You are on page 1of 22

Đề cương lý luận dạy học chuẩn

Câu 1: Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học:

Khái niệm quá trình dạy học

Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy, người học tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm
thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.

Bản chất của quá trình dạy học

Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức có tính độc đáo của người học
dưới sự tổ chức, định hướng, điều khiển của người giáo viên nhằm giúp người học chiếm lĩnh tri thức,
hình thành kĩ năng, kĩ xão trên cơ sở phát triển các phẩm chất năng lực, đáp ứng mục tiêu dạy học

1.Quá trình nhận thức của học sinh giống như các quá trình nhận thức khác
• Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua chủ thể.
• Quá trình nhận thức của con người theo quy luật nhận thức chung của loài người.
• Trong quá trình nhận thức con người phát huy các thao tác tư duy một cách sáng tạo.
• Kết quả nhận thức của học sinh nói riêng và loài người nói chung đều có điểm chung là làm vốn
hiểu biết của chủ thể tăng lên.
2. Tính độc đáo quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
• Hoạt động nhận thức của học sinh được tối ưu hóa, chỉ trong một thời gian ngắn, học sinh có thể
nắm vững được hệ thống tri thức một cách hiệu quả.
• Mục đích quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức được cái mới đối với bản thân mình, rút ra
từ kho tàng của nhân loài
• Những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, của học sinh được kiểm tra, đánh giá một cách có kế hoạch và có
hệ thống nhằm đảm bảo tính vững chắc của tri thức thực hiện những yêu cầu về mặt dạy học và
giáo dục.
• Quá trình nhận thức của học sinh luôn mang ý nghĩa giáo dục.
Câu 2: Các quy luật cơ bản của quá trình dạy học.
1. Khái niệm:
- Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến, lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt khác nhau của một sự vật hiện tượng.
- Quy luật dạy học phản ánh mối quan hệ chủ yếu, tất yếu và bền vững giữa các
thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học (và giữa các yếu tố trong từng thành tố).
2. Các quy luật dạy học:
Dạy học là một quá trình luôn luôn vận động và phát triên không ngừng nhằm thực hiện mục tiêu dạy
học ở các mức độ nhất định. Sự vận động của QTDH diễn ra theo những quy luật phổ biến và đặc thù của
nó. Các quy luật đó phản ánh những mối liên hệ tất yếu và bền vững giữa các thành tố của QTDH cũng
như giữa QTDH với điều kiện kinh tế xã hội và khoa học kĩ thuật.Các quy luật dạy học bao gồm:
- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa môi trường kinh tế - xã hội
văn hoá, khoa học công nghệ với các thành tố của quá trình dạy học;
- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy của giáo viên với hoạt động
học của học sinh;
- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục;
- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy học và sự phát triển trí
tuệ;
- Quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa mục đích, nội dung, phương pháp, phương
tiện của quá trình dạy học.
Trong các quy luật trên, quy luật về mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh được coi là quy luật cơ bản của quá trình dạy
học.
Câu 3: Biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho HS hiện nay

C. Mác đã khẳng định: “Con người ta sẽ không làm bất cứ điều gì, nếu nó không liên quan đến nhu cầu,
động cơ của họ…” Vì vậy, việc xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh hiện nay là thực sự
quan trọng và cấp thiết.

Như ta đã được biết trong bộ môn Tâm lí học Giáo dục, động cơ học tập được chia làm hai loại:

Động cơ học tập trong: nhu cầu học, sự ham hiểu biết, hứng thú học, niềm vui và thử thách bản thân, sự
thỏa mãn do thành tựu học tập đem lại.

Động cơ học tập ngoài: Lời khen, phần thưởng, sự trừng phạt, ý thức trách nhiệm, yêu cầu, áp lực…

Do động cơ học tập bên trong có nhiều ưu điểm hơn nên người giáo viên cần phải chú trọng xây dựng cho
học sinh loại động cơ này. Tuy nhiên, GV cũng cần kết hợp xây dựng các động cơ bên ngoài để đạt được
hiệu quả cao.

1. Các biện pháp duy trì và phát triển nguồn bên trong

Để có thể duy trì và phát triển các nguồn bên trong của động cơ học tập, trước hết, GV cần

- Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản:

+ Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.

+ Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.

- Giúp học sinh xác định được mục đích, giá trị của học tập:

+ Giúp học sinh phải xác định được, sau quá trình miệt mài đèn sách, chúng sẽ được những cái gì? Cụ thể
như học xong một môn học, học sinh sẽ lĩnh hội được những cái gì và nếu không học thì chúng sẽ không
có những cái gì? Ngay từ những buổi đầu gặp mặt học sinh, giáo viên cần khảo sát mục tiêu học tập, cho
học sinh biết mục tiêu học tập và phác họa cho học sinh thấy nội dung cần học để đạt được mục tiêu ấy.

+ Tạo ra sự liên quan giữa việc học với nhu cầu của người học, giúp học sinh phát triển kế hoạch học tập.
Giải thích mối liên quan giữa học tập hiện tại và học tập sau này, tầm quan trọng của việc học tập đối với
nghề nghiệp, cuộc sống tương lai.

- Xây dựng cho học sinh niềm tin và những kì vọng tích cực về học tập:

+ Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.

+ Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.

+ Cho học sinh thấy được rằng năng lực học thuật có thể được nâng cao.

+ Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.


- Tăng hứng thú học tập cho học sinh

+ Chuẩn bị giáo án thật tốt, các phương tiện dạy học phải hấp dẫn như lời nói uyển chuyển, lôi cuốn,
hình ảnh trực quan sinh động....

+ Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh

GV cần biết cách đánh vào mâu thuẫn “cái chưa biết” và “cái phải biết”, nghĩa là đặt ra các tình huống có
vấn đề để học sinh bị kích thích mà mày mò, khám phá tìm câu trả lời.

VD: Những bài toán thực tế thường được đưa ra cho học sinh khi chuyển sang vấn đề nghiên cứu vấn đề
mới, làm cho học sinh ít suy nghĩ căng thẳng, nhờ đó rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo, vận dụng vào
thực tế cuộc sống của học sinh. Học như vậy sẽ hào hứng vì học sinh cảm thấy niềm vui của nhận thứ và
của hoạt động sáng tạo.

Tuy nhiên vấn đề đưa ra phải vừa sức với khả năng nhận thức của học sinh, GV cần chú ý giao những bài
tập có thử thách nhưng không quá khó, và phải tạo ra một hệ thống những nhiệm vụ tăng dần.

+ Tăng cường tích cực hóa trong hoạt động học tập, làm cho bài học trở thành “niềm vui”, không nhàm
chán bằng cách sử dụng biện pháp mới lạ và khác thường.

Ví dụ như: tạo và duy trì không khí dạy học thoải mái trong lớp, xây dựng động cơ hứng thú học tập cho
học sinh, giải phóng sự lo sợ của học sinh. Giáo viên có thể đan cài các trò chơi trong quá trình học hoặc
tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt động thực hành ngoài trời,....

– Giúp học sinh tập trung vào bài tập:

+ Cho học sinh cơ hội thường xuyên trả lời.

+ Cung cấp cơ hội cho học sinh để có thể tạo ra một sản phẩm cuối cùng nào đó.

+ Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.

+ Dạy những chiến thuật, kĩ thuật, những mẹo nhỏ hữu ích khi học tập.

