Professional Documents
Culture Documents
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảng viên được xem là người định hướng, tổ chứcđể sinh viên lĩnh hội kiến
thức, kĩ năng nghề nghiệp. Để công việc giảng dạy có hiệu quả, giảng viên
phải có hiểu biết vừa rộng vừa sâu về những gì liên quan đến lĩnh vực chuyên
môn. Người giảng viên đích thực luôn tìm kiếm cách thức cập nhật càng
nhiều càng tốt những gì đang được phổ biến về môn học của họ nhằm giữ cho
môn học luôn mới, đồng thời phát triển khả năng dạy học của mình. Nhu cầu
liên tục học hỏi còn liên quan đến chính bản chất của việc học tập. Bởi tri
thức là cái không ngừng phát triển, những điều biết hôm nay không bao giờ
giống với điều sẽ được biết ngày mai. Cho nên, để nắm, sở hữu tri thức, người
ta luôn phải vật lộn để làm cho những điều đã biết luôn được cập nhật, đồng
thời còn phải biết trình bày chúng cho học sinh của mình. Việc chủ động học
tập tạo ra ở người giáo viên sự tự tin suy nghĩ một cách độc lập, và dưới con
mắt của các chuyên gia về học tập thì đây được xem là bước chuyển tiếp
mang tính chuyên nghiệp của một người giáo viên bởi “đó là khi một thế giới
mới được mở ra, một quyền lực mới đạt được và một người giáo viên mới
được sinh ra – một giáo viên có thể độc lập xác định được điều gì là tốt nhất
cho học sinh của mình”. Các nghiên cứu cho thấy, những giảng viên được
nhiều sinh viên nhớ đến nhất và nhớ lâu nhất là những người nắm vững môn
học của mình, dạy môn học đó với sự nghiêm túc và tình yêu to lớn, tự tin
trong sự hiểu biết của họ, vui sướng khi hiểu được một điều mới mẻ. Đó là
những người thường xuyên có mặt tại bàn đọc sách của thư viện, băn khoăn
về kết quả của một thử nghiệm, chia sẻ suy nghĩ về lời bình của một cuốn
sách, khám phá ra ý nghĩa của một bức tranh, nói về quá trình học hỏi với sự
chân thành...Đồng thời chia sẻ với sinh viên của mình để giúp họ biết cách tự
học thông qua kinh nghiệm bản thân. Những niềm vui sướng giản dị đó chính
là những điều mà mỗi người học cần ở người thầy của họ. Bằng cách đó,
sinh viên có thể sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của việc học tập từ phía
giảng viên, và lại tiếp tục thúc đẩy giảng viên trên con đường tự học hỏi.
B/ THÔNG TIN CHUNG VỀ HỌC PHẦN
Học phần “Nâng cao chất lượng tự học” cung cấp cho học viên một số
kiến thức cơ bản về cơ sở tâm sinh lí của hoạt động tự học, một số cách rèn
luyện kĩ năng tự học. Trên cơ sở đó gợi ý để học viên vận dụng vào quá trình
tự học của bản thân và hướng dẫn học sinh, sinh viên tự học một cách hiệu
quả, như: Xác định mục tiêu tự học hiệu quả; Lập kế hoạch tự học phù hợp,
khả thi;Nghiên cứu tài liệu học tập;Tự giải quyết các vấn đề học tập với tư
cách là một hoạt động tự học.
