You are on page 1of 37

CHƯƠNG II PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC

Mục tiêu chương:

- Nắm được những vấn đề chung về phương pháp học tập, phương pháp học tập ở bậc đại
học

- Nhận biết được các phương pháp học tập ở bậc đại học

- Rèn luyện các phương pháp học tập cá nhân, phương pháp học tập nhóm, phương pháp
xây dựng kế hoạch học tập

2.1. Những vấn đề chung về phương pháp học tập ở bậc đại học

2.1.1. Phương pháp học tập

Phương pháp là gì?


Theo cách giải nghĩa từ: phương là hướng, pháp là phép, phép tắc; là định hướng
triển khai các phép, giải quyết một vấn đề nào đó.
Với cách hiểu lý luận khái quát nhất, phương pháp là cách thức nhận thức, nghiên
cứu các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội. Tức là để trang bị cho mình thế giới
quan, con người cần có phương pháp, cách thức nghiên cứu thế giới.
Thuật ngữ “Phương pháp” sử dụng trong các hoạt động, thường được hiểu là hệ
thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó hay lề lối, cách thức phải theo
để thực hiện công việc có hiệu quả.
Phương pháp là những lý luận được vận dụng thành các nguyên tắc, lý luận của
phương pháp là những lý luận đã được thực tiễn xác nhận.
Như vậy, có thể định nghĩa phương pháp là các cách thức, đường lối mang tính
lý luận được hệ thống thành các nguyên tắc để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hai đặc trưng của phương pháp:
- Có tính khách quan về mặt nội dung, vì phương pháp bao giờ cũng phải gắn với
một công việc, hoạt động cụ thể, phụ thuộc vào nội dung của hoạt động.
- Về hình thức, phương pháp có tính chủ quan, bởi vì phương pháp chỉ tồn tại trong
đầu óc con người, nghĩa là trong hoạt động có ý thức, chứ không tồn tại ở bên
ngoài và độc lập với con người.
Khái niệm học tập:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về học tập:
Học tập là hoạt động học và luyện tập để hiểu biết, để có kỹ năng.
Học tập là quá trình tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng dưới sự dạy bảo,
hướng dẫn của thầy cô. Việc lĩnh hội kiến thức cũng có thể diễn ra dưới sự độc lập, tự
chủ của người học.
Học tập là hoạt động nhận thức có hai chức năng xã hội cơ bản: 1) Giúp con người
tiếp thu những nội dung và phương thức nhận thức được khái quát hóa dưới dạng các tri
thức, phương pháp, kĩ năng, kĩ xảo... tạo ra và phát triển phẩm chất, năng lực của con
người kết tinh trong đó, làm cho tâm lí và nhân cách của họ hình thành và phát triển; 2)
Giúp cho thế hệ đang lớn lên gia nhập vào xã hội, lĩnh hội được những chuẩn mực giá trị
của nó.
Như vậy, học tập là quá trình tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo dưới
sự hướng dẫn của nhà trường, thầy cô hoặc cá nhân độc lập, tự chủ học tập nhằm phát
triển phẩm chất, năng lực của bản thân và thích ứng, gia nhập vào các hoạt động xã hội.
Từ khái niệm về phương pháp, học tập; Phương pháp học tập được hiểu là các
cách thức, đường lối mang tính lý luận được hệ thống thành các nguyên tắc hướng dẫn
việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo giúp người học phát triển phẩm chất,
năng lực và thích ứng, gia nhập các hoạt động xã hội.

2.1.2. Phương pháp học tập đại học

Phương pháp học tập đại học là các cách thức, đường lối mang tính lý luận được hệ
thống thành các nguyên tắc hướng dẫn sinh viên tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo nhằm phát triển năng lực, phẩm chất và thích ứng với một lĩnh vực nghề nghiệp cụ
thể.
Phương pháp học tập đại học có tính chất:
- Tự do, sinh viên được tự do lựa chọn cách thức học tập phù hợp với bản thân
- Phương pháp học tập đại học có tính nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi
sinh viên luôn luôn phải tìm tòi, khám phá kiến thức bằng nhiều cách thức khác
nhau vừa thông qua tài liệu, sách vở nhưng lại phải có cả sự thực hành, kiểm
nghiệm ngoài thực tiễn.
- Tính đa dạng, phức hợp; để đạt được hiệu quả cao trong học tập, sinh viên cần áp
dụng tổng hợp, kết hợp nhiều phương pháp, cách thức học tập
- Sinh viên luôn luôn phải chủ động tìm kiếm phương pháp học tập phù hợp với bản
thân, phù hợp với học phần, chuyên ngành học tập của mình.
- Sinh viên có thể sáng tạo các kỹ thuật, phương pháp học tập mới