2. Các biện pháp kích thích từ bên ngoài:

- Khen ngợi, khen thưởng những hành vi đẹp, kết quả học tập tốt, sự tiến bộ đáng kể… bằng những lời
khen, điểm thưởng, tiền thưởng, bằng cấp, các danh hiệu thi đua.... Đó sẽ là là một niềm động lực to lớn
để học sinh cố gắng nỗ lực trong những lần sau, là động lực phấn đấu của các những học sinh khác.

Tuy nhiên khi khen ngợi, khen thưởng, GV cần chú ý

+ Quy sự thành công của học sinh vào sự cố gắng nỗ lực và khả năng của học sinh để tạo sự tin tưởng và
lặp lại thành tích (Không nói tới thành công do may mắn, do người ngoài hay do tài liệu dễ). Hướng chú ý
của học sinh vào sự tiến bộ của mình chứ không so sánh với người khác

+ Thể hiện thái độ ân cần, niềm nở, vui mừng, tôn trọng, đánh giá cao đối với học sinh.

- Có những củng cố tiêu cực, phê bình, trách phạt khi cần thiết để chấm dứt một hành vi không mong đợi
của học sinh.

Chẳng hạn như trừng phạt bằng sự chán ngấy: một học sinh hay nói bậy, giáo viên có thể yêu cầu em đó
viết tới 50 hoặc 100 lần câu nói đó, cho tới khi chán ngấy mới thôi.

Tuy nhiên, cần lưu ý: nói chung, sự trừng phạt mang lại hiệu quả thấp hơn so với khen thưởng. GV cần
lưu ý:

+ Cố gắng sử dụng củng cố tiêu cực hơn là trừng phạt.


+ Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học sinh khi nào thật đáng trách

+ Điều chỉnh sự trừng phạt so với mức độ vi phạm của học sinh.

+ Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học sinh trước tập thể và trước người khác, nhất là đối với học
sinh lớn tuổi.

+ Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị, phải giữ sự tôn trọng đối với học sinh.

+ Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc khác vào.

+ Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học sinh có niềm tin và cố gắng sửa.

+ Kiên quyết trong hành vi trừng phạt đã được đưa ra.

- Duy trì một tập thể lớp vui vẻ, lành mạnh cũng có thể là những khuyến khích bên ngoài cho hoạt
động học tập.

- Tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân trong một tập thể hoặc tạo những áp lực vừa đủ để
học sinh cố gắng.

Câu 4:Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông

Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lí luận dạy học, chỉ đạo toàn bộ tiến
trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy học. Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở
trường phổ thông bao gồm:

- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục;

- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn;

- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự (tính kế thừa, đảm bảo mối liên hệ lô-gic);

- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính cụ thể và tính trừu tượng;

- Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc của tri thức và sự phát triển năng lực nhận thức của học sinh;

- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và tính vừa sức riêng; - Nguyên tắc đảm bảo
sự thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học;

- Nguyên tắc đảm bảo xúc cảm, tình cảm tích cực của dạy học;

- Nguyên tắc đảm bảo chuyển dần quá trình dạy học sang quá trình tự học.

Như vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên với tư cách là chủ thể của hoạt động dạy luôn giữ vai trò chủ
đạo, học sinh với tư cách là chủ thể của hoạt động học luôn có giữ vai trò chủ động. Sự tương tác giữa hai
chủ thể này trong quá trình dạy học đảm bảo cho sự tồn tại của quá trình dạy học.

Mặt khác, để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông cần có đầy đủ các thành tố khác
cùng tham gia trong sự tương thích với nhau, bao gồm: mục tiêu, nhiệm vụ dạy học; nội dung, phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, môi trường dạy học.

Bản chất và đặc điểm của quá trình dạy học ngày nay cùng với các nguyên tắc dạy học giúp cho giáo
viên tổ chức có hiệu quả hoạt động học tập cho học sinh. Động lực và logic của quá trình dạy học là cơ sở
khoa học cho sự vận động và phát triển của quá trình dạy học.
Câu 5. Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học

Khái niệm mục tiêu dạy học

Mục tiêu dạy học là kết quả về sự phát triển nhân cách của người học cần đạt được sau khi kết thúc một
giai đoạn hay một quá trình dạy học. Mục tiêu dạy học của quá trình dạy học hiện đại luôn hướng tới
những công việc hay những hành động mà người học có thể làm được sau khi kết thúc khóa học, năm
học, học kỳ hay một môn học.

Chức năng của mục tiêu dạy học

- Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết kế nội dung dạy học, lựa chọn
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt
động dạy học. Còn học sinh, trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành vi điều chỉnh
hoạt động học tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học.

- Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo mà giáo viên căn cứ vào đó để
đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học của bản thân.

Câu 6: Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông.

* Khái niệm nội dung dạy học:


Nội dung dạy học ở nhà trường phổ thông là hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về nhiều
lĩnh vực ở trình độ phổ thông mà học sinh cần nắm vững trong suốt thời gian học phổ thông và hệ thống
những hoạt động được tổ chức trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo hình thành ở người học thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học và những phẩm chất nhân cách của con người mới, chuẩn bị cho các em
bước vào cuộc sống, vào lao động sản xuất.

* Cấu trúc của nội dung dạy học: 2 thành phần chính
Thành phần thứ nhất: Hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
Đây là thành tố cơ bản có ý nghĩa định hướng cho các thành tố khác của nội dung dạy học. Những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo này được lựa chọn trong kho tàng tri thức nhân loại phong phú và đa dạng đã được
lịch sử xã hội tích lũy, bảo tồn và phát triển từ đời này qua đời khác dưới dạng nền văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần.
Thành phần thứ hai: Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của
người học, bao gồm:
+ Các hoạt động và chủ thể hoạt động;
+ Môi trường và động lực dạy – học;
+ Các nguồn lực vật chất của dạy – học;
+ Sản phẩm của dạy học.

Câu 7: Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học.

Nội dung dạy học có 4 thành phần, được cụ thể hóa như sau:
- Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật, phương
pháp…). Sự lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ
để hình thành thế giới quan khoa học.
- Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (kĩ năng, kĩ xảo chung và
chuyên biệt, phương pháp, quy trình…). Nắm vững yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để
giải quyết vấn đề cụ thể.
- Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương
pháp và các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố này
mà học sinh có năng lực giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học.
- Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người. Thành phần
này thể hiện tính giáo dục của nội dung dạy học. Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các
quan hệ theo những chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình
thành hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học:
Bốn thành phần trên của nội dung dạy học liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau:

- Tri thức là cơ sở hình thành KN, KX.


- Tri thức và KN, KX lại là cơ sở để tạo ra kinh nghiệm hoạt động sáng tạo. → Không có tri thức
thì không thể có KN, KX và cũng không thể có hoạt động sáng tạo. Bởi hoạt động sáng tạo bắt
nguồn từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi, chỉnh sửa thích hợp.
- Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ thuận với khối lượng tri thức mà phụ thuộc
vào cách thức lĩnh hội và vận dụng tri thức đó. → Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo
lại tạo điều kịện để lĩnh hội tri thức, KN, KX nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn.
- Nắm vững các thành phần trên giúp học sinh có thái độ đánh giá đúng đắn với TN, XH và con
người. Còn thái độ tác động trở lại tạo ra sự tích cực hay không tích cực trong việc lĩnh hội TT,
KN, KX và hoạt động sáng tạo.