Cảm xúc
Dáng vẻ
điệu bộ
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa tâm lí và dáng vẻ bên ngoài
Sơ đồ 2: Chuyển từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn
* Sau đây là một số gợi ý biện pháp rèn luyện trí nhớ:
- Ôn lại sớm và ôn luyện thường xuyên. Về nguyên tắc, những thông tin
được lặp đi lặp lại sẽ được nhớ lâu hơn. Việc bắt đầu quá trình ôn lại phải
càng sớm càng tốt vì nghiên cứu cho thấy, sau 24 giờ, chúng ta có thể quên
80% kiến thức vừa được học. Điều này có nghĩa là cần ôn bài vào đúng thời
điểm trí nhớ đang ở đỉnh cao. Nghiên cứu cho thấy, lần ôn bài đầu tiên nên
bắt đầu sau khi học 10 phút vì lúc này khả năng ghi nhớ đạt đỉnh điểm rồi sau
đó giảm từ từ. Những lần ôn tập tiếp theo nên lần lượt diễn ra sau 24 giờ, sau
1 tuần, sau 1 tháng, và sau 3 đến 6 tháng. Bằng cách đó, những liên kết trong
não trở nên bền vững hơn đồng thời việc học bài trở nên dễ dàng hơn, tiết
kiệm được thời gian hơn.
- Sử dụng kết hợp nhiều giác quan và nhiều hành động cùng một lúc sẽ
giúp nhớ nhanh và lâu hơn. Tương tự, có thể sử dụng nhiều liên tưởng giác
quan để cải thiện trí nhớ như thị giác, mùi vị, âm thanh, song các nghiên cứu
cho thấy quan trọng nhất là thị giác vì trí nhớ rất cần thiết cho bộ máy thị
giác, vì vậy, cần tập trung phát triển các liên tưởng thị giác của mình.
Sơ đồ 4: Kết quả ghi nhớ ở những hành động học tập khác nhau
- Chia nhỏ thời gian cho các công việc khác nhau. Dựa theo hiệu ứng “đầu
tiên” và hiệu ứng “mới đây” của trí nhớ (tức là chúng ta thường nhớ những
thông tin học lúc đầu và lúc cuối tốt hơn), để bố trí việc học thuộc lòng phù
hợp, vừa không lãng phí thời gian mà vẫn nhớ được nhiều thông tin. Muốn
thế, phải chia nhỏ thời gian học thuộc lòng ra làm nhiều khoảng. Các nhà
nghiên cứu cho biết, thời gian học lí tưởng nhất trong mỗi lần là 2 tiếng và
khoảng thời gian tối đa có thể tập trung cho một bài học là khoảng 30-45
phút. Vì vậy, ta nên chia khoảng thời gian 2 tiếng thành 4 giai đoạn nhỏ với
mỗi giai đoạn dài 30 phút. Ở mỗi giai đoạn ta tập trung học trong 25 phút.
Giữa các khoảng đó có thể nghỉ giải lao 5 phút. Bằng cách này ta sẽ có 8 đỉnh
ghi nhớ thông tin và những khoảng thời gian trí nhớ suy giảm (hiện tượng
quên) sẽ rút ngắn đi nhiều. Kết quả là ta ghi nhớ được thông tin tốt hơn trong
khi thời gian học được tận dụng hiệu quả tối đa.
- Các chuyên gia nghiên cứu về cải thiện trí nhớ còn cho rằng, nếu chúng
ta thay đổi hoạt động trong mỗi khoảng thời gian 30 phút, có thể thu được
nhiều lợi ích lớn hơn. Cách này được gọi là “học tập xen kẽ”. Khi học lối đan
xen như thế sẽ thấy đầu óc tỉnh táo hơn, dễ thuộc hơn. Lí do là học như vậy sẽ
hạn chế được sự cản trở của ức chế xuống sau và ức chế lên trước (ức chế
ngược) do tính chất gần giống nhau của tài liệu học trước với tài liệu học sau
(mức độ gần giống nhau càng lớn thì sự cản trở càng mạnh) và do khoảng
cách thời gian học giữa tài liệu trước và tài liệu sau (nếu khoảng cách là nhỏ
thì ảnh hưởng của hai loại ức chế càng mạnh). Chẳng hạn, nếu học xen kẽ
theo thứ tự Toán, Văn và Sinh học thì có thể làm giảm sự cản trở đối với tính
gần giống nhau xuống tới mức thấp nhất. Đồng thời, vận dụng quy luật về sức
làm việc để ngăn ngừa sự mệt mỏi đến sớm, nên có nghỉ giải lao nhẹ giữa hai
tài liệu học. Cũng cần lưu ý rằng, nếu như sau khi học xong một tài liệu mà ta
chuyển sang học một tài liệu khác khó hơn thì ảnh hưởng của ức chế lên trước
sẽ càng lớn do đó sẽ khó nhớ hơn. Ngoài ra, nếu không nhớ kĩ tài liệu học
trước và tài liệu học sau, thì cũng dễ làm nảy sinh ức chế xuống sau và ức chế
lên trước. Vì vậy, khi học xen kẽ là phải học đâu chắc đó, tuyệt đối không
được nôn nóng bởi nếu không sẽ xảy ra hiện tượng “làm nhanh chóng hỏng”
làm mất thời gian lại không hiệu quả.
