You are on page 1of 69

CHƯƠNG I MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Mục tiêu chương:

- Nắm được chức năng, vai trò đào tạo của Trường Đại học

- Nhận biết được tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị, triết lý giáo dục của Trường Đại học Thủ đô
Hà Nội

- Hiểu được các đặc điểm tâm lý xã hội cơ bản của sinh viên

- Bước đầu tìm hiểu một số hoạt động cơ bản của sinh viên tại trường Đại học

- Hiểu được giá trị của lao động nghề nghiệp nói chung và giá trị ngành nghề mà bản thân
đang theo học

- Rèn luyện những những thái độ, thói quen, giá trị sống tốt đẹp để trở thành những sinh
viên tích cực

1.1. Môi trường học tập ở bậc đại học

1.1.1. Vai trò, chức năng đào tạo của trường Đại học

Giáo dục đại học bao gồm các hình thức giáo dục diễn ra ở các cơ sở học tập bậc
sau trung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ.
Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại học mà còn
các trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đại học công lập và
tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản đối với hầu hết các cơ
sở giáo dục đại học là phải hoàn thành giáo dục trung học, và tuổi nhập học thông thường
là khoảng 18 tuổi1.
Giáo dục đại học bao gồm các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, thực tập (như trong
các trường y khoa và nha khoa), và phụng sự xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Các
hình thức giáo dục đại học bao gồm: giáo dục tổng quát (general education), thường bao
gồm đáng kể những yếu tố lý thuyết và trừu tượng cùng với những khía cạnh ứng dụng;

1
“Higher education”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2013
giáo dục chú trọng đến các ngành khai phóng (liberal arts education), bao gồm các ngành
nhân văn, khoa học, nghệ thuật; giáo dục mang tính huấn nghệ (vocational education),
kết hợp cả việc giảng dạy lý thuyết lẫn những kỹ năng thực hành; giáo dục chuyên nghiệp
(professional education), như trong các ngành kiến trúc, kinh doanh, luật, y khoa, v.v...
Ở nhiều quốc gia phát triển, có tới 50 phần trăm dân số theo học trong các cơ sở
giáo dục đại học. Giáo dục đại học do đó rất quan trọng đối với kinh tế quốc gia, với tư
cách là một ngành kinh tế và là nơi giáo dục và đào tạo nhân lực cho phần còn lại của nền
kinh tế. Những người theo học đại học thường kiếm được mức lương cao hơn và ít có khả
năng bị thất nghiệp hơn so với những người có học vấn thấp hơn2.
Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có các tên gọi: trường đại học, trường đại học
bách khoa, trường đại học tổng hợp, trường đại học cộng đồng, viện đại học, viện đại
học bách khoa, đại học, đại học quốc gia, học viện, nhạc viện, trường cao đẳng, trường
cao đẳng cộng đồng, v.v... Trong ngôn ngữ hàng ngày, "trường đại học" và "viện đại học"
thường được gọi ngắn gọn hay thân mật là "đại học", mặc dù "đại học" là một loại hình
cơ sở riêng biệt; về những nghĩa khác của "đại học".
Theo Điều 4, Luật Giáo dục Đại học, giải thích một số khái niệm về “đại học” như sau:
1. Cơ sở giáo dục đại học là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thực
hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động khoa học và công
nghệ, phục vụ cộng đồng.
2. Trường đại học, học viện (sau đây gọi chung là trường đại học) là cơ sở giáo dục
đại học đào tạo, nghiên cứu nhiều ngành, được cơ cấu tổ chức theo quy định.
3. Đại học là cơ sở giáo dục đại học đào tạo, nghiên cứu nhiều lĩnh vực, được cơ
cấu tổ chức theo quy định của Luật này; các đơn vị cấu thành đại học cùng thống nhất
thực hiện mục tiêu, sứ mạng, nhiệm vụ chung.
4. Đơn vị thành viên là trường đại học, viện nghiên cứu có tư cách pháp nhân, do
Thủ tướng Chính phủ thành lập, cho phép thành lập theo quy định của pháp luật; được tự
chủ trong tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt
động của đại học.
2
Michael Simkovic, Risk-Based Student Loans (2013); OECD, Education at a Glance (2011)
5. Đơn vị trực thuộc là đơn vị có tư cách pháp nhân của cơ sở giáo dục đại học, do
hội đồng trường, hội đồng đại học quyết định thành lập; tổ chức và hoạt động theo quy
định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
6. Đơn vị thuộc là đơn vị không có tư cách pháp nhân của cơ sở giáo dục đại học,
do hội đồng trường, hội đồng đại học quyết định việc thành lập; tổ chức và hoạt động
theo quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học, phù hợp với quy định của
pháp luật.
7. Trường là đơn vị đào tạo thuộc cơ sở giáo dục đại học, do hội đồng trường, hội
đồng đại học quyết định việc thành lập theo quy định của Chính phủ, tổ chức và hoạt
động theo quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
8. Ngành là tập hợp kiến thức và kỹ năng chuyên môn trong phạm vi hoạt động
nghề nghiệp, khoa học và công nghệ, do Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê, phân loại.
9. Chuyên ngành là một phần kiến thức và kỹ năng chuyên môn sâu có tính độc lập
trong một ngành, do cơ sở giáo dục đại học quyết định.
10. Lĩnh vực là tập hợp các nhóm ngành có điểm chung về kiến thức, kỹ năng
chuyên môn trong phạm vi hoạt động nghề nghiệp, khoa học và công nghệ, do Thủ tướng
Chính phủ thống kê, phân loại.
11. Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và
lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt
động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên
cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.
12. Trách nhiệm giải trình là việc cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm báo cáo,
minh bạch thông tin đối với người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền, chủ sở
hữu và các bên liên quan về việc tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện đúng quy
định, cam kết của cơ sở giáo dục đại học.
Mục tiêu của giáo dục đại học3
* Mục tiêu chung:

3
Luật Giáo dục Đại học - Văn bản hợp nhất Luật Giáo dục Đại học năm 2012 và 2018.
a) Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học,
công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế;
b) Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực
hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ
tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề
nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ Nhân dân.
* Mục tiêu cụ thể đào tạo trình độ: đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó cụ thể mục tiêu
về đào tạo bậc đại học là: Đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn
toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản,
có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào
tạo;
Chức năng, nhiệm vụ đào tạo của cơ sở giáo dục đại học
Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức hoạt động giáo dục thường xuyên, cung cấp
dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cấp chứng chỉ, chứng nhận phù hợp với ngành, lĩnh
vực đào tạo của mỗi cơ sở theo quy định của pháp luật để đáp ứng nhu cầu học tập suốt
đời của người học. Hình thức đào tạo để cấp văn bằng các trình độ đào tạo của giáo dục
đại học bao gồm chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa. Việc chuyển đổi giữa các
hình thức đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc liên thông.

1.1.2. Tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi và triết lý giáo dục của Trường Đại học Thủ
đô Hà Nội4
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND
Thành phố Hà Nội, được nâng cấp trên cơ sở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, thành
lập ngày 06/01/1959. Trường Đại học Thủ đô Hà Nội được thành lập theo quyết định số
2402/QĐ-TTg ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Trường Đại học Thủ đô Hà
Nội chịu sự quản lý về hành chính nhà nước của UBND Thành phố Hà Nội, chịu sự quản
lý về chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4
Theo Chiến lược phát triển Trường năm 2021
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội là cơ sở giáo dục đào tạo đại học trong hệ thống
giáo dục quốc dân, tổ chức đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng nguồn nhân lực đa ngành, đa
lĩnh vực trình độ đại học và trên đại học; tổ chức hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các
hoạt động tư vấn, nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ
phát triển kinh tế của Hà Nội, vùng Thủ đô và cả nước.
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội xác định sứ mạnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi như sau:
* Sứ mạng
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội với nền tảng là một cơ sở đào tạo giáo viên có uy
tín của Hà Nội, phát triển thành cơ sở đào tạo đa ngành, theo định hướng nghề nghiệp
ứng dụng, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, các sản phẩm nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội, vùng
Thủ đô và cả nước.
* Tầm nhìn
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội sẽ trở thành trung tâm văn hoá, giáo dục và khoa
học công nghệ có uy tín, xứng tầm với sự phát triển của thành phố Hà Nội, được xếp
hạng cao trong hệ thống các trường đại học Việt Nam và tham gia vào mạng lưới các
trường đại học của Châu Á.
* Giá trị cốt lõi
Chất lượng – Sáng tạo – Tôn trọng – Hợp tác – Gắn kết cộng đồng
- Chất lượng: Dạy tốt, học tốt, chất lượng thực là điểm khởi đầu xây dựng giá trị
cơ bản của trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Kết quả mà người học và người dạy đạt được
sẽ là những nỗ lực vượt bậc của chính họ. Điều mà mọi người hướng tới không chỉ là
hoàn thành nhiệm vụ mà là vượt qua thách thức để hướng đến sự mẫu mực, hoàn thiện
chính mình và đạt kết quả xuất sắc.
- Sáng tạo: Trường ĐH Thủ đô Hà Nội là nơi kiến tạo tri thức, theo đuổi chân lý
khoa học. Chúng tôi coi trọng quyền tự chủ chuyên môn của giảng viên, tôn trọng mong
muốn tìm tòi khám phá tri thức của người học. Ở ngôi trường này, mọi người không sợ
sai khi tìm đường đi mới để tạo ra những giá trị mới tốt đẹp hơn.
- Tôn trọng: Chúng tôi hiểu rằng quan điểm khác nhau của mỗi cá nhân là sự đóng
góp độc đáo mang nét đặc trưng của mỗi người vào nhận thức chung của nhà trường,
giúp tạo ra môi trường văn hoá đa dạng, thúc đẩy sự phát triển. Đây là ngôi trường mà
mọi người ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, đặc điểm cá nhân và điều kiện sống
khác nhau đều được chào đón và trao cơ hội thể hiện, phát triển bản thân để thành công
trong cuộc sống.
- Hợp tác: Nhà trường nhấn mạnh phương thức làm việc hợp tác. Mỗi người có một
thế mạnh và điểm yếu riêng; mỗi bộ phận có một chức năng riêng, nhưng để giải quyết
một nhiệm vụ thì cần sức mạnh tổng thể và sự phối hợp nhịp nhàng. Chính vì vậy ở ngôi
trường này, mọi người được khuyến khích và được tạo cơ hội làm việc hợp tác và nêu
cao tinh thần đồng đội.
- Gắn kết cộng đồng: Là trường Đại học của thành phố Hà Nội, trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục của cả nước với lịch sử ngàn năm văn hiến, chúng tôi đề cao
sự gắn kết cộng đồng để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, tạo
dựng những giá trị mới vì lợi ích cộng đồng, phát triển thủ đô, xây dựng đất nước.
* Triết lý giáo dục
Đào tạo nhân lực theo tinh thần khai phóng, cung cấp cho người học cơ hội tiếp cận
nhiều lĩnh vực học thuật, trên nền tảng chương trình học chuyên sâu tập trung vào một
lĩnh vực ngành nghề, trong môi trường mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội, giúp người
học có năng lực nghề nghiệp và ý thức phục vụ cộng đồng, có khát vọng sáng tạo, sẵn
sàng thích ứng và hội nhập.

1.2. Thời kỳ chuyển tiếp của sinh viên

1.2.1. Khái niệm sinh viên

Thuật ngữ “Sinh viên” có gốc từ tiếng Latinh “ Studens”, nghĩa là người làm việc,
người tìm kiếm, khai thác tri thức . sinh viên là những người đang chuẩn bị cho một hoạt
động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên
cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã hội của họ đều phục vụ cho việc chuẩn bị tốt
nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong
các trường nghề.
Khái niệm “thanh niên - sinh viên” Thanh niên thường được xem như một nhóm
xã hội lứa tuổi hoặc một “lát cắt chu kì sống” của con người (tuổi thanh xuân) hoặc một
tiềm năng, một đội ngũ dự bị, một tương lai hay hiện tại của đất nước. Một vấn đề thường
được đặt ra khi xem xét vấn đề thanh niên là giới hạn của tuổi thanh niên trong đời sống
con người.
Nhóm các tác giả Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Quang Uẩn (2005) và nhóm tác giả
Dương Diệu Hoa, Nguyễn Ánh Tuyết, Phan Trọng Ngọ, Đỗ Thị Hạnh Phúc (2008) cho
rằng tuổi thanh niên chia thành hai thời kì: Tuổi đầu thanh niên hoặc học sinh trung học
phổ thông - từ 15-18 tuổi và tuổi TN-SV - từ 18, 19- 25 tuổi. Bên cạnh đó, khái niệm
“sinh viên” cũng được hiểu rất thống nhất. Theo Từ điển Giáo dục học: Sinh viên là
người học của cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học. Theo Luật Giáo dục đại học: Sinh viên là
người đang học tập và nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, theo học chương
trình đào tạo cao đẳng, chương trình đào tạo đại học.
Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người, mà theo Mác là
"tổng hoà của các quan hệ xã hội". SV còn mang những đặc điểm riêng: Tuổi đời còn trẻ,
thường từ 18 đến 25 dễ thay đổi, chưa định hình rõ rệt về nhân cách, ưa các hoạt động
giao tiếp, có tri thức đang được đào tạo chuyên môn. Lứa tuổi SV có những nét tâm lý
điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm
nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích
tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng thành đạt, thích trải nghiệm, dám đối mặt với
thử thách. Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng
chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau
khi ra trường.
Xét ở góc độ thông tin, sinh viên Việt Nam cũng giống như sinh viên các nước trên thế
giới, họ vừa là người sử dụng thông tin và đồng thời vừa là người tham gia sáng tạo
thông tin. Đây là đặc điểm nổi trội của sinh viên đại học. Họ là người dùng tin hiện tại và
cũng là người dùng tin tiềm năng quan trọng trong cơ quan thông tin thư viện. Một trong
những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển
tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng
đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với
xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm
nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những
đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học
tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập
nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể
nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc
vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở
lứa tuổi này là tình cảm ổn định của SV, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp -
một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và
đam mê với nghề lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời
người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật
phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách
thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ
chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào
tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực
của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm
và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV. Sinh viên Việt Nam là những trí thức
tương lai của đất nước, không ai hết mà chính họ sẽ là những người đóng vai trò chủ chốt
trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự
phát triển KHKT, nên rất 45 cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực
sáng tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích
nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ
tiên tiến mới. Tuy nhiên, trước thực tế là trong số SV hiện nay đang diễn ra quá trình
phân hoá, với hai nguyên nhân cơ bản: Tác động của cơ chế thị trường dẫn đến khác biệt
giàu nghèo; sự mở rộng quy mô đào tạo khiến trình độ SV chênh lệch lớn ngay từ đầu
vào. Dù vậy, vẫn có thể nhìn thấy những đặc điểm tương đồng dưới đây. Tính thực tế:
Thể hiện ở việc chọn ngành chọn nghề, ở việc hướng đến lựa chọn những kiến thức để
học sao cho đáp ứng nhu cầu thực tế, chuẩn bị kinh nghiệm làm việc cho tương lai, định
hướng công việc sau khi ra trường, thích những công việc đem lại thu nhập cao. Tính
năng động: Nhiều SV vừa đi học vừa đi làm, hình thành tư duy kinh tế trong thế hệ mới,
thể hiện sự tích cực chủ động (tham gia phong trào tình nguyện). Tính cụ thể của lý
tưởng: Đang có một sự thay đổi trong lý tưởng sống gắn liền với sự định hướng cụ thể.
Lý tưởng hôm nay không phải là sự lựa chọn những mục đích xa xôi, mà hướng đến
những mục tiêu cụ thể, gắn liền với lợi ích cá nhân.
Tính liên kết: Những người trẻ luôn có xu hướng mở rộng các mối quan hệ, đặc
biệt là những quan hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Sự thay đổi của đời sống tinh thần trong
SV trước xu hướng toàn cầu hoá đang hướng mạnh đến tính cộng đồng.
Tính cá nhân: Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng
cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người trẻ có học
vấn là SV. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Dường
như có sự đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân. Xuất hiện thái độ bàng quan với xung
quanh ở một bộ phận SV. Sự phân tách các đặc điểm trên chỉ có tính tương đối để phục
vụ công tác nghiên cứu, còn trên thực tế các đặc điểm ấy đan xen và có tác động qua lại
lẫn nhau. Tính cá nhân không tách rời tính liên kết, tính năng động gắn liền với tính thực
tế. Mỗi đặc điểm, qua những biểu hiện cụ thể của nó, luôn bộc lộ tính hai mặt: Vừa có
những tác động tích cực, vừa có những tác động tiêu cực.
Từ những quan điểm trên, thống nhất khái niệm SV là những công dân có độ
tuổi từ 18-25 đang học tập ở bậc đại học, cao đẳng. SV có những đặc điểm cơ bản sau:
- Những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học hoặc trung cấp
chuyên nghiệp, xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập,
chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại các trường đại học, cao đẳng;
- Là lớp người năng động, nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới;
- Là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh nhiều tài năng
sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ phận sinh viên sẽ trở
thành người trí thức của đất nước;
- Do đặc điểm lứa tuổi, SV là lớp người đang hình thành và khẳng định nhân cách, còn
thiếu kinh nghiệm sống, có xu hướng chung là tính tích cực chính trị - xã hội, tính tự lập,
độc lập và nhu cầu tự khẳng định phát triển khá cao;
- Đối với xã hội, SV là một nhóm xã hội được quan tâm. So với thanh niên đang đi làm
(có thu nhập) thì SV là một nhóm xã hội trong phạm vi nhất định được xã hội hoặc gia
đình bảo trợ trong quá trình học tập.

1.2.2. Thời kỳ chuyển tiếp của sinh viên


1.2.2.1. Giới hạn tuổi thanh niên
Trong suốt quá trình phát triển của cá nhân, giai đoạn tuổi thanh niên và các giai đoạn sau
này rất khó phân định rạch ròi, cả về tuổi đời, về thể chất, hoàn cảnh xã hội và về phát
triển tâm lí.
Về tuổi đời và thể chất, tuổi thanh niên thường được xác định từ 15 đến 25 tuổi, với đặc
trưng là sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về giải phẫu và sinh lí, sau khi kết thúc
giai đoạn dậy thì. Trong đó chia làm hai thời kì:
- Thời kì từ 15-18 tuổi, được gọi là tuổi đầu thanh niên (thanh niên mới lớn)
- Thời kì từ 18 đến 25 tuổi, được gọi là thanh niên trưởng thành.
Hoàn cảnh xã hội của tuổi thanh niên thường khó xác định và phụ thuộc vào môi trường
văn hoá, xã hội và vào hoạt động chủ đạo của đa số thanh niên trong cùng độ tuổi.
ở các nước phát triển hầu hết thành viên trong cộng đồng được dành khoảng 20 - 22 năm
đầu đời cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia thực thụ vào guồng máy sản
xuất của xã hội. Do vậy, trong khoảng từ 16 - 22 tuổi, hầu hết vẫn còn là học sinh, sinh
viên với hoạt động chính là học tập.
Ở các nước đang phát triển và một số cộng đồng, sau khi hết Tiểu học và THCS,
xuất hiện sự phân luồng: một số không học tiếp mà tham gia ngay vào hoạt động sản
xuất, tạo của cải cho bản thân và xã hội; một số khác tiếp tục theo học THPT và cao hơn.
Sự phân hoá, phân luồng hoạt động chủ đạo đã tạo ra các vị thế xã hội khác nhau, dẫn
đến sự khác biệt đáng kể về tâm lí giữa các thanh niên cùng tuổi đời.
ở nước ta, có thể khái quát lứa tuổi từ 16 đến 25 thành 3 nhóm: thanh niên học sinh
THPT, thanh niên sinh viên và nhóm thanh niên lao động. Sự phát triển tâm lí của ba
nhóm thanh niên có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt, do vị
thế xã hội và hoạt động chủ đạo của các thành viên trong mỗi nhóm.
1.2.2.2. Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của tuổi thanh niên
Một trong những yếu tố xã hội đặc trưng, có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển
tâm lí tuổi thanh niên là sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của họ so với các lứa tuổi
trước đó.
a. Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của thanh niên trong gia đình
Sự thay đổi vai trò và vị thế xã hội của thanh niên diễn ra trước hết trong quan hệ gia
đình. Trước tuổi thanh niên, hầu hết các hoạt động của trẻ em đều được điều khiển, quản
lí và kiểm soát của người lớn. Khi các em gặp sự cố trong quan hệ, thường có sự can
thiệp trực tiếp của người lớn và họ sẽ quyết định các hành vi của trẻ. Sang tuổi thanh
niên, vấn đề đã thay đổi. Thanh niên được (và phải) tự quyết nhiều vấn đề trong cuộc
sống của mình, ngay cả các vấn đề hệ trọng như chuyện học hành, yêu đương, chọn và
học nghề, việc làm v.v. Sự can thiệp của người lớn không còn có ý nghĩa quyết định như
các giai đoạn trước. Nếu đã nghỉ học thì phải làm một nghề nào đó để kiếm tiền. Ngoài
ra, họ phải chăm sóc, tham gia kèm cặp các em nhỏ học bài, nấu cơm, dọn dẹp nhà
cửa....ở những gia đình neo đơn hoặc khó khăn, các em phải đảm nhận trách nhiệm như là
một trụ cột.
b. Sự chuyển đổi vai trò và vị thế của thanh niên trong các quan hệ xã hội
Tuổi thanh niên được đánh dấu bởi sự xuất hiện nhiều vai trò mới - vai trò của một
công dân, điều mà trước đó chưa có ở thiếu niên: ra nhập Đoàn thanh niên; được cấp
chứng minh thư nhân dân; được hưởng quyền lợi và trách nhiệm dân sự; quyền bàu cử và
ứng cử; quyền kết hôn. Một bộ phận thanh niên sau khi học xong THCS, THPT hoặc các
trường nghề đã tham gia thực sự vào guồng máy lao động sản xuất của xã hội, tự lập về
kinh tế. Những khía cạnh kinh tế - xã hội nêu trên đã giúp thanh niên xác lập được địa vị
xã hội mới- địa vị của người trưởng thành.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ trong thanh niên vẫn phụ thuộc vào người lớn. Về
vật chất, tài chính nhiều em vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Nhiều em vẫn còn đang đi học tại
trường THPT hoặc các trường nghề. Trong quan hệ với người lớn, một mặt các em luôn
được nhắc nhở là người lớn, phải chứng tỏ các phẩm chất tâm - sinh lí và nhân cách của
người lớn; mặt khác, các em vẫn bị đối xử như trẻ em. Những khía cạnh xã hội trên đã
tạo ra ở thanh niên mới lớn một hoàn cảnh xã hội có tính không xác định và không ổn
định. Sự khác nhau và phức tạp về vị thế xã hội nêu trên của thanh niên được phản ánh
vào đời sống tâm lí của họ và tạo ra sự khác biệt về tâm lí giữa các nhóm thanh niên.