 Bốn thành phần này không thể thiếu trong NDDH để giáo dục nên con người phát triển toàn diện,
cho nên không được coi nhẹ bất cứ thành phần nào.
Câu 8: Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học.
Các phương pháp truyền thống và hiện đại trình bày dưới đây là những phương pháp dạy học cụ thể
thuộc cấp độ 2 của phương pháp dạy học.
• Các phương pháp dạy học truyền thống:
a) Phương pháp thuyết trình:
Thuyết trình là phương pháp giáo viên dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ để trình bày, giải thích nội
dung bài dạy một cách có hệ thống, lôgíc. Đây là phương pháp được sử dụng lâu đời nhất trong
dạy học và có thể được vận dụng trong hầu hết các khâu của quá trình dạy học. Nguồn thông tin
phong phú trong thời đại CNTT không làm giảm ý nghĩa của thuyết trình, mà ngược lại, càng
nâng cao yêu cầu đối với thuyết trình. Các dạng thuyết trình phổ biến:
- Giảng thuật là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên tường thuật lại các sự kiện, hiện tượng một
cách có hệ thống, thường được sử dụng trong các môn khoa học xã hội (lịch sử, ngữ văn, địa lí..),
có yếu tố mô tả và trần thuật.
- Giải giải là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên dùng những luận cứ, số liệu để chứng minh,
làm sáng tỏ vấn đề, giúp học sinh hiểu được tri thức cần lĩnh hội.
- Giảng diễn là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên trình bày một cách có hệ thống nội dung học
tập nhất định. Hình thức này được sử dụng phổ biến ở các lớp cuối cấp trung học phổ thông và các
trường đại học.
b) Phương pháp vấn đáp (hỏi đáp):
- Trong quá trình dạy học, giáo viên thường sử dụng hệ thống các câu hỏi để tích cực hoá hoạt
động nhận thức; khai thác kinh nghiệm thực tiễn và bồi dưỡng cho học sinh năng lực giao tiếp
bằng lời. Ở chiều ngược lại, học sinh cũng có thể chủ động đưa ra các câu hỏi cho giáo viên nhằm
biết rộng hơn, hiểu sâu sắc hơn nội dung học tập.
- Phương pháp vấn đáp nếu vận dụng khéo léo sẽ giúp giáo viên nhanh chóng thu được tín
hiệu ngược (phản hồi) từ học sinh để điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy học, đồng thời tạo không
khí sôi nổi. Tuy nhiên, nếu vận dụng không khéo, sẽ làm mất thời gian hoặc giảm hiệu quả của
cuộc đối thoại.
C ) Phương pháp sử dụng sách giáo khoa, tài liệu, phiếu học tập (học liệu):
- Sách giáo khoa, tài liệu học tập trên giấy in hoặc dưới dạng số (sách điện tử, sách nói, sách
tương tác, website giáo dục uy tín) có ý nghĩa lớn vì nó là nguồn tri thức phong phú, được kiểm
định và trình bày một cách khoa học, hệ thống và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh. Giáo
viên có thể tổ chức các hoạt động dạy học xoay quanh việc khai thác học liệu như:
- Yêu cầu học sinh tự học một phần sách giáo khoa, tài liệu học tập.
- Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa (tài liệu đọc), phiếu học tập (đọc và viết theo mẫu)
để thực hiện các nhiệm vụ học tập tự lực và vừa sức.
Để phát huy hiệu quả phương pháp này, giáo viên cần lưu ý rèn luyện cho học sinh kĩ năng
đọc hiệu quả (đọc lướt, tìm ý chính; đọc một phần để khai thác thông tin) và viết hiệu quả (tốc kí,
ghi tóm tắt, viết câu đầy đủ; lập dàn ý, diễn đạt ý bằng văn bản).
d) Phương pháp dạy học trực quan:
Trực quan (quan sát trực tiếp) là phương pháp tổ chức cho học sinh tri giác một cách có
chủ định, có kế hoạch nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những biểu tượng ban đầu. Học
sinh có thể quan sát các sự vật, hiện tượng sinh động trong tự nhiên hoặc được minh hoạ, biểu
diễn bởi giáo viên. Sự quan sát gắn với tư duy sẽ giúp học sinh hình thành năng lực nhận thức, đặc
biệt là năng lực quan sát.
Để sử dụng phương pháp trực quan trong lớp học, giáo viên sử dụng thí nghiệm, vật thật,
mô hình, tranh ảnh, máy chiếu đa phương tiện và các phương tiện trực quan khác để minh hoạ,
biểu diễn các hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy. Qua đó, tạo hứng thú, kích
thích tư duy, giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu.
e) Phương pháp dạy học thực hành:
Vận dụng phương pháp thực hành, giáo viên tổ chức hoạt động của học sinh với thiết bị, phương
tiện, dụng cụ trên lớp, trong phòng thí nghiệm, vườn trường, ở ngoài thiên nhiên…nhằm:
- luyện tập, rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo,
- thực nghiệm, hình thành kiến thức,
- thực hành chế tạo sản phẩm thông qua vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học,
Qua đó, bồi dưỡng phẩm chất của nhà khoa học, kĩ sư tương lai như trung thực, chính xác và kỉ
luật.
Các nhiệm vụ thực hành cần gắn với lí thuyết, có mục đích, yêu cầu cần đạt rõ ràng, đảm bảo
vừa sức. Hệ thống nhiệm vụ cần hình thành và phát triển ở học sinh năng lực thực hiện những
hành động nhất định trong những hoàn cảnh khác nhau từ đơn giản đến phức tạp, từ tái tạo đến
sáng tạo.
• Các phương pháp dạy học hiện đại:
Yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông đặt ra nhiệm vụ với giáo viên trong việc phát huy tính
tích cực học tập của học sinh với các đặc trưng cơ bản sau:
- Học sinh là chủ thể của hoạt động học. Hoạt động học là trung tâm của tiến trình dạy học. Giáo
viên không thông báo kiến thức có sẵn mà đưa ra những tình huống, nhiệm vụ học tập cụ thể;
khuyến khích học sinh tham gia quá trình nhận thức tự lực, sáng tạo thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
- Giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức học sinh tự tìm hiểu, khám phá tri thức; luyện tập, vận
dụng kiến thức, kĩ năng.
- Giáo viên là người tổ chức các mối quan hệ thầy – trò, trò – trò và trò – nội dung học tập (bao
gồm cả SGK, tài liệu và phương tiện dạy học).
- Giáo viên là trọng tài khoa học, đưa ra những kết luận sau khi học sinh trình bày, thảo luận và
kiểm tra, đánh giá hoạt động học trên cơ sở học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau (đánh giá
đồng đẳng).
Dưới đây là một số phương pháp dạy học hiện đại có thể vận dụng trong bối cảnh đổi mới giáo
dục Việt Nam hiện nay.
a) Dạy học nêu và giải quyết vấn đề:
Bản chất của dạy học nêu và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình huống có vấn
đề hấp dẫn, vừa sức và điều khiển học sinh giải quyết các vấn đề học tập đó thông qua thực hiện