- Nhóm tài liệu lại. Do hiệu ứng tương tự của trí nhớ (những thông tin liên
quan với nhau được ghi nhớ dễ hơn), cần sắp xếp các tài liệu có các yếu tố
giống nhau để ôn cùng nhau. Với cách này, chỉ riêng việc phân loại thông tin
cũng đã giúp ích cho quá trình ghi nhớ rất nhiều.
- Tạo ra các liên tưởng mạnh mẽ, nghĩa là tạo ra mối liên kết giữa những
việc chúng ta cần nhớ. Các liên tưởng dễ thực hiện nhất là liên tưởng cảm xúc
và liên tưởng thị giác. Cách tốt nhất để thực hiện liên tưởng thị giác là sử
dụng “Bản đồ tư duy” của Tony Buzan. Ngoài ra, tính ý nghĩa của thông tin là
một đặc điểm của trí nhớ, vì vậy, bất cứ khi nào có thể được thì ta hãy cố
gắng gán cho thông tin những ý nghĩa riêng.
Cơ sở của trí nhớ là những mối liên hệ hoặc liên tưởng. Nếu là những tài liệu
liên quan mật thiết với tài liệu cũ hoặc giữa những bộ phận có mối liên hệ
chặt chẽ thì học rất chóng thuộc. Những tài liệu hình tượng trực quan dễ nhớ
hơn những tài liệu ngôn từ trừu tượng hoặc các lí luận toán học. Những tài
liệu tác động đến tình cảm, hứng thú, sở thích của con người thường dễ nhớ
hơn những tài liệu chung chung. Vì vậy, các chuyên gia khuyên rằng, nếu có
thể, thì nên biến những tài liệu khó nhớ dưới dạng thơ ca, hò vè...có vần có
điệu thì học sẽ nhanh thuộc và nhớ được lâu hơn, bởi thơ ca thường giàu hình
tượng, giàu cảm xúc, dễ để lại trong con người những ấn tượng sâu đậm. Hơn
nữa, vần và nhịp điệu còn làm tăng mối liên hệ giữa các từ, giữa các đoạn
trong bài thơ làm cho tất cả trở thành một chỉnh thể do đó giúp ta dễ dàng nhớ
lại và tái hiện. Nhiều giáo viên đã bỏ công sức soạn những định lí toán học,
các quy tắc ngữ pháp... dưới dạng các câu ca dao để giúp học sinh dễ đọc, dễ
nhớ.
- Làm các thẻ nhớ và thường xuyên giữ theo bên mình để có thể mở ra bất
cứ khi nào có thời gian rảnh mà không muốn để nó trôi qua vô ích như: lúc
đợi ôtô buýt, khi chờ một người bạn để cùng đi học,...
- Ngủ để nhớ tốt hơn. Nghiên cứu chỉ ra rằng, giấc ngủ là yếu tố cần thiết để
có được trí nhớ tốt. Bên cạnh nhu cầu hiển nhiên đối với việc phải ngủ đủ để
duy trì sức khỏe và tinh thần tỉnh táo, thì, trên thực tế não còn sử dụng thời
gian ngủ để củng cố những thứ được lưu giữ trong trí nhớ dài hạn. Vì thế,
những gì học ngay trước khi đi ngủ sẽ được lưu lại nhanh chóng và hiệu quả.
