhau để đầu tư cho
hoạt động phòng ngừa, kiểm soát ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống
- Nguồn tài chính ngân sách nhà nước; nguồn tài chính doanh nghiệp; nguồn
tài chính xã hội hóa với sự đóng góp rộng rãi của nhân dân và các nhà tài trợ, tận
dụng nguồn tài chính quốc tế.
- Xây dựng quan hệ đối tác công tư trong các hoạt động phòng ngừa và ứng
phó với an ninh phi truyền thống.
Thế giới hiện nay, bên cạnh mối đe dọa về quân sự, vẫn tồn tại và xuất hiện
nhiều yếu tố mới đe dọa đến con người và an ninh quốc gia như: Khủng bố, dịch
bệnh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng kinh tế... Những nhân tố
nêu trên được các quốc gia trên thế giới xác định là vấn đề an ninh phi truyền thống
để phân biệt với các vấn đề an ninh truyền thống. Việt Nam cũng như các quốc gia
khác trên thế giới, đều đang phải đối mặt với những mối đe dọa an ninh phi truyền
thống; điều đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chủ trương, giải pháp
hữu hiệu để phòng ngừa, ứng phó với những mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự đồng thuận và nỗ lực của toàn xã hội, sự
quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, với những giải pháp, biện
pháp phù hợp và hiệu quả.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Anh/chị hãy làm rõ các nhận diện của an ninh phi truyền thống?
2. Anh/chị hãy nêu các giải pháp phòng ngừa, ứng phó, đe dọa của an ninh
mạng phi truyền thống của Việt Nam hiện nay?
3. Hãy phân tích làm rõ các giải pháp mà Anh/chị cho là quan trọng nhất?
140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng (2005), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội:
NXB Quân đội nhân dân.
2. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, số
36/CT-TW, Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 1998.
3. Bộ Công An (2020), Giáo trình An toàn dịch vụ mạng, Hà Nội: NXB
CAND.
4. Bộ Công An (2015), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Hà Nội: NXB CAND.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2020), Thông tư của Bộ Giáo duc và đào tạo về
Ban hành Chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường
trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm và cơ sở giáo dục đại học, số
05/2020/TT-BGDĐT, Hà Nội, ngày 18 tháng 3 năm 2020.
6. Bộ Giao thông Vận tải (2014), Thông tư Bộ Giao thông vận tải về Quy
định quy trình thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính; công
tác lập kế hoạch, chế độ báo cáo và quản lý nội bộ của thanh tra ngành
giao thông vận tải, số 02/2014/TT-BGTVT, Hà Nội, ngày 25 tháng 2 năm
2014.
7. Bộ Tài Chính (2014), Thông tư của Bộ Tài Chính quy định về sửa đổi, bổ
sung một số điều của thông tư số 153/2013/TT-BTC ngày 31 tháng 10 năm
2013 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính quy định về thủ tục thu, nộp tiền phạt,
biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt
động của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính, số 105/2014/TT-
BTC, Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 2014.
8. Bộ Công an (2020), Thông tư Bộ Công an về Quy định nhiệm vụ, quyền
hạn, hình thức, nội dung và quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ của cảnh sát giao thông, số
65/2020/TT-BCA, Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2020.
9. Bộ Thông tin và Truyền thông (2014), Thông tư của Bộ Thông tin và
Truyền thông về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên
trang thông tin điện tử và mạng xã hội, những hành vi bị nghiêm cấm
trong sử dụng mạng xã hội, số 09/2014/BTTTT, Hà Nội, ngày 19 tháng 8
năm 2014.
10. Chính phủ (2020), Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số
vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, số 15/2020/NĐ-
CP, Hà Nội, ngày 03 tháng 02 năm 2020.
11. Chính phủ (2007), Nghị định của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, số 64/2007/NĐ-CP, Hà Nội,
ngày 10 tháng 4 năm 2017.
141
12. Chính phủ (2016), Nghị định của Chính phủ về Bảo đảm an toàn hệ thống
thông tin theo cấp độ, số 85/2016/NĐ-CP, Hà Nội, ngày 01 tháng 7 năm
2016.
13. Chính phủ (2019), Nghị quyết của Chính phủ về ban hành Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 của Bộ
Chính trị về Chiến lược An ninh mạng quốc gia, số 22/NQ-CP, Hà Nội,
ngày 18 tháng 2 năm 2019.
14. Chính phủ (2018), Nghị quyết của chính phủ về Chiến lược an ninh mạng
quốc gia, số 30-NQ/TW, Hà Nội, ngày 25 ngày 7 tháng 2018.
15. Hội đồng Lý luận Công an nhân dân (2019), Từ điển Nghiệp vụ Công an
nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
16. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016), Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông
qua, Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2013.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật giao
thông đường bộ, số 23/2008/QH12, Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2008.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo vệ
môi trường, số 55/2014/QH13, Hà Nội, ngày 23 tháng 6 năm 2014.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ Luật
Hình sự, số 100/2015/QH13, Hà Nội, ngày 27 tháng năm 2015.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo, số 02/2016/QH14, Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2016.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật An ninh
mạng, số 24/2018/QH14, Hà Nội, ngày 12 tháng 6 năm 2018 .
23. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật Quốc
phòng, số 22/2018/QH14, Hà Nội, ngày 08 tháng 6 năm 2018.
24. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật bảo vệ
môi trường, số 77/2020/QH14, Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2020.
25. Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh (2020), Tài liệu tập huấn quản lý,
giảng viên giảng dạy môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh các trường
Cao đẳng sư phạm, cơ sở giáo dục Đại học, Trung tâm Giáo dục Quốc
phòng và An ninh, Hà Nội.

142

You might also like