các nhiệm vụ học tập. Tình huống có vấn đề là tình huống khó khăn mà học sinh bằng tri thức đã
có, với cách thức đã biết nỗ lực giải quyết nhưng không thể đạt kết quả. Lúc này xuất hiện mâu
thuẫn nhận thức giữa điều đã biết và điều chưa biết nhưng muốn biết. Kết quả giải quyết vấn đề,
mâu thuẫn đặt ra là tri thức mới, cách làm mới đối với chủ thể nhận thức - ở đây là học sinh.
Dạy học nêu và giải quyết vấn đề có các mức độ khác nhau như sau:
– Trình bày có tính chất vấn đề (thuyết trình nêu vấn đề). Giáo viên nêu vấn đề và chủ động giải
quyết vấn đề đó; chỉ ra con đường giải quyết những mâu thuẫn. Học sinh kiểm tra tính đúng đắn,
phù hợp của tiến trình giải quyết vấn đề.
– Tìm tòi bộ phận – Ơristic. Giáo viên nêu vấn đề và dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên,
học sinh thực hiện từng phần, từng bước trong tiến trình giải quyết vấn đề do giáo viên đặt ra
(inquiry-based learning).
- Tìm tòi toàn phần. Giáo viên nêu vấn đề; học sinh chủ động đề xuất và thực hiện giải pháp giải
quyết vấn đề (problem solving) dưới sự hỗ trợ của giáo viên khi cần.
– Tự lực nghiên cứu. Giáo viên chỉ đưa ra tình huống có vấn đề; học sinh sau khi tìm hiểu đã xác
định được vấn đề; sau đó, tự lực giải quyết. Trong quá trình học tập, đôi khi học sinh tự phát hiện
ra tình huống có vấn đề mới và giải quyết vấn đề mới nảy sinh đó.
b) Phương pháp dạy học qua trò chơi, đóng kịch:
Trò chơi là hình thức phản ánh hiện thực khách quan qua hoạt động của trẻ em với sự đan
xen của những yếu tố tưởng tượng. Trò chơi có thể được sử dụng nhằm mục đích dạy học. Ví dụ,
giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi để:
- tạo hứng thú, liên kết với kiến thức đã biết;
- hình thành kiến thức qua trải nghiệm (học đếm, làm phép tính cộng trừ,…);
- củng cố, vận dụng kiến thức, kĩ năng một cách nhẹ nhàng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh.
Đóng kịch là phương thức trải nghiệm trong dạy học các môn học như ngữ văn, lịch sử, giáo dục
công dân…Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tham gia xây dựng và thực hiện kịch bản,
qua đó hiểu sâu sắc hơn các nội dung học tập.
c) Phương pháp thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học theo nhóm, trong đó học sinh hợp tác trong nhóm
nhỏ để cùng thực hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một thời gian nhất định. Trong nhóm, dưới sự
chỉ đạo của nhóm trưởng, học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân, làm việc theo cặp, chia sẻ kinh
nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao. Qua đó, mỗi học sinh đạt được sự
hiểu biết sâu rộng, đồng thời phát huy tính tự lực và hợp tác trong học tập.
d) Phương pháp dạy học dựa trên tình huống:
Dạy học dựa trên tình huống là phương pháp dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức dựa
trên những tình huống gắn với cuộc sống thường ngày hoặc thực tiễn lao động, sản xuất. Hoạt
động học của học sinh lúc này gần giống như hoạt động của nhà khoa học, kĩ sư tự lực tìm tòi,
khám giá kiến thức mới; xây dựng, thử nghiệm giải pháp mới cho tình huống đặt ra.
Tình huống thực tiễn cần có tính chất điển hình, hàm chứa nội dung học tập (tri thức khái
quát), hấp dẫn học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học hoặc phải cấu trúc, liên kết chúng lại
để giải quyết vấn đề.
e) Phương pháp dạy học theo dự án:
Trong dạy học ở đại học và các lớp cuối THPT, giáo viên có thể dạy học một số chủ đề thông
qua hướng dẫn học sinh thiết kế, thực hiện dự án học tập. Phương pháp dạy học theo dự án có các
đặc điểm sau:
– Định hướng học sinh: Học sinh được tham gia vào các giai đoạn của quá trình dạy học, kể cả
giai đoạn xác định chủ đề dự án; vai trò của giáo viên là định hướng cho họ.
– Định hướng hành động: Học sinh thực hiện các nhiệm vụ giàu tính thực hành. Lao động trí óc và
chân tay, tư duy và hành động, lí thuyết và thực tiễn kết hợp chặt chẽ với nhau.
– Định hướng sản phẩm : Kết quả của dự án là sản phẩm mang tính chất vật chất hoặc hành động.
– Định hướng hợp tác: Học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm; mỗi nhóm giải quyết các vấn đề
cụ thể, góp phần giải quyết vấn đề chung của dự án của cả lớp.
Trong thực tiễn dạy học, các phương pháp dạy học cần được sử dụng kết hợp với nhau, thể
hiện sự tác động thống nhất giữa giáo viên và học sinh. Sự phân biệt rạch ròi giữa phương pháp
“truyền thống” và “hiện đại” không thực sự cần thiết; quan trọng hơn cả là hiệu quả của việc phối
hợp phương pháp dạy học – thể hiện ở việc học sinh đạt được các mục tiêu đặt ra đối với bài học.
• Các kĩ thuật dạy học:
Mỗi phương pháp dạy học cụ thể muốn vận hành được phải dựa vào các kĩ thuật và phương
tiện dạy học. Tương ứng với các phương pháp dạy học tích cực sẽ có các kĩ thuật dạy học tích cực
để vận hành chúng. Các kĩ thuật dạy học tích cực rất phong phú, có thể phân loại thành các nhóm
như sau:
- Nhóm kĩ thuật công não: Kĩ thuật công não, kĩ thuật 5W1H, kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật XYZ,
kĩ thuật tia chớp...
- Nhóm kĩ thuật hợp tác: kĩ thuật khăn phủ bàn, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật ổ bi, kĩ thuật đắp
bông tuyết...
- Nhóm kĩ thuật phản hồi: kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật bắn bia, kĩ thuật bể cá, kĩ thuật 3 lần 3...
- Nhóm kĩ thuật đặt câu hỏi: câu hỏi đóng/mở, câu hỏi theo cấp độ nhận thức.
Tuy nhiên, cách phân loại trên không hoàn toàn đơn giá; trong kĩ thuật dạy học thuộc nhóm này
có thể thấy các yếu tố của kĩ thuật dạy học thuộc nhóm khác.
Câu 9: Phương tiện tiện dạy học và vai trò của nó.
Phương tiện dạy học
Khái niệm
Phương tiện dạy học là các thiết bị, dụng cụ, phần mềm ứng dụng CNTT…mà giáo viên sử dụng để
biểu diễn, minh hoạ nội dung dạy học hoặc để tổ chức hoạt động thực hành, thí nghiệm, chế tạo của
học sinh, qua đó nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển
thì vai trò và yêu cầu đối với phương tiện dạy học càng cao. Việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy
học cần phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và từng đối tượng học sinh.
VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG TIỆN TRONG GIÁO DỤC
Vai trò của phương tiện trong việc dạy