Ngoài ra, não cũng cần có thời gian nghỉ để thực hiện các liên tưởng và những
kết nối cần thiết nhằm tạo ra trí nhớ dài hạn. Nhiều sinh viên thường than
phiền rằng: “Bài vở nhiều quá, chẳng làm sao nhớ hết được!”. Thực ra đó là
do các em đó chưa nắm được phương pháp ghi nhớ và cơ sở khoa học của nó.
Trước khi thực hiện các phương pháp được gợi ý ở trên, có một số điểm
cầnlưu ý là:
- Ôn luyện, ôn luyện và ôn luyện thường xuyên. Việc lặp đi lặp lại nhiều
lần một kích thích nào đó sẽ tạo thành mối liên hệ thần kinh bền vững trong
não, từ đó để lại dấu vết sâu đậm trong não.
- Hiểu rõ mục đích ghi nhớ. Việc đề ra nhiệm vụ phải “nhớ lâu” có tác
dụng rất lớn đối với trí nhớ có chủ định.
- Hoạt động tích cực và độc lập. Khi cá nhân tổ chức hoạt động tư duy tích
cực và độc lập (tức là hoạt động đòi hỏi phải động não) sẽ làm tăng hiệu quả
ghi nhớ. Điều này có nghĩa là, muốn ghi nhớ tốt nhất thì phải “làm” (vẽ hình,
kẻ bảng biểu, viết ghi chú…).
- Hiểu rõ ý nghĩa nội dung cần ghi nhớ sẽ nâng cao tính toàn diện, tính
chính xác và tính vững chắc của trí nhớ. Không ghi nhớ máy móc mà nên cố
gắng tạo ra thật nhiều mối liên hệ bằng cách gán cho tài liệu học tập những ý
nghĩa gần gũi.
- Sắp xếp hợp lí số lượng tài liệu cần ghi nhớ phù hợp với bản thân (khả
năng, thói quen, hứng thú…).
- Tính chất của tài liệu ảnh hưởng đến việc ghi nhớ. Tài liệu càng trực
quan, càng giàu hình tượng, giàu cảm xúc thì càng dễ nhớ và nhớ lâu.
1.3.2.2. Nhóm kĩ năngtổ chức việc tự học
* Xác định mục tiêu và mục đích học tập cho từng buổi học một cách: cụ thể
(đo lường được), thực tế, khả thi, phù hợp, có ý nghĩa theo nguyên tắc
SMART.
* Thực hiện kế hoạch là khâu quan trọng nhất, quyết định thành tích học tập ở
sinh viên. Vì thế cần hướng dẫn sinh viên:
- Phải cố gắng tập trung cao độ khi ngồi học;
- Không thực hiện nhiều việc cùng một lúc; không vừa học vừa nghe
nhạc, vừa xem vô tuyến…;
- Tự tạo hứng thú, niềm tin khi tự học;
- Tạo động lực cho việc học tập bằng suy nghĩ về những lợi ích có thể có
sau khi học (sẽ tìm được điều mới lạ và thú vị khi học, sẽ được thưởng sau khi
hoàn thành nhiệm vụ học tập, sẽ có được kết quả tốt vào kì thi tới,…);
- Sử dụng thời gian một cách tối ưu, có hiệu quả cao nhất; về cơ bản cần
tập trung giải quyết dứt điểm từng nhiệm vụ theo phương châm làm đâu gọn
đấy, học gì xong nấy, bài hôm nay không để ngày mai, học xong môn này
mới học môn khác. Tuy nhiên, để quá trình tự học đạt kết quả tốt nhất, cần
hiểu và vận dụng hợp lí một số yếu tố tâm líliên quan, chẳng hạn: một số quy
luật của chú ý, của trí nhớ, của tưởng tượng, của sức làm việc trí óc…đểcó thể
đạt được khối lượng học tập nhiều nhất trong một khoảng thời gian ít nhất.