1.2.3. Những đặc tính tâm lý xã hội của sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng đến những
đặc tính đó
1.2.3.1. Sự phát triển thể chất của thanh niên
Lứa tuổi thanh niên là thời kì hoàn thiện sự phát triển thể chất của con người cả về
phương diện cấu tạo và chức năng. Đây là thời kì thể lực sung mãn nhất trong cả đời
người, “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng bò ”. So với tuổi thiếu niên, sự gia tăng về chiều cao
và cân nặng của thanh niên đều chậm lại. Các em gái thường trưởng thành đầy đủ vào
khoảng 17 - 18 tuổi, các em trai thường trưởng thành chậm hơn (vào khoảng 18 - 20
tuổi). Từ 18 đến 25 tuổi, sức khoẻ của cá nhân đạt tới mức cao nhất, các phản xạ nhanh
nhạy nhất, ít bị bệnh tật nhất trong cả đời người. Những năm giữa và cuối thanh niên (20
- 25 tuổi) là thời điểm tốt nhất về sức khoẻ sinh lí và tâm lí cho việc sinh con. Vì vậy, nếu
các điều kiện xã hội thuận lợi thì đây là thời điểm tối ưu để thanh niên nam nữ kết hôn và
sinh con.
Nói tóm lại thanh niên là mùa xuân của cuộc đời.
Chiều cao và cân nặng của của thanh niên Việt Nam
Chiều cao
Tuổi Nam Nữ
n n
16 3051 160,29 ± 5,80 3400 152,45± 4,42
17 2790 162,73 ± 5,15 2892 152,87 ± 4,52
18 2310 163,45 ± 4,75 2482 152,77 ± 4,20
19 2124 163,72 ± 4,46 1894 152,97 ± 4,43
20-24 5090 163,72 ± 4,67 3730 153,0 ± 4,32
Cân nặng
Tuổi n n
16 3060 45,33 ± 5,43 3407 42,13 ± 4,24
17 2806 48,03 ± 5,18 2873 42,98 ± 4,25
18 2321 49,71 ± 4,84 2494 43,84 ± 4,14
19 2118 50,72 ± 4,61 1899 44,87 ± 4,04
20-24 5086 52,11 ± 4,70 3722 44,60±4,22
Nguồn: Bộ y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỉ 90 - thế kỉ XX

1.2.3.2. Sự phát triển của hoạt động nhận thức


Hoạt động nhận thức trong học tập của sinh viên diễn ra ở cường độ cao. Các quá
trình nhận thức như: tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng … đều được huy động tối đa để
đáp ứng yêu cầu học tập theo phương thức tự nghiên cứu.
Đối tượng học của sinh viên không phải chỉ là những tri thức khoa học hấp dẫn mà
còn bao gồm rất nhiều tri thức khoa học vừa khó, vừa khô khan, nhưng sinh viên đều phải
tập trung lĩnh hội và tham gia vào bài giảng nên tri giác có chủ định, chú ý có chủ định
được huy động là chủ yếu.
Hầu hết các tri thức khoa học ở đại học đều đòi hỏi phải ghi nhớ ý nghĩa, vì thế sinh
viên phải biết tổ chức ghi nhớ để có trí nhớ dài hạn.
Sinh viên có những phẩm chất tư duy tốt như: óc phân tích, tổng hợp, khả năng phê
phán, tính độc lập, khả năng khái quát vấn đề; đồng thời có sự sáng tạo trong vận dụng tri
thức sao cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Khả năng tưởng tượng của sinh viên được phát triển ở mức độ cao; sinh viên có khả
năng xây dựng những hình ảnh mới, độc đáo mà học sinh phổ thông chưa có được, nhờ
đó họ có thể lĩnh hội tốt các tri thức có tính chất trừu tượng ở đại học
1.2.3.3. Sự phát triển về tình cảm
Sinh viên đã trưởng thành về tâm, sinh lý nên đời sống tình cảm rất phong phú, sâu
sắc và bền vững. Tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên
phát triển đến mức độ tích cực nhất
Tình cảm trí tuệ của sinh viên biểu hiện rõ qua thái độ tích cực đối với việc chiếm
lĩnh tri thức khoa học. Nhiều sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá các phương pháp học
tập phù hợp với điều kiện và yêu cầu môn học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học tập.
Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển có chiều sâu. Sinh
viên có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở những gì mà họ yêu thích.
Tình bạn của sinh viên phát triển mạnh và có chiều sâu. Tình bạn góp phần làm cho
nhân cách của sinh viên phát triển mạnh. Tình yêu nam nữ của sinh viên cũng rất phát
triển. Tình yêu sinh viên thường là những mối tình đẹp, nhưng vẫn còn tồn tại một số
lệch lạc trong quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu.
Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đã phát triển. Sinh viên có những kinh nghiệm nhất
định về các lĩnh vực tình cảm; có khả năng kiềm chế bản thân trước những ham muốn
tiêu cực, biết phân tích và đánh giá các hiện tượng trong đời sống xã hội và của bản thân.
Sự phát triển đời sống tình cảm của thanh niên đã đạt tới mức trưởng thành và ổn định. Trong
các lĩnh vực tình cảm: đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, tình bạn, tình yêu của lứa tuổi này đã có sự
gắn kết hài hoà giữa nhận thức- xúc cảm - hành động ý chí và đã thực sự trở thành động lực
mạnh mẽ, thúc đẩy thanh niên hành động. Nói cách khác, tình cảm ở thanh niên phát triển và
đã thực sự trở thành các phẩm chất, các thuộc tính tâm lí ổn định và bền vững trong cấu trúc
nhân cách tuổi thanh niên.
a. Tình bạn tuổi thanh niên
Tình bạn đã được nâng lên mức đồng chí (cùng chí hướng). Khác với tuổi thiếu
niên chủ yếu là đồng tính cách, sở thích, thói quen …
Tuổi thiếu niên diễn ra quá trình tìm kiếm tình bạn căng thẳng. Tuổi thanh niên
cũng vậy, hơn nữa còn đi vào chiều sâu hơn. Tiêu chí kết bạn là sự tâm tình, thân mật,
tình cảm ấm áp và cùng chí hướng phân đấu vì giá trị nào đó. Do tự ý thức phát triển
mạnh, thanh niên có nhu cầu tìm kiếm “cái tôi” khác, ở bên ngoài tôi. Nhu cầu này lần
đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời cá nhân và là sơ sở để tuổi thanh niên thường “dốc bầu
tâm sự”’ với bạn, được chia sẻ những rung cảm của mình.
Tính chất và mức độ tâm tình của tuổi thanh niên có sự khác nhau về giới. Nhìn
chung, nhu cầu tình bạn thân mật ở nữ thanh niên xuất hiện sớm hơn so với nam giới.
Quan niệm về tình bạn của thanh niên cũng có phần khác biệt về mặt cá nhân. Một số cho
rằng đã là bạn thân thì chỉ có một vài người, số khác quan niệm, có thể có nhiều bạn thân.
Một trong những điểm nổi bật trong tình bạn tuổi thanh niên là tính cảm xúc cao.
Trong đa số trường hợp, tình bạn khác giới tuổi thanh niên có nhiều điểm của tình yêu
nam - nữ: cũng say mê, nồng nàn, sự trung thành, hy sinh, hạnh phúc, thẹn thùng, ghen
tuông và đau khổ phải chia ly v.v. Trên thực tế, có nhiều trường hợp từ tình bạn khác giới
chuyển sang tình yêu và đi đến hôn nhân.
Tình bạn của thanh niên rất bền vững. Những quan hệ bạn bè trong thời kì thanh
niên thường được lưu giữ trong suốt cả đời người.
b. Tình yêu tuổi thanh niên.
Một trong những đặc trưng điển hình nhất của tuổi thanh niên là tình yêu. Tình yêu là
tuyệt tác chỉ có ở con người và lần đầu tiên xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên theo đúng
nghĩa của nó .
Thực ra, ở cuối tuổi thiếu niên, các em trai và gái đã xuất hiện những rung động đầu đời
đối với bạn khác giới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những cảm xúc có phần mơ hồ và không
ổn định. ở tuổi thanh niên, tình yêu nam nữ là sự hoà hợp giữa sự say mê, cuồng nhiệt và
đằm thắm của tình yêu với tình dục và với trách nhiệm xã hội. Tình yêu của thanh niên
nhất là thanh niên trưởng thành, đã mang tính hiện thực, ổn định và sâu sắc. Đa số hướng
tới hôn nhân. Về phương diện cá nhân, nếu trong giai đoạn này tình yêu không được thoả
mãn hoặc bị vấp váp, thất bại, thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong tiến trình tìm kiếm bạn đời
ở các giai đoạn sau.
Có thể nhận biết tình yêu nam nữ qua một số dấu hiệu: Quan tâm chăm sóc đặc biệt
người mình yêu, mong muốn được giúp đỡ người mình yêu; rất cần đến người mình yêu;
có khát vọng mãnh liệt được ở bên cạnh người yêu và được người yêu chăm sóc, chiều
chuộng; tin tưởng vào người yêu: trao đổi, tâm sự với nhau; khoan dung, độ lượng với
người yêu, ngay cả với sai lầm và khuyết điểm của người yêu.
Tình yêu của thanh niên có thể được thúc đẩy bởi nhiều định hướng giá trị khác nhau. Có
thể kể ra một số định hướng chính.
1). Yêu vì vẻ đẹp. Những thanh niên yêu vì vẻ đẹp thường bị hấp dẫn, cuốn hút bởi thể
chất, bởi cái đẹp cơ thể. Họ yêu vẻ đẹp của cơ thể. Tình yêu vẻ đẹp rất mãnh liệt nhưng
chóng tàn.
2) Tình yêu - bạn bè. Đây là tình yêu được nảy sinh từ tình bạn hay như tình bạn. Đó là
sự đồng điệu, đồng cảm giữa hai tâm hồn. Tình yêu này khi đã được nảy sinh thì ngày
càng sâu sắc hơn. Trong trường hợp tình yêu phai nhạt, sẽ nhạt từ từ và có thể chuyển
sang tình bạn
3) Tình yêu vị tha, là tình yêu dâng hiến, trinh trắng và không đòi hỏi. Đây là tình yêu
nhuốm màu lãng mạn, tiểu thuyết và lí tưởng hoá
4) Tình yêu - trò chơi. Tình yêu được coi như là trò chơi, giải trí, thú tiêu khiển trong
cuộc sống. Những thanh niên yêu nhau với tư cách là trò chơi thường có xu hướng thô
tục hoá, đơn giản hoá tình yêu. Họ thường bất cẩn và thiếu trách nhiệm, thiếu nghiêm túc
với tình yêu, thậm chí cả danh dự
5) Tình yêu thực dụng. Những người có tình yêu thực dụng coi tình yêu, thậm chí hôn
nhân như một loại hàng hoá, đổi chác. Họ dùng lí trí để phân tích thiệt hơn trong tình yêu
và rất quan tâm tới địa vị, xuất thân, hoàn cảnh, học vấn của người định yêu. Nếu tìm
được đối tác phù hợp, họ sẽ tiếp cận và tình yêu sẽ nảy nở. Tình yêu thực dụng như con
dao hai lưỡi, rất dễ làm vỡ mộng và tổn thương những người trong cuộc.
Các kiểu định hướng giá trị yêu cơ bản nêu trên có thể thay đổi theo lứa tuổi. Chẳng hạn,
thanh niên mới lớn thiên về tình yêu vẻ đẹp và vị tha, còn thanh niên trưởng thành chấp
nhận tình yêu mang tính thực tế hơn. Cũng cần lưu ý, ngoài các định hướng chính nêu
trên, trong thực tiễn còn có các loại pha trộn giữa chúng.
Có sự khác nhau rõ nét về kì vọng trong tình yêu của thanh niên nam và nữ. Thanh niên
nam có xu hướng tách tình yêu ra khỏi tình dục, còn nữ giới lại mong gắn kết hai lĩnh vực
đó với nhau. Trong quan hệ yêu đương, khi nữ giới tìm kiếm quan hệ tình cảm thì một số
nam giới chủ động tìm kiếm quan hệ tình dục. Sự khác biệt này đôi khi làm cho nữ giới
lâm vào tình cảnh khó khăn, dằn vặt: nếu đồng ý thì sợ người yêu sẽ được thoả mãn và bỏ
rơi mình, còn nếu không đồng ý thì sợ người ta sẽ nói “anh rất kính trọng em” và rồi cũng
chia tay.
Nhìn chung, tình yêu ở lứa tuổi thanh niên về cơ bản là tình cảm lành mạnh. Vì vậy,
người trưởng thành và xã hội không nên can thiệp thô bạo vào thế giới tình cảm của họ,
càng không được chế diễu, quở trách, cấm đoán thanh niên khi ở họ xuất hiện tình yêu,
mà nên trao đổi, tham vấn và trợ giúp họ khi gặp khó khăn, đặc biệt đối với thanh niên
mới lớn. Mặt khác, cũng cần khắc phục, hạn chế các hiện tượng thiếu lành mạnh của một
số thanh niên trong quan hệ nam - nữ, nhất là trong điều kiện phương tiện thông tin phát
triển nhanh và xu hướng thực dụng ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
1.2.3.4. Sự phát triển tự ý thức
* Các mặt biểu hiện của tự ý thức:
Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ dáng vẻ bề ngoài, vị trí, các mối quan
hệ xã hội đến phẩm chất và năng lực cá nhân.
- Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá (hài lòng hoặc không hài
lòng, tự cao hoặc tự ti …).
- Xác định mục đích phấn đấu, tự điều khiển và điều chỉnh hành vi theo mục đích tự
giác.
- Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.
* Đặc điểm tự ý thức của sinh viên:
Do sự trưởng thành về lứa tuổi, do sự thay đổi vị thế xã hội, sinh viên có khả năng
đánh giá khách quan về bản thân; có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động tâm lý như
nhận thức, thái độ và hành vi để thích ứng được với các hoạt động học tập, rèn luyện,
hoạt động tập thể ở trường đại học.
Sinh viên tự thu thập và xử lý các thông tin về bản thân để tự điều chỉnh mình. Sinh
viên tự nhìn nhận lại bản thân, so sánh với những nhận xét của chính mình về bản thân,
từ đó nảy sinh nhu cầu tự hoàn thiện.
Sự phát triển tự ý thức của sinh viên là biểu hiện của sự phát triển nhân cách người
lao động trong tương lai. Sự đánh giá khách quan về bản thân giúp sinh viên nhận thức rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của mình để xác định mức độ đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
1) Hình ảnh về thân thể
Ngay từ giai đoạn tuổi dậy thì, thanh niên đã rất quan tâm đến các vấn đề liên quan tới thân thể
của mình. Thái độ này vẫn được duy trì trong suốt thời kì thanh niên. Câu hỏi thường trực đối
với nhiều thanh niên là hình ảnh thân thể của mình thế nào trong mắt người khác, nhất là trong
mắt bạn. Nhiều thanh niên (cả nam và nữ) thường xuyên đứng trước gương để ngắm nhìn và
kiểm tra cơ thể của mình; lo lắng về tầm vóc nhỏ bé hoặc béo phệ, mụn trứng cá, nốt ruồi trên
mặt v.v. Không ít thanh niên xây dựng và thực hiện rất nghiêm kế hoạch rèn luyện thân thể và
các hành vi ứng xử, không phải chủ yếu để tăng cường sức khoẻ mà để tạo ra hình ảnh hấp
dẫn, uy tín và sự mến phục của bạn bè. Những thanh niên chậm lớn hoặc quá béo, chậm xuất
hiện các dấu hiệu giới tính phụ thường cảm thấy băn khoăn, khổ tâm, mặc cảm tự ti trước bạn
bè. Thường các trải nghiệm này được dấu kín, nhưng cũng có nhiều trường hợp được bộ lộ
qua các phản ứng tiêu cực về ăn uống (như biếng ăn hoặc ăn uống vô độ), về hành vi ứng xử
(làm dáng quá mức) v.v. Nói chung, hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng trong ý
thức của tuổi thanh niên và đây chính là một trong những đặc trưng tâm lí điển hình của lứa
tuổi này.
2) Khả năng tự đánh giá bản thân
Cũng như thiếu niên, thanh niên khao khát muốn biết họ là người như thế nào, có năng
lực gì. Vì vậy tự đánh giá là một nét tâm lí điển hình của lứa tuổi này.Tự đánh giá của
thanh niên có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tự đánh giá của thanh niên có chủ kiến rõ ràng và đã có sự đối chiếu
với các chuẩn chung của xã hội. Điều này khác với các lứa tuổi trước, ở đó đánh giá về
bản thân thường lặp lại ý kiến đánh giá của người lớn. Thanh niên, khi đánh giá bản thân
thường chủ yếu dựa vào nhận thức của mình. Tuy nhiên, do khả năng nhận thức về bản
thân chưa thực sự khái quát và sâu sắc, nên nhiều thanh niên chưa đánh giá đúng, khách
quan bản thân mình
Thứ hai: Sự phản tỉnh về các phẩm chất tâm lí của mình là một trong những đặc
trưng điển hình của tuổi thanh niên.
Phản tỉnh là sự quay vào bên trong bản thân của ý thức, làm cho các phẩm chất tâm lí của
cá nhân được phản ánh rõ nét hơn. Sự phản tỉnh của tuổi thanh niên, giúp họ không chỉ ý
thức được rõ hơn “cái tôi” của bản thân, mà còn ý thức rõ hơn địa vị xã hội của mình
trong gia đình, nhà trường và xã hội. Những vấn đề như tôi là ai? Tôi là người như thế
nào? Tôi có những năng lực vượt trội nào? Lí tưởng của tôi là gì? Ai là bạn, ai là thù của
tôi? Tôi muốn trở thành người như thế nào? Tôi phải làm gì để cho bản thân tôi cũng như
cho mọi người xung quanh được tốt hơn? v.v là những vấn đề trăn trở trong suốt thời kì
thanh niên, nhất là giai đoạn đầu thanh xuân. Chúng trở thành nhu cầu và là một yếu tố
quan trọng của sự tự xác định về mặt đạo đức - xã hội của thanh niên, quy định các hành
vi tu dưỡng của họ. Nhu cầu tự phân tích bản thân, đặt ra những yêu cầu cao đối với bản
thân, là tiền đề của tự giáo dục có mục đích của thanh niên và là dấu hiệu để xác định sự
phát triển về mặt nhân cách của lứa tuổi này. Về phương diện thực tiễn, biểu hiện dễ nhận
thấy sự phản tỉnh của thanh niên là đa số có sổ tu dưỡng, nhật kí dưới nhiều hình thức;
thông qua sự quan tâm đến các hành động tự tu dưỡng, xây dựng và “ướm thử” theo các
mẫu người lí tưởng mà thanh niên ngưỡng mộ trong văn học, nghệ thuật, thể thao v.v.
Chiều sâu và cường độ của sự phản tỉnh phụ thuộc vào đặc điểm tâm lí cá nhân (xu
hướng nhân cách: hướng nội hay hướng ngoại; khả năng nhận thức, trình độ học vấn v.v)
và phụ thuộc vào các nhân tố xã hội của cá nhân đó (điều kiện giáo dục gia đình, nhà
trường, môi trường xã hội v.v).
Thứ ba: Tự đánh giá của thanh niên có chiều sâu và khái quát hơn nhiều so với
tuổi thiếu niên. Thanh niên không chỉ ý thức và đánh giá về “cái tôi” hiện thực (tôi là
ai?), mà còn đánh giá “cái tôi” lí tưởng (tôi muốn trở thành người như thế nào?), “cái tôi”
năng động (tôi sẽ cố gắng để thành người như thế nào?). Mặt khác, thanh niên không còn
đánh giá từng đặc điểm thể chất hay phẩm chất tâm lí riêng của mình như tuổi thiếu niên
mà đã đánh giá khái quát về thể chất, tâm lí và nhân cách của mình dựa trên cơ sở phân
tích và khái quát hóa các đặc trưng riêng.
Điều cần lưu ý, dù tự đánh giá của thanh niên đã có tính độc lập, có chiều sâu và mang
tính khái quát, nhưng do ít dựa vào ý kiến của người khác, nên không phải bao giờ cũng
phù hợp với cái thực có của mình. Nhiều thanh niên đánh giá quá cao bản thân mình, dẫn
đến tự cao, coi thường người khác hoặc đánh giá quá thấp, coi mình là bất tài, vô dụng.
Nhìn chung, yếu tố “lí tưởng hoá” vẫn phổ biến trong tự ý thức và tự đánh giá của thanh
niên.
Thứ tư: sự tự đánh giá của thanh niên được thực hiện theo hai cách.
Cách thứ nhất: so sánh mức độ kì vọng, mong muốn của mình với kết quả đạt được. Đa
số thanh niên đánh giá cao năng lực và các phẩm chất tâm lí - xã hội của mình. Để khẳng
định khả năng của mình, thanh niên sẵn sàng cao làm những công việc khó khăn, mạo
hiểm (thậm chí qúa sức hoặc nguy hại đến bản thân). Nhiều thanh niên không thích, coi
thường những công việc bình thường hàng ngày. Coi đó là những việc làm không tương
xứng với họ. Kết quả là một mặt, thanh niên thường có những hành động quả cảm, phi
thường mà các lứa tuổi khác không có. Mặt khác. Cũng do đặc điểm này, ở thanh niên có
thể xuất hiện các hành động nguy hại mà người trưởng thành không chấp nhận, cho là
“điên rồ” như càn quấy, ngang tàng, các trò chơi mạo hiểm, phạm luật v.v. Những thanh
niên có hành vi này thường bị quy kết về đạo đức. Thực ra không hoàn toàn như vậy,
phần lớn trong số họ chỉ muốn thử thách, kiểm tra sức mạnh và các phẩm chất tâm lí của
mình. Vì vậy xã hội không nên cấm đoán họ, cần tạo điều kiện và định hướng họ vào các
trò chơi, các hành động phù hợp với xã hội và với tâm lí thanh niên. Sự kì vọng về bản
thân và tính sẵn sàng cao để khẳng định mình là đặc điểm tâm lí quý báu của thanh niên.
Là cơ sở của tính tích cực hoạt động của tuổi thanh niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn,
không phải bao giờ cũng có sự phù hợp giữa kì vọng về bản thân và tính sẵn sàng của
thanh niên với kết quả hành động. Trong nhiều trường hợp, do khả năng và kinh nghiệm
còn hạn chế nên thanh niên có thể thất bại (theo kì vọng của họ và của xã hội). Từ đó
thường xuất hiện sự tiêu cực khi đánh giá về bản thân. Trong trường hợp như vậy, người
trưởng thành cần giúp đỡ, động viên các bạn trẻ, giúp họ lượng giá đúng khả năng của
mình và biết cách khắc phục những trở ngại để thực hiện mục tiêu của mình.
Cách thứ hai để thanh niên tự đánh giá các phẩm chất tâm lí của mình là so sánh, đối
chiếu với ý kiến đánh giá của người xung quanh về bản thân. Thanh niên rất nhạy cảm
với các ý kiến của người khác đánh giá về mình và thường coi đó là các tiêu chuẩn để
đánh giá và đánh giá lại. Trong quá trình tiếp nhận sự đánh giá ngoài, các ý kiến của
người lớn rất được thanh niên coi trọng. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý kiến
của bạn ngang hàng với của người lớn (đặc biệt đối với các chuẩn đạo đức), thanh niên
thường theo ý kiến của người lớn. Vì vậy, khi đánh giá của người lớn không đúng hoặc
không thống nhất (giữa lời nói và việc làm) sẽ tạo ra tổn thất lớn về niềm tin trong thanh
niên.
3) Tính tự trọng của thanh niên
Một trong những đặc trưng nổi bật của tuổi thanh niên so với các lứa tuổi khác là sự phát
triển đến mức độ cao, ổn định của tính tự trọng.
Tính tự trọng là sự tin tưởng, tôn trọng và chấp nhận chính bản thân, nhân cách của mình,
trên cơ sở tự đánh giá đúng đắn, khái quát về bản thân. Tính tự trọng là thái độ tích cực, lạc
quan của cá nhân, thể hiện sự đánh giá khách quan, nghiêm túc, yêu cầu cao đối với bản thân
mình. Người có tính tự trọng thường không chấp nhận sự đánh giá không đúng về mình;
không chấp nhận sự xúc phạm đến các giá trị sống và hạ thấp nhân cách của mình. Mức độ tự
trọng ở thanh niên có phổ rất rộng, từ mức thấp nhất là cá nhân hầu như không có sự tôn trọng
bản thân (thiếu tự trọng), đến tự trọng cao. Tự trọng cao là sự đánh giá đúng mức về bản thân,
biết bảo vệ danh dự của mình một cách phù hợp trong các hoàn cảnh cụ thể. Tự trọng thấp là
sự coi thường, thiếu tin tưởng vào bản thân, tự hạ thấp mình, chấp nhận hoặc không coi trọng
các đánh giá không đúng hoặc xúc phạm đến giá trị nhân cách của mình. Thiếu tự trọng thể
hiện thái độ tiêu cực của cá nhân đối với bản thân. Nó là một yếu tố dẫn đến sự thiếu tôn trọng
của người khác đối với mình. Những thanh niên có tính tự trọng thấp thường gặp nhiều khó
khăn trong giao tiếp và cản trở sự phát triển nhân cách của mình.
Cần phân biệt tính tự trọng với tính tự kiêu, thái độ nhút nhát hay sự thiếu phê phán đối
với bản thân của thanh niên. Nhiều người trong số họ đánh giá không đúng bản thân mình
(quá cao hoặc quá thấp). Từ đó có thái độ không đúng đối với bản thân và với người
khác. Sự tin tưởng bản thân một cách quá mức và thiếu căn cứ thường gây khó chịu, xung
đột và thất vọng từ phía người lớn. Cách tốt nhất để giúp những thanh niên này không
phải là phê phán họ mà cần tổ chức cho họ hoạt động và giao tiếp, để thông qua đó họ có
các trải nghiệm thực tế. Bằng con đường tự trải nghiệm họ sẽ có thái độ đúng về bản thân
mình.
1.2.3.5. Lí tưởng sống và tính tích cực xã hội của thanh niên
a) Sự hình thành lí tưởng sống và kế hoạch đường đời của thanh niên
* Lí tưởng sống của thanh niên. Theo đúng nghĩa của nó, lí tưởng sống được hình thành
và phát triển mạnh ở tuổi thanh niên. Trước đó, trong thời kì tuổi thiếu niên, nhiều em
cũng đã có và thể hiện khá rõ lí tưởng sống của mình. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp,
chúng thường chỉ là biểu tượng về các cá nhân cụ thể có ảnh hưởng lớn đến các em và
được các em ngưỡng mộ: thầy, cô giáo; ca sỹ, vận động viên thể thao, nhà văn, nhà khoa
học v.v. Sang tuổi thanh niên, “hình mẫu người lí tưởng” không còn gắn liền với các cá
nhân cụ thể mà có tính khái quát cao về các phẩm chất tâm lí, nhân cách điển hình của
nhiều cá nhân trong các lĩnh vực hoạt động, nghề nghiệp, được thanh niên quý trọng và
ngưỡng mộ, noi theo.v. v.
Một điểm đặc trưng trong lí tưởng của thanh niên là lí tưởng nghề và lí tưởng đạo đức
cao cả. Lí tưởng này được thể hiện qua mục đích sống, qua sự say mê với việc học tập,
nghiên cứu và lao động nghề nghiệp; qua nguyện vọng được tham gia các hoạt động
mang lại giá trị xã hội lớn lao, được cống hiến sức trẻ của mình, ngay cả trong trường
hợp nguy hiểm đến tính mạng của bản thân. Nhiều thanh niên luôn ngưỡng mộ và cố
gắng theo các thần tượng của mình trong các tiểu thuyết cũng như trong cuộc sống.
Có sự khác nhau khá rõ về giới giữa lí tưởng của nam và nữ thanh niên. Đối với nữ thanh
niên, lí tưởng sống về nghề nghiệp, về đạo đức xã hội thường mang tính nữ và không
bộc lộ rõ và mạnh như nam.
Điều cần lưu ý là trong thanh niên, đặc biệt là thanh niên mới lớn, vẫn còn một bộ phận
thanh niên bị lệch lạc về lí tưởng sống. Những thanh niên này thường tôn thờ một số tính
cách riêng biệt của các nhân cách xấu như ngang tàng, càn quấy v.v và coi đó là biểu
hiện của thanh niên anh hùng, hảo hán v.v
Việc giáo dục lí tưởng của thanh niên, đặc biệt là các thanh niên mới lớn cần đặc biệt lưu
ý tới nhận thức và trình độ phát triển tâm lí của các em.
* Kế hoạch đường đời là một khái niệm rộng, bao hàm từ sự xác định các giá trị đạo đức,
mức độ kì vọng vào tương lai, nghề nghiệp, phong cách sống v.v. ở tuổi thiếu niên kế
hoạch đường đời còn mơ hồ và chưa tách khỏi ước mơ. Thiếu niên chỉ đơn giản tưởng
tượng mình trong các vai trò xã hội khác nhau và so sánh mức độ hấp dẫn của chúng,
nhưng không quyết định dứt khoát vai trò nào cho bản thân và cũng chưa có hành động
tích cực để đạt đến vai trò đó. Sang tuổi thanh niên thì tính tất yếu của sự lựa chọn vai trò
trở lên rõ ràng. Từ nhiều khả năng ở tuổi thiếu niên dần dần hình thành nên đường nét
của một vài phương án hiện thực và có thể được chấp nhận. Đến cuối tuổi thanh niên,
một trong số vài phương án ban đầu sẽ trở thành lẽ sống, định hướng hành động của họ.
Vấn đề quan trọng nhất và là sự bận tâm nhất của thanh niên mới lớn trong việc xây
dựng kế hoạch đường đời là vấn đề nghề và chọn nghề, chọn trường học nghề. Xu hướng
và hứng thú nghề đã xuất hiện từ tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, chỉ đến khi bước sang tuổi
thanh niên thì xu hướng nghề mới trở nên cấp thiết và mang tính hiện thực. Hầu hết thanh
niên mới lớn đều phải đối mặt với việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Việc lựa
chọn nghề và trường học nghề luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất và là sự khó khăn của
đa số học sinh THCS và THPT. Về chủ quan, sự hiểu biết về nghề thanh niên học sinh
còn hạn chế. Nhiều thanh niên chưa thực sự hiểu rõ mạng lưới nghề hiện có trong xã hội,
chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa nghề và trường đào tạo nghề, nên ít em hướng đến
việc chọn nghề mà chủ yếu chọn trường để học. Việc chọn nghề của số thanh niên này
không phải với tư cách là chọn một lĩnh vực việc làm ổn định phù hợp với khả năng và
điều kiện của mình, không phải là một nghề để mưu sinh, mà chủ yếu chỉ là sự khẳng
định mình trước bạn hoặc chủ yếu là theo đuổi chí hướng có tính chất lí tưởng hoá của
mình. Vì vậy, mặc dù các em ý thức được tầm quan trọng của việc chọn nghề nhưng hành
vi lựa chọn của các em vẫn cảm tính. Về khách quan, trong nền kinh tế hiện đại, mạng
lưới nghề rất đa dạng, phong phú và biến động, nên việc định hướng và lựa chọn giá trị
nghề của thanh niên trở lên rất khó. Việc giáo dục nghề và hướng nghiệp cho học sinh
luôn là việc làm rất quan trọng của trường phổ thông và của toàn xã hội.
b) Tính tích cực xã hội
So với các lứa tuổi trước, tuổi thanh niên có tính tích cực xã hội rất cao và được thể hiện
qua nhiều khía cạnh sau:
* Nhu cầu tinh thần của thanh niên rất cao. Thanh niên là tầng lớp rất nhạy cảm với các
sự kiện chính trị- xã hội, kinh tế v.v. của đất nước. Họ không chỉ quan tâm tới hoạt động
chính của họ (học tập hoặc lao động sản xuất) mà còn quan tâm sâu sắc đến tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa trong nước và trên thế giới.
*Hứng thú nhận thức và hứng thú tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, nghệ thuật, thể
thao như đọc sách, xem phim, ca nhạc, các hoạt động thể thao, du lịch, các câu lạc bộ, các
diễn đàn tuổi trẻ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan trực
tiếp tới thanh niên
* Một trong những biểu hiện rõ nhất của tính tích cực xã hôi của thanh niên là phạm vi và
mức độ tham gia các hoạt động xã hội.
Phạm vi hoạt động xã hội của thanh niên rất rộng. Dù rất bận học tập hoặc lao động sản
xuất, thanh niên vẫn say mê các hoạt động xã hội, từ các hoạt động mang ý nghĩa chính
trị, liên quan tới vận mệnh của xã hội, quốc gia đến các phong trào xã hội hàng ngày. Họ
là lực lượng chủ yếu và đi đầu trong các sự kiện trọng đại của đất nước, dân tộc.
Thanh niên tham gia các hoạt động chính trị xã hội với tinh thần lãng mạn và nhiệt huyết
của tuổi trẻ, dám nghĩ, dám làm, muốn cống hiến sức lực của mình cho sự nghiệp lớn lao
nào đó. Vì vậy nhiều thanh niên đã làm được những việc phi thường. Tuy nhiên, do trình
độ nhận thức về chính trị- xã hội của một số thanh niên chưa cao nên nhiều khi dẫn đến
các hành động sai lầm
+ Sự phát triển định hướng giá trị của sinh viên
Vào học đại học nghĩa là sinh viên đã lựa chọn giá trị là trình độ học vấn cao, được
lao động ở trình độ cao, được đãi ngộ hơn các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Tuy
nhiên, lý do chọn nghề ở những sinh viên khác nhau có sự khác nhau.
Do tác động của kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, các giá trị truyền thống ít
nhiều thay đổi. Sinh viên hướng vào bản thân nhiều hơn, coi trọng cá nhân hơn, đồng thời
cũng chấp nhận thách thức của thực tế, sẵn sàng hợp tác những cũng chấp nhận cạnh
tranh.
Sinh viên là lớp người trẻ, có vốn kiến thức khoa học cơ bản và đang được trang bị
những kiến thức thuộc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Sinh viên có khát vọng vươn lên
nhưng cũng bộc lộ tính bồng bột của tuổi trẻ nên việc thực hiện các dự định cho tương lai
không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi.
1.2.3.6. Xu hướng và các kiểu nhân cách sinh viên
a) Xu hướng phát triển nhân cách sinh viên
Sinh viên là người đang học nghề nên xu hướng phát triển nhân cách của sinh viên
là xu hướng phát triển nhân cách nghề nghiệp. Mô hình nhân cách mà sinh viên hướng tới
là nhân cách của người lao động có trình độ cao trong lĩnh vực chuyên môn mà sinh viên
đã chọn.
Sinh viên tiếp tục nhận thức rõ hơn, hiểu kỹ hơn về nghề nghiệp và các yêu cầu của
nghề nghiệp đã chọn, đồng thời dần dần hình thành tình cảm nghề nghiệp.
Xu hướng nghề nghiệp dần được ổn định và từng bước hình thành phẩm chất, năng
lực cần thiết của nghề.
Tình cảm đạo đức, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng phát triển mạnh; tình cảm
bạn bè, tình yêu nam nữ phát triển và có tính chất bền vững.
Do nhận thức về nghề nghiệp đầy đủ hơn nên sinh viên đã đặt kỳ vọng về nghề
nghiệp tương lai. Sinh viên tự đối chiếu bản thân với yêu cầu của xã hội để hoàn thiện
mình nhằm đáp ứng các yêu cầu đó.
Sự phát triển nhân cách sinh viên diễn ra theo hướng tăng dần khả năng đáp ứng các
yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nghề đã chọn từ năm đầu đến năm cuối.
b) Các kiểu nhân cách của sinh viên
Dựa vào thái độ của sinh viên đối với hoạt động học tập và các hoạt động chính trị
xã hội, người ta phân chia 6 kiểu nhân cách sinh viên như sau:
- Kiểu 1: Là những sinh viên học tốt tất cả các môn cơ sở, cơ bản và chuyên ngành;
xác định mục đích học tập rõ ràng; tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học; tích
cực trong các hoạt động chính trị xã hội. Đây là những sinh viên toàn năng, thường được
bầu vào các vị trí lãnh đạo tập thể sinh viên.
- Kiểu 2: Là những sinh viên học khá; học tốt một số môn, thường là những môn
chuyên ngành; tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; gắn bó với tập thể lớp
bằng các hoạt động học tập và rèn luyện nghề nghiệp.
- Kiểu 3: Là những sinh viên đạt kết quả xuất sắc trong học tập; hiểu biết rộng về
nhiều lĩnh vực; say mê học tập và nghiên cứu khoa học; có thể có một năng khiếu nào đó,
nhưng không hứng thú tham gia các hoạt động chính trị xã hội.
- Kiểu 4: Là những sinh viên có kết quả học tập trung bình, có thể là khá; không hẳn
là thiếu chăm chỉ nhưng vì quan tâm và dành nhiều thời gian cho các hoạt động chính trị
xã hội nên ảnh hưởng đến kết quả học tập; gắn bó với tập thể bằng các hoạt động xã hội
hơn là hoạt động học tập.
- Kiểu 5: Là những sinh viên học trung bình hoặc yếu hơn một chút; không tích cực
tham gia các hoạt động chuyên môn như nghiên cứu khoa học, ít tranh luận xêmina;
không tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; không gắn bó chặt chẽ với tập
thể.
- Kiểu 6: Là những sinh viên có học lực yếu; không tích cực tham gia các hoạt động
chuyên môn như nghiên cứu khoa học; không tích cực trong các hoạt động chính trị xã
hội; ham chơi, thích tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí hơn là học.