2.2. Phương pháp học tập của sinh viên đại học

2.2.1. Phương pháp xây dựng kế hoạch học tập

2.2.1.1. Những vấn đề chung về kế hoạch học tập trong đào tạo tín chỉ.
a) Định nghĩa
Trong hình học cơ bản, khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng.
Trong quá trình học tập cũng vậy, vị trí hiện tại là một điểm, vị trí tương lai của SV muốn
đạt được là một điểm khác và làm sao đi từ điểm này tới điểm kia càng nhanh, càng hiệu
quả càng tốt. Kế hoạch học tập (KHHT) cá nhân sẽ là “bản vẽ cho tư duy” là bản hướng
dẫn rõ ràng, hướng tới mục tiêu học tập và giúp người đó thực hiện mục tiêu một cách
hiệu quả. Để đạt được mục tiêu học tập cần thiết phải có những hành động nhất định.
L. Pasteur có nói “May mắn chỉ đến với những đầu óc đã sẵn sàng”. Khi dạy trẻ
cách lập kế hoạch (KH) là ta dạy chúng suy nghĩ về những gì chúng đã làm, dạy chúng
chuẩn bị tốt nhất để đạt được thành công trong học tập.
Như vậy, từ cách hiểu về kế hoạch nói chung, có thể xác định: Kế hoạch học tập là
một tập hợp những hành động học của người học được sắp xếp theo lịch trình, có thời
hạn, thể hiện các nguồn lực, ấn định các mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp phù hợp
nhất để thực hiện hiệu quả mục tiêu hoạt động học tập đã đề ra.
Trong đào tạo tín chỉ, bắt buộc sinh viên (SV) phải có KHHT của cá nhân. Tuy
nhiên, tính chất và ý nghĩa của khái niệm “KHHT trong đào tạo tín chỉ (ĐTTC) ”được
hiểu khác nhau và trên thực tế càng khác xa nhau về hình thức biểu hiện, về mức độ chủ
động của người học và từ đó, dĩ nhiên là rất khác nhau về hiệu quả của nó đối với kết quả
học tập.
Theo đúng nghĩa của khái niệm kế hoạch và kế hoạch học tập, khi nhận thức được
vị trí hiện tại và mục đích muốn đạt tới, KHHT là con đường sẽ đi và là bản thiết kế tối
ưu nhằm thực hiện hóa các mục tiêu học tập, tạo nên “bộ khung làm việc” cho hành
động, giúp tránh sai sót, đồng thời tận dụng những yếu tố nội lực chủ chốt, cũng như sự
giúp đỡ từ bên ngoài để người học đạt được kết quả học tập mong đợi, góp phần phát
triển phẩm chất và năng lực của bản thân.
Tuy nhiên, cả trong lý luận và trên thực tế đào tạo có thể và cần thiết phả bên biệt
về mức độ và cũng là sự khác việt về tính chất đặc thù của KHHT trong đào tạo tín chỉ và
KHHT trong đào tạo theo nhiên chế.
Theo quan điểm của Noman G.R. và Schidmit, KHHT của Sv có thể có nhiều hình
thức và mức độ khác nhau, có thể là bản KH chuẩn, hoặc có thể đơn giản chỉ là việc ghi
chép vào một tờ giấy, tấm thẻ, hay hoạch định trong đầu những công việc sẽ làm trong
ngày, trong tuần hay trong tháng tới; Hay theo Robert Fisher, thông thường các cấp độ
của KHHT của SV chủ yếu và phổ biến ở mức “ Lập kế hoạch một cách mô thức”, hoặc
không có KH; Một số ít hơn có thể biết KHHT ở mức “KH cụ thể” và có rất ít SV biết về
“Lập kế hoạch chiến lược cho học tập”.
Xem xét thực tế, qua nhiều ý kiến trên các diễn đàn và qua một số nghiên cứu
cũng cho thấy: Đa số SV “Lập KHHT” trong ĐTTC cho học kỳ của mình toàn dựa trên
lịch học của nhà trường (khoa, lớp) song thực chất đó mới chỉ là các dạng khác nhau của
“Thời khóa biểu”, hoặc một “Thời gian biểu” hoặc khá hơn, thì đó mới chỉ là một thời
gian biểu cho công việc học tập trong một thời gian cụ thể, tức là một phần của KHHT
trong ĐTTC, chứ chưa phải là KHHT trong ĐTTC đúng nghĩa. Bởi hầu hết trong đó,
SVS chưa hề gắn việc xác định rõ các mục tiêu học tập, xác định rõ các nguồn lực,,, với
việc định ra “KHHT” của họ.
Theo chúng tôi, KHHT của SV ngoài những yêu cầu chung của KHHT, phải đảm
bảo một số yêu cầu sau đây:
- Là loại kế hoạch HT được sinh viên chủ động thiết lập, gắn liền với (Và thể hiện
trong KH) các mục tiêu học tập của bản thân, xác định được các nguồn lực và điều kiện
thực hiện… được tính toán và điều tiết phù hợp nhất với bản thân trong một quá trình học
tập xác định trong thời gian của một khóa học hoặc ít nhất cũng là một kỳ học hoặc 1 quá
trình học 1 môn học.
- Là một “Chương trình hành động” cá nhân gồm các giai đoạn triển khai cụ thể,
cũng như các mối quan hệ, các công việc phải xử lý … để đảm bảo tính khả thi của các
mục tiêu và phương án được lựa chọn.
- Không chỉ là một “bản KH” duy nhất, KHHT thực chất là một “tập hợp” của
nhiều bản KH cụ thể cho từng giai đoạn, cho từng công việc. Mặt khác, KHHT thực sự
không chỉ lập ra, viết ra một lần là cho xong mà còn được bổ sung, điều chỉnh… gắn liền
với quá trình triển khai thực hiện nó trong thực tế.
b) Đặc điểm của kế hoạch học tập
- Quá trình lập kế hoạch học tập chính là quá trình cá nhân SV thu thập và xử lý
thông tin liên quan về mục tiêu, các nguồn lực, các phương án thực hiện và sự lựa chọn
để có được một chương trình hành động tối ưu cho mình. Vì thế, nội dung của KHHT là
sự chắt lọc thông tin từ thực tế, từ các yêu cầu đặc trưng của chương trình môn học, của
giới hạn thời gian đào tạo… mà không chỉ phán ánh thuần túy nguyện vọng của người
học.
- Các KHHT khi đã được thông qua luôn đòi hỏi các chủ thể có liên quan có nghĩa
vụ thực hiện tối đa và tối ưu các mục tiêu và nội dung của KH.
- KHHT trong ĐTTC là một loại KH mở, linh hoạt, sáng tạo bởi nó phụ thuộc vào
NL học tập của SV, phụ thuộc vào nhu cầu học tập và nguồn lực đáp ứng nhu cầu học tập
của SV, nó dựa vào những điều đang xảy ra và những điều dự đoán sẽ xảy ra trong tương
lai. Ví dụ khi SV thấy nguy cơ bị cảnh báo hoặc dừng tiến độ học tập, nếu không điều
chỉnh KHHT thì buộc SV phải có chiến lược cá nhân để thay đổi. Bởi vậy, một mặt, SV
cố gắng định hình Chương trình hành động của mình; đồng thời, luôn sẵn sàng để thay
đổi và cập nhật thường xuyên các sự kiện mới, hoặc hoàn cảnh mới đã thay đổi…KHHT
phải được sử dụng như một bản hướng dẫn chính xác trong bất kỳ hoàn cảnh hiện tại nào,
chứ không phải như bản cam kết cứng nhắc không thể thay đổi. Một khi KHHT không
hiệu quả như mong đợi, SV có thể điều chỉnh nó để thích ứng với những thay đổi tron
quá trình đào tạo và sự thay đổi của các điều kiện thực hiện (thời gian, nguồn lực).
KHHT theo học chế TC của SV đa dạng, phong phú bao gồm KHHT trên lớp, KH
tham gia các nhiệm vụ của nhóm, KH tự học của cá nhân để hoàn thành những nhiệm vụ
tự học, chuẩn bị bài tập thực hành, seminar…. KH bài học, KH theo chủ đề, KH theo
chương trình môn học, KH theo chương trình đào tạo, KH học vượt, học cải thiện nâng
điểm, học lại, học liên thông để nhận hai bằng.
Kế hoạch học tập là một lịch trình có tổ chức, phác thảo thời gian học và mục tiêu
học tập. Cũng giống như lịch trình đi làm hoặc đi học, sinh viên đại học nên xây dựng
một lịch trình dành thời gian dành riêng cho việc học mỗi tuần. Lịch trình này nên bao
gồm ngày của các câu đố, bài kiểm tra và kỳ thi, cũng như thời hạn cho các bài báo và dự
án.
c) Vai trò của KHHT đối với hoạt động của SV
Không có KH, nhà quản lý và nhân viên của họ sẽ rất khó đạt đươc mục tiêu của
mình, họ không biết khi nào và ở đâu cần phải làm gì.
Theo đó, KHHT của SV giúp CVHT theo dõi và quản lý được quá trình học tập
của SV, nhằm kịp thời điều chỉnh và hỗ trợ cho SV; Giúp PĐT thống kê được nhu cầu
học tập của SV trên từng học phần, phục vụ cho công tác mở lớp, nhóm học phần; cung
cấp thông tin để xét tốt nghiệp cho SV.
Đối với SV, nếu SV không có KHHT cho bản thân mình thì họ không thể xác định
rõ được mối quan hệ giữa các mục tiêu cần phải đạt được các mục tiêu học tập. KHông
có KHHT, việc đạt mục tiêu học tập (và kết quả học tập) của mỗi SV sẽ không cao, thậm
chí không thể đạt được kết quả và hiệu quả mong muốn.
Vì vậy, KHHT đối với SV trong ĐTTC có vai trò:
- Dẫn đường cho những quyết định và hành động của SV
Học tập là công việc quan trọng nhất đối với SV nhưng không phải là tất cả SV có
ý thức được điêu đó, hoặc có ý thức song không thể thực hiện với hiệu quả mong muốn.
KHHT giúp SV xác định được các mục tiêu học tập chính yếu và giúp họ tập trung sự
chút ý và sức lực vào các mục tiêu đó. Lập KHHT giúp SV tự xác lập một con đường tối
ưu cho những lựa chọn và hành động phù hợp. Như vậy, việc có KHHT đối với người
học cũng giống như việc có bản đồ trong tay, giúp SV có được cái nhìn tổng quan về
khung chương trình đào tạo của ngành học, giúp SV chủ động và tự tin với các quyết
định đã lựa chọn trong quá trình học tập để đạt được mục tiêu học tập đã đặt ra.
Trên thực tế, đa số SV chưa có thói quen làm việc theo KH, thực hiện nhiệm vụ
học tập còn mang tính tùy tiện, thụ động theo thời khóa biểu chung. SV thường có
khuynh hướng chỉ tập trung học khi nhận thấy đã đến hạn nộp bài, hoặc khi có lịch thi…
Bởi, có thể trong tiềm thức, SV này sẽ tự tạo ra những “mục tiêu” ngụy biện, thậm chí là
nguy hại. Ví dụ như khi bước vào một kỳ thi, do không đủ thời gian ôn tập, nhiều SV xác
định “chỉ cần qua là được”.
Chỉ bằng rèn luyện thói quen lập KH và kiên trì tập là, việc theo KHHT thì SV
mới có được các KN lập KHHT và ngược lại, chỉ bằng rèn luyện thói quen KHHT mới có
“tư duy KH hóa”, mới quản lý được bản thân và chủ động trong học tập.
* Thúc đẩy SV hành động và quản lý bản thân
KHHT là một cam kết học tập. Khi SV xác định được những mục tiêu, viết ra
được KHHT của mình và dán KH ở những nơi buộc mình phải nhìn thấy hàng ngày, thì
họ sẽ được nhắc nhở một cách vô thức hàng ngày về mục tiêu và những việc phải thực
hiện của mình. Từ đó, KHHT thúc đẩy SV và giúp họ tạo được thói quen làm việc theo
KH, thưc hiện các hành động học tập tích cực, vượt qua được các trở ngại, khó khăn để
đạt được mục tiêu xác định.
* Giúp sinh viên chủ động quản lý thời gian của bản thân
Việc xây dựng một KHHT hợp lý sẽ giúp SV chủ động được thời gian của bản
thân. Thời gian mỗi SV có là như nhau (24h mỗi ngày), nhưng có người sử dụng quỹ thời
gian hiệu quả, có người lài không làm được gì nhiều với khoảng thời gian đó. KH nói
chung và cụ thể KHHT sẽ giúp SV biết được những việc cần ưu tiên làm trong một ngày,
môt tuần hay một tháng… từ đó có thể tập trung vào các công việc học tập và những thứ
khác cần ưu tiên.
Trên thực tế, ngoài việc học ra. SV còn có thể và cần có những khoảng thời gian
để tham gia nhiều các hoạt động có ích khác, như hoạt động xã hội và đoàn thể, làm
thêm, giao tiếp bạn bẻ… Do đó, hầu hết SV luôn cảm thấy “thiếu thời gian” và thời gian
học tập thường bị co kéo, cắt xén. Với việc lập KHHT, bằng cách chú trọng lựa chọn, sắp
xếp và bắt đầu thực hiện những nhiệm vụ quan trọng nhất, theo từng năm học, học kỳ,
cho đến mỗi tuần, sẽ tránh được những lúc căng thẳng vì nhiều công việc “chồng chéo”,
từ đó thời gian của SV sẽ được sử dụng một cách hiệu quả.
* Là căn cứ cho việc theo dõi và đánh giá sự tiến bộ của người học.
Bản thân một KHHT khi được thiết lập, đã chứa đựng những tiêu chuẩn, những
quy định, các chỉ dẫn cần thực hiện… Nhờ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SV tự kiểm
tra và tự đánh giá bản thân về tiến độ, về kết quả và hiệu quả các hoạt động cá nhân, rèn
luyện ý chí, nghị lực. Mặt khác, căn cứ vào KHHT, các CVHT, giáo viên chủ nhiệm…
cũng có thể kiểm tra và tư vấn, trợ giúp SV một cách hiệu quả.
* Kế hoạch học tập giúp đem lại kết quả cao trong học tập.
Phần lớn SV có thói quen xấu là chỉ tập trung học và ôn tập khi sắp đến ngày thi.