- Những gì vượt quá khả năng thì đánh dấu lại để hỏi thầy/cô hoặc bạn
bè…;
- Quyết tâm khắc phục khó khăn do hoàn cảnh mang lại trong suốt quá
trình tự học (tiếng ồn, nhiệt độ không khí,…).
* Tự đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Hướng dẫn sinh viên biết cách kiểm
điểm lại xem các nhiệm vụ đặt ra có hoàn thành hết không? Từng nhiệm vụ
có được hoàn thành tốt không? Kế hoạch đặt ra có hợp lí không? Những tồn
tại là gì? Nguyên nhân? Dự kiến cách khắc phục?...
1.3.2.3. Nhóm kĩ năngtổ chức môi trường tự học tối ưu
Môi trường học tập của người học là tất cả những gì có xung quanh hoạt
động học của người học, tạo điều kiện để người học học tập, bao gồm môi
trường vật chất và môi trường xã hội. Môi trường vật chất bao gồm một tổng
thể những yếu tố trong không gian, nơi hoạt động học tập diễn ra. Đó là bàn
ghế, các đồ dùng, tài liệu, phương tiện kĩ thuật để học tập (ví dụ, từ điển, máy
tính, máy ghi âm để học ngoại ngữ...). Còn môi trường xã hội là các mối quan
hệ giao tiếp, mối tương tác giữa các cá nhân diễn ra trong quá trình học tập.
Môi trường xã hội tạo nên bầu không khí tâm lí tích cực, là điều kiện hỗ trợ
cho các mối tương tác giữa người học với nhiệm vụ học tập. Môi trường học
tập tối ưu là môi trường hỗ trợ tốt cho người học: tích cực, chủ động, sáng tạo
và đạt được kết quả cao nhất. Tổ chức môi trường học tập là tổ chức môi
trường vật chất và môi trường xã hội sao cho đảm bảo được việc học tập diễn
ra thuận tiện, thoải mái, hiệu quả. Các chuyên gia về vấn đề này đã gợi ý
nhiều cách khác nhau mà chúng ta có thể tham khảo.
Khi môi trường sống sạch sẽ, trật tự, ngăn nắp, chúng ta sẽ cảm thấy thoải
mái và luôn ở trong tâm trạng tươi mới. Khi đó chúng ta có thể tập trung cao
độ vào công việc của mình. Một căn phòng bừa bộn có thể tiềm ẩn những rủi
ro cho sức khỏe và sự an toàn (chẳng hạn, có thể va vấp). Một yếu tố quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng học tập là một chỗ ngồi học gọn gàng,
sạch sẽ, thuận tiện. Hiện nay, do điều kiện kinh tế mà việc bố trí một chỗ học
tập đầy đủ tiện nghi như mong đợi không phải là điều dễ dàng với phần lớn
các gia đình. Tuy nhiên, trong điều kiện tốt nhất có thể, cần trước hết đảm bảo
để chỗ học được sạch sẽ, gọn gàng, yên tĩnh. Có rất nhiều cách để làm cho nơi
ngồi học bài trở nên sinh động, hấp dẫn việc học, để có thể tự sáng tạo. Tất
nhiên còn phải đảm bảo các nguyên tắc về vệ sinh - an toàn lao động.
- Đối với việc học tập ở nhà, quan trọng nhất là chỗ học, hay chính xác
hơn, là bàn họccá nhân. Từ góc độ của Khoa học Tổ chức lao động, việc bố
trí một bàn học sao cho thuận tiện khi ngồi học là hoàn toàn có cơ sở khoa
học. Theo đó, tất cả những vật dụng cần thiết nhất cho buổi học/giờ học phải
được đặt ở trong ”vùng làm việc tối ưu” (tức là vòng cung trước mặt tính từ
khuỷu tay cho đến cổ tay) để tiện lấy dùng khi cần đến. Các đồ dùng phải sắp
xếp phù hợp với các vận động của con người để tránh mệt mỏi sớm (để không
phải với tay, không phải cúi lưng, không phải đứng lên ngồi xuống liên tục...).