1.3. Các hoạt động cơ bản của sinh viên

1.3.1. Hoạt động học tập

Học tập thường được xem là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chuẩn bị hành
trang về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, giúp họ sẵn sàng bước vào môi
trường lao động nghề nghiệp trong tương lai. Nguyễn Thạc (2009) đã định nghĩa về hoạt
động học tập ở đại học là “một loại hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo của
sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn
diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao”5.
Là một loại hoạt động tâm lý, học tập ở đối tượng sinh viên mang những nét đặc
trưng bao gồm sự căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ, các quá trình tâm lý cấp cao, các hoạt
động khác nhau cũng như nhân cách người sinh viên nói chung.
Học tập chỉ thực sự mang lại hiệu quả đối với người học khi và chỉ khi người đó
chủ động, tích cực tập trung vào hành vi và thao tác học. Nói cách khác, hoạt động học
tập với cấu trúc phức tạp bao gồm các yếu tố như nhận thức, thái độ và hành vi là biểu
hiện rõ nét nhất của vấn đề sinh viên tham gia học hay không học. Do vậy, sự tham gia

5
Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (2009). Tâm lý học sư phạm đại học. NXB Đại học Sư phạm. Hà Nội.
học tập trên lớp của sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng,
hướng dẫn và hỗ trợ cho sinh viên cách thức tìm kiếm tri thức, hình thành và rèn luyện
năng lực nghề cũng như hun đúc, củng cố tình cảm đối với công việc mình đã lựa chọn.
Hoạt động học tập của sinh viên có thể được chia thành:
- Hoạt động học tập trên lớp: hoạt động học trên lớp của sinh viên, có thể được hiểu
là sự tham gia của sinh viên vào tiến trình dạy học trên lớp, có thể được nhìn nhận dưới 2
góc độ. Thứ nhất là sự tham gia biểu hiện bên ngoài, bề mặt, thông qua hành vi, cử chỉ,
nét mặt, điệu bộ, hoặc đơn giản chỉ là sự có mặt của sinh viên trong lớp (classroom
participation); và thứ hai là sự gắn kết vào tiến trình dạy học trên lớp (classroom
engagement) thông qua hoạt động tâm lý thực sự đang diễn ra bên trong họ trong suốt giờ
học. Một sinh viên gắn kết với hoạt động trong lớp học có thể được xem là người đóng
vai trò chủ động trong việc học của mình6.
- Hoạt động tự học: Hoạt động tự học của SV là hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động sáng tạo dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên nhằm chiếm lĩnh những tri thức
khoa học bằng hành động của bản thân và đạt được mục tiêu của giáo dục và đào tạo.
+ Hoạt động tự học là một hoạt động tìm ra ý nghĩa làm chủ kỹ xảo nhận thức, tạo
ra cầu nối nhận thức trong tình huống học tập; tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình
bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường sống xung quanh mình; tự tìm kiến
thức bằng hành động của chính mình, cá nhân hoá việc học tập đồng thời hợp tác với bạn
bè trong cuộc sống cộng đồng lớp học dưới sự huớng dẫn của thầy cô giáo.
+ Tự học của SV với tư cách là một hoạt động nên nó có đặc điểm và cấu trúc của
hoạt động nói chung. Nó được thúc đẩy bởi động cơ và hướng tới mục đích với đối tượng
cụ thể đồng thời được thực hiện thông qua hành động cụ thể bằng những thao tác trí tuệ
linh hoạt, sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau.
+ Hoạt động tự học mang màu sắc của hoạt động tâm lý thực hiện chủ yếu thông
qua hành động trí tuệ, thao tác tinh thần rất căng thẳng và phức tạp. Tính chất này thể
hiện ở tính cơ bản thống nhất, tính khoa học và tính khái quát cao.

6
Weaver and Qi, qtd. inRogers, Susan L.(2013). Calling the question: Do college instructors actually grade
participation? College Teaching, 11-22.
+ Đặc trưng của hoạt động tự học khác hẳn các hoạt động khác. Nó không chủ yếu
hướng vào làm biến đổi khách thể của hoạt động (tri thức, KN, KX)... những phương
thức hành vi, những giá trị mà chủ yếu hướng vào làm biến đổi chủ thể của hoạt động –
biến đổi nhân cách sinh viên. Tự học của SV là hoạt động mang tính chất nghiên cứu (tự
tìm tòi tự phát hiện tự nghiên cứu mức độ cao).
Như vậy trong hoạt động tự học, việc tích cực, độc lập nhận thức của SV không
tách rời vai trò tổ chức điều khiển của giáo viên đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Theo các nhà Sư phạm: Qúa trình dạy
tự học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm ba thành tố: Thầy (dạy) – Trò (tự học) và tri
thức, chúng tương tác, thâm nhập vào nhau và qui định lẫn nhau… tạo ra chất lượng và
hiệu quả của giáo dục và đào tạo.
- Hoạt động học thực hành, thực tế, thực tập (gọi chung là học thực hành)
Hoạt động học thực hành là hoạt động kết hợp giữa học lý thuyết với thực hành ở tại
Trường hoặc bên ngoài trường nhằm giúp sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò của giáo
dục trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nhận thức được trách nhiệm và
nghĩa vụ của cá nhân trong sự phát triển của xã hội, từ đó hình thành ý thức và tình cảm với
nghề nghiệp.Tạo điều kiện để sinh viên vận dụng kiến thức lý thuyết đã học vào thực tiễn, từ
đó hình thành các kỹ năng nghề nghiệp. Kết quả thực hành thực tập là một trong những điều
kiện để đánh giá khả năng và năng lực của người học.
Sinh viên cần phải học thực hành vì:
- Thực hành thực tập là nguồn gốc, xuất xứ của kiến thức; qua thực tế triển khai và
quan sát sinh viên thấy được hiện tượng, từ đó rút ra được kết luận vấn đề đang nghiên
cứu, tức là từ thực tiễn đi đến tư duy logic có cơ sở khoa học.
- Thực hành thực tập giúp sinh viên hứng thú học tập, nâng cao lòng yêu khoa học,
phát huy được tính sáng tạo, tính tò mò ham học.
- Thực hành thực tập làm sáng tỏ mối liên hệ giữa các sự vật, giải thích được bản
chất của các quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong thực tiễn sản xuất.
- Thực hành thực tập có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng, củng cố niềm tin vào khoa học của sinh viên. Giúp sinh viên hình thành những đức tính
của con người mới: làm việc khoa học, thận trọng, ngăn nắp, gọn gàng,…
Yêu cầu đối với sinh viên khi học thực hành
- Sinh viên phải vững vàng về lý thuyết. Biết biết vận dụng một cách linh hoạt trong
thực tế.
- Phải coi trọng ý nghĩa của thực hành thực tập tại cơ sở, bởi đây là tiền đề để mỗi bản
thân các em bước vào môi trường công việc thực tế sau khi ra trường. Nhận thức rõ vai trò và
trách nhiệm của mình trong quá trình thực hành thực tập. Phải có ý thức xây dựng, phát triển
chương trình thực hành, thực tập và phát triển kỹ năng bổ trợ của đơn vị, kịp thời phản ánh
đúng tình hình thực hiện chương trình với giảng viên, cán bộ hướng dẫn khi cần thiết.
- Cần chủ động trang bị cho bản thân những kỹ năng mềm để tránh bối rối khi xử lý các
tình huống mang tính chất giao tiếp hoặc trên diễn đàn hội thảo và các sự kiện khác.
- Phải chịu khó học hỏi, đam mê khát vọng làm giàu và thành công, sẵn sàng làm việc khi
được phân công dù vất vả. Biết phối hợp, chia sẻ và biết lắng nghe mọi sự góp ý.
- Nâng cao tính kỷ luật trong quá trình thực hành thực tập. Sinh viên phải thực hiện
nghiêm túc các quy định, kế hoạch, nội dung trong thời gian thực hành thực tập; tuân theo sự
hướng dẫn của giảng viên và cán bộ cơ sở nơi thực hành thực tập. Phải đảm bảo thời gian và
tiến độ thực hiện công việc. Có quan hệ tốt với cơ sở thực hành thực tập, có thái độ và hành vi
văn minh, lịch sự, đảm bảo uy tín của Nhà Trường.