Phương tiện dạy học đóng nhiều vai trò trong quá trình dạy học. Các phương tiện dạy học thay thế cho
những sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp
cận trực tiếp được.

Chúng giúp cho thầy giáo phát huy tất cả các giác quan của học sinh trong quá trình truyền thụ kiến thức,
do đó giúp cho học sinh nhận biết được quan hệ giữa các hiện tượng và tái hiện được những khái niệm,
quy luật làm cơ sở cho việc đúc rút kinh nghiệm và áp dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất.

Vai trò của phương tiện trong việc học

Phương tiện dạy học cũng được sử dụng có hiệu quả trong các trường hợp dạy học chính quy không có
thầy giáo hay dùng để học nhóm.

Trong giáo dục không chính quy (đào tạo từ xa), các phương tiện như video cassette và các phần mềm
của máy vi tính được các học viên sử dụng để tự học tại chỗ làm việc hay nhà riêng.

Việc học theo nhóm trên lớp có liên quan chặt chẽ với việc tự học. Các học sinh học tập cùng nhau trong
một nhóm hay kết hợp với thầy giáo trong một đề án họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong học tập.

Các công nghệ dạy học mới như phương tiện đa năng khuyến khích học sinh tin tưởng vào khả năng nhận
thức của bản thân trong học tâp. Sử dụng các tài liệu tự học tạo cho thầy giáo có nhiều thời gian để chẩn
đoán và sửa chữa các sai sót của học sinh, khuyên bảo các cá nhân hay dạy kèm một người hay một nhóm
nhỏ
Thời gian mà thầy giáo có được để làm các hoạt động như vậy phụ thuộc vào chức năng giáo dục được
giao cho các phương tiện dạy học. Trong một vài trường hợp , nhiệm vụ dạy học hoàn toàn có thể giao
cho phương tiện dạy học.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học


Hiện nay, CNTT là một lĩnh vực phát triển nhanh và đạt được những thành tựu to lớn, là động
lực của quá trình chuyển đổi số trong hầu hết các ngành nghề, trong đó có ngành giáo dục. Ứng dụng
CNTT không chỉ giải phóng sức lao động của giáo viên, nâng cao hiệu quả dạy học trên lớp mà còn
mở rộng không gian, thời gian học tập; làm cho việc học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời trở nên khả
thi.
a) Các ứng dụng CNTT giúp giáo viên thực hiện các công việc chuyên môn hàng ngày dễ dàng,
nhanh chóng và chính xác hơn. Ngày nay, máy tính lưu trữ được một lượng dữ liệu ngày càng lớn;
các máy tính kết nối với nhau tạo thành các mạng thông tin khổng lồ (internet). Giáo viên có thể sử
dụng các nền tảng, phần mềm CNTT như Google, Youtube, Google Drive/One Drive (kho dữ liệu
đám mây), Microsoft Word, Excel, Onenote, Camscaner…để truy cập, chia sẻ và xử lí thông tin; xây
dựng và quản lí hồ sơ chuyên môn, hồ sơ dạy học dưới dạng số. Giáo viên cũng có thể sử dụng các
phần mềm như eBIB Teachers, McMIX, BingClass, Tnmaker…để tạo, trộn đề thi trắc nghiệm khách
quan.
b) Việc ứng dụng CNTT trong dạy học sẽ khiến máy tính trở thành một công cụ
hỗ trợ đắc lực cho quá trình dạy học, cụ thể là:

- Tăng cường khả năng biểu diễn thông tin. Máy tính có thể cung cấp thông tin dưới dạng văn
bản, đồ thị, hình ảnh, âm thanh..., giúp trực quan hoá tài liệu dạy học. Giáo viên có thể sử dụng các
phần mềm như PowerPoint, Sway, Prezi để xây dựng bài trình chiếu đa phương tiện trên lớp. Học
sinh có thể sử dụng phần mềm như Edraw Mindmap, Mindjet Mind manager, Coggle để tạo sơ đồ tư
duy.
- Tăng cường khả năng thực hiện trong một khối thống nhất các quá trình thông tin, giao lưu
và điều khiển trong dạy học: Dưới góc độ điều khiển học thì quá trình dạy học là một quá trình điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Với một chương trình phù hợp, ví dụ: hệ thống quản lí học tập
trên không gian mạng (Learning Management System - LMS), máy tính có thể điều khiển được hoạt
động nhận thức của học sinh thông qua việc cung cấp thông tin, thu nhận thông tin ngược, xử lí thông
tin và đưa ra các giải pháp cần thiết giúp hoạt động nhận thức của học sinh đạt kết quả cao; mặt khác
mở ra cơ hội học tập thường xuyên, liên tục, tại chỗ. Ví dụ, Trường ĐHSP Hà Nội triển khai đào tạo
một số học phần, chuyên đề qua LMS tại http://fitel.hnue.edu.vn (đối với đào tạo chính quy) và tại
http://cpd.hnue.edu.vn (đối với bồi dưỡng thường xuyên giáo viên); hỗ trợ trường phổ thông tổ chức
dạy học qua mạng LMS tại https://olm.vn/.
Giáo viên cũng có thể sử dụng các nền tảng CNTT như Mentimeter, Kahoot, Quizizz, Quizlet,
Socrative, Padlet…(trắc nghiệm trực tuyến, lấy phản hồi tức thì) để tạo môi trường dạy học tương tác,
hấp dẫn ngay trên lớp học. Đây chính là thời điểm mà học sinh nên được phép sử dụng điện thoại
thông minh trong giờ học.
- Đảm bảo tính lặp lại một cách hiệu quả trong dạy học: Khác với giáo viên, máy tính có thể
lưu trữ một thông tin nào đó, cung cấp và lặp lại nó cho đến khi học sinh đạt được mục tiêu sư phạm
cần thiết. Trên cơ sở này, sự phát triển của từng cá thể học sinh trong quá trình dạy học trở thành hiện
thực.
- Tăng cường khả năng mô hình hoá các đối tượng: Trong dạy học, có nhiều quá trình, hiện
tượng, quy luật khó có thể minh hoạ, biểu diễn bằng các thiết bị dạy học thông thường; ví dụ: phản
ứng hạt nhân, nguyên lí hoạt động của động cơ, quá trình diễn ra trong cơ thể người, cây cối...trong
khi đó, máy tính có thể mô hình hoá dưới dạng các phần mềm mô phỏng.
c) Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể hỗ trợ cho nhiều hình thức học tập khác
nhau như học trực tiếp (face to face), học trực tuyến (online learning); học qua mạng (e-learning)...đáp
ứng được nhu cầu học tập đa dạng của học sinh và các đối tượng người học khác (sinh viên, giáo
viên, người đi làm…).
Ứng dụng CNTT trong dạy học dẫn đến việc giao cho máy tính thực hiện một số chức năng của
người thầy giáo ở những khâu khác nhau của quá trình dạy học. Cách dạy này có nhiều ưu điểm về mặt
sư phạm như khuyến khích học sinh làm việc độc lập, đảm bảo mối liên hệ ngược và cá biệt hoá quá
trình học tập. Ví dụ, giáo viên có thể kết
hợp việc học qua LMS (Moodle, Google Classroom, ClassDojo, Edmodo, MS Teams…), học trực
tuyến (Zoom, Hangouts Meet, Free Conference Call, Skype, Zalo, MS Teams…) với việc học trực tiếp
trên lớp để tạo môi trường học tập hấp dẫn, linh hoạt và hiệu quả trong thời đại chuyển đổi số trong
giáo dục. Để xây dựng học liệu số cho môi trường học tập này, giáo viên có sử dụng các phần mềm
như Movie Maker, Camtasia (biên tập Video); Google Form, iSpring, Survey Monkey (tạo bài kiểm
tra trực tuyến); Violet, Lectora, iSpring (tạo và đóng góp bài giảng điện tử).