Nghiên cứu cho thấy, nếu bàn học cá nhân được sơn 2 màu, cụ thể: 1/3 phía
trên sơn màu xanh lá cây non; còn 2/3 phía dưới, sát với phía học sinh, được
sơn màu vàng chanh, sẽ giúp giữ gìn thị lực tốt hơn, đồng thời có tác dụng
khích lệ tính tích cực học tập và khả năng tư duy. Trong khi đó, chân bàn sơn
màu cùng với màu nền nhà sẽ tạo cảm giác vững chãi, yên tâm đối với người
ngồi.
- Tổ chức môi trường học tập một cách khoa học, có hệ thống thực ra rất
đơn giản: có thể chuẩn bị vài túi đựng hồ sơ, kẹp giấy để đựng bài tập về nhà,
những ghi chép bài giảng ở trường; đầu tư thời gian phân loại những cuốn
sách trên giá sách theo chủ đề, theo môn học hoặc theo thể loại sách; thỉnh
thoảng kiểm tra đồ dùng xem đã được cất giữ một cách có hệ thống chưa, đặt
đồ dùng vào chỗ cũ sau khi sử dụng...để tiết kiệm thời gian tối đa khi học tập.
- Chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ trước khi ngồi vào bàn học. Một trong những
cách sử dụng thời gian hiệu quả nhất là dành thời gian thu thập tài liệu học tập
và các thứ lặt vặt khác trước khi ngồi vào bàn và mở sách ra để khi đã ngồi
vào bàn thì thời gian học là chỉ để dành cho việc học mà thôi. Trước khi bắt
đầu học phải đảm bảo đã có tất cả mọi thứ cần thiết ngay trước mặt như: bút,
thước, sách vở và các tài liệu đọc thêm khác.
- Tạo ra nhiều thông điệp tích cực xung quanh chỗ ngồi học. Mục đích là
tạo ra một môi trường cảm xúc và tinh thần tích cực giúp cho việc học tập.
Các thông điệp tích cực có thể là những bức ảnh của bản thân mình, của gia
đình, của bạn bè, giấy khen, các phần thưởng, các bằng chứng nhận, các trích
dẫn, lời nhắc nhở, khẩu hiệu…
- Làm phong phú thêm môi trường học tập: ánh sáng, sự yên tĩnh, những liên
tưởng tích cực, các thông điệp đầy cảm hứng có thể được bổ sung bằng hoa,
cây cảnh, gỗ tự nhiên của bàn học. Nếu có điều kiện, các chuyên gia khuyên
nên sử dụng cả nút bịt tai, làm bằng bọt biển mềm để chặn tiếng ồn khi cần
thiết (hiện nay có bán trên thị trường).
Câu hỏi ôn tập và bài tập thực hành
1/ Thực hành khoanh tay trước ngực và đổi hướng.
2/ Liệt kê ra giấy những gì đã học để làm được mà không liên quan đến việc
học ở trường.
3/ Hãy chia sẻ kinh nghiệm tổ chức tự học của bạn với các đồng nghiệp và rút
tỉa những điều bạn cần học hỏi cho mình từ kinh nghiệm của đồng nghiệp.
2.2.1. Xác định những việc ưu tiên cho những thời điểm thích hợp
Ví dụ về lập thời gian biểu cho một ngày (3 cột: thời gian – hoạt động – lãng
phí) để tìm hiểu việc quản lí thời gian của học sinh cho thấy, học sinh có học
lực trung bình khá lãng phí mỗi ngày khoảng 6 tiếng. Trong khi đó, những
học sinh giỏi làm chủ thời gian bằng cách sắp xếp ưu tiên công việc. Mỗi
người đều chỉ có 24 giờ/ngày, vì thế cần ưu tiên những việc giúp ta tiến đến
gần mục tiêu hơn.