1.3.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học


* Vị trí, vai trò
Nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên là một nội dung quan trọng trong
chương trình đào tạo ở trường đại học, qua đó hình thành tư duy và phương pháp NCKH,
thực hiện phương châm “giảng dạy kết hợp với thực nghiệm và NCKH”.
NCKH có rất nhiều lợi ích đối với sinh viên:
- NCKH không những giúp sinh viên nắm chắc kiến thức mà còn tiếp cận nhiều hơn
kiến thức mới
Mỗi sinh viên thi tham gia NCKH đều đòi hỏi phải có nền tảng kiến thức cơ bản,
nhưng không chỉ dừng lại ở các kiến thức đó, trong quá trình nghiên cứu còn đòi hỏi
người nghiên cứu không ngừng bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình. Do đó việc tìm
kiếm và đọc thêm các tài liệu bổ trợ là cần thiết. Điều này tạo cho sinh viên kỹ năng
nghiên cứu và kiến thức phục vụ cho đề tài của sinh viên sẽ tăng lên. Đồng thời, các em
có cơ hội được làm việc cùng với giảng viên hướng dẫn (GVHD) nên sẽ được định
hướng và chỉ dẫn thấu đáo hơn đối với các vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu khoa học giúp sinh viên phát triển và rèn luyện các kỹ năng tư duy
sáng tạo, làm việc độc lập và làm việc theo nhóm
Khi tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ tập làm quen với một đề tài nghiên
cứu quy mô nhỏ (dành cho một sinh viên tham gia nghiên cứu), sinh viên sẽ được tiếp
cận với những vấn đề cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ và tập cách tư duy để tự nghiên
cứu giải quyết một vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề tài sinh viên sẽ nảy sinh ra nhiều
hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp sinh viên rèn luyện tư duy độc lập,
biết bảo vệ lập trường khoa học của mình. Đối với đề tài khoa học có quy mô lớn hơn
thường do một nhóm từ hai sinh viên trở lên cùng thực hiện. Vì vậy việc cùng thực hiện
một đề tài nghiên cứu cũng giúp sinh viên phát triển các kỹ năng làm việc theo nhóm với
sự chia sẻ ý thức và trách nhiệm, thêm vào đó là biết phân công công việc phù hợp với
khả năng và sở trường của từng thành viên.
- Phát triển và rèn luyện kĩ năng mềm trong đó có kỹ năng thuyết trình để bảo vệ đề
tài nghiên cứu của mình
Bên cạnh đó, việc thực hiện và bảo vệ một đề tài nghiên cứu khoa học sẽ rèn giũa
cho sinh viên kỹ năng diễn đạt, trình bày một vấn đề, kỹ năng thuyết trình, tập cho sinh
viên phong thái tự tin khi bảo vệ trước hội đồng khoa học. Đây cũng là trải nghiệm rất
quý báu và thú vị mà không phải bất kỳ sinh viên nào cũng có được trong quãng đời sinh
viên của mình.
- Xây dựng hành trang cho mình bằng những thành tích đạt được và cơ hội việc làm
sau khi tốt nghiệp
Bên cạnh những kiến thức và kinh nghiệm thu được thông qua việc nghiên cứu khoa
học, sinh viên còn tạo dựng được những thành tích tốt trong quá trình học tập. Mỗi sinh viên
khi tham gia nghiên cứu khoa học, thực hiện đề tài nghiên cứu sẽ được cộng thêm điểm rèn
luyện. Những đề tài đạt giải được Nhà trường và các tổ chức trong xã hội khen thưởng. Đây
cũng là cách thức giúp xây dựng hành trang trước khi tốt nghiệp của mình. Với những thành
tích đạt được trong quá trình học tập, những sinh viên tích cực NCKH sẽ được các công ty,
doanh nghiệp để ý đến và tạo cơ hội vào làm việc ưu tiên hơn cả.
* Nội dung
NCKH của sinh viên là một hoạt động chính khoá, bao gồm các nội dung chính sau
đây:
- Trao đổi về phương pháp, kinh nghiệm học tập ở bậc đại học, nghiên cứu trao đổi
nội dung các môn học cơ bản thông qua các hoạt động khoa học như trao đổi kinh
nghiệm học tập, viết tiểu luận, đề án môn học.
- Nghiên cứu thông qua các buổi sinh hoạt khoa học để trao đổi về phương pháp
nghiên cứu một đề tài khoa học, viết tiểu luận và đề án môn học tham gia nghiên cứu,
phục vụ thực tiễn, viết chuyên đề, luận văn tốt nghiệp.
- Ngoài các nội dung hoạt động theo từng giai đoạn, hàng năm sinh viên có thể tham
gia vào các cuộc thi chuyên đề, thi sinh viên giỏi, nghiên cứu các đề tài khoa học của
Trường giao hay các hợp đồng với bên ngoài, dự các buổi sinh hoạt khoa học ở cấp
Khoa/Viện, Trường. Tham gia thực hiện các đề tài khoa học của giảng viên dưới dạng
điều tra, khảo sát thu thập số liệu phổ biến khoa học trong quần chúng nhân dân.
* Quyền lợi của sinh viên trong NCKH
- Được chọn báo cáo khoa học ở Khoa, Trường, dự các hội thảo khoa học trong và
ngoài Trường.
- Những sinh viên có đề tài nghiên cứu được chọn báo cáo sinh hoạt khoa học từ lớp
trở lên được ưu tiên khi xét các danh hiệu sinh viên xuất sắc, tiên tiến, xét các loại học
bổng về học tập và khuyến khích tài năng.
- Sinh viên đạt kết quả tốt trong kỳ thi chuyên đề, sinh viên giỏi, có các công trình
NCKH được đánh giá xuất sắc, được Nhà trường xét cộng điểm hoặc cho miễn thi môn
học có liên quan.
- Sinh viên có đề tài nghiên cứu được báo cáo tại Hội nghị khoa học từ cấp Khoa trở
lên được cộng điểm khi xét ngành học thứ hai.
- Sinh viên có thể được xét chuyển tiếp cao học nếu có công trình nghiên cứu khoa
học chất lượng tốt.
Như vậy, thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đã góp phần phát
huy được tính năng động, sáng tạo, khả năng tư duy độc lập, tự nghiên cứu và khả năng
làm việc nhóm của sinh viên. Qua đó giúp sinh viên trau dồi kiến thức, phát huy những
điểm mạnh, áp dụng khoa học công nghệ vào giải quyết vấn đề thực tiễn, tích lũy kỹ năng
nghề nghiệp… để đảm bảo sinh viên sau khi ra trường đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao
động của các doanh nghiệp.

1.3.3. Hoạt động chính trị - xã hội

Hoạt động chính trị - xã hội là toàn bộ những hành động của các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi tầng lớp xã hội nhằm đem lại quyền và lợi ích hợp pháp cho xã hội nói chung,
con người nói riêng, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội, đem lại cho con
người cuộc sống ngày càng hạnh phúc, tươi đẹp hơn.
Các hoạt động chính trị - xã hội không chỉ chứa đựng ý nghĩa về giá trị chính trị - xã
hội mà còn chứa đựng ý nghĩa về giá trị thẩm mỹ. Chúng không chỉ đem lại lợi ích chính
trị và xã hội cho đất nước và còn giáo dục, rèn luyện phẩm chất, ý chí, tình cảm, lý tưởng
cho sinh viên. Chúng góp phần hình thành và phát triển ý thức, tâm thế và khát vọng đạo
đức muốn thế giới tốt hơn, con người nhân đạo hơn, đẹp hơn; hình thành những quan
niệm, chuẩn mực đạo đức, niềm tin thẩm mỹ; phát triển năng lực phán đoán và đánh giá
thẩm mỹ, hình thành thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn.
Các hoạt động chính trị - xã hội của sinh viên trong trường đại học:
- Tham gia học tập tuần giáo dục chính trị công dân cho sinh viên
- Tham gia công tác của Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên
+ Phong trào sinh viên tình nguyện: mùa hè xanh, Đội tình nguyện Thăng Long
(hướng dẫn du lịch), Đội tình nguyện Giao thông…
+ Phong trào thiện nguyện: hiến máu nhân đạo, tham gia hoạt động cho các Hội bảo
trợ, tổ chức từ thiện…
+ Phong trào hỗ trợ cộng đồng: tham gia các phong trào cộng đồng như Giờ trái đất,
đổi rác lấy cây xanh, xây dựng môi trường học tập xanh, An toàn giao thông,…
- Tham gia các câu lạc bộ: tham gia các câu lạc bộ theo sở thích và khả năng của
mình nhằm trao đổi về chuyên môn, sở thích, hoàn thiện bản thân, phát triển kỹ năng
mềm. Trong trường Đại học Thủ đô Hà Nội hiện gân có gần 7 câu lạc bộ cấp Trường và
hơn 20 câu lạc bộ cấp khoa: Câu lạc bộ truyền thông (Media HNMU), Câu lạc bộ Tổ
chức sự kiện, CLB Ghita, CLB Dancesport, Câu lạc bộ Karate, Câu lạc bộ Bóng rổ, Câu
lạc bộ Gia sư, CLB NCKHSV…
- Tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao: tham gia các cuộc
thi do khoa và Trường tổ chức như: Hội thi nghiệp vụ, Rung chuông vàng, Tiếng hát sinh
viên, Sinh viên Got talent, Duyên dáng sinh viên, Hội thao của trường….
- Tham gia các hoạt động theo nhiệm vụ Nhà trường giao: đón tiếp nguyên thủ,
tham gia các Hội nghị, Hội thảo, sự kiện của Trường và khoa
- Tham gia các hoạt động truyền thông, xây dựng hình ảnh cho khoa và Trường.

1.3.4. Hoạt động lao động sản xuất

Hoạt động sản xuất trong tiếng Anh là Production activities. Hệ thống tài khoản
quốc gia - SNA đưa ra hai khái niệm về hoạt động sản xuất như sau:
- Trên góc độ sản xuất:
Hoạt động sản xuất là toàn bộ các hoạt động của con người để tạo ra sản phẩm vật
chất và sản phẩm dịch vụ nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của dân cư và xã hội.
Những hoạt động đó người khác phải làm thay được và phải được pháp luật của quốc gia
thừa nhận.
- Trên góc độ thu nhập:
Hoạt động sản xuất là toàn bộ các hoạt động có mục đích của con người (không kể
các hoạt động tự phục vụ bản thân) mà tạo ra thu nhập. Các hoạt động đó người khác làm
thay được và phải được pháp luật cho phép.
Đối với sinh viên ở trường đại học, song song với hoạt động học tập lý thuyết tại
Nhà trường là hoạt động học thực tập, thực tế, thực hành tại các doanh nghiệp, đơn vị
ngoài xã hội để thực hành kiến thức, tích lũy kinh nghiệm trang bị cho bản thân phục vụ
hoạt động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Hoạt động lao động sản xuất đối với sinh viên
có thể được quan niệm như các hoạt động có tạo ra thu nhập trong thời gian học tập, có
thể kể đến một số hoạt động sau:
- Hoạt động sáng tạo, khởi nghiệp
- Hoạt động làm thêm: Các công việc làm thêm có liên quan đến chuyên môn đào
tạo ở trường đại học.
- Hoạt động cộng tác, phụ tá, trợ giảng, cố vấn đồng đẳng