Cách học này không đem lại kết quả cao. KHHT giúp mỗi SV tìm ra cách tốt nhất để đạt
được kết quả cao trong học tập mà không cần quá căng thẳng trong các kỳ thi.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng KHHT chính là biện pháp nhận thức quan trọng
nhất có thể dùng trong lớp học. KHHT giúp người học giải quyết thông tin về bất kỳ môn
học nào một cách có tổ chức và hệ thống. Lập KHHT có thể coi là quá trình hoạt động
then chốt của bộ não khi thực hiện những chức năng cao hơn và then chốt thành công
trong học tập của con người.
d) Các loại kế hoạch học tập trong ĐTTC
* Theo thời gian học tập, có thể xác định các loại KHHT
- KHHT phát triển nghề nghiệp bản thân
- KHHT theo năm học
- KHHT theo học kỳ
- KHHT theo tháng tuần
- KHHT theo chủ đề
- KHHT theo môn học
* Theo tiến độ học tập cần đăng ký với nhà trường, có thể xác định các loại KHHT
- KHHT đăng ký học vượt
- KHHT đăng ký học bổ sung
- KHHT đăng ký học cải thiện điểm số
* Theo phương thức và hình thức của KHHT, có thể phân biệt các loại
- KHHT theo mẫu thiết kế của nhà trường
- KHHT theo mẫu của các phần mềm có sẵn
- KHHT theo thói quan và sự sáng tạo của cá nhân
* Trong thực tế, cần phân biệt:
Loại KHHT của mỗi SV thực hiện thường xuyên để đảm bảo thành công trong quá
trình học và tự học của bản thân
Loại KHHT dùng để đăng ký tiến độ học tập của mỗi SV nộp cho bộ phận quản lý
đào tạo (bản KHHT đăng ký tiến độ năm học)
2.2.1.2. Kỹ năng lập kế hoạch học tập cho sinh viên
a) Khái niệm lập kế hoạch và lập kế hoạch học tập
Kế hoạch là sản phẩm của công tác lập kế hoạch. Lập kế hoạch là quá trình xác
định các mục tiêu, huy động và sắp xếp các nguồn lực và lựa chọn các phương thức, biện
pháp để đạt được các mục tiêu đó.
Lập kế hoạch xác định mục tiêu cần phải đạt được là cái gì? Và phương tiện để đạt
được các mục tiêu đó như thế nào? Tức là, lập KH bao gồm việc xác định rõ các mục tiêu
cần đạt được, xây dựng một chiến lược tổng thể để đạt được các mục tiêu đã đặt ra và
việc triển khai một hệ thống các KH để thống nhất và phối hơp các hoạt động.
Lập kế hoạch HHT trong điều kiện học tập hiện nay của sinh viên là vấn đề liên
quan đến công việc của quản lý chiến lược và năng lực chủ động, năng lực tư duy và sáng
tạo của cá nhân.
Từ đó, có thể xác định:
Lập kế hoạch học tập trong đào tạo tín chỉ là quá trình người học chủ động thiết
kế một kế hoạch học tập – với tư cách một chương trình hành động cá nhân trên cơ sở
phân tích, giải quyết vấn đề đa mục tiêu và ra quyết định, xác định, xác lập được các
mục tiêu học tập, nội dung các công việc học tập và các biện pháp thực hiện phù hợp các
nguồn lực, điều kiện của bản thân và các yêu cầu của quá trình học tập với hiệu quả khả
dĩ nhất.
Đồng thời, đó cũng chính là quá trình học tập của SV, với các bước, khâu tập
luyện để hình thành từng KN thành tố của lập KHHT với tính tích cực, chủ động ở mức
cao (nhận diện bản thân/ xác định mục tiêu học tập/ phân tích mục tiêu, nội dung chương
trình đào tạo/thiết kế chương trình hành động…) để đạt được các mục tiêu học tập đáp
ứng yêu cầu của hệ thống TC.
Kỹ năng là một dạng hành động được thực hiện tự giác và có kết quả theo mục
đích và hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo “chuẩn” dựa trên tri thức về
công việc, khả năng vận động và những điều kiện sinh học – tâm lý khác nhau của cá
nhân.
Là một dạng hành động, nên KN bao gồm hệ thống các thao tác (các thành tố kỹ
thuật cấu thành hành động), trật tự tổ chức và thực hiện các thao tác đó, các hành vi và
quá trình thực hiện hành vi, nhịp độ và cơ cấu thời gian thực hiện hành động. Tri thức
không nằm trong KN mà là điều kiện chu rtheer phải có để hình thành và kiểm soát KN
của mình. Kết quả hành động không nằm trong KN mà nằm trong hiệu quả của KN.
Như vậy, có thể hiểu cấu trúc của KN gồm: Hệ thống các thao tác được tổ chức
linh hoạt; trình tự logic của quá trình thực hiện các thao tác (thay đổi theo hoàn cảnh,
điều kiện sử dụng KN của cá nhân); các quá trình điều chỉnh hành động; nhịp độ thực
hiện và phân bổ thời gian.
Để đánh giá KN, hoặc chính xác hơn là đánh giá trình độ phát triển KN, cần phải
căn cứ vào những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nó như mức độ đầy đủ của các
nội dung và cấu trúc, tính hợp lý của trình tự logic, mức độ thành thạo của hành động,
tính linh hoạt và phạm vi di chuyển được của KN, và tiêu chí quan trọng nhất – tính hiệu
quả KN.
Trong tâm lý học và giáo dục học, ở nhiều nghiên cứu của các tác giả đã khẳng
định học tập là một hoạt động phức hợp bao gồm nhiều hành động và để thực hiện các
hành động học tập, người học phải có những KNHT. Chẳng hạn, KNHT là sự thực hiện
có kết quả một số thao tác hay một loạt thao tác phức hợp của các hành đọng học tập
bằng cách lựa chọn và vận dụng tri thức, cách thức và quy trình đúng đắn.
Từ cách hiểu chung về kỹ năng, có thể hiểu, KNHT là sự thực hiện có kết quả một
hay một nhóm hành động học tập theo những mục đích đã được xác định trước bằng cách
dựa trên cơ sở của tri thức, của những điều kiện tâm sinh lý và điều kiện xã hội phù hợp
với nhiệm vụ học tập đã đặt ra.
Cũng nhiều nghiên cứu cho thấy, một trong những KNHT chính là KN lập KHHT,
tương tự là “KN tổ chức học tập”.
Kỹ năng lập kế hoạch học tập của sinh viên là một dạng hành động được thực hiện
có tự giác trên tri thức về lập kế hoạch, khả năng vận động và những điều kiện sinh học –
tâm lý khác của SV (Như nhu cầu, tình cảm, ý chí) vào thực hiện lập KHHT (nhận diện
bản thân, xác lập mục tiêu, nội dung các công việc học tập, các biện pháp thực hiện phù
hợp với nguồn lực, điều kiện của bản thân) trong ĐTTC có kết quả theo mục đích đã
định.
- KN lập KHHT của SV cần phải có:
+ Có tri thức về lập KHHT và vận dụng những tri thức này vào lập KHHT và lập
KHHT có kết quả.
+ Những tri thức này không có sẵn mà được hình thành trong cuộc sống và hoạt
động rèn luyện của SV. Càng nắm vững tri thức về bản thân hoạt động lập KHHT càng
tích cực rèn luyện lập KHHT thì quá trình hình thành, phát triển KN của họ càng diễn ra
dễ dàng.
b) Các kỹ năng lập kế hoạch học tập trong ĐTTC
Lập kế hoạch HT là một trong những KN quan trọng giúp SV quản lý quá trình
học tập, quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ thời gian của mình, đem lại kết quả cao trong
học tập. Tuy nhiên, KN lập KHHT không phải là một KN giản đơn, mà là một KN phức
hợp gồm nhiều KN bộ phận cấu thành.
i) Kỹ năng nhận diện bản thân và các điều kiện học tập
Nhận diện bản thân và các điều kiện học tập là KN đầu tiên để lập KHHT. Cụ thể,
KN này gồm: nhận diện điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội
(Opportunities), thách thức (Threats) của mình – SWOT và các điều kiện của nhà trường.
Trên cơ sở đó, SV xác định mục tiêu học tập, xác định lộ trình, tiến độ học tập cho phù
hợp với NL và nhu cầu học tập của mình.
ii). Kỹ năng xác định mục tiêu học tập
mục tiêu học tập là kết quả dự kiến mà người học đặt ra để phấn đấu và có khả
năng đạt được nó trong quá trình học tập của mình. Nói cách khác, mục tiêu học tập là
một tuyên bố ngắn gọn về khả năng hay NL mà người học mong muốn đạt được.
mục tiêu học tập thường được chia làm hai loại chính: Mục tiêu ngắn hạn và mục
tiêu dài hạn. Mục tiêu ngắn hạn là mục tiêu mà người học muốn sớm đạt được, ví dụ là
việc hoàn thành bài tập về nhà hôm nay và làm tốt bài kiểm tra vào sáng hôm sau. Còn
mục tiêu dài hạn là những mục tiêu mà người học phải ước tính mất một khoảng thời gian
kha khá mới đạt được, ví dụ như việc hoàn thành bài tập lớn và đạt điểm cao trong kỳ thi
cuối kỳ.
dù là mục tiêu dài hạn hay ngắn hạn, SV phải biết rõ điều quan trọng mà mình đề
ra, cần nêu rõ những điều sẽ làm, khi nào thực hiện và phải chú ý các phương diện sau
đây:
- Thứ tự ưu tiên của các mục tiêu, xác định mức độ quan hệ giữa các mục tiêu với
nhau và thứ tự hoàn thành chúng
- Mỗi mục tiêu mà người học đề ra cần đáp ứng được những yêu cầu SMART: cụ
thể, đo lường được, có khả năng đạt được, thực tế, và có thời gian.
iii) Kỹ năng xác định nội dung công việ và lựa chọn biện pháp thực hiện
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn đăng ký khối lượng học phần gồm: Tìm hiểu các môn học sẽ đăng ký; đăng ký
số lượng tín chỉ phù hợp với NL của bản thân.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lực chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn quá trình học tập gồm: Cập nhật những môn học đã đăng ký và thời gian đến
lớp; cập nhật những việc cần làm (học thêm, làm thêm, sinh hoạt trong ngày…); Mục tiêu
mà bản thân muốn đạt được; Phân bổ cụ thể thời gian cho từng môn học; Sắp xếp công
việc vào thời gian hợp lý; xây dựng KHHT phù hợp với mục tiêu đã đề ra; xem xét kết
quả đạt được, bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh hợp lý.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
giai đoạn kiểm tra gồm: Cập nhật các môn phải kiểm tra; xác định nội dung cần học của
các môn đó; xác định thời gian sao cho phù hợp với khối lượng kiến thức cận phải học.
* Kỹ năng xác định các việc cần phải thực hiện và lựa chọn biện pháp thực hiện ở
Giai đoạn thi kết thúc học phần: xác định các môn phải thi; sắp xếp các môn theo thứ tự
thời gian thi và khối lượng bài học của môn học; Dự trù được khoảng thời gian cần thiết
cho mỗi môn thi.
iv) Kỹ năng lập thời gian biểu học tập
thời gian biểu là quá trình sắp xếp và sử dụng thời gian hiệu quả để giảm thiểu
căng thẳng, tăng cường hiệu quả làm việc. Đó cũng là một tỏng những công cụ quản lý
thời gian hiệu quả nhất để quản lý thời gian của mình. Lập thời gian biểu là một quá trình
gồm 5 bước:
Nhận diện tổng thời gian đang có
Xác định những công việc phải làm
Lập thời gian biểu theo ưu tiên gấp và các hoạt động thường nhật
Dự tính thời gian dư để dự trữ cho các hoạt động
Trong khoảng thời gian còn lại, lập KH cho những hành động gắn liền với việc đạt
được mục tiêu cá nhân và ưu tiên
v) Kỹ năng viết ra kế hoạch học tập
Ngoài viên vẽ biểu đồ cho KH, còn nên viết ra đầy đủ. Bản KH này không cần thật
tỉ mỉ nhưng nên liệt kê tất cả mọi điều dự định làm, theo dạng nào thuận tiện nhất. Ngoài
ra, bản KH được viết ra sẽ là vật nhắc nhở và có thể làm một bản liệt kê để kiểm tra sau
này.
vi) Kỹ năng thực hiện kế hoạch học tập
động lực tự thân là một phần sống còn để thực hiện KH. Có nhiều nhân tố góp
phần thúc đẩy thực hiện những việc cần làm. Có thể chia nhỏ mọi điều cần làm thành
những nhiệm vụ đơn giản. Khi được phân tích thành những dạng đơn giản nhất, không có
nhiệm vụ nào là khó khăn cả.
vii) Kỹ năng theo dõi, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kế hoạch
Theo dõi, đánh giá nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện mục tiêu, phát hiện những vấn
đề có liên quan đến khả năng thực hiện mục tiêu đã đề ra để có những điều chỉnh cho phù
hợp. Việc theo dõi đánh giá ngày, sẽ giúp Sv tránh được những hạn chế của công tác
phân tích, dự báo và giúp bản KH trở nên linh hoạt trong một môi trường linh động.
Trong quá trình thực hiện mục tiêu, phải thường xuyên giám sát NL cá nhân của
mình, những nguồn lực mà mình có và tính hợp lý của mục tiêu. Chỉnh sửa KH khi hoàn
cảnh thay đổi. Viết lại những thay đổi trong bản KH của mình.