Phân chia thời gian cho từng loại việc sao cho hợp lí là hết sức cần thiết.
Những học sinh trung bình thường có khuynh hướng tập trung vào những việc
khẩn cấp rất nhiều vì có quá nhiều việc loại này do tính lười biếng và thích trì
hoãn. Kết quả là họ luôn cảm thấy quá bận rộn, đầu óc luôn căng thẳng, học
tập kém hiệu quả và luôn nhận được kết quả kém. Cách làm là: cố gắng lên kế
hoạch dành thật nhiều thời gian cho những công việc không khẩn cấp và phải
tự động viên thực hiện hàng ngày.
Bản chất con người là nếu không lên kế hoạch cho những việc quan trọng
thì chúng ta sẽ luôn trì hoãn và không bao giờ bắt đầu được. Đó là vì chúng ta
thường dễ bị lôi kéo và dành thời gian cho những công việc khác. Vì thế lên
kế hoạch rất quan trọng.
2.2.2. Lập thời gian biểu
Bản chất con người là nếu không lên kế hoạch cho những việc quan trọng thì
chúng ta sẽ luôn trì hoãn và không bao giờ bắt đầu được. Đó là vì chúng ta
thường dễ bị lôi kéo và dành thời gian cho những công việc khác. Vì thế lên
kế hoạch rất quan trọng,là trọng tâm của mọi lời khuyên về quản lí thời gian.
Một thời gian biểu tốt là một công cụ linh hoạt khiến người sử dụng không có
cảm giác thất bại nếu chẳng may vi phạm nó. Muốn thế, cần có sự vận dụng
linh hoạt các yếu tố tâm sinh lí và các yếu tố tổ chức lao động khoa học vào
việc xây dựng một thời gian biểu phù hợp, tức khả thi.
- Cần phải bắt đầu bằng một thời gian biểu quản lí theo tuần. Khi bắt đầu
mỗi học kì, hãy lập một thời gian biểu cho mọi việc của bản thân.
- Sau đó, thêm thời gian học tập vào thời gian biểu của từng ngày (chia
thời gian trong ngày dành riêng cho việc học tập dựa theo chu kì tỉnh táo đã
nhận thức được).
- Tận dụng thời gian trống ở trước và sau giờ học để chèn thêm vào đó
những thông tin không liên quan đến học tập vào thời gian biểu (những việc ở
mức ưu tiên thấp hơn so với học tập và cần phải làm).
- Cần để lại một vài khoảng trống trong thời gian biểu vì thời gian biểu
được sử dụng là để lên kế hoạch cho những việc cố định và để dành thời gian
cho những hoạt động ưu tiên như học tập. Vì thế, nếu chúng quá kín tất sẽ bị
thất bại vì không khả thi. Những chỗ trống là thời gian rảnh rỗi để có thể làm
những gì theo hứng thú riêng.
Các công cụ được sử dụng để lập thời gian biểu sát hợp rất đa dạng, ví dụ:
* Danh sách các việc cần làm theo thứ tự ưu tiên, cũng chính là danh sách các
mục tiêu học tập nhỏ trước mắt.
* Lịch đánh dấu những ngày quan trọng để dựa vào đó lập kế hoạch cho công
việc hàng ngày; cuốn lịch về những sự kiện quan trọng (kì thi, hạn nộp bài,
ngày sinh nhật...).
*Các danh sách và sức mạnh của chúng.
Dưới đây là một vài gợi ý cho việc xây dựng thời gian biểu tự học của sinh
viên: Thời gian biểu cho một tuần và cho một tháng.