1.4. Giá trị nghề nghiệp và sinh viên tích cực

1.4.1. Giá trị nghề nghiệp

1.4.1.1. Giá trị


* Khái niệm giá trị
Giá trị là một khái niệm được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Mỗi lĩnh vực khoa học
tiếp cận và định nghĩa giá trị theo những cách khác nhau.
Triết học đi tìm hiểu bản chất, nguồn gốc của giá trị và xem xét cấu trúc của giá trị và
mối quan hệ của giá trị với yếu tố văn hóa, xã hội,… (Immanuel Kant, F. Nietzsche, R.S
Hartman, G.E.Moore…)
Trong Kinh tế học, giá trị thường được thể hiện ở dạng giá trị vật chất của sản phẩm,
hàng hóa có thể đem ra trao đổi. Quy luật giá trị được xem như quy luật tổng quát nhất
trong nền kinh tế thị trường. Các quan hệ xã hội với cơ sở là các quan hệ kinh tế đều phản
ánh các quan hệ giá trị.
Dưới góc độ Xã hội học, giá trị là một khái niệm cơ bản dùng để mô tả mối quan hệ
giữa các cá nhân, các nhóm, cộng đồng xã hội trong môi trường văn hóa xã hội cụ thể.
Có hai cách tiếp cận trong xã hội học: thứ nhất, giá trị hiểu là những gì có ý nghĩa đối
với chủ thể hoạt động, đối chiếu với mục đích và phương tiện mà chủ thể đặt ra trong
quá trình thực hiện hoạt động (Max Weber, J.H.Ficher); thứ hai, giá trị được hiểu là
những ý tưởng về các loại mục đích hay các loại lối sống của một cá thể, nhóm hoặc xã
hội mong muốn hoặc coi là có ý nghĩa (Giêm Pinpơn; Garich Belay).
Dưới góc độ Tâm lý học, giá trị được xem như là yếu tố tạo nên động cơ thúc đẩy hành vi
và dự báo xu hướng phát triển nhân cách.
Hiện nay, có nhiều quan điểm với cách tiếp cận về giá trị rất phong phú. Chúng tôi thấy
có thể khái quát về các cách tiếp cận định nghĩa giá trị như sau:
- Một là, xu hướng đồng nhất giá trị với khách thể, giá trị thuộc về bản thân sự vật (khách
thể) muốn nhấn mạnh đến những thuộc tính có ý nghĩa của khách thể đó. Thuật ngữ “Giá
trị” (value, valeur) bắt nguồn từ tiếng Latinh valere có nghĩa là mạnh mẽ (be strong), tốt
(be well), đáng giá (be of value, be worth) (L.Feuerbach, G.E.Moore, M.Scheler,
N.Hartman, N.O.Losski.
- Hai là, xu hướng định nghĩa giá trị thuộc về sự đánh giá của chủ thể và có mối quan hệ
chủ thể và khách thể (L.Dramaliev, V.P. Tugarino, J.H. Fichter, T.Makiguchi, Phạm
Minh Hạc, Trần Ngọc Thêm…)
Giá trị được hiểu như một dạng quan hệ đặc biệt giữa chủ thể đối với khách thể thông qua
khả năng thỏa mãn những nhu cầu của con người trong các mối quan hệ xã hội. “Giá trị
là tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc
nhóm xã hội”. Cùng quan điểm, Phạm Minh Hạc cho rằng: “giá trị là tính có ý nghĩa tích
cực, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể”. Theo từ điển Tâm lý học, “Giá
trị - phạm trù triết học, xã hội học, tâm lý học thể hiện những gì có ích, có ý nghĩa của
những sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội có khả năng thỏa mãn nhu cầu và phục vụ
lợi ích của con người”. Bên cạnh đó, giá trị còn là sự thể hiện có tính định lượng của mối
quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của việc đánh giá, là quan hệ giữa lợi ích cá
nhân hoặc xã hội và sự tổn phí cần thiết để có nó (T. Makiguchi). Một đối tượng có thể là
có lợi hoặc có hại, tốt hay xấu tùy theo tầm nhìn cũng như góc độ đánh giá. Vì vậy, giá trị
phụ thuộc vào sự đánh giá của chủ thể: “giá trị là tính chất của khách thể, được chủ thể
đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể cùng loại trong một bối cảnh
không gian- thời gian cụ thể”.
Qua các định nghĩa có thể thấy, giá trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, một dạng quan
hệ đặc trưng phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong việc thỏa mãn nhu
cầu và được con người nhận ra ý nghĩa đối với cuộc sống của bản thân họ và trong các
mối quan hệ xã hội. Với tính cách là một khách thể xã hội, giá trị không thể tách rời khỏi
những nhu cầu, mong muốn, thái độ, quan điểm và hành động của con người.
- Ba là, xu hướng thứ ba định nghĩa giá trị như một biểu hiện về mặt xã hội và có vai trò
quy định mục đích hoạt động, định hướng lối sống và dự báo xu hướng phát triển nhân
cách.(M.M.RoZentan, I.S.Nherxi, I.M.Popova, V.B.Olsanxki, James Peoples và Garrick
Bailey, Glyde Kluckhohn, J.Hastead & M.Taylor…)
Theo Từ điển Wiki, giá trị là những nguyên tắc và niềm tin có ảnh hưởng đến hành vi và
cách sống của một nhóm người hoặc cộng đồng xã hội. Giá trị là những biểu hiện khái
quát và bền vững về những phúc lợi ưa chuộng và cách thức chấp nhận chúng, trong đó
kinh nghiệm trước đây của chủ thể có vai trò quyết định đối với những hành động tiếp
theo của nó (V.B.Olsanxki). Giá trị hiện lên như những lý tưởng xã hội, những sắc thái đa
dạng của nhận thức xã hội và cá nhân thực hiện chức năng như những tiêu chuẩn lý tưởng
để đánh giá, định hướng nhân cách và xã hội (I.M.Popova). Trong sự phát triển cao nhất
của mình, giá trị chính là những lý tưởng của xã hội và trên cơ sở này thực hiện chức
năng đánh giá, định hướng hoạt động của con người (I.S.Nherxi). Giá trị được xem như
những ao ước thầm kín, bộc lộ ao ước riêng của một cá nhân hay một nhóm. Những quan
niệm ấy chi phối sự lựa chọn các phương thức, phương tiện và mục đích của chủ thể hành
động (Glyde Kluckhohn).
Trên cơ sở phân tích và kế thừa các quan điểm về giá trị đã phân tích ở trên, trong phạm
vi luận án, chúng tôi quan niệm về giá trị như sau:
“Giá trị là những điều có ý nghĩa, có ích đối với chủ thể, có chức năng định hướng và
tạo động lực thúc đẩy chủ thể hoạt động và được thể hiện qua nhận thức, thái độ và hành
vi của chủ thể đó”.
Từ những định nghĩa trên, có thể rút ra một số điểm đáng chú ý về giá trị:
- Bất kỳ sư vật nào cũng mang giá trị khi và chỉ khi nó thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của con
người, được con người thừa nhận và đánh giá tầm quan trọng và ý nghĩa của nó đối với
đời sống của con người. Và khi nhu cầu ấy trở thành ước muốn (động cơ của hoạt động)
thì vật thể chứa đựng giá trị sẽ trở thành mục đích của hoạt động cụ thể. Giá trị là phương
tiện để thỏa mãn nhu cầu và ước muốn nhưng phải hướng đến mục đích vì sự tiến bộ và
có ích đối với cá nhân và xã hội.
- Giá trị vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan.
Tính khách quan của giá trị thể hiện giá trị là sản phẩm vật chất và tinh thần của con người,
được hình thành và phát triển trong thực tiễn xã hội, thay đổi theo sự biến động của xã hội.
Hơn nữa, trong mối quan hệ giữa vật thể chứa giá trị và chủ thể (con người), sự xuất hiện
và tồn tại của giá trị không phụ thuộc vào ý thức con người, nó chỉ phụ thuộc vào sự xuất
hiện hay mất đi của nhu cầu nào đó của con người.
Tính chủ quan của giá trị thể hiện giá trị của một vật thể luôn gắn với nhu cầu của con người.
Giá trị được hình thành thông qua sự trải nghiệm của con người trong cuộc sống. Khi chủ thể
đánh giá, so sánh vật thể này với vật thể khác trên cơ sở những tiêu chí do con người tạo ra
và gán cho vật thể đó là quan trọng hay không quan trọng, hữu ích hay không hữu ích, khi đó
mỗi sự vật hiện tượng sẽ mang giá trị do con người đánh giá. Vì vậy, cùng là những sự vật,
hiện tượng tồn tại khách quan, nhưng thông qua sự đánh giá chủ quan của từng cá nhân mà
mỗi sự vật, hiện tượng đó sẽ được xem xét về tầm ý nghĩa và độ hữu ích đối với mỗi người
là không giống nhau.
- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của
chủ thể trong mỗi sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của
chủ thể. Giá trị khi được nhận thức đầy đủ và sâu sắc, các giá trị sẽ trở thành những tiêu
chuẩn cho sự đánh giá, định hướng hoạt động và nhân cách, thúc đẩy chủ thể đạt được
những mục đích của hoạt động.
* Phân loại giá trị
Việc phân loại giá trị hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi phân loại dựa trên cách tiếp cận
và quan điểm khác nhau của các tác giả.
- Căn cứ vào việc thỏa mãn, hài lòng của con người về vật chất và tinh thần có thể phân
giá trị thành hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất do có sẵn trong
thiên nhiên, nằm ngay trong sự vật. Trong đó giá trị vật chất được phân biệt với hai loại
là giá trị sử dụng (cái có ích) và giá trị kinh tế (cái bán được). Giá trị tinh thần nói lên ý
nghĩa, thích thú, ước muốn, sự quan tâm… của sự vật đối đối với cá nhân, nhóm người,
cộng đồng, dân tộc, nhân loại. Trong giá trị tinh thần, người ta thường nhấn mạnh đến các
giá trị như: giá trị khoa học, giá trị chính trị, giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mĩ, giá trị tôn giáo.
- Căn cứ vào hệ giá trị phổ quát: Từ thời cổ đại, người ta đã đưa ra ba giá trị cơ bản
hướng vào con người là Chân – Thiện – Mỹ (Nhận thức – Đạo đức – Thẩm mỹ). Đến
giữa năm 40 của thế kỷ XX, Makiguchi phân chia giá trị thành ba loại: Thiện (đạo đức),
Lợi (kinh tế), Mỹ (mỹ học).
- Căn cứ vào các giá trị chi phối các hành vi chủ yếu của con người. Tác giả J.R.
Williams và M.Popon đã chia ra các loại giá trị chủ yếu là: các giá trị tích cách (sự thống
nhất nhân cách), các giá trị xã hội, các giá trị văn hóa và các giá trị tồn tại sinh học. Giá
trị sống nằm trong hệ thống các giá trị tích cách, văn hóa, xã hội.
- Căn cứ vào các tầng bậc của cộng đồng, người ta phân biệt giá trị xã hội và giá trị cá
nhân, giá trị quốc tế và giá trị dân tộc. Trong đó, giá trị xã hội là những giá trị được
nhóm, cộng đồng xã hội đề ra và thừa nhận như công lý, hòa bình, tự do…. phản ánh
mong muốn và lợi ích của xã hội đó. Trong xã hội, mỗi cá nhân lại lựa chọn một số giá trị
trong hệ giá trị phù hợp với bản thân, có ý nghĩa chi phối hành vi của họ. Giá trị cá nhân
là giá trị xã hội được cá nhân tiếp nhận. Giá trị dân tộc là những giá trị gắn liền với tinh
thần dân tộc, lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm chuẩn mực. Giá trị quốc tế là những giá trị
chung của nhân loại, được đông đảo các dân tộc trên thế giới thừa nhận và hướng tới như
hòa bình, hạnh phúc. UNESCO phân chia hệ thống giá trị thành bốn nhóm (1): Các giá trị
cốt lõi như: hòa bình, tự do, việc làm, gia đình, sức khỏe, an ninh, tự trọng, công lý, tình
nghĩa, sống có mục đích,niềm tin, tự lập, nghề nghiệp, học vấn; (2) Các giá trị cơ bản bao
gồm: sáng tạo, tình yêu, chân lý; (3) Các giá trị có ý nghĩa gồm: cuộc sống giàu sang và
cái đẹp; (4) Các giá trị không đặc trưng như địa vị xã hội.
- Căn cứ vào thời gian, có thể phân chia thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Giá
trị truyền thống là những giá trị mang tính lịch sử được kế thừa qua các giai đoạn khác
nhau. Giá trị hiện đại là những giá trị mới xuất hiện trong xã hội đương thời, là kết quả
của quá trình giao lưu, hội nhập.
* Một số khái niệm liên quan
Hệ giá trị
Hệ giá trị (hệ thống giá trị) là một tổ hợp các giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại
theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống thực
hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá con người theo những phương thức vận
hành nhất định của giá trị.
Hệ giá trị có một số tính chất nhất định như chịu sự quy định của lịch sử xã hội. Mỗi dân
tộc có hệ giá trị đặc thù, đồng thời hệ giá trị chịu sự chế ước bởi tính thời đại và tính nhân
loại.
Thang giá trị
Thang giá trị (thước đo giá trị) là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp
theo một trật tự ưu tiên nhất định.
Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người,
cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang giá trị của xã hội, của
cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người, cứ thế qua từng giai
đoạn lịch sử của con người.
Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt động
được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị nhất định, phục vụ
cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra những giá trị lại góp
phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc hay đổi thang giá trị.
Chuẩn giá trị
Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao hoặc vị trí then
chốt và mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người. Khi xây dựng các giá trị theo
những chuẩn mực nhất định về kinh tế, chính trị, đạo đức, xã hội, hay thẩm mỹ sẽ tạo ra
các chuẩn giá trị. Mọi hoạt động của xã hội, của nhóm cũng như của từng cá nhân được
thực hiện theo những chuẩn giá trị nhất định sẽ bảo đảm định hướng cho các hoạt động
và hạn chế khả năng lệch chuẩn mực xã hội, đồng thời tạo ra những giá trị tương ứng
đảm bảo sự tồn tại của con người.
Ở Việt Nam, chuẩn giá trị thường mang ý nghĩa luân lý sâu sắc. Theo Hồ Chủ Tịch, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân là thang giá trị cao nhất,
là thước đo giá trị của người Việt Nam, trong đó cái “đức”, cái “thiện” là cốt lõi, là chuẩn
của mọi giá trị, cùng với nó là các giá trị nhân văn truyền thống như lòng tự hào dân tộc,
bản sắc văn hóa dân tộc, trung với nước, hiếu với dân, nhân nghĩa, cần cù, thông minh,
năng động, sáng tạo. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận, xã hội Việt Nam hiện tại
đang có sự biến động nhanh chóng, rõ nét thậm chí khủng hoảng, đảo lộn về thang giá trị,
chuẩn giá trị xã hội trong một bộ phận thanh niên Việt Nam thể hiện trong suy nghĩ, lối
sống và trong hành vi ứng xử như “sống suy đồi, thoái hoá một cách nghiêm trọng, ham
tư lợi, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng.… suy đồi đến mức lãng quên, coi
thường những chất liệu sống cơ bản”. Điều quan trọng không phải là lên án, kết tội một
bộ phận nhỏ đang có lối sống như trên, mà cần tiếp tục nghiên cứu để có những nhận
định, đánh giá đúng đắn, khách quan tình hình biến đổi của thang giá trị, chuẩn giá trị
ngày nay, để có những định hướng giá trị đúng đắn cho xã hội, cho từng nhóm
người,từng cá nhân để họ tạo ra những giá trị tốt nhất cho xã hội.
1.4.1.2. Giá trị sống
* Khái niệm giá trị sống
Xét theo sự phân chia giá trị dựa trên căn cứ vào việc thỏa mãn, hài lòng nhu cầu
của con người thì giá trị sống được xem như là một loại giá trị thuộc về tinh thần. Chính
vì vậy, khái niệm giá trị và giá trị sống không có sự đối lập hay khác biệt về bản chất.
Trong mỗi lĩnh vực, mỗi thời điểm người ta quan niệm, sử dụng và tiếp cận khác nhau
nhằm nhấn mạnh vào khía cạnh khác nhau hoặc để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Giá trị sống có đầy đủ đặc tính quan trọng của giá trị mà chúng tôi đã phân tích ở trên
như: đều thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của con người; đều được con người đánh giá là có ý
nghĩa, có ích đối với đời sống của họ và khi được nhận thức, đánh giá, lựa chọn thì giá
trị, giá trị sống đều có vai trò định hướng, thúc đẩy hành vi của chủ thể. Giá trị sống cũng
có nguồn gốc hình thành, biến đổi, duy trì theo những quy luật xã hội như các giá trị nói
chung.
Tuy nhiên, khi bàn về giá trị sống người ta muốn nhấn mạnh đến những giá trị thiết
thực cho cuộc sống của từng cá nhân đang sống, hoạt động gắn liền với kỹ năng sống
giúp người ta sống và làm việc hiệu quả hơn cho cá nhân và xã hội. Nói đến giá trị
sống người ta chủ yếu hướng vào bình diện cá nhân. (Phạm Minh Hạc; Trần Thị Lệ
Thu).
Chương trình giáo dục giá trị sống toàn cầu (LVEP) quan niệm: giá trị sống (living
values) là những gì cá nhân nhận thức là quan trọng, rất cần thiết, rất có ý nghĩa, luôn
mong đợi, chúng có khả năng chi phối thái độ, cảm xúc, tình cảm và hành vi của một cá
nhân trong cuộc sống hàng ngày.
Giá trị sống là tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, quý giá, quan trọng, có
ý nghĩa đối với cuộc sống; khiến mỗi người mong muốn lĩnh hội và thể hiện ra để cuộc
sống của mình tốt đẹp hơn, đồng thời góp phần cải thiện đời sống chung (Tillman &
Colomina; Nguyễn Công Khanh, Trần Thị Lệ Thu).
Qua phân tích và kế thừa các quan niệm của các nhà khoa học về giá trị sống, chúng tôi
cho rằng: Giá trị sống là những điều có ý nghĩa, có ích đối với chủ thể, có chức năng
định hướng và tạo động lực thúc đẩy chủ thể hoạt động và được thể hiện qua nhận thức,
thái độ và hành vi của chủ thể đó trong mối quan hệ với bản thân, với người khác và với
công việc.
Từ khái niệm này, chúng ta có thể nhận thấy những điểm đáng lưu ý về giá trị sống như
sau:
- Giá trị sống có tính ý nghĩa: giá trị gắn với nhu cầu, sự quan tâm, sự ưa thích, mong đợi
của mỗi con người. Giá trị sống được hiểu là những ý nghĩa về mặt xã hội của các khách
thể trong thế giới xung quanh, có tác dụng tích cực đối với con người. Nhu cầu và giá trị
đều có ý nghĩa trong việc định hướng hành vi cho con người. Tuy nhiên, nhu cầu khi
được thỏa mãn thì có thể không ảnh hưởng nhiều đến hành vi trong khoảng thời gian sau
nhưng giá trị phát triển để các cá nhân có thể đáp ứng nhu cầu của họ theo cách xã hội
chấp nhận và nó có ảnh hưởng ổn định đến hành vi của cá nhân.
- Giá trị sống có tính ích lợi: Tính ích lợi của giá trị sống thể hiện ở việc giá trị sống giúp
cho mỗi cá nhân được phát triển về các mặt như hiểu biết, tình cảm và định hướng cho
những hoạt động tích cực mang lại điều tốt đẹp cho bản thân và xã hội.
- Giá trị sống có chức năng định hướng, tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động sống: Hoạt
động sống ở đây là hoạt động có đối tượng và hoạt động trong mối quan hệ với con
người (bản thân và cộng đồng). Giá trị sống có ý nghĩa hướng dẫn các hoạt động, điều
khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Giá trị chính là cơ sở để chủ thể nhận thức,
đánh giá, lựa chọn những điều trong hiện thực khách quan là phù hợp hay không phù
hợp, có ích hay không có ích, từ đó chủ thể sẽ có những hành vi tương ứng.
Ngoài ra, khái niệm giá trị sống còn cho thấy một số điều đặc trưng như:
- Giá trị sống bao gồm yếu tố nhận thức, tình cảm và hành vi của chủ thể trong mối quan
hệ với hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn, đánh giá của chủ thể. Việc tìm hiểu
giá trị sống của một cá nhân cần phải được xem xét biện chứng trên ba yếu tố này đồng
thời cần tìm hiểu và kiểm chứng qua các hoạt động của cá nhân đó.
- Giá trị sống được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người được xác định bởi
sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm thông
qua thực tiễn. Vì vậy, giá trị sống chịu ảnh hưởng từ các yếu tố khác nhau từ thực tiễn đời
sống.
* Phân loại giá trị sống
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi phân loại giá trị sống.
- Căn cứ vào phạm vi mà giá trị sống đó có ảnh hưởng, người ta phân chia: giá trị sống
bản thân, giá trị sống gia đình, giá trị sống cộng đồng (dân tộc), giá trị sống nhân loại
(toàn cầu).
- Căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi, có các giá trị sống như: giá trị sống trẻ nhỏ, giá trị sống
thanh thiếu niên, giá trị sống người cao tuổi…
- Căn cứ vào tính chủ thể, có thể phân biệt giá trị phổ biến (giá trị có tính phổ quát của
nhân loại) và các giá trị đặc thù (các giá trị chịu sự chi phối của truyền thống văn hóa dân
tộc, địa phương,….).
Theo tài liệu của Chương trình giáo dục giá trị sống toàn cầu được UNESCO công bố
dựa trên nghiên cứu của các nhà giáo dục trên khắp các châu lục, chương trình đã chia
thành 12 giá trị sống cơ bản đó là: Hòa bình, Tôn trọng, Yêu thương, Khoan dung, Hạnh
phúc, Trách nhiệm, Hợp tác, Khiêm tốn, Trung thực, Giản dị, Tự do, Đoàn kết.
* Cơ chế hình thành giá trị sống
Xét dưới góc độ Tâm lý học, quá trình hình thành giá trị hay còn gọi là quá trình
“tiếp nhận và lĩnh hội”, “sự nội tâm hóa” “sự đồng nhất hóa” các giá trị là một quá trình
xã hội phức tạp. Một số nhà khoa học như Lemin, Potts và Welsford cho rằng, giá trị hình
thành theo 6 bước sau: (1)Xác định và làm rõ các giá trị; (2) So sánh và làm nổi bật sự
khác biệt thông qua sự trao đổi về quan niệm các giá trị với những người khác;(3) Khai
thác và tìm hiểu cảm nhận của người khác; (4) Khai thác các giá trị khác biệt; (5) Xem
xét các phương án và ý nghĩa của các phương án để xuất các tiêu chí để đánh giá theo giá
trị họ đã lựa chọn; (6): Xây dựng kế hoạch hành động. Vận dụng cơ chế hình thành giá
trị, giáo dục giá trị sống cho người học có thể tác động đến ba phần cơ bản: nhận thức,
tình cảm và hành động.
(1) Nhận thức: Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của sinh viên sư phạm về giá trị
sống. Trong đó bao gồm 2 mức độ cụ thể: Mức độ biết: ở mức độ giới hạn về các khái
niệm, các sự kiện và thuật ngữ; Mức độ hiểu: hiểu sâu bản chất của giá trị để có thể
hiện bằng hành vi phù hợp. Bồi dưỡng nhận thức có vai trò quan trọng của quá trình
giáo dục giá trị sống cho người học. Nhận thức đúng thì sẽ định hướng cho hành động
đúng, biết vận dụng các hiểu biết về giá trị sống vào trong đời sống cá nhân.
(2) Tình cảm, thái độ: Bồi dưỡng tình cảm, thái độ cho người học. Giá trị được nội
tâm hóa và tích hợp với hệ thống vốn kinh nghiệm đã có để trở thành tài sản riêng của mỗi
cá nhân. Mức độ này đảm bảo các giá trị được cá nhân đánh giá, lựa chọn tự nguyện qua
kinh nghiệm, được suy ngẫm, và được khẳng định, được nuôi dưỡng trở thành động cơ của
hành vi, mục tiêu và lí tưởng của cuộc sống.
(3) Hành động: Rèn luyện, hình thành hành vi biểu hiện các giá trị sống cho người
học.Các giá trị được nội tâm hóa phát huy vai trò định hướng cho hành vi, qua đó giá trị
được thể hiện qua hành vi của cá nhân. Đây chính là bước ứng dụng giá trị vào thực tế.
Nghĩa là chủ thể phải chuyển các giá trị sống mà mình tiếp nhận thành các hành vi cụ thể
biểu hiện trong mối quan hệ với bản thân, với người khác và trong cuộc sống, hoạt động và
học tập rèn luyện nghề. Đây cũng chính là mục tiêu cuối cùng mà giáo dục giá trị sống cho
người học hướng tới.
Giáo dục giá trị sống thông qua ba phần như vậy đã giúp chuyển những hiểu biết
của con người (qua cấp độ nhận thức) đến thái độ, giá trị (qua trải nghiệm, đánh giá, lựa
chọn giá trị) và định hướng hành động thực tiễn (cần làm gì và làm như thế nào) chu trình
chuyển giá trị xã hội thành giá trị cá nhân.
So với hoạt động nhận thức thì quá trình chuyển hóa các giá trị xã hội thành giá trị
cá nhân có điểm khác biệt, mang tính đặc trưng sau: Quá trình nhận thức chỉ qua bước
nhận thức và thực hành, vận dụng; còn quá trình chuyển hóa các giá trị xã hội thành giá
trị cá nhân cần có bước trải nghiệm, đánh giá, lựa chọn các giá trị để tác động đến cảm
xúc hình thành thái độ, hình thành niềm tin vào giá trị thì mới có thể chi phối hành vi
theo định hướng giá trị.
Các phần nhận thức, thái độ, hành vi của quá trình giáo dục giá trị sống có mối
quan hệ chặt chẽ. Trong quá trình giáo dục giá trị sống cho sinh viên sư phạm, nhà giáo
dục cần căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, đối tượng và hoàn cảnh để vận dụng linh hoạt các
phần sao cho phù hợp.
1.4.1.3. Giá trị nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một lĩnh vực mà trong đó con người sử dụng sức lao động của
mình để tạo ra những cái cần thiết cho xã hội, nhờ đó con người có thể thoả mãn những
nhu cầu cần thiết cho việc tồn tại và phát triển của mình.
Từ các quan điểm trên, tác giả cho rằng: nghề nghiệp là một sự vật, hiện tượng
mang giá trị, làm thoả mãn những nhu cầu nhất định trong đời sống. Cùng với sự phát
triển của xã hội, nghề nghiệp cũng xuất hiện như một tất yếu khách quan. Mỗi nghề
nghiệp đều có vai trò nhất định đối với sự phát triển của xã hội và với các cá nhân làm
nghề. Khi nghề nghiệp đó càng phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước thì nó càng có giá trị cao. Như vậy, giá trị của nghề không chỉ do qui luật khách
quan đem lại, mà còn do chính những con người làm chủ thể của nghề nghiệp đó tạo ra.
Một mặt, chính họ là những người tạo ra những giá trị vốn có của nghề nghiệp, mặt
khác,nó còn phụ thuộc vào sự chấp nhận của xã hội. Giá trị nghề nghiệp phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội, do nó phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và làm thoả mãn
những mong muốn, nhu cầu tích cực của con người.
Giá trị nghề nghiệp là toàn bộ những nhân tố cấu thành đảm bảo cho sự tồn tại, phát
triển nghề nghiệp của người lao động ở một vị trí, lĩnh vực cụ thể theo yêu cầu của xã hội
hội, được người lao động chấp nhận, hướng theo trong quá trình hoạt động, học tập, rèn
luyện.
Do tính đa dạng của nhu cầu, cũng như sự đáp ứng trên nhiều khía cạnh, góc độ, tính chất
của một nghề nghiệp đối với các nhu cầu mà giá trị của nghề nghiệp hiện diện trong toàn
bộ các nhân tố liên quan tới tính hiện thực vốn có của nghề nghiệp đó. Những nhân tố đó
bao gồm: vị trí công tác; chức vụ đảm nhiệm; điều kiện, phương tiện hoạt động; đặc
điểm, tính chất nghề nghiệp; sản phẩm, xu hướng, triển vọng phát triển,các ưu thế của
nghề nghiệp trong xã hội. Theo đó, giá trị nghề nghiệp có thể được hiểu trên những khía
cạnh cơ bản sau:
- Bất cứ sự vật, hiện tượng nào thuộc các nhân tố cấu thành, bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của nghề nghiệp đều được xem là có giá trị (dù là vật thể hay phi vật thể, là
hình ảnh trực quan hay khái niệm, là hoạt động hay tĩnh tại), miễn nó được học viên thừa
nhận là một nhu cầu, có ý nghĩa, vị trí nhất định trong đời sống của họ. Vì vậy, giá trị
nghề nghiệp phản ánh một cách tổng thể tất cả các nhân tố cấu thành sự tồn tại, phát triển
của nghề nghiệp.
- Được hình thành trên cơ sở quan hệ nhận thức và quan hệ đánh giá của người học,
nên nội dung, hình thức biểu hiện của giá trị nghề nghiệp cũng có tính đa dạng, phong
phú tuỳ thuộc vào những nhu cầu mà người học được thoả mãn bởi nghề nghiệp mang
lại. Vì vậy, có thể thấy giá trị nghề nghiệp không chỉ gồm những giá trị tinh thần, mà còn
có các giá trị mang ý nghĩa về vật chất, có các giá trị mang tính mục đích và các giá trị
mang tính phương tiện, đồng thời có sự hiện diện của các giá trị cơ bản trên các mặt của
đời sống như: giá trị chính trị xã hội, đạo đức, giá trị hoạt động, thể chất, tâm lý, kinh
tế,... Cũng như các giá trị khác, giá trị nghề nghiệp luôn có tính lịch sử, tính giai cấp.
Mỗi nghề nghiệp khác nhau sẽ có những hệ thống giá trị nghề nghiệp khác nhau thể
hiện những yêu cầu đặc trưng của nghề nghiệp đó.
1.4.1.4. Phân loại nghề nghiệp
Theo tác giả Phạm Tất Dong (2005), nghề nghiệp được phân loại như sau:
a. Phân loại nghề theo hình thức lao động (Lĩnh vực lao động)
Theo cách phân loại này thì có 2 lĩnh vực khác nhau:
* Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo: có 10 nhóm nghề:
- Lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà Nước, đoàn thể và các bộ phận trong các cơ quan đó.
- Lãnh đạo doanh nghiệp
- Cán bộ kinh tế, kế hoạch tài chính, thống kê, kế toán...
- Cán bộ kỹ thuật công nghiệp
- Cán bộ kỹ thuật nông, lâm nghiệp
- Cán bộ khoa học giáo dục
- Cán bộ văn hóa nghệ thuật
- Cán bộ y tế
- Cán bộ luật pháp, kiểm sát
- Thư ký các cơ quan và một số nghề lao động trí óc khác
* Lĩnh vực sản xuất, có 23 nhóm nghề:
- Làm việc trên các thiết bị động lực
- Khai thác mỏ, dầu, than, hơi đốt, chê biến than (không kể luyện cốc).
- Luyện kim, đúc, luyện cốc
- Chế tạo máy, gia công kim loại, kỹ thuật điện và điện tử, vô tuyến điện
- Công nghiệp hóa chất
- Sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, bìa
- Sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông, sành sứ, gốm, thủy tinh
- Khai thác và chế biến lâm sản
- In
- Dệt
- May mặc
- Công nghiệp da, da lông, da giả
- Công nghiệp lương thực và thực phẩm
- Xây dựng
- Nông nghiệp
- Lâm nghiệp
- Nuôi và đánh bắt thủy sản
- Vận tải
- Bưu chính viễn thông
- Điều khiển máy nâng, chuyển
- Thương nghiệp, cung ứng vật tư, phục vụ ăn uống.
- Phục vụ công cộng và sinh hoạt
- Các nghề sản xuất khác
b. Phân loại nghề theo đào tạo
Theo cách phân loại này, các nghề được chia thành 2 loại:
* Nghề được đào tạo
* Nghề không được đào tạo
Khi trình độ sản xuất và khoa học, công nghệ được nâng cao, dân cư được phân bố đồng
đều trong cả nước thì số nghề cần có sự đào tạo qua các trường lớp sẽ tăng lên. Ngược lại
quốc gia nào có trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất, khoa học và công nghệ chậm phát
triển, dân cư phân tán thì tỉ lệ nghề không qua đào tạo rất cao.
Nước ta đã có danh mục các nghề được đào tạo, còn các nghề không được đào tạo rất khó
thống kê. Bên cạnh đó còn có rất nhiều nghề được truyền trong các dòng họ hoặc gia
đình,  những nghề này rất đa dạng và trong nhiều trường hợp được giữ bí mật được gọi là
nghề gia truyền. Do vậy, những nghề này được đào tạo trong gia đình và cũng thường chỉ
liên quan đến người được chọn để nối tiếp nghề của cha ông.
c. Phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động
* Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính
Công việc trong nghề hành chính mang tính chất sắp đặt, bố trí, trình bày, phân loại, lưu
trữ... các loại hồ sơ, giấy tờ. Cán bộ nhân viên trong những nghề này thường phải hệ
thống hóa, phân loại, xử lý các tài liệu, công văn, sổ sách. Những chuyên môn thường
gặp là nhân viên văn phòng, thư ký, kế toán, thông kê, lưu trữ, kiểm tra, chấm công...
Nghề hành chính đòi hỏi con người đức tính bình tĩnh, thận trọng, chính chắn, chu đáo.
Mọi thói quen, tác phong xấu như tính cẩu thả, bừa bãi, thiếu ngăn nắp, đại khái, qua loa,
thờ ơ, lãnh đạm... đều không phù hợp với công việc hành chính.
`Người làm nghề hành chính phải có tinh thần kỷ luật trong việc chấp hành những  công
việc mang tính sự vụ, biết giữ trật tự, nghiêm túc khi làm việc. Ngoài ra họ lại phải am
hiểu cách phân loại tài liệu, cách sắp sếp tài liệu ngăn nắp, có năng lực nhận xét, phê
phán cách chấp hành thủ tục giấy tờ, cách soạn thảo văn bản... thiếu cơ sở khoa học. Bản
thân họ cũng cần thành thạo công việc viết văn bản.
* Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người
Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những
người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái
độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…
Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi … đều
xa lại với các công việc nói trên.
* Những nghề thợ (công nhân)
Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc
trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ
…), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…),
trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác
như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ
thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không
thể thiếu được ở người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày
càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ,
Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ
xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).
* Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật
Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản
xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận
hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công
nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ
còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.
* Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng
nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong
mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn
học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà
viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn
phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng … Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ
là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có
cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người
làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng
lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.
* Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới
tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu  khoa học phải
say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan
trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích
lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn,
trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.
* Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên
Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai
thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải
yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù,
chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.
* Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt
Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du
hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề
này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc,
không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn
định.
Ngoài ra, Bộ Lao động thương binh và xã hội cũng đã Ban hành Danh mục ngành, nghề
đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng (thông tư Số: 04/2017/TT-
BLĐTBXH).