2.2.2. Phương pháp học tập cá nhân

2.2.2.1. Phương pháp ghi chép


Ghi chép là cách thức sinh viên lưu giữ lại các thông tin, kiến thức của bài học
trên lớp hoặc tổng hợp lại kiến thức từ việc đọc tài liệu, sách, giáo trình thông qua việc
ghi lại vào vở, sổ theo những kỹ thuật ghi chép cụ thể hoặc cách thức riêng của bản thân.
Việc ghi chép giúp người học giải phóng tình trạng quá tải thông tin, khắc phục
tình trạng nhanh quên, nâng cao kỹ năng tổng hợp, phân tích thông tin, cải thiện khả năng
tập trung chú ý, lắng nghe và kỹ năng đặt câu hỏi, nhanh chóng đạt được mục tiêu của bài
học.
a. Chuẩn bị cho việc ghi chép:
- Bút viết, chuẩn bị nhiều loại bút ghi với các màu mực khác nhau, chuẩn bị bút nhớ
dòng và bút dạ.
- Thước kẻ
- Sử dụng loại vở khổ A4, không nên sử dụng các loại sổ sách nhỏ (sổ sách nhỏ chỉ phù
hợp cho việc liệt kê, ghi chú các công việc cần làm; không phù hợp cho ghi chép thông
tin học tập)
- Chuẩn bị giấy note nhiều màu
b. Một số kỹ thuật ghi chép
- Phương pháp dàn ý (outline method/ skeleton prose)
Đây là cách thức cấu trúc lại thông tin thành các ý chính và ý phụ. Kiến thức được
ghi chép sẽ được ghi lại theo một cấu trúc nhất định, trong đó diễn tả theo các đề mục
chính được ghi ở ngoài cùng bên trái của trang giấy, các ý phụ lần lượt được thêm vào ở
bên dưới ý chính. Chú ý sử dụng các dấu gạch chân, gạch đầu dòng, viết hoa, bút nhớ
dòng, bút dạ … để phân biệt các ý chính và ý phụ.
- Phương pháp đóng hộp (the boxing method)
Phương pháp này giúp tiết kiệm thời gian cho việc tìm kiếm, chọn lọc các thông
tin đã ghi chép. Ghi chép theo phương pháp này, trước tiên cần xác định các thông tin ghi
chép, để tạo các bảng ô vuông hoặc chữ nhật theo kích thước phù hợp (đây chính là các
box ghi thông tin). Mỗi một box sẽ được coi là một hộp thông tin ghi lại những thông tin
quan trọng. Để đạt hiệu quả cao, các thông tin ghi lại trong các hộp, cần được tóm tắt,
mang tính khái quát cao.
- Phương pháp tạo bảng (the charting method)
Phương pháp này phù hợp với việc ghi chép các dữ kiện, dữ liệu mang tính mô tả, diễn
giải, so sánh. Thông tin sẽ được sắp xếp trong một bảng theo các cột, mỗi cột sẽ đại diện
cho một danh mục.
Dưới đây, là minh họa cho PP tạo bảng
Phương pháp học tập Nội dung Các lưu ý
của sinh viên đại học
PP xây dựng kế hoạch học tập
PP học tập cá PP ghi chép
nhân PP tìm kiếm, tra cứu
thông tin
PP đọc sách
PP viết bài luận
PP học tập nhóm
- Phương pháp Sketchnote
Phương pháp ghi thông tin bằng việc tổng hợp, kết nối các hình vẽ, hình ảnh, ký tự, biểu
tượng … Đây là phương pháp mang tính sáng tạo, khái quát cao.
Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý:
- Chữ viết: Chỉ được mô tả ngắn ngọn thành các từ, cụm từ, không viết thành câu.
- Hình ảnh: trong Sketchnote, thông tin chủ yếu được minh họa bằng các hình ảnh, ký tự
- Màu sắc: Màu sắc là đặc trưng nổi bật của Sketchnote, các hình ảnh được tô vẽ với
những gam màu sặc sỡ, sinh động. Do vậy khi sử dụng phương pháp này cần có nhiều
bút ghi và kèm theo bút màu, bút dạ.
- Phương pháp tạo sơ đồ tư duy
Phương pháp ghi chép này tạo ra một sơ đồ tư duy bằng việc từ 1 Central idea (ý
chính), ý chính thường được triển khai từ trung tâm của mặt giấy. Từ trung tâm tạo ra các
nhánh (bao gồm: nhánh chính và nhánh phụ, các nhánh được vẽ dưới dạng đường cong)
kèm theo các từ khóa, các chữ viết ngắn ngọn trên các nhánh và các icon, biểu tượng,
hình vẽ đi kèm.
Giống với Sketchnote, phương pháp này có đặc điểm: mang tính sáng tạo, khái
quát, sinh động, được minh họa bằng nhiều hình ảnh, màu sắc nhưng các thông tin được
liên kết thành các nhánh, sơ đồ.
- Phương pháp “The Cornell notes”
Đây là là phương pháp ghi chép được giáo sư Walter Pauk thuộc Đại học Cornell
phát minh vào năm 1950.
Để triển khai phương pháp này, cần chia trang giấy ra thành 3 phần theo minh họa
dưới đây, cột trái là cột tiêu đề ghi các ý chính, các câu hỏi quan trọng và các từ khóa; cột
phải chiếm diện tích nhiều hơn ghi các thông tin, nội dung được triển khai từ ý chính, câu
hỏi, từ khóa của cột trái. Phần dưới cùng của trang giấy, sẽ là phần tổng hợp, tóm tắt lại
những thông tin quan trọng của phần ghi chép bên trên.
- Kỹ thuật “hỏi, trả lới, dẫn chứng”
Cách thức ghi chép này đòi hỏi chúng ta phải phân tích thông tin thành các câu
hỏi, sau đó trả lời theo ý hiểu của bản thân và đưa ra các dẫn chứng, lập luận cần thiết
cho vấn đề. Đây là kỹ thuật ghi chép khó, đòi hỏi người học cần có khả năng tư duy tốt,
hiểu sâu sắc vấn đề. Việc ghi chép theo kỹ thuật này giúp sinh viên rèn luyện năng lực tư
duy, đặt câu hỏi và khả năng lập luận.
- Phương pháp ghi chép của Takashi Ishi
Đây là phương pháp ghi chép thông minh, có ưu điểm là có thể thêm bớt thông tin
trong quá trình ghi chép, đặc biệt có thể thực hiện các kỹ thuật ghi chép kế tiếp để tạo ra
các cuốn sổ ghi chép đa dạng.
Các bước triển khai phương pháp ghi chép của Takashi Ishi:
+ Viết chữ thoáng, kích thước chữ to; không viết nhỏ và dày, để thuận tiện cho việc đọc
sau này
+ Viết cách dòng, giữa hai dòng, để cách lại 1 – 2 dòng, sau này trong quá trình đọc lại
bạn có thể viết thêm nếu cần thiết
+ Ghi chép theo ý hiểu của bản thân
+ Ghi chép vào trang bên phải của cuốn vở, không ghi vào trang bên trái. Để sau này,
thuận tiện cho quá trình đọc lại, đồng thời bạn có thể cắt dán những nội dung thông tin ở
các trang này, dán vào những cuốn sổ, vở khác khi cần thiết
+ Chia trang giấy thành ba cột, cột đầu tiên và cột cốt có độ rộng 3,5 cm, cột giữa tạo
khoảng chống nhiều nhất. Cột đầu ghi tiêu đề, cột giữa ghi nội dung, cột thứ 3 ghi kế
hoạch hành động, công việc cần thực hiện
+ Tạo ra những cuốn sổ ghi chép kế tiếp nhau, bằng việc cắt dán những nội dung quan
trọng, dán vào các cuốn sổ kế tiếp
2.2.2.2. Phương pháp tìm kiếm, tra cứu thông tin
Để chủ động trong hoạt động học tập của mình, ngoài việc dựa vào những chỉ dẫn
của thầy cô, những tài liệu thầy cô cung cấp; sinh viên còn cần mở rộng nguồn học liệu
của mình. Để làm được điều này; sinh viên cần học cách tìm kiếm, tra cứu thông tin.
Trước khi tìm kiếm, tra cứu thông tin; cần xác định: chính xác thông tin cần tìm
kiếm hoặc khoanh vùng thông tin tìm kiềm. Cụ thể các thông tin như: từ khóa, chủ đề,
chủ điểm, các thuật ngữ chuyên môn …
* Các hình thức tìm kiếm, tra cứu thông tin
a. Tra cứu, tìm kiếm thông tin trên mạng internet
- Đối với sinh viên Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, sử dụng thư viện số của trường,
bằng cách truy cập vào web: http://thuvienso.daihocthudo.edu.vn/; đăng nhập thông tin
để vào tìm kiếm, tải tài liệu miễn phí từ thư viện số.
- Tra cứu bằng các trang công cụ tìm kiếm: ngoài trang google, có thể truy cập vào một
số trang tìm kiếm khác như: bing, yahoo, baidu, yandex, WolframAlpha, … Hiện nay,
trên thế giới có khoảng 20 trang công cụ tìm kiếm, nếu thường xuyên tra cứu trên
internet, cần tìm hiểu các trang công cụ này.
- Google là trang tìm kiếm thông dụng, nổi bật nhất nhưng nền tảng này thường mang lại
quá nhiều kết quả để kiểm tra (phân tán, không tập trung), và trang công cụ này ưu tiên
quá nhiều thông tin quảng cáo. Những người sử dụng internet, không ai xa lạ với trang
tìm kiếm google, nhưng không phải ai cũng biết hết các kỹ thuật tra cứu trên google, có ít
nhất 10 cách tra cứu trên google mà đa số người dùng không biết. Để học các cách tra
cứu trên google, có thể vào google, tra cứu “Các cách tra cứu trên google” để tìm hiểu chi