Câu 10. Mối quan hệ của phương tiện dạy học với các yếu tố của quá trình dạy học

• Quan hệ của PTDH với mục đích dạy học:


- Mục đích được coi như biểu tượng cần đạt được của quá trình hoạt động mà chủ thể đã định trước.
Nó là cơ sở định hướng đúng cho việc thực hiện nội dung, phương pháp, tìm kiếm phương tiện
hoạt động của chủ thể.
- Mục đích dạy học là cơ sở để chủ thể tiến hành định hướng cho việc lựa chọn phương tiện dạy
học. Tính chất và đặc trưng của mục đích dạy học sẽ quy định tính chất đặc thù của việc lựa chọn
và sử dụng phương tiện dạy học của chủ thể trong quá trình dạy học.
- Mục đích và PTDH luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình vươn lên chiếm lĩnh
đối tượng học tập, có sự chuyển hóa giữa chúng. Bản thân các mục đích bộ phận một khi đã được
thực hiện sẽ trở thành phương tiện cho viện thực hiện mục đích bộ phân tiếp theo. Mặt khác, khi
chủ thể biết cách tìm kiếm để hội đủ các phương tiện cho hoạt động thì mục đích của nó mới trở
thành hiện thực.
• Quan hệ của PTDH với nội dung dạy học
- Mỗi nội dung dạy học cụ thể cần đến các phương pháp cũng như các PTDH đặc thù khác nhau để
giúp thầy chuyển tải và trò lĩnh hội. Việc học sinh nắm vững chắc nội dung dạy học cụ thể sẽ phụ
thuộc vào việc lựa chọn và vận dụng một cách phù hợp có hiệu quả phương tiện dạy học tương
ứng của người giáo viên.
- Nói chung, các phương tiện kỹ thuật có thể được vận dụng vào để tổ chức dạy học cho nhiều nội
dung dạy học khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, người giáo viên biết cách tiến hành khai thác phương
tiện trong phạm vi nội dung cụ thể. Ngược lại, PTDH cũng có tác dụng chi phối sự giảng dạy nội
dung dạy học tương ứng .
- Có những loại PTDH chỉ thích hợp với những chuyển tải chính những nội dung dạy học xác định.
Việc lựa chọn đúng các PTDH cho phù hợp với nội dung dạy học tương ứng sẽ làm tăng hiệu quả
chuyển tải chính nội dung dạy học đó.
- Người giáo viên cần am hiểu mối quan hệ này để có sự sáng tạo và tích cực trong việc tìm chọn và
vận dụng hợp lý các PTDH trong quá trình giảng dạy ở trên lớp.
• Quan hệ của PTDH với phương pháp dạy học
- Giữa phương pháp và phương tiện cũng có mối quan hệ qua lại tương hỗ nhau. Phương tiện hỗ trợ
cho việc thực hiện các tác động của phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học khi đã được xác
định sẽ cần tới sự trợ giúp của các phương tiện dạy học thích hợp, ứng với nội dung dạy học nhất
định.
- Để làm tăng hiệu quả vận dụng phương pháp dạy học, người ta căn cứ vào thực tiễn mà nỗ lực tư
duy nhằm tìm kiếm cho bằng được các PTDH sẵn có để tiến hành thực hiện các nhiệm vụ dạy
học. Sự lựa chọn được các phương tiện phù hợp sẽ đem lại hiệu quả tối ưu của sự vận dụng
phương pháp dạy học trong quá trình dạy học cụ thể của mỗi một giáo viên.
• Quan hệ của PTDH với hình thức dạy học
- Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ những cách thức tổ chức hoạt động của giáo viên và người
học trong quá trình dạy học ở thời gian và địa điểm nhất định với những phương pháp, phương
tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
- Hình thức tổ chức dạy học giúp ta xác định được QTDH cụ thể sẽ được thực hiện ở đâu?, quy mô
như thế nào?, thành phần học sinh tham gia ra sao?.
- Hình thức tổ chức dạy học có quan hệ chặt chẽ với mục đích, nội dung, phương pháp và phương
tiện dạy học
Câu 11: Các đặc điểm của cơ chế học tập theo các lí thuyết học tập và việc vận dụng các lí thuyết dạy
học trong môn học mình sẽ đảm nhận.
1. Thuyết hành vi: Học là sự thay đổi hành vi
- Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trưng có thể quan sát được.
- Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các bước học tập đơn giản, trong đó
bao gồm các hành vi cụ thể.
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn, tức là tổ chức việc học tập
sao cho học sinh đạt được hành vi mong muốn và sẽ được phản hồi trực tiếp (khen thưởng và công
nhận).
- Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm soát
tiến độ học tập và điều chỉnh kịp thời những sai lầm.

-Thuyết hành vi được ứng dụng đặc biệt trong dạy học chương trình toán học, dạy học bằng máy vi
tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện thao tác. Trong đó nguyên tắc quan trọng là
phân chia nội dung học tập thành những đơn vị kiến thức nhỏ, tổ chức cho học lĩnh hội tri thức, kĩ
năng theo một trình tự và thường xuyên kiểm tra kết q..uả đầu ra để điều chỉnh quá trình học tập.
Ví dụ minh họa
-Khi dạy về phần “Cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng bằng
electron" Giáo viên chia việc “cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng bằng
electron thành nhiều bước sau đó yêu cầu học sinh làm từng bước nhỏ rồi tổng hợp các bước nhỏ
lại để cân bằng được một phản ứng oxi hóa khử
-Cụ thể:
Bước 1: Xác định số oxi hóa của các nguyên tố trong các chất tham gia và chất sản
phẩm của nhiều phương trình phản ứng oxi hóa khử khác nhau để học sinh thành thạo việc xác
định số oxi hóa. Nếu học sinh xác định sai giáo viên có thể gợi ý điều chỉnh lại cho đúng
Bước 2: Xác định vai trò của các chất trong phương trình (đâu là chất khử đâu là chất
oxi hóa) để học sinh có thể viết đúng được các quá trình oxi hóa và quá trình khử.
(Cho học sinh làm với nhiều phương trình khác nhau)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách thăng bằng electron (Cho học sinh làm với nhiều cặp quá trình
khác nhau)
Bước 4: Hướng dẫn học sinh cách điền hệ số
-Cứ cho học sinh tiến hành thành thạo nhiều bước nhỏ đó để học sinh nắm được các
| bước cân bằng phản ứng oxi hóa khử, từ đó học sinh biết cách cân bằng phản ứng oxi hóa khử
bằng phương pháp thăng bằng electron

2.Thuyết nhận thức: Học là giải quyết vấn đề


- Cơ chế của quá trình hc tập: Coi học tập là quá trình xử lí thông tin
- Mô hình học tập:
Thông tin đầu vào -> học sinh ( quá trình nhận thức giải quyết vấn đề) -> Kết quả đầu ra

- Những đặc điểm cơ bản của học tập theo quan điểm của thuyết Nhận thức là:
- Mục đích của dạy học là tạo ra những khả năng để người học hiểu thế giới thực (kiến thức khách quan).
Vì vậy, để đạt được các mục tiêu học tập, không chỉ kết quả học tập mà quá trình học tập và quá trình tư
duy là điều quan trọng.
- Nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập thuận lợi, thường xuyên khuyến khích các quá
trình tư duy, HS cần được tạo cơ hội hành động và tư duy tích cực.
- Giải quyết vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy. Các quá trình tư duy được
thực hiện không chỉ thông qua các vấn đề nhỏ, đưa ra một cách tuyến tính, mà thông qua việc đưa ra các
nội dung học tập phức hợp.
- Các phương pháp học tập có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của HS. Các phương pháp học
tập gồm tất cả các cách thức làm việc và tư duy mà HS sử dụng để tổ chức và thực hiện quá trình học tập
của mình một cách hiệu quả nhất.
- Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, giúp tăng cường những khả năng về mặt xã
hội.
- Cần có sự kết hợp thích hợp giữa những nội dung do GV truyền đạt và những nhiệm vụ tự lực chiếm
lĩnh và vận dụng tri thức của HS.