1.4.2. Sinh viên tích cực

1.4.2.1. Tư duy tích cực


a. Khái niệm
Tư duy tích cực là cách mà chúng ta nhìn nhận mọi sự việc theo chiều hướng tích
cực nhất. Những suy nghĩ về bản thân, mọi người xung quanh và thế giới bên ngoài được
chọn lọc một cách tích cực. Thay vì phải đón nhận những thử thách trong cuộc sống với
thái độ tiêu cực và bi quan, tư duy theo cách tích cực sẽ giúp bạn thay đổi mọi thứ.
Tư duy tích cực không phải là chúng ta suy nghĩ vấn đề thiếu thực tế hay “phủ một màu
hồng lãng mạn”. Tư duy theo hướng tích cực là cách nhìn nhận thẳng thắn, không tránh
né, không trốn tránh và những suy nghĩ đều được xác lập dưới góc nhìn chân thực và
khoa học.
Điểm khác biệt của tư duy này với các loại hình tư duy khác, đó chính là tư duy mặt tích
cực cho phép chúng ta thể hiện mong muốn của bản thân, thông qua “thái độ sống tích
cực” để tạo ra thành công. Sức mạnh của tư duy theo cách tích cực là ở việc những suy
nghĩ và niềm tin tích cực, hoàn toàn có thể trở thành sự thật trong tương lai.
Tư duy tích cực là cách mà bạn nhìn nhận sự việc theo chiều hướng tích cực,
nhưng điều này hoàn toàn không phải là lối tư duy thiếu thực tế, nhìn mọi thứ xung
quanh đầy một màu hồng. Tư duy tích cực cho phép chúng ta thể hiện những mong muốn
của mình thông qua “thái độ sống tích cực” để tạo ra sức mạnh cho thành công.
Sự thành công hay thất bại của mỗi người không chỉ phụ thuộc vào chỉ số thông
minh (IQ), chỉ số sáng tạo (CQ).. mà chủ yếu phụ thuộc vào thái độ sống – liên quan đến
chỉ số thông minh cảm (EQ), chỉ số thông minh tương tác xã hội (SQ), chỉ số vượt khó
(AQ). Trên thực tế, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy: thái độ sống có ý nghĩa quan trọng
và đảm cho sự thành công của con người hơn bất cứ nhân tố nào khác.
Như câu nói của Lewis L.Dunnington “Ý nghĩa cuộc sống không phải ở chỗ chỗ
nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có hái độ đối với nó ra sao; không phải ở chỗ
điều hì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào”
b. Lợi ích của tư duy tích cực
Hình 1: Vòng xoáy thất bại Hình 2: Vòng lập lại thành công