tiết.
b. Tra cứu, tìm kiếm thông tin từ sách, vở, tạp chí, tài liệu
Để có thể tra cứu thông tin từ sách, vở, tạp chí, tài liệu có những cách thức sau:
Tìm kiếm tại thư viện, nhà sách, thiết lập kho tài liệu cá nhân
Thư viện là nơi lý tưởng để tra cứu các tài liệu học thuật: sách chuyên khảo, tạp
chí, sách chuyên ngành, đồ án, khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án các chuyên ngành,
lĩnh vực. Bạn khó có thể tra cứu được trên internet toàn văn 1 số tạp chí chuyên ngành và
các luận văn, luận án. Do vậy, cách hiệu quả nhất là phải đến thư viện.
- Tìm kiếm tại thư viện, đối với sinh viên Đại học Thủ đô Hà Nội có thể tìm kiếm thông
tin và mượn tài liệu tại thư viện Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Thư viện là nơi lưu trữ
rất nhiều tài liệu nhưng cũng có thể có hạn, do vậy nếu thực sự cần tìm kiếm một cách đa
dạng, tìm kiếm đúng tài liệu mình cần; nên tham khảo tại nhiều thư viện. VD: thư viện
quốc gia Việt Nam hoặc đến bất kỳ một thư viện của các trường Đại học, Học viện. Các
bạn sinh viên và mọi người thường nghĩ rằng; các thư viện Trường thường chỉ phục vụ
giảng viên, sinh viên trong trường; kỳ thực thì các thư viện lớn như thư viện của Đại học
Bách khoa, thư viện của Đại học Sư phạm Hà Nội và hầu hết các trường Đại học đều
phục vụ tất cả mọi đối tượng có nhu cầu tra cứu, mượn tài liệu; tất nhiên vì không phải
người của Trường nên bạn phải đóng 1 khoản phí để có thể tìm kiếm, mượn tài liệu và
bạn cũng không có 1 số quyền lợi: không được mượn tài liệu về nhà, bạn chỉ có thể mượn
đọc tại chỗ, chỗ tài liệu nào bạn cần, bạn có thể nhờ thủ thư photo (phí photo tài liệu tại
thư viện thường sẽ rất đắt đỏ, nên nó thực sự phải là tài liệu bạn thấy thiết yếu). Nếu đến
thư viện các Trường Đại học, Học viện, không nên đến vào mùa thi – đó là các khoảng
thời gian tháng 5, tháng 6, tháng 10, tháng 11; vì vào mùa thi, thư viện các trường hay
quá tải, ngay cả sinh viên của Trường cũng không thể vào thư viện nếu không đến sớm,
còn người ngoài trường chắc chắn sẽ không được ưu tiên.
- Thiết lập kho tài liệu cá nhân
Có khi nào bạn cần viết một bài luận, làm một bài tập lớn và nhìn lên giá sách của
mình, thấy ngay tài liệu mình cần để sử dụng cho việc làm bài. Đó chính là lợi ích của
việc thiết lập cho bản thân một số tài liệu đại cương trong chuyên ngành của mình. Đồng
thời, khi đến các nhà sách, đến những nơi bán sách, tài liệu; nếu thấy có các sách, tài liệu
chuyên môn bạn thấy cần, hãy mua vì sẽ có lúc bạn dùng đến.
Các tài liệu dưới dạng bản mềm, ebook trên mạng cũng có rất nhiều; nếu thấy, bạn
hãy tải về và lưu vào một chỗ. Để đọc, nghiên cứu, sử dụng khi cần thiết.
Để thiết lập kho tài liệu cá nhân cho riêng mình, là việc cần làm thường xuyên vào
những lúc rảnh, tức là bạn phải có thói quen tìm mua sách báo; tìm kiếm tài liệu trên
mạng. Chứ không đợi đến lúc, cần một tài liệu đó mới đi tìm.
- Nhà sách
Hãy đến một số nhà sách, mà chúng ta biết chắc là khi đến đó, bạn có thế được tra
cứu, xem thông tin tại đó miễn phí. Thường thì bạn sẽ không được cầm sổ sách vào để
ghi chép. Nhưng một số nhà sách, cho phép bạn có thể vào, ngồi đó và đọc hết cả một
cuốn sách (dài quá, bạn có thể quay trở lại đó vài lần). Tuy nhiên, nhà sách không phải
thư viện; nên nếu bạn chủ ý không mua gì cả, mà chỉ đọc, tra cứu, thì không nên vào quá
60 phút.
c. Tìm kiếm thông tin từ người quen
Trong việc tìm kiếm, tra cứu thông tin; chúng ta có thể nhờ sự trợ giúp của người
thân, bạn bè, thầy cô và những người mà mình quen biết. Họ có thể chỉ dẫn, tư vấn cho
chúng ta một cách nhanh nhất những nơi chúng ta cần tìm tài liệu hoặc kết nối chúng ta
đến một chuyên gia, tổ chức mà chúng ta có thể khai thác thông tin từ các cá nhân, tổ
chức đó.
Muốn làm được điều này, chúng ta cần tạo một mạng lưới xã hội người thân, bạn
bè, thầy cô, chuyên gia. Và quan trọng, ngoài việc tạo mối quan hệ, cần phải nắm rõ các
thông tin công việc, chuyên môn của họ. Để biết chắc những việc mình có thể nhờ họ
giúp đỡ, tư vấn được hay không.
Nhìn chung, đây là phương pháp hữu ích, gián tiếp giúp chúng ta tìm được những
thông tin, những hỗ trợ cần thiết trong học tập, cuộc sống đồng thời mở rộng các mối
quan hệ xã hội của chúng ta.
2.2.2.3. Phương pháp đọc sách hiệu quả
Nếu như học ở phổ thông, học sinh chỉ có 1 tài liệu chính để học tập là sách giáo
khoa và một vài sách bổ trợ, nâng cao cho mỗi môn học thì ở bậc cao đẳng, đại học sinh
viên ngoài việc học theo tài liệu bắt buộc mà giáo viên yêu cầu, còn phải tham khảo thêm
rất nhiều tài liệu. Với số lượng tài liệu, giáo trình dài và nhiều; sinh viên cần phải rèn cho
mình cách đọc sách hiệu quả.
* Kỹ thuật đọc sách
- Cách xác định tốc độ đọc nhanh:
Để xác định tốc độ đọc của 1 cá nhân người ta thường sử dụng 2 cách sau: cách một
là đo số lượng từ bạn đọc mỗi phút (gọi tắt là tmp – từ mỗi phút) – Cách này thường dùng
để xác định thời gian bạn đọc một văn bản nhưng không cho biết bạn hiểu nội dung của
văn bản như thế nào; cách thứ 2 là tính chất lượng đọc hiểu trong sự tương quan với tốc
độ đọc (gọi tắt là hqd – hiệu quả đọc) – cách này phản ánh khả năng nắm bắt nội dung tài
liệu khi bạn đọc nhanh.
+ Cách tính số lượng từ đọc mỗi phút: Số từ đã đọc : số phút đọc = số từ mỗi phút
+ Cách tính hiểu quả đọc: Chỉ số tmp x phần trăm đọc hiểu (chuyển sang số thập phân)
= hqd
- Những thói quen hạn chế việc đọc nhanh của người đọc
+ Đọc thành tiếng (phát ra thành tiếng, hoặc đọc thành tiếng thì thầm trong đầu): ảnh
hưởng đến việc hiểu nghĩa; khiến bạn đôi khi phải đọc lại những phần mình đã đọc
+ Coi mọi phần nội dung của cuốn sách như nhau (các phần của một cuốn sách không
như nhau vì vậy khi đọc cần biết cách phân bố, đọc các nội dung của sách một cách khác
nhau).
- Một số cách cải thiện kỹ năng đọc nhanh
+ Đọc có mục tiêu: hãy xác định kĩ việc đọc của bạn, đọc sách gì, đọc những nội dung
nào (đọc hết toàn bộ sách để hiểu nội dung, hay đọc tìm kiếm những vấn đề cần thiết đối
với bản thân, đọc để thư giãn, đọc để ghi nhớ, đọc để nâng cao kiến thức, đọc để tổng hợp
và phân tích thông tin …). Xác định được mục tiêu đọc sẽ giúp bạn không lãng phí thì
giờ khi đọc sách, đạt được những điều mình mong muốn một cách tốt nhất.
+ Tập trung tinh thần cao độ vào việc đọc: nên tạo ra một không gian thoải mái cho việc
đọc, loại bỏ những suy nghĩ trong đầu về các công việc khác để tập trung cho việc đọc,
chuẩn bị đầy đủ các công cụ hỗ trợ cho việc đọc (bút, sổ ghi, giấy nhớ…)
+ Tư thế đọc: ngồi đọc là cách tốt nhất để đọc nhanh, đọc lâu (khi ngồi đọc cần lưu ý:
khoảng cách từ mắt đến tài liệu là 30 – 50 cm, cột sống vuông góc với mặt ghế ngồi, hai
chân để thoải mái, hai tay đặt đúng điểm tựa quy định, tài liệu đọc song song với mặt bàn
hoặc để trên giá với góc nghiêng 45 độ)
+ Môi trường đọc: thoải mái, thoáng đãng, tương đối yên tĩnh, có bàn ghế phù hợp với
việc đọc, cường độ ánh sáng thích hợp.
- Một số chỉ dẫn quan trọng cho mắt và tay khi đọc sách
+ Không nên để mắt phải đọc theo từng từ, từng dòng chữ (việc này làm giảm tốc độ đọc,
thông thường trong một trang tài liệu có khoảng 40 – 60% chữ là các từ không then chốt),
mà hãy để mắt tập trung đến các từ khóa, cụm từ, cấu trúc mang nội dung quan trọng.
+ Hãy để ý đến tiêu đề các chương, các đề mục, các phần in đậm, gạch chân, in nghiêng
trong tài liệu, không dừng mắt quá lâu ở những từ, cụm từ khó hiểu, hãy dùng bút gạch
chân lại để tìm hiểu sau.