Câu 12: Đặc điểm cơ bản của từng loại trí tuệ theo Howard Gardner và phân tích các chiến lược dạy
học tương ứng

Loại trí tuệ theo Đặc điểm cơ bản Chiến lược dạy học
Howard Gardner
Trí tuệ ngôn ngữ Khả năng sử dụng ngôn ngữ hiệu - Khuyến khích trẻ tìm đọc
quả. tài liệu
- Cho trẻ viết báo cáo hoặc
thuyết trình về bài học
- Khuyến khích trẻ kể về
những trải nghiệm thực
tế…
Trí tuệ logic-toán Khả năng sử dụng hiệu quả các con - khuyến khích học sinh làm
học số và lí luận thông thạo. việc như một nhà khoa
học thực thụ thông qua
việc sử dụng logic hoặc
toán học để giải quyết vấn
đề hoặc đưa ra một vài giả
thuyết
- cho học sinh tự khái quát,
tổng hợp kiến thức học
được một cách hệ thống ,
logic ( sơ đồ, biểu đồ..)
Trí tuệ không gian Khả năng tiếp nhận chính xác vị trí, - khuyến khích nhóm học
định hướng không gian qua thị giác. sinh này sử dụng các kí tự
hoặc màu sắc để giúp họ
dễ dàng hiểu rõ được
những gì đã viết ra
- Trình bày bài giảng trên
nền tảng Powerpoint có
thể kết hợp sử dụng các
mô hình trực quan sẽ giúp
Hs dễ tiếp cận với kiến
thức hơn
Trí tuệ thiên nhiên Năng khiếu nắm bắt, nhận dạng, - Tổ chức cho học sinh
phân loại các loài đông đảo trong tham gia các buổi tham
môi trường. quan thực tế, dạy học theo
dự án
- Liên hệ giữa kiến thức
trong bài học với các hiện
tượng trong tụ nhiên để
tạo hứng thú cho học sinh
Trí tuệ nội tâm Khả năng hiểu biết bản thân và hành - Hãy giao cho những học
động một các thích hợp trên cơ sở sự sinh này các bài tập để thử
tự hiểu mình. thách họ làm sao tạo sự
kết nối giữa kinh nghiệm
của bản thân và các môn
học
- viết những bài thu hoạch
hay bài văn dựa trên các
chủ đề cá nhân
Trí tuệ hình thể Biểu hiện sự thành thạo trong việc - Để những học sinh có
sử dụng toàn bộ cơ thể để thể hiện năng khiếu về vận động –
cảm xúc. thể chất biểu diễn một tiểu
phẩm, một bài nhảy, hoặc
dùng các động tác của cơ
thể để mô phỏng một
phương pháp khoa học
-
Trí tuệ giao tiếp Khả năng cảm nhận và phân biệt tậm - Tổ chức các buổi thảo
trạng, ý đồ, động cơ, cảm nghĩ của luận, làm việc nhóm,
người khác. khuyến khích học sinh lên
bảng trình bày về bài
học…
Trí tuệ âm nhạc Là khả năng cảm nhận, phân biệt, - Tổ chức các hoạt động âm
biến đổi và thể hiện các hình thức nhạc sẽ thu hút các bạn có
âm nhạc khuynh hướng về âm nhạc
như: cho họ viết một bản
nhạc rap về môn học hoặc
tạo sự kết nối giữa âm
nhạc và những nội dung
bạn dạy cho học sinh

Câu 13: Khái niệm năng lực. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển năng lực
của học sinh.
- “năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình
học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất
định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”. Như vậy, năng lực là một thuộc
tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ,
kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Khái niệm năng lực gắn liền với khả năng
hành động. Phát triển năng lực là phát triển khả năng hành động.
• Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển năng lực hs:
- Quá trình hình thành và phát triển năng lực của học sinh chịu sự chi phối của các yếu tố
chủ yếu sau:
- Các yếu tố bẩm sinh - di truyền của con người được biểu hiện bằng các tố chất sẵn có và năng
lực được biểu hiện bằng những khả năng sẵn có. Quá trình hình thành và phát triển năng lực có
tiền đề từ các yếu tố này. Cụ thể hơn, các khả năng sẵn có nếu được phát hiện kịp thời và giáo
dục đúng cách thì năng lực mới được phát huy. Nếu không đảm bảo như vậy, mầm mống và các
tố chất của cá nhân có nguy cơ mai một. Do vậy, sự hình thành và phát triển năng lực chịu ảnh
hưởng của yếu tố tiền đề là bẩm sinh - di truyền nhưng KHÔNG do yếu tố này quyết định. 6 -
Hoàn cảnh sống có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển năng
lực của cá nhân. Tuy nhiên, hoàn cảnh sống cũng KHÔNG có vai trò quyết định.
- Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển năng lực của cá nhân.
Giáo dục sẽ định hướng cho sự phát triển năng lực, phát huy các yếu tố bẩm sinh – di truyền,
đồng thời giáo dục cũng khắc phục được một số biểu hiện của phẩm chất chưa phù hợp. Tuy
vậy, giáo dục KHÔNG quyết định mức độ phát triển và xu hướng phát triển của mỗi cá nhân.
- Tự học tập và rèn luyện là yếu tố có vai trò QUYẾT ĐỊNH đến sự hình thành và phát triển
năng lực của học sinh. Như vậy, giáo dục nói chung, giáo dục nhà trường nói riêng có vai trò
chủ đạo đối với sự hình thành, phát triển năng lực. Song song đó, cần quan tâm đến cá nhân mỗi
học sinh, gồm năng khiếu, phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, tiềm lực và nhất là
khả năng hiện có, triển vọng phát triển (theo vùng phát triển gần nhất) của mỗi học sinh… để
thiết kế các hoạt động học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng phát triển năng lực tự chủ, tự học
vì yếu tố “cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát
triển năng lực của mỗi HS. Việc tổ chức các hoạt động học của người học phải là trọng điểm
của quá trình dạy học, giáo dục để đạt được mục tiêu phát triển năng lực học sinh
- Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập
và hoạt động thực hành (ứng dụng những điều đã học để phát hiện và giải quyết những vấn đề
có thực trong đời sống), được thực hiện với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học tối thiểu, chú trọng
khai thác công cụ tin học và các hệ thống tự động hoá của kĩ thuật số. Các hoạt động học tập nói
trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường thông qua một số hình thức chủ yếu
sau: học lí thuyết; thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; tham gia
xêmina, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng đồng. Tùy
theo mục tiêu cụ thể và tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm
việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Tuy nhiên, dù làm việc độc lập, theo nhóm hay
theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều phải được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học
tập và trải nghiệm thực tế.
Câu 14. Các đặc điểm của dạy học phát triển năng lực cho học sinh.

Đặc điểm dạy học phát triển năng lực

Dạy học phát triển năng lực là sự “tích lũy” dần dần các biểu hiện, yếu tố của năng lực người học để
chuyển hóa và góp phần hình thành, phát triển nhân cách. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện
bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, từ chỗ quan
tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh làm được gì qua việc học.