Hình 2 & 3: Thời gian biểu theo tuần và thời gian biểu theo tháng
Trong quá trình học tập ở trường đại học của sinh viên thì tự học, tự nghiên
cứu là rất quan trọng và cái ranh giới học tập – nghiên cứu khoa học là gần
gũi, khó phân định. Nhưng để học tập tốtvà nghiên cứu khoa học hiệu quả thì
sinh viên cần khai thác và quan tâm đúng mức về vai trò “cầu nối” của
phương pháp tự học.
4.1.1. “Tự học” và “Nghiên cứu khoa học”
*Quá trình học tập của sinh viên ở các trường đại học về bản chất là quá trình
nhận thức có tính chất nghiên cứu. Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự
mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của
nghề nghiệp tương lai và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu
trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt
động học tập, sinh viên không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường
mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa
là, dưới vai trò chủ đạo của thầy, sinh viên không nhận thức một cách máy
móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở rộng kiến thức... Mặt khác, trong
quá trình học tập, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia hoạt động tìm kiếm
chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở
các mức độ từ thấp đến cao tuỳ theo yêu cầu của chương trình. Hoạt động
nghiên cứu khoa học này giúp sinh viên từng bước tập vận dụng những tri
thức khoa học, phương pháp luận khoa học, những phẩm chất, tác phong của
nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách khoa học những vấn đề
do thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra.
*Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí
óc để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng
nhưng chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để
thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay
đặt những dấu hỏi, phát hiện vấn đề và từ đó đi đến có đề tài nghiên cứu.Việc
nghiên cứu khoa học dĩ nhiên tác động trở lại việc học và có phát triển tự học
lên đến nghiên cứu khoa học thì mới có thực tiễn để hiểu sâu mối quan hệ
giữa tư duy độc lập và tư duy sáng tạo.
*Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học. Tự học làm cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên. Hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên là loại hình hoạt động rất cơ bản do tính chất đặc thù
của quá trình ở trường đại học... Khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
phải chứa đựng cả mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, tri thức về
phương pháp và đối tượng nghiên cứu và các yếu tố kỹ thuật khác của hoạt
động nghiên cứu. Theo chúng tôi, khả năng nghiên cứu khoa học của sinh
viên là năng lực thực hiện có hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học
trên cơ sở lựa chọn, tiến hành hệ thống các thao tác trí tuệ và thực hành
nghiên cứu khoa học phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nhất định nhằm đạt
mục đích nghiên cứu khoa học đề ra.
Khi coi hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một loại hình hoạt
động học tập đặc trưng ở đại học, hoạt động này có thể diễn ra theo các giai
đoạn sau:
Khả năng nghiên cứu khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với kết quả nghiên
cứu và xa hơn nữa, có liên quan với kết quả học tập và khả năng tự học của
sinh viên đại học. Do vậy, khả năng nghiên cứu khoa học trở thành loại hình
kỹ năng học tập rất cơ bản mà sinh viên cần được chú trọng bồi dưỡng, rèn
luyện.
Tóm lại, giữa tự học và nghiên cứu khoa học có những điểm chung, thể hiện ở
việc: Xác định mục đích; quá trình thực hiện; kết quả thu được; tự đánh
giá/chiêm nghiệm về những gì đã làm và đã đạt được; đặt ra các câu hỏi mới
cho bản thân.
Tự học thực chất là quá trình nghiên cứu khoa học và giải quyết vấn đề của cá
nhân. Điều này làm cho quá trình tự học diễn ra theo một chu trình không có
điểm kết thúc. Và đó cũng là ý nghĩa của tự học – một phẩm chất nhân cách
không thể thiếu của con người trong xã hội hiện đại.
4.1.2. Chu trình tự học ở người lớn là quá trình tự giải quyết vấn đề
Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn
phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là
sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có
kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để
chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn
nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học
một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường.
Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh
viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật
chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm
cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy
trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
Đó là một chu trình ba giai đoạn:
Giai đoạn 1- Tự nghiên cứu: Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích,
phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ
mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính
chất cá nhân.
Tự kiểm tra
điều chỉnh (3) Tự thể hiện (2)