+ Điểu khiển mắt linh hoạt khi đọc: độ nhanh nhạy của mắt rất quan trọng, khi mới biết
đọc chúng ta thường đánh vần từng từ khi đọc (thói quen này có ảnh hưởng rất lớn đến
việc đọc, nó hạn chế việc đọc nhanh), vì vậy khi đọc phải để mắt “chụp nhanh” cụm từ,
câu, phân đoạn chứ không phải từng từ, tức là phải để mắt đọc được nhiều từ một lần.
Khi chưa đọc được nhanh, hãy dùng tay điều khiển tốc độ của mắt hoặc bút, thước …di
chuyển tay, bút nhanh theo dòng trên tài liệu, di chuyển càng nhanh sẽ buộc mắt của
chúng ta phải “chạy nhanh” theo tốc độ đó. Cách di chuyển bàn tay khi đọc: dùng ngón
trỏ hoặc cả bàn tay di chuyển theo đường zíc zắc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới
theo chiều dọc, (cách đọc này có vẻ trái ngược với việc đọc thông thường là từ trái sang
phải, tuần tự theo từng dòng của tài liệu nhưng thực tế cho thấy đây là cách đọc tốt nhất
để tăng tốc độ đọc nhanh).
* Một số đề xuất về quy trình đọc sách
- Francis Robinson (1946) đề xuất phương pháp SQ3R: quan sát tổng quan, đặt câu hỏi,
đọc, ôn tập và thuật lại (Survey, Question, Read, Review and Recite).
- Thomas Station (1954) đưa ra phương pháp PQRST: xem trước, đặt câu hỏi, đọc, phát
biểu và kiểm tra (Preview, Question, Read, State, Test)
- Kevin Paul đưa ra 10 bước cần làm trước khi đọc sách:
Bước 1: Đọc đề mục và suy nghĩ về những điều sắp được nói tới trong chương sách.
Bước 2: Xem mục lục.
Bước 3: Xem bản tóm tắt của mỗi chương sách hoặc các phần chính yếu của sách nếu có.
Bước 4: Nếu có những câu hỏi ôn tập hãy đọc lướt qua.
Bước 5: Đọc qua phần giới thiệu, phần mở đầu, kết luận của mỗi chương, phần của sách.
Bước 6: Đọc các tiêu đề lớn, suy nghĩ về kết cấu nội dung chung của sách.
Bước 7: Đọc các tiêu đề nhỏ.
Bước 8: Đọc dòng đầu tiên của mỗi đoạn văn.
Bước 9: Nghiên cứu các hình ảnh minh họa, sơ đồ, bảng biểu nếu có.
Bước 10: Dành ra khoảng 60 giây để ôn lại và nhắc lại các ý chính của chương.
Theo Kevin Paul 10 bước trên thường chỉ cần thực hiện trong khoảng 10 phút
nhằm giúp người đọc hình dung ra những nội dung trong sách mà mình sẽ sắp đọc.
Ngô Công Hoàn, Nguyễn Đình Xuân (2000) cho rằng việc đọc sách được tiến
hành theo trình tự sau:
+ Bước 1: Đi tìm sách để đọc theo yêu cầu của giáo viên, môn học, nội dung học tập.
+ Bước 2: Khi đã có sách, đọc ngay phần giới thiệu, đọc toàn trang mục lục để nắm được
những ý chính cũng như nội dung cốt yếu của sách.
+ Bước 3: Đọc nhanh theo kiểu chụp ảnh từng trang sách để nắm lấy cái “thần của sách”.
+ Bước 4: Đọc theo kiểu “quay phim”, đọc chậm nhằm hiểu sâu sắc những vấn đề sách
đề cập (có thể dùng bút ghi, đánh dấu những nội dung cần thiết cho việc học).
+ Bước 5: Đọc theo kiểu “đánh máy vi tính” tức là chậm, kĩ và có sự ghi chép các khái
niệm, các câu, ý đã đánh dấu ở bước trước. Ở bước này có thể đọc đi, đọc lại nhiều lần,
vừa đọc vừa suy nghĩ kĩ.
Tổng hợp những đề xuất trên, có thể thấy để đọc sách hiệu quả cần thực hiện mấy
bước sau:
- Bước 1: Lựa chọn sách phù hợp với nội dung học tập. Bước này có thể được bỏ qua, khi
sinh viên đọc những tài liệu tham khảo bắt buộc do môn học, giáo viên quy định.
- Bước 2: Tổ chức quá trình đọc sách.
+ Đọc lướt nhanh, đặc biệt chú trọng phần mở đầu, mục lục, tên chương, danh mục từ
viết tắt.
+ Đọc kĩ từng phần, đọc trọn vẹn; trong quá trình này có thể kết hợp với ghi chép, đánh
dấu để nhớ những ý quan trọng, cần thiết cho việc học.
+ Trả lời các câu hỏi trong sách nếu có.
- Bước 3: Tổng kết quá trình đọc sách.
Đúc rút những kết quả thu nhận được qua việc đọc, đánh giá, nhận định về nội
dung sách, tài liệu.
2.2.2.4. Phương pháp viết bài tiểu luận
Bài luận là bài viết trình bày quan điểm, nghiên cứu của cá nhân theo một chủ đề,
chủ điểm nhất định có liên quan đến một lĩnh vực, một học phần cụ thể. Chủ đề của bài
tiểu luận phụ thuộc vào học phần và giảng viên; thầy cô có thể đưa ra các chủ đề tiểu luận
cố định, hoặc đưa ra nhiều vấn đề để sinh viên lựa chọn. Trong trường hợp, khuyến khích
tính cá nhân, tính sáng tạo; thầy cô sẽ cho người học được tự do thiết kế chủ đề tiểu luận
(tuy nhiên, chủ đề tiểu luận phải được sự kiểm tra trước của giảng viên, để đảm bảo chủ
đề được đặt tên phù hợp với chuyên ngành, lĩnh vực chuyên môn).
Về cách thức viết bài tiểu luận:
- Nội dung bài tiểu luận cần được viết theo cấu trúc chung, bao gồm: phần mở đầu,
phần nội dung của tiểu luận, phần kết luận
- Phần mở đầu: đặt vấn đề rõ ràng, ngắn ngọn
- Phần nội dung: nội dung cần phân tích, triển khai thành các vấn đề; ví dụ như: nội
dung 1 – lý thuyết chung, nội dung 2 – thực trạng vấn đề nghiên cứu, nội dung 3 –
giải pháp, kiến nghị; cách diễn đạt có thể là quy nạp hoặc diễn dịch. Đây chỉ là gợi
ý, bài tiểu luận có thể được viết theo nhiều cấu trúc khác nhau, tuy nhiên cần có sự
logic, khoa học, hợp lý; các vấn đề cần được lập luận, lấy dẫn chứng và có sự
chứng minh. Với một số nội dung mang tính lý luận, cần có sự trích dẫn nguồn
tham khảo (xem thêm phụ lục 2).
- Phần kết luận: khái quát lại những vấn đề đã trình bày một cách xúc tích, cô đọng;
và khẳng định lại ý chính của bài tiểu luận.
Những lưu ý khi viết bài tiểu luận:
- Bài tiểu luận là sản phẩm của cá nhân, của nhóm sinh viên; do vậy khi làm bài tiểu
luận sinh viên không ghi chép lại những lời giảng của thầy cô, viết lại y nguyên
nội dung của giáo trình hoặc copy y nguyên các nội dung từ sách vở, nguồn tài
liệu trên internet. Cách làm như vậy, không thể hiện tính tư duy, nghiền ngẫm,
sáng tạo của người học. Làm như vậy, sẽ mất đi ý nghĩa của bài tiểu luận, thầy cô
cũng không kiểm tra được mức độ hiểu bài, lập luận, lối tư duy của người học. Khi
viết tiểu luận, sinh viên chắc chắn cần phải tham khảo tài liệu, giáo trình, xem lại
vở ghi trên lớp, bài giảng, tài liệu mà thầy cô cung cấp cũng như những nguồn tài
liệu mình kiếm tìm được; nhưng những gì tham khảo, cần được diễn đạt lại theo ý
hiểu của mình, sắp xếp theo logic của mình sao cho phù hợp, không sai về mặt bản
chất. Với một số nội dung các khái niệm, các nhận định, các đặc điểm, bản chất
của vấn đề khó diễn đạt lại theo ý mình, thì cần có trích dẫn, sau đó đưa ra những
lập luận, cách hiểu của bản thân.
- Bài tiểu luận cần chú ý cách diễn đạt lời văn, tuyệt đối không diễn đạt theo thể
thức nói. Văn phong trong bài được trình bày súc tích, mạch lạc, tránh các lỗi sai
chính tả, lỗi lặp từ, lặp câu, viết câu không rõ nghĩa, ý trước mâu thuẫn với ý sau;
tránh việc viết lan man không rõ ý, không có ý chính, người đọc sau khi xem xong
không rõ ý của người viết. Một bài tiểu luận dài, rất có thể mắc phải các lỗi trên.
Do vậy, sinh viên cần triển khai dàn ý, khung của vấn đề trước khi viết; trong quá
trình viết, viết các đoạn chủ đề, câu chủ đề trước sau đó triển khai các ý nối tiếp
theo. Viết đến đâu, rà soát, kiểm tra đến đấy sẽ tránh được các lỗi về câu, từ.
- Về dung lượng bài viết: không viết quá dài, quá lan man cũng như không viết sơ
sài, vắn tắt. Tùy theo chủ đề, học phần, thầy cô sẽ có những yêu cầu riêng cho
dung lượng của các bài tiểu luận. Với những bài luận vừa và nhỏ, dung lượng
thường khoảng 8 – 10 trang, các bài tiểu luận lớn dung lượng có thể lên đến 16 –
20 trang hoặc hơn. Điều này còn phụ thuộc vào vấn đề, nội dung bài tập tiểu luận.
- Bài tiểu luận của sinh viên hiện nay, đa số đều được yêu cầu làm trên file Word
nên sinh viên cần chú ý định dạng font chữ, cách thức căn lề, giãn dòng. (xem
thêm tại phụ lục 2 về cách thức trình bày trên file word).