Qua hai hình trên ta thấy (hình 1) nếu luôn nghĩ đến tiêu cực, chỉ nhìn thấy “mặt tối” của
sự việc, khi đối mặt với khó khăn…luôn nhìn cuộc sống qua lăng kính mầu đen/bi quan,
không tin vòa bản thân thì sẽ dễ vào vòng xoáy thất bại, và (hình 2) nếu nghĩ tích cực, thì
chúng ta nhìn vào “mặt sáng” của sự việc, nhìn cuộc sống qua lăng kính màu sáng/lạc
quan, có niềm tin vào bản thân thì sẽ thiết lập vòng lập thành công.
Nhiều nghiên cứu đã kết luận tư duy tích cực mang lại nhiều lợi ích cho mỗi chúng
ta. Bạn càng lạc quan hơn, bạn càng hạnh phúc hơn. Tư duy của bạn sẽ ảnh hưởng đến tất
cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả thể chất và tinh thần.
- Giảm stress
Những người có tư duy tích cực thường có mức độ căng thẳng thấp hơn. Một nghiên cứu
tiến hành trên sinh viên đại học đánh giá cơ chế đối phó với căng thẳng vào đầu và cuối
của học kỳ thấy rằng sinh viên có tư duy tích cực có mức độ căng thẳng thấp hơn nhiều.
Trong một nghiên cứu khác tiến hành về những người sống sót sau cuộc tấn công tên lửa
đã chỉ ra rằng những người bi quan thường dễ bị trầm cảm và lo lắng sau những biến cố.
Như vậy, sự lạc quan giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm mức độ căng thẳng.
- Thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp hơn
Những nhà tư tưởng có tư duy tích cực có khuynh hướng may mắn hơn trong các mối
quan hệ. Lý do là mọi người bị thu hút bởi những người lạc quan hơn những người bi
quan. Ngoài ra, người lạc quan luôn luôn chọn xem những điều tốt đẹp ở người khác hơn
là tập trung vào những điều xấu. Điều này giúp xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn.
- Làm chậm quá trình lão hóa
Thực tế cho thấy những người lạc quan có tuổi thọ cao hơn. Một nghiên cứu tiến hành ở
người trên 60 tuổi cho thấy, những người bi quan có nguy cơ gặp biến chứng về chức
năng vận động sớm hơn 80% so với những người lạc quan. Nếu bạn muốn trì hoãn tuổi
già, bạn cần có tư duy tích cực đối với cuộc sống.
- Tăng khả năng chịu đựng cảm giác đau
Nếu bạn là một người lạc quan, bạn có khả năng chịu đựng cảm giác đau cao hơn so với
một người luôn luôn có suy nghĩ tiêu cực. Khả năng chịu đựng giúp bạn dễ dàng thích
nghi khi cơ thể có những biến cố về thể chất và tinh thần không mong muốn.
- Cải thiện kỹ năng đối phó
George Patton - GS nghiên cứu sức khỏe vị thành niên tại Trung tâm Y tế cho Trẻ vị
thành niên của Murdoch ở Melbourne, Australia nói rằng những người lạc quan ít có khả
năng phát triển một loạt biến chứng về sức khỏe thể chất và tinh thần như bệnh tim mạch
và trầm cảm khi họ ở tuổi già. Trong số thanh thiếu niên, nghiên cứu tương tự cho thấy
rằng tư duy tích cực giúp ngăn chặn trầm cảm, hạn chế hành vi lạm dụng chất gây nghiện
nặng và chống lại các hành vi bạo lực trong xã hội. Những đứa trẻ lạc quan có thể giải
quyết tốt hơn các vấn đề hành vi và cảm xúc thường gặp phải trong lứa tuổi thanh thiếu
niên.
- Giúp hạ huyết áp
Bi quan có thể là nguyên nhân gây tăng huyết áp. Các nghiên cứu được công bố trên Tạp
chí Nhân học và Tâm lý Xã hội cho thấy những người bi quan thường có huyết áp cao
hơn người lạc quan. Một trong những lợi ích của tư duy tích cực là làm bình ổn huyết áp.
- Cải thiện sự tự tin
Tư duy tích cực cho phép bạn tự tin hơn. Nói chung, những người lạc quan thường có xu
hướng tự tin hơn về bản thân và kỹ năng của mình. Mặt khác, những người bi quan luôn
phàn nàn về kỹ năng và giảm tự tin về chính họ. Các nghiên cứu quan sát mối quan hệ
nhân quả cho thấy rằng những người vui vẻ và hạnh phúc có khuynh hướng tự tin cao.
Họ thoải mái và tự tin hơn so với những người bi quan.
- Tăng tính miễn nhiễm
Tư duy tích cực giúp giảm căng thẳng. Điều này dẫn đến có sức khỏe và tinh thần tốt
hơn. Những người lạc quan ít có khả năng bị các bệnh thông thường như sốt siêu vi, cúm
và một số bệnh lý thần kinh tim mạch. Những người bị bệnh có thể cảm thấy tốt hơn
bằng cách tư duy tích cực hơn là tiêu cực, ngay cả khi không có thuốc men.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng một tâm trí thoải mái và những suy nghĩ hạnh phúc kích hoạt
việc giải phóng các hormon giảm căng thẳng, giúp cải thiện khả năng miễn dịch của cơ
thể. Điều này đảm bảo người lạc quan sẽ ít bị ốm đau hơn.
c. Phương pháp rèn luyện tư duy tích cực
Để rèn luyện cách tư duy tích cực không phải là chuyện ngày một ngày hai. Bởi
việc kiểm soát và chế ngự những cảm xúc tiêu cực hoàn toàn không đơn giản. Những suy
nghĩ tiêu cực thường lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng được não bộ in sâu vào bộ nhớ hơn là
những điều tích cực. Chính vì thế mà con người thường ám ảnh với những khoảnh khắc
đau buồn, tồi tệ hơn là những hạnh phúc, niềm vui mà họ có được. Vì vậy, để rèn luyện
“thái độ sống tích cực” để có tư duy tích cực, chúng ta nên bắt đầu từ những thứ sau đây:
- Thể hiện sự biết ơn 
Thể hiện sự biết ơn với cha mẹ, người thân, thầy cô, bạn bè…là cách rèn luyện tư
duy tích cực mà bạn nên tham khảo. Hãy biết ơn công sinh thành và dưỡng dục của cha
mẹ, biết ơn thầy cô đã dạy dỗ chúng ta hãy trân quý những người bạn xung quanh mình.
Sự biết ơn sẽ giúp tư duy lối sống tích cực của chúng ta hình thành và phát triển.
Ngay cả với những người xa lạ, những người có hành động xấu với chúng ta, hãy biết ơn
họ vì đã dạy dỗ chúng ta nhiều bài học đường đời. Đừng để những hận thù làm bạn trở
nên tiêu cực. Sự biết ơn chính là sức mạnh để bạn vượt qua nhiều khó khăn và cám dỗ.
- Luôn nghĩ đến sự thành công
Luôn nghĩ đến sự thành công là biện pháp để có tư duy tích cực mà hàng triệu
người đã và đang áp dụng. Sự thành công giúp bạn có thêm động lực cố gắng, tự nhắc
nhở bản thân phải nỗ lực hơn nữa. Hãy tập dần cho mình thói quen nghĩ đến sự thành
công trong tương lai của bản thân mình. Đó chính là động lực để bạn hành động cho ngày
hôm nay.
- Sắp xếp lại suy nghĩ
Đừng để suy nghĩ tiêu cực bủa vây tâm trí của bạn, việc rèn luyện sắp xếp lại suy
nghĩ của bản thân là việc bạn cần làm, nếu muốn có tư duy tích cực nhất. Hãy giữ lại
trong mình những suy nghĩ tích cực trong cuộc sống và học cách loại bỏ những suy nghĩ
tiêu cực, bi quan.
- Kiểm soát các luồng suy nghĩ tiêu cực
Phương pháp rèn luyện tư duy tích cực luôn đi kèm với kiểm soát các luồng suy
nghĩ tiêu cực. Thực tế, việc làm này rất khó và với những người chưa từng luyện tập,
chắc chắn sẽ dễ gặp thất bại. Hoàn cảnh môi trường sống, công việc của chúng ta không
phải lúc nào cũng thuận lợi. Khi gặp khó khăn, suy nghĩ tiêu cực xuất hiện như một lẽ
thường tình. 
Thế nhưng, hãy học cách kiểm soát nó. Đối mặt với những thử thách của cuộc
sống, bạn hãy đón nhận theo nhiều góc nhìn khách quan và chân thực. Nếu bạn suy nghĩ
sự việc theo chiều sâu, thì các luồng suy nghĩ tiêu cực cũng sẽ được hạn chế đáng kể.
Bạn có thể tham khảo thêm các loại sách tư duy tích cực thay đổi cuộc sống, hiện
đang được bày bán rất nhiều trên thị trường. Các loại sách này đưa ra các phương án hữu
ích, giúp bạn kiểm soát luồng suy nghĩ tiêu cực được tốt hơn.
- Kết bạn với những người bạn lạc quan mang suy nghĩ tích cực
Bạn đã nghe nói hiệu ứng lan truyền hay chưa? Nếu có thì hãy luyện tập suy nghĩ
tích cực như vậy nhé. Việc kết bạn với những người có suy nghĩ tích cực, lạc quan sẽ
là biện pháp để có tư duy tích cực hiệu quả. Kết bạn với họ sẽ cho bạn thêm nhiều sức
mạnh về tinh thần. Thông qua những người có suy nghĩ tích cực, bạn sẽ có động lực để
thay đổi chính bản thân mình.
1.4.2.2. Những thói quen tốt
a. Những lợi ích của thói quen tốt
Thói quen là những nếp sống, phương pháp làm việc được lặp đi lại nhiều lần trong cuộc
sống và công tác lâu dần thành quen, khó thay đổi. Có hai loại thói quen: thói quen
xấu và thói quen tốt .
Thói quen tốt là những thói quen mang lại nhiều lợi ích cho con người. Thói quen xấu là
những thói quen gây ra nhiều tác hại cho con người. Mỗi người đều có lối sống, thói quen
và sở thích riêng rất khác nhau. Qua thói quen có thể thấy được cá tính, văn hóa, hoàn
cảnh,… của con người.
Thói quen tốt mang lại nhiều lợi ích nhưng lại khó hình thành hơn thói quen xấu. Bởi
vậy, chung ta cần ý thức thật rõ những lợi ích của thói quen tốt và tác hại của thói quen
xấu để có phương hướng cụ thể rèn luyện bản thân theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp
hơn. Mỗi chúng ta cần có ý thức tránh xa thói quen xấu, hình thành thói quen tốt. Đó
cũng là nội dung của hoạt động tiếp theo.
Không ai sinh ra đã có ngay các thói quen tốt đẹp. Để hình thành nó, chúng ta cần nhận
thức được lợi ích của thói quen, để từ đó có động lực rèn luyện. Cố gắng mỗi ngày một
chút, đều đặn, chăm chỉ thực hiện hành vi để hình thành thói quen (Gieo hành vi, gặt thói
quen)
Bền bỉ, kiên trì, không ngã lòng, đến một lúc nào đó chúng ta không còn thấy khó khăn
với việc rèn luyện thói quen mà thói quen sẽ mang lại niềm vui, sự hào hứng cho chúng
ta. (VD: mới tập thể dục thấy rất mệt nhưng tập quen sẽ thấy rất khỏe và rất vui).
Thói quen dù tốt hay xấu không tự nhiên sinh ra mà nó là hệ quả tất yếu của việc sinh
hoạt, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Nếu ai lơ là,
chểnh mảng, bàng quan mà không chú ý rèn luyện từ những điều tưởng chừng như nhỏ
nhặt nhất thì qua ngày, qua tháng, những biểu hiện của thói quen xấu cứ mỗi ngày dày
thêm, tăng thêm.
Ngược lại, người nào luôn cẩn thận, chịu khó, chăm chỉ, siêng năng và chú tâm tu dưỡng,
rèn luyện bản thân mình ở mọi lúc mọi nơi, trong mọi công việc, biết kiềm chế những trò
chơi vô bổ, những thú vui tầm thường, thành tâm tiếp thu những điều hay lẽ phải, những
giá trị bổ ích trong cuộc sống thì nhất định người đó sẽ ngày càng trưởng thành, tiến bộ.
Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận.
Con người, ai cũng muốn thành đạt nhưng không phải ai cũng hành động để trở
nên thành đạt. Mỗi người đều có những thói quen, có thói quen tích cực, nhưng cũng có
thói quen tiêu cực. Những thói quen tiêu cực sẽ làm trì hoãn hành động của bạn, giữ lại
mong muốn thành đạt của bạn.
b. Các thói quen xấu thường thấy của giới trẻ
- Thụ động, có thái độ sống tiêu cực
Điều mà chúng ta có thể kiểm soát trong cuộc sống là: “Thái độ sống”. Tích cực và chủ
động là bước đầu tiên để chinh phục bản thân. Đây là lý do vì sao thói quen thứ nhất
được tác giả nói đến đầu tiên và nó là chìa khóa vàng cho mọi sự khởi đầu.
- Lười suy nghĩ
Bằng những hướng dẫn dễ hiểu trong thói quen thứ hai này mà Sean Covey đã giúp cho
chúng ta biết cách định hướng các nhiệm vụ để hoàn thành các mục tiêu của mình trong
cuộc sống.
- Nước đến chân mới nhảy
Đây là một thói quen vô cùng xấu của đa số thế hệ trẻ ngày nay. Nó xuất hiện từ lúc bạn
còn đi học, gần đến ngày thi rồi mới bắt đầu ôn thi…. Nó giống với câu nói của ông cha
ta để lại: “mất bò mới lo làm chuồng”.
Do vậy, từ hôm nay hãy làm việc tích cực hơn, việc ngày hôm nay chớ để ngày mai. Như
vậy chúng ta mới nhanh gặt hái được nhiều thành công.
- Chỉ nghĩ đến thắng thua
Thói quen thứ tư là nền tảng để hòa hợp tốt với mọi người. Thật ra, xã hội không phải là
cuộc chạy đua để xem ai thắng, ai thua. Điều đó có thể xảy ra trong các lĩnh vực, nghề
nghiệp khác nhau nhưng nó chính các tình huống do bản thân tạo ra. Trong quan hệ tình
cảm, thành quả của tinh thần “cả hai cùng thắng”, là những vật liệu làm nên cuộc sống.X
- Thích nói trước rồi mới nghe
Thói quen này đối với mọi người tưởng là dễ nhưng thật ra lại rất khó. Nhiều người đều
thích được nói hơn là nghe, đó cũng chính là lý do vì sao mà trong nhiều lĩnh vực hay
quan hệ tình cảm hằng ngày của họ luôn gặp trục trặc và không được như mong đợi. Do
vậy để đạt được điều mình mong muốn chính bản thân phải biết kiên nhẫn lắng nghe và
tạo dựng cho mình một thói quen lắng nghe.
- Không hợp tác với mọi người
Ý nghĩa của bài học này nếu bạn có tinh thần hợp tác thì đây là phần thưởng, quả ngọt,
thành công sau khi tự hoàn thiện bản thân do thực hành những thói quen tốt, đặc biệt về
cách tư duy cùng thắng và thái độ biết lắng nghe, thấu hiểu người khác. Bạn nên có một
tinh thần hợp tác làm việc thì công việc mới đạt được kết quả cao nhất.
- Sống mòn.
Bài học biết rèn luyện và phát triển những kỹ năng là không thể thiếu trong cuộc sống đối
với nhiều lứa tuổi. Bởi nếu bạn không quan tâm trau dồi bản thân. Không chịu học hỏi
những điều hay và ý tưởng mới. Hoặc không bao giờ bạn chịu rèn luyện tập thể dục thể
thao, tránh xa sách vở thì rơi vào “Sống mòn”. Chính thế, bạn phải nỗ lực không ngừng
học hỏi để bản thân mình luôn hoàn thiện hơn.
Bạn có thói quen nào trong những thói quen xấu này không, dù chỉ có một thói quen thôi
thì bạn nên thay đổi và phải thay đổi nếu muốn thành công trong cuộc sống.
Đến với 7 thói quen của bạn trẻ thành đạt, chúng ta sẽ được học để tạo lập được 7 thói
quen tốt, khắc phục những thói quen xấu. Sinh viên sẽ được làm quen với những khái
niệm như tài khoản cá nhân, tài khoản quan hệ, những việc làm và hành động ảnh hưởng
như thê nào tới tài khoản của mình.
c. 7 Thói quen tốt cần rèn luyện đối với sinh viên đại học
 Thói quen 1, 2 và 3 tập trung vào việc làm chủ bản thân và thay đổi từ tính phụ
thuộc sang độc lập
 Thói quen 4, 5 và 6 tập trung vào việc phát triển kỹ năng làm việc nhóm, hợp tác,
giao tiếp, và chuyển từ tính độc lập sang phụ thuộc lẫn nhau
 Thói quen 7 tập trung vào sự phát triển và cải tiến liên tục. Và là sự phản ánh của
tất cả các thói quen khác.
Thói quen 1: Hãy tự chủ động
Chúng tôi sống cuộc sống của mình và chịu trách nhiệm với nó. Chúng tôi chọn cách
mình sẽ sống như thế nào. Hãy sử dụng tư duy này để tập tính chủ động và chịu trách
nhiệm cho những lựa chọn của mình. Đây là thói quen đầu tiên mà Covey đề cập tới: Là
tính chủ động. Sự khác biệt giữa con người và những loài động vật khác là khả năng tự
nhìn nhận bản thân, kiểm soát được tính cách và đánh giá được các tình huống.
Như những người phản động là họ có tư duy Thụ động - Họ nghĩ rằng thế giới đang điều
khiển họ. Do đó, họ phát biểu những điều như: “Tôi không thể làm được gì”, “Đó là cách
của tôi”. Họ nghĩ rằng thế giới ngoài kia đều có vấn đề - nhưng suy nghĩ đó mới chính là
vấn đề. Những người thụ động tự vẽ nên một viễn tưởng cho tương lai, và ngày càng nghĩ
mình trở thành nạn nhân và dần mất kiểm soát bản thân.
Trái lại, những người Chủ động tự nhận ra rằng họ có trách nhiệm - hay “khả năng phản
ứng”, mà Covey định nghĩa là khả năng lựa chọn cách bạn phản hồi với tình huống bất
kỳ. Nói một cách đơn giản, để có được sự thành công người ta phải học cách tự chủ động.
Cách luyện tập: Hãy thử thách bản thân để thay đổi tính chủ động của mình bằng
cách thực hiện những điều sau:
 Tập thay thế ngôn ngữ thụ động thành chủ động. Ví dụ: Thụ động - “Điều đó
khiến tôi cảm thấy khó chịu”. Chủ động - “Tôi có thể kiểm soát được cảm xúc của
mình”
 Chuyển đổi các nhiệm vụ thụ động thành các nhiệm vụ chủ động - tự có trách
nhiệm cần đưa ra những giải pháp trong tình huống bất kỳ xảy ra
Thói quen 2: Bắt đầu với một mục tiêu
Bắt đầu với một mục tiêu rõ ràng trong tâm trí - Covey nói rằng chúng ta có thể sử dụng
trí tưởng tượng của mình để xây dựng một tầm nhìn về những gì chúng ta muốn trở thành
và sử dụng con tim để quyết định những giá trị nào chúng ta cần hướng đến.
Hầu hết chúng ta đều thấy bản thân liên tục bận rộn. Chúng ta làm việc chăm chỉ để đạt
được những thành quả - thăng chức, tăng lương, được nhiều người công nhận. Nhưng
chúng ta không thường dừng lại để tự nhìn lại ý nghĩa đằng sau tất cả sự cố gắng đó, đằng
sau những thành quả đó liệu có thực sự quan trọng đối với chúng ta hay không.
Thói quen 2 cho thấy rằng, trong mọi việc chúng ta làm, chúng ta nên bắt đầu với một
mục tiêu rõ ràng trong đầu. Bằng cách đó, chúng ta có thể đảm bảo rằng các bước chúng
ta thực hiện đang đi đúng hướng.
Tác giả nhấn mạnh rằng sự tự chủ động cho phép chúng ta định hình cuộc sống của chính
mình. Thay vì sống cuộc sống theo mặc định hoặc dựa trên các tiêu chuẩn hoặc sở thích
của người khác.
Có thể áp dụng cho các doanh nghiệp ví dụ như: Mục tiêu trở thành một nhà quản lý là để
tối ưu hóa hoạt động kinh doanh để đạt được hiệu quả. Nhưng để trở thành một nhà lãnh
đạo bạn cần đặt ra một định hướng và chiến lược đúng đắn cho doanh nghiệp. Và mục
tiêu của chiến lược cũng bắt đầu với câu hỏi “Doanh nghiệp của bạn đang cố gắng đạt
được điều gì?”.
Cách luyện tập: 
1. Hãy tưởng tượng bạn muốn người khác sẽ nói những gì trong đám tang của chính
mình? Bạn muốn họ khen bạn ở những điểm tốt đẹp nào? Hãy sống cuộc đời tiếp
theo luyện tập để sống với những điều tốt đẹp đó. Hoặc nếu chỉ còn 30 ngày để
sống, bạn sẽ thay đổi tích cực như thế nào. Hãy sống cuộc đời còn lại với những
thay đổi như thế.
2. Chia nhỏ các vai trò khác nhau trong cuộc sống của bạn - dù là nghề nghiệp, cá
nhân hay cộng đồng - và liệt kê 3 đến 5 mục tiêu bạn muốn đạt được cho mỗi vai
trò.
3. Xác định điều gì khiến bạn sợ hãi. Viết ra tình huống xấu nhất cho nỗi sợ hãi lớn
nhất của bạn, sau đó hình dung cách bạn sẽ xử lý tình huống này. Viết ra chính xác
cách bạn sẽ xử lý nó.
Thói quen 3: Đặt những điều ưu tiên lên hàng đầu
Để tự rèn luyện bản thân một cách hiệu quả, chúng ta phải đặt những điều ưu tiên
lên hàng đầu. Chúng ta phải có trách nhiệm sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các công việc hàng
ngày của mình dựa trên điều gì là quan trọng nhất, chứ không phải điều gì là khẩn cấp
nhất.
Trong Thói quen 2, tác giả đã thảo luận về tầm quan trọng của việc xác định giá trị
của bản thân và hiểu được những mục tiêu chúng ta đang đặt ra để đạt được. Thói quen 3
là cách theo đuổi những mục tiêu này và thực hiện các công việc theo ưu tiên mỗi ngày,
mỗi thời điểm.
Chúng ta thường xử lý những vấn đề khẩn cấp trước. Chúng ta thường dành thời
gian của mình để làm những việc không quan trọng. Để duy trì tính kỷ luật và sự tập
trung hướng tới mục tiêu của mình, chúng ta cần có ý chí kiên định để làm bất cứ điều gì
trong kế hoạch mặc dù chúng ta không muốn làm nó.
Chúng ta cần phải hành động để chạm đến các mục tiêu của mình hơn là mong
muốn hoặc sự bốc đồng của bản thân tại bất kỳ thời điểm nào. Chúng ta nên luôn duy trì
sự tập trung vào các mối quan hệ và kết quả, tập trung thứ yếu vào thời gian.
Cách luyện tập: Dưới đây là một số cách giúp bạn có thể thực hành sắp xếp những
điều ưu tiên lên hàng đầu:
1. Xác định những công việc quan trọng mà bạn đã bỏ qua. Viết nó ra và cam kết
thực hiện nó.
2. Tạo ma trận quản lý thời gian của riêng bạn để bắt đầu thực hiện những công việc
ưu tiên.
3. Ước tính lượng thời gian bạn dành cho mỗi công việc thường ngày. Sau đó ghi lại
thời gian của bạn trong 3 ngày. Ước tính của bạn chính xác đến mức nào? Bạn đã
dành bao nhiêu thời gian cho những công việc quan trọng nhất?
Thói quen 4: Đôi bên cùng có lợi
Để thiết lập các mối quan hệ đôi bên cùng có lợi hiệu quả, chúng ta phải cam kết
tạo ra các tình huống Win-Win có lợi cho cả đôi bên và thỏa mãn mỗi bên. Tác giả giải
thích rằng có 6 mô hình tương tác giữa con người với nhau:
1. Win-Win (Thắng - Thắng): Cả hai người cùng thắng. Các thỏa thuận hoặc giải
pháp có lợi cho cả hai bên và làm hài lòng cả hai bên.
2. Win-Lose (Thắng - Thua): "Nếu tôi thắng, bạn sẽ thua." Những người Thắng-Thua
có xu hướng sử dụng vị trí, quyền lực, chứng chỉ và nhân cách để đạt được mục
tiêu của họ.
3. Lose-Win (Thua - Thắng): "Tôi thua, bạn thắng." Những người Thua-Win thường
nhanh chóng làm hài lòng và xoa dịu, đồng thời tìm kiếm sức mạnh từ sự chấp
nhận hoặc sự nổi tiếng.
4. Lose-Lose (Thua - Thua): Cả hai người đều thua. Khi hai người Thắng-Thua gặp
nhau - tức là khi hai cá nhân kiên quyết, cứng đầu, đầu tư vào cái tôi tương tác với
nhau - thì kết quả sẽ là Thua-Thua.
5. Win (Thắng): Những người có tâm lý Thắng không nhất thiết muốn người khác
thua - điều đó không liên quan. Điều quan trọng là họ có được những gì họ muốn.
6. Win-Win hoặc No Deal (Thắng - Thắng hoặc không thỏa thuận): Nếu bạn không
thể đạt được thỏa thuận đôi bên cùng có lợi, thì không có thỏa thuận nào cả.
Lựa chọn tốt nhất là tạo các tình huống Win-Win. Vì với tình huống Win-Lose,
hoặc Lose-Win, bạn sẽ có vẻ đạt được những gì bạn muốn vào lúc này (cảm giác đắc
thắng), nhưng kết quả sẽ tác động tiêu cực đến mối quan hệ giữa hai bên về sau.
Cuối cùng, tinh thần Win-Win không thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh. Là
một tổ chức, bsjn cần điều chỉnh cơ cấu khen thưởng của mình với các mục tiêu và giá trị
Win-Win.
Cách luyện tập: Hãy bắt đầu rèn luyện tư duy đôi bên cùng có lợi với các thử
nghiệm sau:
1. Nghĩ về một cuộc thương lượng sắp tới mà bạn cần cố gắng đạt được thỏa thuận
hoặc giải pháp. Viết ra danh sách những gì đối phương đang cần tìm kiếm. Tiếp
theo, viết một danh sách các cách bạn có thể đưa ra đề nghị để đáp ứng những nhu
cầu đó.
2. Xác định 3 mối quan hệ quan trọng trong cuộc sống của bạn. Hãy nghĩ về những
gì bạn cảm thấy cân bằng trong mỗi mối quan hệ đó. Bạn có cho nhiều hơn bạn
nhận không? Lấy nhiều hơn bạn cho? Viết ra 10 cách để luôn cho nhiều hơn
những gì bạn nhận được.
3. Xem xét các khuynh hướng tương tác của chính bạn. Có phải đang là mô hình
tương tác Thắng-Thua? Điều đó ảnh hưởng như thế nào đến tương tác của bạn với
người khác? Bạn có thể tự xác định nguyên nhân của khuynh hướng tương tác đó
không? Xác định xem cách tiếp cận này có giúp bạn trong các mối quan hệ của
bạn hay không. Viết tất cả những điều này ra.
Thói quen 5: Lắng nghe và Thấu hiểu
Trước khi có thể đưa ra lời khuyên, đề xuất giải pháp hoặc tương tác với bất kỳ ai,
chúng ta phải tìm cách hiểu rõ về họ và quan điểm của họ thông qua việc lắng nghe và
Thấu hiểu.
Ví dụ nếu bạn đi đo mắt vì dạo gần đây thường không thể nhìn rõ, và bạn gặp
người bác sĩ, ông ta đưa cho bạn cặp kính và nói "Anh bị cận rồi, hãy đeo kính đi". Bạn
đeo vào, nhưng mọi việc không thể cải thiện hơn. Vậy bạn có quay lại gặp bác sĩ đo thị
lực đó nữa không?
Thật không may, chúng ta đang làm điều tương tự hàng ngày mà không hề để ý.
Chúng ta thường đề ra ngay giải pháp trước khi chẩn đoán vấn đề. Chúng tôi không tìm
cách hiểu rõ vấn đề trước. Thói quen thứ 5 nói rằng chúng ta phải trước tiên phải tìm
hiểu, sau đó để thấu hiểu. Và để tìm hiểu, chúng ta phải học cách lắng nghe.
Chúng ta không thể sử dụng kỹ thuật nào đó để hiểu ai đó. Trên thực tế, nếu một
người cảm thấy rằng bạn đang thao túng họ, họ sẽ đặt câu hỏi về động cơ của bạn và sẽ
không còn cảm thấy an toàn khi mở lòng với bạn nữa.
Để lắng nghe một cách thấu cảm đòi hỏi một sự rèn luyện có cơ sở. Hầu hết mọi
người nghe với mục đích trả lời chứ không phải để hiểu. Tại bất kỳ thời điểm nào, họ
cũng sẽ phản hồi ngay lập tức hoặc chuẩn bị để phản hồi.
Sau cùng, Covey chỉ ra rằng, các chuyên gia về lĩnh vực truyền thông ước tính
rằng:
 10% giao tiếp của chúng ta được thể hiện bằng lời nói
 30% được thể hiện bằng âm thanh
 60% được thể hiện bằng ngôn ngữ cơ thể
Khi chúng ta lắng nghe một cách thụ động, chúng ta có xu hướng phản hồi theo
một trong bốn cách:
1. Đánh giá: Đồng ý hay không đồng ý với những gì được nói
2. Thăm dò: Đặt câu hỏi từ những suy nghĩ của chính chúng ta
3. Lời khuyên: Đưa ra lời khuyên dựa trên kinh nghiệm
4. Diễn giải: Cố gắng tìm ra động cơ và hành vi của người đó dựa trên động cơ và
hành vi của chính chúng ta
Nhưng nếu chúng ta thay thế những kiểu phản hồi này bằng cách lắng nghe thấu
cảm, chúng ta sẽ thấy kết quả đáng kể trong việc cải thiện giao tiếp. Cần có thời gian để
thực hiện sự thay đổi này, nhưng không mất nhiều thời gian để luyện tập cách lắng nghe
thấu cảm vì nó hỗ trợ và giúp bạn sửa chữa những hiểu lầm, những vấn đề chưa được giải
đáp làm rõ và chưa được giải quyết có thể là “quả bom nổ chậm” lên sau này.
Phần thứ hai của Thói quen thứ 5 là "Thấu cảm." Điều này cũng quan trọng không
kém trong việc đạt được tư duy Win-Win. Khi chúng ta có thể trình bày ý tưởng, suy
nghĩ của mình một cách rõ ràng trong điều kiện đã hiểu biết sâu sắc về nhu cầu và mối
quan tâm của đối phương. Chúng ta sẽ tăng đáng kể độ tin cậy cho những gì mình nói.