2.2.3. Phương pháp học tập theo nhóm

2.2.3.1. Định nghĩa và vai trò của phương pháp học nhóm
Học nhóm trong sinh viên là cách thức học tập của nhóm người có sự phối hợp
thống nhất, chặt chẽ với nhau để cùng nhận dạng, phân tích và luận giải các vấn đề học
tập đặt ra, từ đó lĩnh hội, củng cố và mở rộng kiến thức đã được học và vận dụng chúng
trong quá trình thi - kiểm tra đạt kết quả cao.
Trong thời đại mới khi lượng tri thức ngày càng phát triển, làm việc theo nhóm là
yêu cầu quan trọng, cần thiết được đặt ra đối với tất cả mọi người. Với sinh viên, học tập
theo nhóm là một trong các phương pháp học tập hiệu quả để qua đó rèn cho sinh viên
khả năng hợp tác, chia sẻ tình cảm, bồi dưỡng, phát triển tư duy, nâng cao trình độ tri
thức.
Học nhóm phát huy khả năng tư duy, trí tuệ của từng cá nhân và cả nhóm, giúp
lĩnh hội và giải quyết các vấn đề học tập một cách nhanh chóng và hiệu quả. Quá trình
học nhóm giúp sinh viên có điều kiện nắm kiến thức chắc hơn, lâu hơn và đây là cơ hội
học hỏi các phương pháp, kinh nghiệm học tập, phương pháp ghi nhớ kiến thức, phương
pháp trả lời, làm bài thi của các thành viên khác trong nhóm, từ đó nâng cao chất lượng
học tập và thi – kiểm tra của mình.
Các nhà nghiên cứu đã tuyên bố rằng, “cho dù nội dung môn học như thế nào thì
sinh viên làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn những
gì được dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác" - theo Barbara Gross
Davis, Tools for Teaching.
* Ưu điểm của phương pháp học tập nhóm:
- Góp phần xây dựng tinh thần đồng độ và các mối quan hệ tương hỗ, đồng thời
thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo nên sự gắn kết trong một “cộng đồng” bởi
trong khi làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ đó yêu cầu giải quyết và để
giải quyết cần sự cố gắng của mỗi cá nhân cùng với trí tuệ của cả tập thể.
- Tăng khả năng hòa nhập, có thêm tinh thần học hỏi và biết lắng nghe người khác
thông qua phần trình bày của bản thân và sự phản hồi của mọi người xung quanh.
- Tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, mỗi người bổ sung một ý,
từ đó sản phẩm của học tập sẽ giàu tính sáng tạo và mang tính tập thể.
- Rèn luyện khả năng thuyết trình trước tập thể, kỹ năng giao tiếp và tính tự giác
của mỗi cá nhân, khả năng làm cho người khác hiểu điều mình hiểu – đây là điểm yếu
của đa số sinh viên hiện nay.
Những kỹ năng được rèn luyện trong khi làm việc nhóm là rất quan trọng cho môi
trường làm việc mới sau này, đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong một môi
trường tập thể.
* Những điểm bất lợi nếu tổ chức học tập nhóm không hiệu quả:
Học tập theo nhóm có thể gây ồn trong lớp khó kiểm soát, vì vậy giáo viên cần
chú ý giáo dục và rèn luyện kỷ năng hoạt động hợp tác trong nhóm cho sinh viên.
- Nhiều sinh viên không thích học theo nhóm, vì muốn chứng tỏ khả năng của
mình với giáo viên hơn là với bạn.
- Trong nhóm có thể có 1 số sinh viên tích cực, một số khác ỷ lại vào các bạn
trong nhóm.
-Việc phân nhóm khó khăn mất nhiều thời gian khó có thể đánh giá trên kết quả
thảo luận của nhóm. Vì vậy giảng viên cần kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá của
trò.
2.2.3.2. Quy tắc trong học tập theo nhóm
Trong môi trường học tập bậc Đại học với nhiều nguồn thông tin và các yêu cầu
hoàn thành nhiệm vụ học tập trong những điều kiện nhất định, làm việc nhóm là cách
thực hiện công việc học tập hiệu quả. Học tập theo nhóm là sự gắn kết các cá nhân cùng
làm việc, cùng học và đạt được mục tiêu học tập. HỌc tập theo nhóm dựa trên 10 quy tắc
cơ bản sau:
- Định hình một mục tiêu chung, rõ ràng
Một nhóm học tập không có mục tiêu giống như con thuyền không có bến đỗ. Có
rất nhiều đại dương bên ngoài kia khiến cho mọi người trôi nổi khắp nơi và không biết đi
đâu về đâu – những cuộc họp không bao giờ kết thúc, những buổi thảo luận chẳng bao
giờ được thỏa mãn; những quyết định nửa vời. Điều mà mỗi nhóm cần là một mục tiêu rõ
ràng để thực hiện những nhiệm vụ học tập được giao. Mục tiêu chính là động cơ thúc
đẩy, mục tiêu đòi hỏi hành động và sự quả quyết. Nhưng mục tiêu muốn khả thi phải đảm
bảo nó ngắn gọn và sắc sảo. Mục tiêu định hướng hành động và cụ thể. Nếu nhóm không
thể “ thấy” thì họ chẳng thể nào thực thi các mục tiêu đó. Và không có mục tiêu thì sẽ
không có sự phân công nhiệm vụ và kiểm tra tiến độ thực hiện công việc.
- Phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên
Sinh viên là những thành viên của nhóm, họ cũng giống như người chơi trong một
đội. Điều đó có nghĩa là họ có trách nhiệm thực hiện công việc của mình và đưa nhóm
đạt được kết quả như là phần thắng ghi nhận công sức của từng thành viên và cả nhóm.
Sau khi có mục tiêu cụ thể cho từng hoạt động mà nhóm cần phải thực hiện cần xác định
rõ ràng kỹ năng và trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Bảng phân công nhiệm
vụ cho thấy con đường đi mà họ cần trải qua cũng như đo lường được kết quả thực hiện.
Mặt khác nó sẽ đảm bảo tiến độ thực hiện công việc và không gây ra sự chồng chéo hay
bất đồng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhóm là gắn kết nhưng trong sự gắn kết để
thực hiện mục tiêu thì mỗi cá nhân cần thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình để
tạo ra một nhóm có tính chỉnh thể cao và đạt được sự vượt trội trong hoạt động. Để phân
công trách nhiệm hiệu quả cả nhóm cần nhìn vào điểm mạnh yếu và yêu cầu về nội dung
công việc mà quá trình học tập mang đến. Kích thích khả năng đảm nhận nhiệm vụ theo
hướng xung phong, sau đó lần lượt xác định khối lượng công việc phù hợp với các cá
nhân. Các thành viên cần tuân thủ và thực hiện trách nhiệm để đảm bảo thể chế, sự nhất
trí và kiểm soát mâu thuẫn của nhóm.
- Kiểm soát tốt các vấn đề bất đồng trên cơ sở cộng tác để thay đổi và phát triển
Sự trái ngược về quan điểm là nền móng cho sự sáng tạo, tuy nhiên nếu không
kiểm soát tốt sẽ dẫn đến những xung đột phi chức năng cản trở thực hiện mục tiêu trong
học tập nhóm của sinh viên. Để hạn chế những xung đột không đáng có, gây mất thời
gian làm việc, sinh viên trong nhóm nên xác lập những nguyên tắc nhất định trong quá
trình làm việc nhóm. Cùng thực hiện sự tôn trọng đối với các cá nhân khác khi chúng ta
tuân thủ quy định của nhóm và tiến hành các hoạt động theo kế hoạch đã được phân
công.
- Luôn kích thích các ý tưởng sáng tạo và khả năng dẫn dắt
Mọi người luôn có ý tưởng hay, đôi là ý tưởng sáng tạo và khác thường trong làm
việc. Thông thường để hạn chế việc mất thời gian và sao lãng mục tiêu thì các ý tưởng
sáng tạo của nhóm đến từ các thành viên hay bị gạt đi hoặc xem như là một sự không cần
thiết. Tuy nhiên nếu kiểm soát tốt và tôn trọng những ý kiến đó trên cơ sở khi có ý tưởng
mới hãy chú ý lắng nghe. Nếu có ai đó nói những điều gì thú vị, hãy theo đuổi ý tưởng đó
bằng những câu hỏi thăm dò. Tìm ra điều gì đã dẫn dắt đến những lời nhận xét, bình luận
thú vị. Nên tránh phê pháp những ý tưởng khi chúng chỉ vừa được hình thành. Hãy tập
trung vào cải tiến hay sử dụng những ý tưởng đó. Bởi trong học tập rất cần sự sáng tạo và
biết trân trọng sự sáng tạo chính là các bạn cũng đang dẫn mình hòa nhập để sáng tạo.
- Lãnh đạo vững mạnh
Tốc độ của người lãnh đạo là tốc độ của cả nhóm. Một người trưởng nhóm làm
việc có hiệu quả là người có thể làm tấm gương gương mẫu cho cả nhóm. Một trưởng
nhóm giỏi là người có thể đặt tầm quan trọng của mục tiêu nhóm trên mục tiêu cá nhân
và có thể đưa ra định hướng, đảm bảo các thành viên trong nhóm giữ vững sự tập trung
vào việc đạt được mục tiêu đó.
Người lãnh đạo tham gia vào việc lãnh đạo trong các cuộc họp, phân công nhiệm
vụ, ghi nhận những quyết định và cam kết, đánh giá tiến độ, đảm bảo trách nhiệm của các
thành viên trong nhóm và đưa ra định hướng cho toàn nhóm.
Ra quyết định chính là xác định xem phải xử lý một tình huống thậm chí một vấn đề như
thế nào. Thách thức chính là kết quả của quyết định.
- Tự kiểm tra và liên tục cải tiến các quy trình, hoạt động thực tiễn và sự tương tác
của các thành viên trong nhóm
Kiểm tra là một trong những mắt xích quan trọng để đảm bảo tiến độ thực hiện
nhiệm vụ của nhóm. Cả nhóm cần thảo luận công khai về những chỉ tiêu trong nhóm và
những vấn đề gây cản trở tốc độ phát triển hoặc thảo luận về tác động đến những nỗ lực,
khả năng và chiến lược của nhóm.
- Giao tiếp hiệu quả
Các thành viên trong nhóm nên giao tiếp thoải mái với nhau một cách trực tiếp và
hướng tới mục tiêu đạt được thành công cho dự án. Việc giao tiếp giữa các thành viên với
nhau và với trưởng nhóm nên là một quá trình hai chiều. Điều này sẽ giúp họ hiểu nhau
hơn đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh một cách nhanh chóng nhất.
Giao tiếp cởi mở, trung thực và tôn trọng. Các thành viên tự do bày tỏ suy nghĩ, ý
kiến và các giải pháp tiềm năng để giải quyết vấn đề. Mọi người cảm thấy được lắng
nghe và thấu hiểu. Các thành viên nên hỏi các câu hỏi để làm rõ ý kiến chứ không nên
tìm cách phản bác đồng nghiệp của họ
- Tôn trọng
Để hợp tác hiệu quả, các thành viên trong nhóm cần hiểu và tôn trọng những thành
viên khác. Tôn trọng năng lực, quan điểm và hành động của nhau để giảm thiểu xung đột,
đảm bảo hoạt động suông sẻ và nâng cao năng suất.
- Đề cao vai trò cá nhân
Các thành viên trong nhóm được xem là những cá nhân đặc biệt với những kinh
nghiệm, quan điểm, kiến thức và ý kiến đóng góp không thể thay thế. Mục đích thành lập
nhóm chính là để tận dụng lợi thế của sự khác biệt đó.
- Gắn kết
Gắn kết nhóm trở thành một đơn vị thống nhất, nhóm cần làm việc dựa trên nền
tảng chung. Cả tổ chức cần có những sáng kiến và tổ chức các buổi đóng góp xây dựng ý
kiến, và các buổi họp, buổi giao lưu hằng tháng để tăng cường kết nối trong nhóm.
Tại sao các công ty thường làm việc nhóm khi tiếp cận các dự án, phát triển sản
phẩm và mục tiêu? Trên thực tế, trong nhóm càng đưa ra những quan điểm khác biệt, khả
năng thành công của các dự án càng cao hơn
2.2.3.3. Kỹ năng bổ trợ trong học tập theo nhóm
Để thực hiện được mục tiêu gắn kết các thành viên và làm việc trong môi trường
nhóm, các bạn sinh viên cần chú ý rèn luyện một số kỹ năng sau để có hiệu quả trong làm
nhóm.
1, Lắng nghe: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Các thành viên
trong nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của nhau. Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng ý
kiến giữa các thành viên trong nhóm. Lắng nghe đòi hỏi mức độ tư duy cao hơn nghe.
Lắng nghe là một kỹ năng mà người nghe tiếp nhận thông tin từ người nói, phân tích, tư
duy theo hướng tích cực và phản hồi bằng thái độ tôn trọng những ý kiến của người nói
dù đó là ý kiến hoàn toàn trái ngược với quan điểm của bản thân.
2, Chất vấn: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết được
mức độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên khác của
họ. Chất vấn là kỹ năng thể hiện tư duy phản biện tích cực. Thực tế đây là một kỹ năng
khó mà chúng ta cũng đang cần phải rèn luyện. Chất vấn bằng những câu hỏi thông minh
dựa trên những lý lẽ tán đồng hay phản biện chặt chẽ đòi hỏi mức độ tư duy cao và tinh
thần xây dựng ý kiến hết mình cho nhóm. Lời lẽ chất vấn cần mềm mỏng, lịch sự.
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hiểu rằng: “Trong tranh luận,
người có ý kiến phản biện với ý kiến của mình là họ đang không đồng quan điểm với ý
kiến mà mình vừa nêu chứ không phải họ chê bai con người của mình”. Trong tranh luận,
nếu tự ái nghĩa là mình đã đánh mất đi sự sáng suốt của bản thân.
3, Thuyết phục: Khi nêu ý kiến đóng góp cho nhóm cần kèm theo lý lẽ thuyết phục
để nhận được sự đồng tình của nhiều thành viên trong nhóm.
4, Tôn trọng: Phải có ý thức tôn trọng ý kiến của người khác thể hiện qua việc
động viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực.
5, Trợ giúp: Có người sẽ mạnh lĩnh vực này, nhưng người khác lại mạnh lĩnh vực
khác. Và nhiều khi, vấn đề mà nhóm đang phải giải quyết cần nhiều kiến thức ở nhiều
lĩnh vực, mức độ và đòi hỏi các kỹ năng khác nhau. Do vậu, cần có ý thức sẵn sàng giúp
đỡ, hỗ trợ cho những người khác trong nhóm.
6, Chia sẻ: Các bạn sinh viên hãy hiểu rằng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giúp
việc học tập nhanh đạt kết quả. Có nhiều người thiếu kỹ năng này, họ sợ học chia sẻ
nhóm sẽ làm cho người khác hơn mình trong kết quả điểm. Điều này là sai lầm lớn, vì cái
bạn sẽ được là long tin và bạn sẽ nhận được nhiều thông tin bổ ích cho việc học từ niềm
tin này.
2.2.3.4. Phương pháp thiết lập và tổ chức học nhóm
Ngày nay việc tổ chức nhóm chính là con đường để hoàn tất công việc nhanh nhất.
Trong học tập nhằm để giúp sinh viên thể hiện được khả năng tương tác và thích ứng với
môi trường học tập thì việc kết hợp học tập với các bạn là một trong những phương pháp
học hiệu quả. Tầm quan trọng của phương pháp học nhóm cũng đã được đề cập cụ thể ở
nội dung trên. Bản thân sinh viên khi tham gia vào môi trường học tập tại trường đại học
cũng nhận thức được vai trò của học nhóm tới kết quả của của mình. Tuy nhiên để thực
hiện phương pháp học tập này hiệu quả cần phải thực hiện có quy trình và tập trung thành
thục các kỹ năng trong làm việc nhóm.
a) Thiết lập nhóm
Xác định số lượng thành viên của mỗi nhóm trong khoảng 5 đến 8m thành viên,
với số lượng này nhóm sẽ hoạt động đạt hiệu quả hơn. Việc xác định số lượng thành viên
nhóm có thể do giáo viên hoặc giáo viên giao cho sinh viên tự tiến thực hiện.
Nhóm hình thành trên sự cộng tác kết hợp của các sinh viên cùng có chí hướng
thực hiện một vấn đề nào đó cùng với nhau; tuy nhiên để dễ dàng cho việc hoạt động và
trao đổi, tốt nhất là nên thành lập nhóm từ những thành viên có cùng điều kiện về hoạt
động (thời gian, vị trí, công việc)
Các thành viên được kết nạp vào nhóm không có bất đầu riêng tư từ trước, nếu có
hãy giải quyết bất đồng hoặc tham gia vào một nhóm khác nếu có thể.
Sau khi tập hợp đủ số thành viên, nhóm tiến hành bầu nhóm trưởng. Bầu nhóm
trưởng trên cơ sở tự thỏa thuận với nhau. Tiêu chí để bầu nhóm trưởng là:
- Nhóm trưởng là người có khả năng giao tiếp, kết nối và tạo được mối quan hệ
thân thiện với các thành viên trong nhóm.
- Có khả năng đánh giá, tổng hợp một vấn đề.
- Có khả năng nhân sự: phân chia nhiệm vụ, giao nhiệm vụ cho các thành viên,
đánh giá vấn đề…, ngoài khả năng chuyên môn, khả năng này cũng rất quan trọng, nó
đảm bảo công việc được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
- Thống nhất mục tiêu chiến lược cho nhóm
- Chủ trì các cuộc họp
- Đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc, nhiệm vụ đã đề ra
- Kiểm tra, phân tích, khắc phục sai sót
- Là đại diện chính thức của nhóm
- Phân nhiệm vụ thực hiện cho từng thành viên
Có thể tham khảo kế hoạch hoạt động nhóm sau:

Kế hoạch hoạt động nhóm

·        Luyện tập / vận dụng kĩ năng


Mục đích
·        Tìm hiểu nội dung mới

Hoạt động này hướng đến trải nghiệm ·        Kiểm tra một văn bản, một tài liệu,…
học tập nào?
·        Làm dự án

·        Ít hơn thời lượng một tiết học


Thời lượng ·        Một tiết học
Hoạt động nhóm này diễn ra trong bao
·        Ít hơn một tuần
lâu?
·        Nhiều hơn một tuần
·        Sự sẵn sàng / Cấp độ kĩ năng
·        Hứng thú
Đặc điểm sinh viên
Những đặc điểm nào ảnh hưởng đến ·        Phong cách học / tư duy

nhiệm vụ hoặc trải nghiệm học tập này? ·        Trải nghiệm

·        Hoàn cảnh

Thành phần tham gia


·        Giống nhau
Nhóm gồm các sinh viên có đặc điểm
·        Không giống nhau
giống nhau hay không giống nhau?

·        Theo cặp


Hình thức tổ chức / Quy mô
·        Vòng tròn (6-8 người)
Hình thức tổ chức nào phù hợp nhất với
hoạt động học tập? Quy mô như nào thì ·        Nhóm nhỏ gồm 6-8 người
đạt được mục đích?
·        Chia lớp thành các nhóm

·        Do giáo viên chọn


Cách thức tiến hành ·        Do sinh viên chọn
Các nhóm sẽ được tiến hành như thế nào?
·        Ngẫu nhiên

b) Giai đoạn tiến hành thực hiện hoạt động nhóm


Nhóm hoạt động chủ yếu bằng hình thức họp nhóm. Thời gian và địa điểm do
nhóm tự thống nhất và quyết định. Thường thời gian họp nhóm tiến hành trong khoảng
45-75 phút, vì sau thời gian này mức độ tập trung không được cao. Các buổi họp nhóm
càng diễn ra thường xuyên càng tốt.
* Thực hiện xây dựng phân công nhiệm vụ trên cơ sở mục tiêu và kế hoạch chung
của nhóm của nhóm.
- Sau khi xây dựng mục tiêu tổng quát xong, chia các mục tiêu đó thành nhiều dự
án ngắn hạn.
- Xây dựng các dự án cụ thể dựa trên các dự án ngắn hạn đó.
- Xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cần thực hiện
- Xây dựng các qui tắc, qui định riêng cho nhóm, thực hiện trong nhóm và mọi
thành viên trong nhóm phải thực hiện nghiêm túc các qui định đó.
* Tiến hành họp nhóm
- Mở đầu:
+ Các thành viên ổn định vị trí của mình, tắt chuông điện thoại hoặc các thiết bị
khác để không ảnh hưởng đến quá trình làm việc của nhóm.
+ Nhóm trưởng hoặc một thành viên nào đó trong nhóm nêu ra các vấn đề cần
được giải quyết trong buổi họp. Sau đó các thành viên thống nhất thứ tự giải quyết các
vấn đề.
- Tiến hành giải quyết vấn đề
+ Cách thức làm việc theo nhóm và tính cách kín đáo, bảo thủ, áp đặt không thể
sống chung với nhau. Mọi người đều có khả năng đưa ra nhiều ý tưởng khác nhau, khi ý
tưởng được trình bày các thành viên nên chú ý lắng nghe trọn vẹn ý tưởng, không nên
phản ứng, cắt ngang ý tưởng của thành viên khác.
+ Nhóm cùng thống nhất ý tưởng và đưa ra phương án hành động. Nếu có nhiều ý
tưởng và phương án có khả năng thực hiện như nhau, nhóm tiến hành lấy ý kiến bằng
hình thức biểu quyết để thống nhất ý tưởng và phương án hành động.
+ Các vấn đề, các công việc đòi hỏi nhiều sự sáng tạo và tư duy ưu tiên giải quyết
trước
+ Trên cơ sở kết quả làm việc của các thành viên, căn cứ vào thời gian hoạt động
của nhóm tiến hành thống nhất và đưa ra sản phẩm làm việc.
c) Báo cáo sản phẩm và rút kinh nghiệm hoạt động của nhóm
Kết quả làm việc nhóm là sản phẩm khẳng định hiệu quả làm việc của tất cả thành
viên. Nó mang đến niềm tự hào và kích thích sự cố gắng của các thành viên ở các nhiệm
vụ tiếp theo. Chính vì thế việc báo cáo sản phẩm nhóm cho giảng viên và cả lớp là một
nhiệm vụ rất quan trọng. Khi làm việc nhóm tất cả các thành viên đều phải am hiểu về
các vấn đề trong nhiệm vụ cần thực hiện. Nếu không có yêu cầu từ phía giảng viên, nhóm
có thể chọn 1 bạn sinh viên có tố chất về giọng nói, diễn đạt để thực hiện báo cáo nhằm
đưa đến kết quả tốt nhất. Tuy nhiên nếu giảng viên yêu cầu bất kỳ thành viên nào thì cả
nhóm cũng đã có tinh thần chuẩn bị trước để diễn đạt kết quả làm việc của mình. Lưu ý
cố gắng trình bày cô đọng, súc tích và đầy đủ kết quả làm việc của nhóm theo yêu cầu
của giảng viên.
Nhóm trưởng tập hợp bảng chấm công về kết quả làm việc của các thành viên
trong nhóm. Thống nhất nội bộ việc ghi nhận đóng góp của các thành viên. Rút kinh
nghiệm những điều chưa thực hiện được. Sau đó báo cáo trước giảng viên.

Bài thực hành


Thực hành 1: Xây dựng kế hoạch học tập cá nhân trong 1 học kỳ (mô tả cụ thể những kế
hoạch cần chuẩn bị, thời gian học tập, các công việc cần thực hiện, kế hoạch gắn liền với
chương trình học tập của kỳ học hiện tại)
Thực hành 2: Thiết kế 1 quy trình tra cứu, tìm kiếm thông tin, tư liệu học tập (mô tả
mục đích, cách thức, hình thức tra cứu tài liệu của sinh viên; cần lưu ý những vấn đề gì
khi tra cứu thông tin học tập)
Thực hành 3: Thực hành xây dựng quy trình của một buổi thảo luận nhóm trong học tập
(mô tả rõ quy trình, phân công các công việc, nhiệm vụ cho các thành viên, cách thức tiến
hành thảo luận, trao đổi; chỉ ra 1 số khó khăn và cách khắc phục khó khăn khi thực hiện
phương pháp học tập nhóm)

Tài liệu tham khảo


1. Alphal books biên soạn (2018), Luyện đọc nhanh, NXB Lao động xã hội
2. Lê Văn Hảo, Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề lý luận và ứng dụng, Trường Đại
học Nha Trang.
3. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Từ điển Giáo
dục học, NXB Từ điển bách khoa.
4. Mortimer J. Adler, Charles Van Doren; Hải Nhi (dịch) (2012), Phương pháp đọc sách
hiệu quả, NXB Lao động Xã hội.
5. Phan Thị Lệ Thúy, Một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động học tập theo nhóm trong
giảng dạy theo học chế tín chỉ, Trường Đại học Nha Trang.
6. Lê Công Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn đề
hiện nay của phương pháp dạy học đại học, NXB GD, Hà Nội.
7. Nguyễn Đình Xuân (chủ biên), Ngô Công Hoàn, Quy trình học tập và tự học, nhà xuất
bản ĐHQG HN, 2000.
8. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
9. https://vtudien.com, mục từ phương pháp
10. https://vinskills.vn/ghi-chep-thong-minh/

You might also like