Cách luyện tập: Dưới đây là một số cách để bạn có thể luyện tập thói quen Lắng
nghe và Thấu hiểu
1. Lần tới khi bạn nhìn thấy 2 người đang giao tiếp, hãy bịt tai lại và quan sát. Những
cảm xúc nào đang được truyền đạt mà không cần qua lời nói? Người này hay
người kia quan tâm đến cuộc trò chuyện hơn? Nêu ra những gì bạn nhận thấy.
2. Lần tới khi bạn thuyết trình, hãy bắt nguồn từ sự đồng cảm. Bắt đầu bằng cách mô
tả quan điểm của khán giả một cách chi tiết. Họ đang gặp phải những vấn đề gì?
Điều bạn sắp nói cần như thế nào để đưa ra giải pháp hữu ích nhất dành cho vấn
đề của người nghe?
Thói quen 6: Hợp lực
Bằng cách hiểu và đánh giá sự khác biệt trong quan điểm của mỗi người, bạn sẽ có
khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp. Cho phép bạn khám phá ra những cơ hội mới thông
qua sự hợp tác và cùng phát triển. "Khi một cộng một bằng ba hoặc nhiều hơn và tổng thể
lớn hơn tổng các phần chi tiết". Như nếu bạn trồng 2 cây gần nhau, rễ của chúng sẽ kết
hợp với nhau và cải thiện chất lượng của đất, do đó cả 2 cây sẽ phát triển tốt hơn so với
tự trồng.
Hợp lực - cho phép chúng ta tạo ra các giải pháp mới thay thế và mở ra các cơ hội
phát triển mới. Nó cho phép một hội nhóm đồng ý buông bỏ các đường lối cũ và lập nên
những chiến lược mới. Bằng tin cậy và mang lại cảm giác an toàn, chúng ta sẽ thúc đẩy
những người khác trở nên cực kỳ lan tỏa và tiếp thu những hiểu biết và ý tưởng của nhau,
tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Bản chất thực sự của sức mạnh tổng hợp là đánh giá được sự khác biệt - sự khác
biệt về tinh thần, cảm xúc và tâm lý giữa mọi người. Nếu hai người có cùng quan điểm,
thì sao phải cần làm việc đơn lẻ nữa? Khi bạn nhận ra được quan điểm KHÁC của ai đó,
bạn có thể nói, "Hay quá! Anh thấy nó khác biệt! Hãy cho tôi thấy sự khác biệt mà bạn
nhìn ra".
Tổng hợp 6 Thói quen hiệu quả, bạn có thể áp dụng như sau. Trước tiên, bạn cần
tìm hiểu để thấu cảm, sau đó bạn sẽ nhìn thấy sức mạnh và lợi ích từ các quan điểm khác
nhau. Để từ đó, tạo ra các cơ hội mới và mang lại kết quả Win-Win.
Thói quen Hợp lực cho phép bạn:
 Đánh giá cao sự khác biệt ở người khác như một cách để mở rộng thêm tư duy của
bạn
 Loại bỏ năng lượng tiêu cực và tìm kiếm điều tốt đẹp ở người khác
 Rèn luyện “cái tôi” trong các tình huống phụ thuộc lẫn nhau để cởi mở hơn và
khích lệ người khác cởi mở
 Thúc đẩy sự sáng tạo và tìm ra giải pháp tốt hơn cho mọi người bằng cách tìm
kiếm tiếng nói chung
Cách luyện tập: Dưới đây là một số cách để bạn có thể luyện tập thói quen Hợp
lực
1. Lập danh sách những người bạn không thể nào hòa hợp. Bây giờ chỉ chọn một
người. Quan điểm của họ khác bạn như thế nào? Hãy đặt mình vào vị trí của họ
trong một phút. Hãy suy nghĩ và giả vờ cảm giác trở thành họ. Điều này có giúp
bạn hiểu rõ hơn về họ không? Bây giờ, lần tới khi bạn có bất đồng với người đó,
hãy cố gắng hiểu mối quan tâm của họ và lý do tại sao họ không đồng ý với bạn.
Bạn càng có thể hiểu họ tốt hơn, bạn càng dễ dàng thay đổi quyết định của họ -
hoặc thay đổi ý định của chính mình.
2. Lập danh sách những người mà bạn hòa thuận. Bây giờ chỉ chọn một người. Quan
điểm của họ khác bạn như thế nào? Bây giờ, hãy viết ra một tình huống mà bạn đã
có tinh thần đồng đội và sức mạnh tổng hợp tuyệt vời. Tại sao? Những điều kiện
nào để 2 bạn có thể đạt được sự linh hoạt như vậy? Làm thế nào để bạn có thể tiếp
tục tạo được những điều kiện đó?
Thói quen 7: Rèn giũa bản thân
Để có rèn luyện được những thói quen hiệu quả, chúng ta phải dành thời gian để
đổi mới bản thân về thể chất, tinh thần, tâm hồn và đời sống xã hội. Và thời gian tự thay
đổi bản thân cũng cho phép chúng ta tăng khả năng thực hành từng thói quen một cách
tập trung hơn.
Thói quen hiệu quả thứ 7 là tập trung vào việc đổi mới bản thân hoặc "mài giũa"
bản thân. Nó bao hàm tất cả các thói quen khác và làm cho mỗi thói quen trở nên khả thi,
đồng thời giữ gìn và nâng cao tài sản lớn nhất của bạn - chính bản thân bạn.
Có 4 khía cạnh trong bản chất của chúng ta cần được cải thiện, và mỗi khía cạnh
phải được thực hiện thường xuyên và theo những cách khoa học:
-Thể chất: Mục tiêu của việc cải thiện thể chất liên tục là rèn luyện cơ thể của
chúng ta, theo cách sẽ nâng cao năng lực làm việc, thích nghi với nó và tận hưởng. Để
đổi mới bản thân về mặt thể chất, chúng ta phải:
 Ăn tốt
 Nghỉ ngơi và thư giãn đầy đủ
 Tập thể dục thường xuyên để tăng sức bền, sự dẻo dai và sức mạnh
Tập trung vào khía cạnh thể chất giúp phát triển Thói quen hiệu quả 1 về Tính chủ
động. Chúng ta sống dựa trên giá trị của hạnh phúc, thay vì phản ứng với các khó khăn
khiến chúng ta trở nên tiêu cực, ốm yếu, bệnh tật.
- Tinh thần: Mục tiêu của việc đổi mới sức mạnh tinh thần là tiếp thêm khả năng
lãnh đạo cuộc sống và củng cố giá trị của bản thân. Để đổi mới bản thân về mặt tinh thần,
bạn có thể:
 Thực hành thiền định mỗi ngày
 Gần gũi với thiên nhiên
 Đắm mình trong văn học hoặc âm nhạc tuyệt vời
Tập trung vào kích thích tinh thần giúp chúng ta thực hành Thói quen 2, vì chúng
ta cần sửa đổi các giá trị và tính kiên định của bản thân, để có thể sống với mục tiêu đã
định.
- Tâm hồn: Mục tiêu của việc làm mới tâm hồn là mở rộng tâm trí của chúng ta.
Để làm mới bản thân về mặt tâm hồn, bạn có thể:
 Đọc những kiệt tác văn học
 Viết nhật ký về những suy nghĩ, kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của bạn
 Hạn chế xem tivi hoặc chỉ xem những chương trình làm phong phú thêm đời sống
và tâm trí của bạn
Tập trung vào chiều hướng tâm hồn giúp chúng ta thực hành Thói quen hiệu quả 3
bằng cách quản lý bản thân một cách hiệu quả để sử dụng tối đa thời gian và nguồn lực
của mình.
- Đời sống xã hội / tình cảm: Mục tiêu của việc thay đổii bản thân về mặt đời sống
xã hội là phát triển các mối quan hệ có ý nghĩa. Để làm được điều đó, bạn có thể:
 Tìm hiểu sâu sắc về người khác
 Tham gia các hoạt động thiện nguyện giúp cải thiện cuộc sống của người khác
 Duy trì trí tuệ dồi dào và tìm cách giúp người khác chạm đến thành công
Đổi mới khía cạnh đời sống xã hội và cảm xúc giúp chúng ta thực hành các Thói
quen 4, 5 và 6 bằng cách nhận ra giá trị của tư duy Win-Win, học cách hiểu người khác
hơn và tìm ra các giải pháp cùng có lợi thông qua sức mạnh Hợp lực.
Khi chúng ta tập trung vào việc đổi mới bản thân theo 4 khía cạnh này, chúng ta
cũng phải học cách trở thành một người lan tỏa năng lượng tích cực đến những người
khác. Chúng ta phải tìm cách truyền cảm hứng cho những người khác đến một tư duy cao
hơn bằng cách cho họ thấy rằng chúng ta tin tưởng vào họ, bằng cách lắng nghe họ một
cách thấu cảm, và khuyến khích họ chủ động.
Giá trị thực sự của 7 Thói quen là làm tăng khả năng cải thiện phần còn lại của
chúng ta. Đổi mới là quá trình cho phép chúng ta nâng cấp bản thân đến những giai đoạn
phát triển,  thay đổi và cải tiến liên tục.
Cách luyện tập: Dưới đây là một số cách để bạn có thể luyện tập thói quen Rèn
giũa bản thân
1. Lập danh sách các hoạt động có thể giúp bạn đổi mới bản thân theo từng khía cạnh
trong số 4 khía cạnh trên. Chọn một hoạt động cho mỗi khía cạnh và đặt nó làm
mục tiêu cho tuần tới. Vào cuối tuần, hãy đánh giá hiệu quả công việc của bạn.
Điều gì đã dẫn bạn đến thành công hay thất bại cho từng mục tiêu?
2. Viết ra một hoạt động cụ thể giúp bạn "mài giũa" cả 4 khía cạnh hàng tuần để thực
hiện chúng, đồng thời đánh giá hiệu suất và kết quả.
Tóm lại trong cuộc sống ai cũng có những thói quen tốt và thói quen xấu những
đôi chúng ta cứ làm theo bản năng, thậm chí không hiểu việc mình đang làm là thói
quen xấu hay tốt. Mặc dù chúng ta biết những thói quen tốt nhưng ta lại không kiên trì
rèn luyện và quyết tâm thực hiện để đạt đặt được mục tiêu đề ra và thậm chí biết là
việc mình làm là thói quen xấu những ta lại không thể bỏ được. Có một câu nói “cuộc
sống của bạn chính là con người của bạ, khả năng của bạn và thói quen của bạn”. Đối
với sinh viên là lứa tuổi rất cần rèn luyện thói quan tốt để sẵn sàng bước vào ngưỡng
cửa cuộc đời đó chính là bắt đầu một cuộc sống của công việc, gia đình và xã hội.
1.4.2.3. Lòng biết ơn
Lòng biết ơn nắm giữ một sức mạnh kì diệu. Những nghiên cứu gần đây cho rằng
lòng biết ơn không chỉ mang lại hạnh phúc về mặt tâm lí mà còn cải thiện sức khỏe con
người. Khi bạn chú tâm vào những điều bạn cảm thấy biết ơn, thật khó để cảm thấy bi
quan hoặc bất hạnh, khiến cho việc trau dồi lòng biết ơn trở thành một trong những cách
tuyệt nhất để sống một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy. Cuộc sống luôn có những lúc thăng
trầm, và những khi bạn bước ngang qua một giai đoạn sóng gió đặc biệt, việc chú tâm
vào những thứ bạn đang có (thay vì những thứ bạn đang thiếu) có thể trở nên khó khăn vô
cùng.
a. Vì sao cần thực hành lòng biết ơn?
Biết ơn và đánh giá cao tất cả những gì bạn có được trong cuộc sống là chìa khóa
để tạo nên sự thành công. Hãy dành thời gian để cảm ơn tất cả mọi người đang ở bên
cạnh bạn và biết ơn những thứ mà bạn đã hoàn thành. Bạn có thể không bao giờ thực sự
hạnh phúc hoặc thành công nếu bạn không phải biết ơn những thứ mà mình đang có. Khi
bạn thực sự biết ơn, bạn tích cực hơn, lạc quan hơn.
Lòng biết ơn là cơ sở khẳng định phẩm chất của con người. Người có lòng biết ơn
là người luôn biết ghi nhớ và trân trọng những gì người khác trao tăng hay để lại cho
mình. Họ biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị ấy trong cuộc sống. Mỗi một
sự giúp đỡ ý nghĩa đều khiến họ cảm động và hàm ơn.
“Lòng biết ơn” là một cụm từ rất quen thuộc với mọi người chúng ta, nhưng có ai
thực hiện được hết ý nghĩa của nó. Trong cuộc đời mỗi người chúng ta có rất nhiều lòng
biết ơn: biết ơn ông bà, cha mẹ, biết ơn những người bao bọc, giúp đỡ mình những khi
mình gặp khó khăn….Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ
người khác. Lòng biết ơn là sự thể hiện sự biết ơn của mình đối với những thành quả lao
động do cha ông để lại. Lòng biết ơn vốn là một truyền thống văn hóa cao đẹp của dân
tộc ta.
Jack Canfield, chuyên gia hàng đầu nước Mỹ về thành công cá nhân cho rằng thái độ
mạnh mẽ nhất trong tất cả các thái độ tích cực chính là Lòng Biết Ơn. Ông từng nhận
định: “Để nâng cao năng lực của bản thân, chúng ta cần xem trọng lòng biết ơn. Lòng
biết ơn là thành phần đơn quan trọng nhất cho một cuộc sống hạnh phúc và tròn đầy”.
Chu Tử Trị (1617-1688), một nhà tư tưởng nổi tiếng của Trung Quốc, đã biên soạn một
luận thuyết gồm 506 chữ bao hàm những lời giáo huấn cho hậu thế. Ông cũng giảng:
“Đối với mỗi bát cháo ta húp và mỗi hạt gạo ta ăn, ta phải nhớ về sự khó nhọc của người
nông dân trồng nên chúng. Đối với từng mảnh lụa ta mặc và từng sợi chỉ ta dùng, ta phải
nghĩ về công lao của những người dệt nên chúng.”
Năm 2014, nhà tâm lý học Thomas Gilovich của Đại học Cornell đã có bài phát biểu tại
hội nghị thượng đỉnh “Greater Good Gratitude Summit”. Ông cho rằng, chướng ngại lớn
nhất của lòng biết ơn là phương thức được lập trình của bộ não người: Chúng ta thường
nhớ rất rõ những gì đã cản trở chúng ta, nhưng lại thường bỏ lỡ những thời khắc đẹp mà
cuộc sống ban tặng. 
“Bởi vì trong cuộc sống, con người luôn có những mục tiêu phấn đấu hay có những vấn
đề trước mắt phải giải quyết, làm chúng ta có xu hướng tập trung khắc phục khó khăn
hơn là thưởng thức những điều tốt đẹp. Việc này đối với cuộc sống vật chất chúng ta là
tốt, nhưng cũng làm cho ta không ý thức được điều thực sự cần trên con đường dẫn tới
thành công”.
Biết ơn cha mẹ, biết ơn món quà của thiên nhiên, biết ơn những món ăn ngọt ngào, biết
ơn sự ấm áp của quần áo, biết ơn hoa lá, cỏ cây và côn trùng, biết ơn về nghịch cảnh đau
khổ, biết ơn cả đối thủ. 
Bầu trời trong xanh, không khí trong lành, ánh nắng mặt trời tươi sáng, cuộc sống tốt đẹp,
tại sao chúng ta phải bất hạnh? Cuộc sống là những chuỗi ngày tương tác với nhau.
Chúng ta sống trong thế giới này và tận hưởng những "món quà" từ nhiều phía.
Người ta thường nói: "Hãy tặng một bông hồng, để lại một mùi thơm còn sót lại trên tay."
Trong cuộc sống, bạn nên học cách chia sẻ và cho đi. Hãy vun đắp mọi thứ bằng tình yêu
và sự giúp đỡ lẫn nhau. Bạn càng cho đi, cuộc sống của bạn càng phong phú, bạn càng
cho đi, cuộc sống của bạn sẽ càng có ý nghĩa.
b. Thói quen nuôi dưỡng lòng biết ơn mỗi ngày
- Nuôi dưỡng lòng biết ơn mỗi ngày mang lại cho bạn nhiều lợi ích về sức khỏe
tinh thần.
Lòng biết ơn là phẩm chất quan trọng ở mỗi người, là chìa khoá cốt lõi mở lối cho một
cuộc sống hạnh phúc. Khi có ai đó giúp đỡ, chúng ta nên ghi nhận và biết ơn. Khi ý thức
về những gì mình đang có, chúng ta nên cảm thấy may mắn và trân trọng. Khi cho đi,
không cần cầu mong được đền đáp, khi giúp đỡ người khác, không cần chờ đợi lời cảm
ơn. Lòng biết ơn chỉ cần được hiện diện trong suy nghĩ cũng như hành động cụ thể của
mỗi người.
Nuôi dưỡng lòng biết ơn mỗi ngày mang lại cho bạn nhiều lợi ích về sức khoẻ tinh thần.
Luôn có lòng biết ơn, con người sống tử tế và sống đẹp hơn. Lòng biết ơn còn tiếp thêm
cho chúng ta nguồn năng lượng sống dồi dào và sức mạnh đối mặt với những khó khăn,
thử thách trong cuộc sống.
- Viết ra những điều cảm thấy trân trọng
Thay vì thức dậy với tâm trí lơ đãng, bạn hãy bắt đầu một ngày mới bằng việc viết ra
những điều bạn cảm thấy trân trọng trong cuộc sống. Việc bắt đầu một ngày mới như vậy
giúp chúng ta dễ đón nhận và trân trọng hơn về những “món quà” mà cuộc sống ban tặng.
Thói quen này cũng góp phần nuôi dưỡng tinh thần tinh cực, truyền cảm hứng cho bạn
thực hiện những mục tiêu mình mong muốn.
- Nhìn thấy tích cực trong điều tiêu cực
Cuộc sống luôn mang đến những ngã ba đường buộc chúng ta phải lựa chọn. Con đường
nào cũng có cả cơ hội và nguy nan. Trong những tình huống không như ý, hãy tập trung
vào những gì đang đúng hướng thay vì những bước bạn đã lỡ đi sai. Nếu xe bị hỏng giữa
đường, bạn có thể cảm thấy biết ơn vì mình đã không bị trầy xước hay bị thương ở đâu.
Hướng đến những điều tích cực không có nghĩa là lờ đi vấn đề cần giải quyết, mà là bạn
đang nuôi dưỡng lòng trắc ẩn bên trong mình.
- Trân trọng những điều giản dị
Nếu bạn vẫn có đủ thức ăn trong tủ lạnh, có quần áo trong tủ, có một mái nhà che nắng
che mưa, bạn đang may mắn hơn 75% dân số trên thế giới. Nếu bạn vẫn được ăn đủ 3
bữa một ngày, bạn đang hạnh phúc hơn 1 tỷ người khác khi họ chỉ được ăn một lần mỗi
ngày.
Gia đình bạn vẫn khoẻ mạnh, bạn có một chiếc máy tính nối mạng để cập nhật thông tin,
bạn có một chiếc điện thoại để kết nối với mọi người và giải trí, có một công việc ổn
định,... Tất cả những điều tưởng chừng rất bình thường đó cũng vô cùng đáng quý và
đáng trân trọng. Cuộc sống sẽ đáng yêu hơn rất nhiều nếu như bạn nhìn ra những “món
quà” vô hình mà thượng đế trao tặng.
Đôi khi việc tập trung vào những gì chúng ta không có lại dễ dàng hơn việc tập
trung vào những gì chúng ta đang có. Hãy sống chậm lại một chút và ngẫm lại tất cả
những gì mà đáng ra ta phải cảm thấy biết ơn thay vì cho rằng chúng chỉ là những điều
hiển nhiên.
* Đọc thêm phụ lục 1
1.4.2.4. Ý nghĩa về giá trị cuộc sống
Trong xã hội lấy con người làm trọng tâm, con người theo đuổi nhiều thứ vì họ
nghĩ sẽ tìm thấy ý nghĩa. Những mục tiêu họ theo đuổi gồm có: Sự thành công trên
thương trường, sự giàu có, nhiều mối liên hệ tốt, tình dục, giải trí, làm điều lành cho
người khác. Nhiều người đã chứng nhận rằng ngay cả khi họ đạt được sự giàu có, các
mối quan hệ, và vui thú, thì vẫn có những khoảng sâu trống mà dường như không thể lấp
đầy được.
a. Định nghĩa về giá trị cuộc sống
Thực chất, giá trị cuộc sống không phải là những thứ phù phiếm ta nhìn thấy như:
Tiền bạc, quần áo thời trang, nhà cửa, xe cộ… Vì những vật chất này chung quy lại chỉ là
hình thức bên ngoài, nó chỉ giúp bạn khoác lên mình một “tấm áo” hoàn thiện và lộng lẫy
hơn mà thôi. Những giá trị nghiêng về hình thức này không chứng tỏ được bạn là ai. Hơn
nữa, nó hoàn toàn có thể ẩn hiện, lúc dồi dào, lúc biến mất không để lại dấu vết mà ta
chẳng thể làm gì để níu giữ.
Có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị sống:
- Một thứ gì đó có giá trị khi nó được nhận thức như là sự cần thiết, là tốt, được
mong đợi và có ảnh hưởng chi phí phối đến tình cảm, thái độ, hành vị của một cá nhân
trong cuộc sống.
- Giá trị sống là những thứu được cá nhân nhận thưc là rất quan trọng, rất cần
thiết, rất có ý nghĩa, luôn mong đợi chúng có khả năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình
cảm hành vi của một cá nhân trong cuộc sống hằng ngày.
- Không chỉ tài sản mà tri thức, sức khỏe, tình yêu, sự trung thực, danh dự ..cũng
được coi là giá trị sống của một cá nhân.
Giá trị sống của mỗi cá nhân không thể tự nhiên mà có theo lập trình đã được mã
hóa trong gen. Giá trị sống được hình thành nhờ quá trình tự nhân thức và sựu trải
nghiệm của mỗi người.
Cách sống của mỗi người oahr ảnh các giá trị sống mà người đó theo đuổi.
b. Các giá trị sống quan trọng đối với sinh viên
Sinh viên có những yêu cầu và nhiệm vụ phát triển đặc trưng …Các nghiên cứu
giá trị sống ở giai đoạn thanh niên này đã chi ra những giá trị sống dưới đây là rất quan
trọng.
- Giàu tình yêu thương
- Trung thực
- Biết quan tâm đến người khác
- Ham học hỏi
- Siêng năng
- Sống tôn trọng pháp luật
- Yêu hòa bình
- Biết nhận lỗi và biết tha thứ
- Sống chủa động, tự tin
- Chấp nhận thử thác và luôn vượt khó
- Biết cống hiến vì sự phát triển của đất nước
-….
Mỗi sinh viên, tùy mức độ sở hữu các giá trị này ở mức độ nào, mà nhân
cách của người đó được đánh giá cao hay thấy. Một sinh viên càng giầu có các giá
trị này, càng có thiên hướng trở thành một nhân cách hoàn thiện, một công dân tốt,
một nhà lãnh đạo/ quản lí giỏi trong tương lai. Ngược lại càng thiếu hụt nhiều
những giá trị nào đó, càng có ít cơ hội thành công trong học đường và thành công
trong cuộc sống.
c. Những biểu hiện của giá trị cuộc sống
Giá trị cuộc sống đích thực trong những gợi ý sau:
Yêu thương
Nói về tình yêu thương, ai trong cuộc đời mà không có chút tình cảm dành cho cha
mẹ, người thân hay bạn bè, bạn đời của mình đúng không nào? Sự thể hiện tình yêu
thương của mỗi người sẽ chia thành nhiều mức độ khác nhau, cách họ cho đi và nhận lại
tình thương cũng không giống nhau.
Tuy nhiên, nếu trong cuộc đời mỗi người mà thiếu đi tình yêu thương thì có phải
đã quá nhạt nhẽo và hời hợt rồi hay không? Chính những yêu thương xuất hiện trong
cuộc sống của mỗi người là 1 “viên gạch” giúp bạn xây dựng giá trị yêu thương của
mình. Từ giá trị yêu thương trong cuộc sống của mỗi người sẽ lan tỏa thành giá trị yêu
thương cao cả trong toàn thể xã hội. Vì thế, giá trị cuộc sống nằm ở tình yêu thương, sự
san sẻ, thông cảm và đùm bọc lẫn nhau.
Vật chất
Tại sao phía bên trên chúng tôi nói rằng vật chất chỉ mang ý nghĩa phù phiếm bên
ngoài chứ không phải giá trị cuộc sống đích thực. Nhưng bây giờ vật chất lại là một phần
quan trọng của cuộc sống? Có lẽ những gì chúng tôi nói là vô lý, nhưng nếu bạn hiểu
theo 2 chiều hướng khác nhau thì bạn sẽ biết chúng tôi đang muốn nói gì.
Giá trị vật chất sẽ mang tính phù phiếm, xa hoa về hình thức nếu bạn vì nó mà bất
chấp tất cả, không màng đến những yếu tố xung quanh, nguyện làm “nô lệ” cho vật chất,
cho đồng tiền. Còn giá trị vật chất đích thực trong cuộc sống đó là bạn trân trọng vật chất,
đồng tiền mà mình vất vả làm ra. Bạn hài lòng với của cải, những gì mình đang có và nỗ
lực hết sức mình để cải thiện đời sống vật chất sau này.
Trân trọng những gì mình làm ra
Giá trị vật chất trong cuộc sống thật sự đó là khi bạn không vì đồng tiền mà bán rẻ
lương tâm, tự trọng và làm hại đến người khác. Con người làm ra của cải vật chất để phục
vụ nhu cầu sống, vật chất và của cải không thể làm ra con người. Vì thế, bạn đừng ngộ
nhận giá trị của nó, tự gán cho nó cái quyền lực để trở thành “ông chủ” của mình.
Tri thức
Có thể nói, tri thức là nguồn tài sản lớn của con người tích góp được trong suốt
một cuộc đời. Khi bạn không còn khả năng làm ra giá trị vật chất thì bạn vẫn có thể trau
dồi thêm giá trị tri thức. Để có được sự khôn khéo, minh mẫn và nhận biết, xử lý được
mọi vấn đề trong cuộc sống, tri thức là rất quan trọng. Giá trị cuộc sống của mỗi người
nằm ở việc chúng ta có nghiêm túc rèn luyện và tu dưỡng tri thức, tạo cho mình những cơ
hội trải nghiệm để rút ra bài học hay không. Vì thế, trong cuộc sống này, bạn đừng quên
trau dồi tri thức mỗi ngày, vì nguồn tri thức và vô hạn.
Thời gian
Bạn cứ nghĩ, quy luật của một ngày là 24 tiếng, mỗi tiếng có 60 phút, mỗi phút lại
có 60 giây. Mỗi năm trôi qua là 365 ngày. Tuy nhiên, bạn không thể nhận ra được sự quý
giá của thời gian là như thế nào đâu. Khi mỗi giây mỗi phút qua đi, đồng nghĩa với việc
chúng ta đang tiêu hao nguồn tài nguyên của chính mình. Giá trị thời gian chính là nguồn
giá trị ẩn sâu trong giá trị vật chất, tri thức, yêu thương…mà mình không thể nhận ra. Để
rồi khi thời gian qua đi, bạn mới nuối tiếc vì đã không thực hiện điều mình muốn làm
sớm hơn. Thời gian không vô hạn như chúng ta vẫn nghĩ, giá trị thời gian luôn song hành
cùng tuổi đời của mỗi người, vì thế bạn đừng bao giờ lãng phí thời gian.
Có thế, mỗi người chúng ta sẽ còn tìm thấy giá trị cuộc sống ở những khía cạnh
khác như: Sự trân trọng, sức khỏe, sự hòa bình… Cho dù các giá trị đó là gì đi nữa, nó
cũng góp phần làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp, vì thế bạn đừng vội bỏ qua bất cứ trải
nghiệm nào trong cuộc sống.
d. Con đường hình thành giá trị sống
Theo các chuyên gia giáo dục:
- Giá trị sống không phải là tri thức được chuyển tải theo cách thông thường.
- Giáo dục giá trị sống bằng lời khuyên, sự thuyết giảng đạo đức…..thường không
đem lại kết quả tốt.
- Giáo dục giá trị sống chỉ thực sự hiệu quả khi chính bản thân sinh viên được trải
nghiệm thực tế, trải nghiệm xúc cảm….dẫn đến thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
Sinh viên luôn có nhu cầu muốn khảng định, mong muốn được tể hiện, luôn mong
muốn khám phá các năng lực của ban thân và muốn phát huy những năng lực, sở trưởng
của mình về một số lĩnh vực nào đó….Giá trị sống của mỗi sinh viên hình thành bởi
chính quá trình tìm kiếm, khám phá và trải nghiệm thực tế.
5 nguyên tắc vào trong hình thành giá trị sống.
- Thông qua các câu chuyện …cảm động
- Qua các câu hỏi …tự vấn mình
- Nhận thức lại kinh nghiệm và sự tranh luận
- Thông qua những trải nghiệm cảm xúc.
Bài tập thực hành
Bài 1: Thực hành tìm hiểu về môi trường giáo dục đại học
Sinh viên thảo luận về sự khác nhau giữa môi trường đại học và môi trường phổ thông ở
các phương diện: tổ chức nhà trường, các hoạt động của người học
Sinh viên chia nhóm xây dựng báo cáo so sánh dưới dạng sơ đồ tư duy và cử đại diện
nhóm trình bày. Khuyến khích SV minh hoạ bằng clip tóm tắt nội dung sử dụng các phần
mềm tạo video trên điện thoại.
Bài 2: Mỗi sinh viên chuẩn bị một bài thuyết trình về những suy nghĩ tích cực, nuôi
dương thái độ lạc quan và đưa ra “thực đơn”…cho riêng mình. Thực hành chúng trong 2
tuần sau đó chia sẻ kinh nghiệm trước lớp. Đưa một trải nghiệm thực tế đến với sinh viên
và dùng tư duy tích cực để vượt qua thực tế đó.
Bài 3: Sinh viên lựa chọn 3 trong 7 thói quen tốt để lên kế hoạch luyện tập và ứng dựng
thực tế vào công việc học tâp, quan hệ với bạn bè, với công việc hàng ngày khác.
Tài liệu tham khảo
1. J.Krishnamurti, What are you doing with your life, Nhà xuất bản Hồng Đức,
2020
2. Karen Casey, Khi ta thay đổi thế giới sẽ đổi thay, Nhà xuất bản tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Công Khanh, Phương pháp giáo dục giá trị, kỹ năng sống, Nhà xuất
bản đại học sư phạm năm 2019
4. Sean Covey, Bảy thói quen thành đạt của tuổi trẻ, Nhà xuất bản tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh 2019.
5. Nguồn bài viết từ các website:
https://jobsgo.vn/blog/tu-duy-tich-cuc/
https://suckhoedoisong.vn/loi-ich-bat-ngo-cua-tu-duy-tich-cuc-169173093.htm
https://2020.meosonghiendai.com/60-dieu-ban-nen-biet-on-trong-cuoc-song/
https://www.lifehack.org/276486/6-ways-implement-more-gratitude-your-life

You might also like