1) Nội dung dạy học: cơ bản, thiết thực, hiện đại


Nội dung dạy học, giáo dục đảm bảo tính cơ bản có nghĩa là nội dung dạy học, giáo dục được chọn lọc
bao gồm các nội dung chính, chủ yếu, tập trung vào các nội dung mang tính bản chất mà không tập trung
vào các nội dung không chính yếu, không phải bản chất của sự vật, hiện tượng. Nội dung dạy học, giáo
dục đảm bảo tính thiết thực có nghĩa là nội dung dạy học, giáo dục trong từng môn học, HĐGD cần sát
thực, phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của thực tế. Nội dung dạy học, giáo dục đảm bảo tính hiện đại
đòi hỏi nội dung dạy học, giáo dục phải mới, tiên tiến, áp dụng được những thành tựu của khoa học, kĩ
thuật trong các lĩnh vực trong thời gian gần đây, nhất là việc vận dụng chúng trong thực tiễn.
NL được coi là sự huy động kiến thức, kĩ năng, niềm tin … để HS thực hiện thành công một loại hoạt
động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Theo đó, dạy học phát triển PC, NL
đặt ra yêu cầu cốt lõi là tập trung vào những gì HS cần có (kiến thức, kĩ năng, niềm tin …) để từ đó họ có
thể “làm” được những việc cụ thể, hữu ích hơn là tập trung vào những gì mà HS biết hoặc không biết. Vì
vậy, các nội dung dạy học cần được chắt lọc, lựa chọn sao cho thật gọn, đắt. Trong đó, các nội dung kiến
thức hàn lâm, giáo điều sẽ gây ra thách thức không cần thiết trong học tập của HS (giảm động cơ học tập,
hứng thú, niềm tin, sự đáp ứng nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực …); đồng thời không tạo điều kiện giúp
HS tiếp cận, giải thích, giải quyết các đòi hỏi sát sườn của đời sống thực tế. Ngược lại, việc chọn lọc, sử
dụng các nội dung cơ bản, trọng tâm sẽ giúp HS có cơ hội và thời gian tập trung phát triển những nền
tảng vững chắc cho các NL cốt lõi.
Cùng với đó, việc giúp HS tiếp cận các nội dung kiến thức thiết thực, hiện đại cùng với phương pháp tư
duy và học tập tích cực chính là nhằm tạo cơ hội giúp HS rèn luyện kĩ năng, từng bước hình thành, phát
triển NL giải quyết các tình huống và vấn đề thực tiễn; từ đó có cơ hội hoà nhập, hội nhập quốc tế để
cùng tồn tại, phát triển … Đây cũng chính là ý nghĩa quan trọng bởi nội dung dạy học mà HS sở hữu sẽ
được vận dụng thích ứng với bối cảnh hiện đại và không ngừng đổi mới
2) Tính tích cực của người học khi tham gia vào hoạt động học tập
Tính tích cực của người học được biểu hiện thông qua hứng thú, sự tự giác học tập, khát vọng thông hiểu,
sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học tập. Đảm bảo tính tích cực của người học khi tham gia vào hoạt động
học tập là đảm bảo để tạo ra hứng thú, sự tự giác học tập, khát khao và sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học
tập của người học. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học phát triển PC, NL.
NL chỉ hình thành khi kiến thức, kĩ năng được chuyển hóa thành hoạt động của một chủ thể nhất định.
Do đó, trong dạy học, GV cần tổ chức các hoạt động học tập để HS tích cực, chủ động huy động kiến
thức, kĩ năng hoàn thành nhiệm vụ học tập hoặc giải quyết những tình huống trong thực tiễn. Mỗi HS có
NL sẽ khác nhau tùy theo cá nhân huy động chúng vào các hoạt động học ở mức độ nào. Điều này phản
ánh rằng cùng một môi trường học tập, những cá nhân khác nhau sẽ có NL khác nhau. Như vậy, trong
dạy học, giáo dục phát triển PC, NL của HS, tính tích cực của HS là một trong những biểu hiện và cũng là
kết quả cần đảm bảo khi tổ chức hoạt động học tập.
3) Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS
Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS chính là việc tổ chức thường xuyên hơn,
đồng thời cũng đầu tư hơn về chất lượng những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS. Thực hành là
hoạt động áp dụng lí thuyết vào thực tế để hình thành kĩ năng ở người học – thành phần quan trọng của
NL. Thực hành là cơ sở để hình thành NL. Trải nghiệm là hoạt động tổ chức cho người học được quan
sát, làm thử, làm thử giả định trong tư duy (dựa trên đặc trưng của thực nghiệm), sau đó, người học phân
tích, suy ngẫm, chiêm nghiệm về việc quan sát, làm qua và kết quả của nó. Quy trình chung của trải
nghiệm tập trung giúp người học hình thành và phát triển các NL chung và các NL đặc thù ứng với từng
chủ đề trải nghiệm cụ thể.
Thông qua các hoạt động thực hành, trải nghiệm, HS có cơ hội để huy động và vận dụng kiến thức, kĩ
năng trong môn học và hoạt động giáo dục để giải quyết các tình huống có thực trong học tập và cuộc
sống, từ đó người học hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực. Tăng cường hoạt động thực hành,
trải nghiệm cho HS là một nguyên tắc không thể thiếu của dạy học, giáo dục phát triển PC, NL đòi hỏi
từng môn học, HĐGD phải khai thác, thực hiện một cách cụ thể, có đầu tư.
4) Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp
Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp chính là việc tổ chức nhiều hơn về số lượng, đầu tư hơn về chất
lượng những nhiệm vụ học tập đòi hỏi HS phải huy động, tổng hợp kiến thức, kĩ năng,… thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau để giải quyết. Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp giúp người học phát triển được
những NL cần thiết, nhất là NL giải quyết vấn đề dựa trên hiểu biết, kinh nghiệm và khả năng ở nhiều
lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó, dạy học, giáo dục tích hợp còn kết nối, tạo ra mối quan hệ giữa các môn
học với nhau và với thực tiễn, tránh trùng lặp về nội dung. Thông qua chuỗi hoạt động có liên quan đến
chủ đề với những hình thức khác nhau sẽ góp phần tác động tổng hợp, hình thành PC, NL của người học
đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Để giải quyết hiệu quả những vấn đề trong cuộc sống, kiến thức và kĩ năng của của từng môn học đôi lúc
không khả thi mà cần sự hiểu biết phong phú, đa dạng dựa trên yêu cầu của nhiều môn học hoặc nhiều
lĩnh vực trong cùng môn học. Thông qua dạy học tích hợp, HS được rèn luyện khả năng tìm hiểu và vận
dụng những kiến thức từ nhiều lĩnh vực một cách phù hợp để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra trong
bài học, chủ đề. Nói khác đi, dạy học, giáo dục tích hợp tạo cơ hội cho HS tiếp cận vấn đề toàn diện, từ
đó HS phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết tương ứng.
5) Tăng cường dạy học, giáo dục phân hóa

Tăng cường dạy học, giáo dục phân hóa chính là việc tổ chức thường xuyên và đầu tư hơn việc phân loại
và chia tách các đối tượng người học, từ đó, vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức sao cho phù
hợp với đối tượng ấy nhằm đạt hiệu quả cao. Dạy học, giáo dục phân hóa đòi hỏi chương trình dạy học
phải xây dựng được các môn học, chủ đề khác nhau để HS tự chọn phù hợp với nguyện vọng của bản
thân và khả năng tổ chức của nhà trường.
Dạy học, giáo dục phân hóa là quá trình dạy học nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân người phát triển tối đa
NL, sở trường, phù hợp với các yếu tố cá nhân, trong đó người học được tạo điều kiện để lựa chọn nội
dung, độ khó, hình thức, nhịp độ học tập phù hợp với bản thân. Cơ sở của dạy học phân hóa là sự công
nhận những khác biệt giữa các cá nhân người học như phong cách học tập, các loại hình trí thông minh,
nhu cầu và điều kiện học tập… Dạy học phân hóa sẽ giúp HS phát triển tối đa NL của từng HS, đặc biệt
là NL đặc thù. Vì thế, nguyên tắc dạy học phân hóa là phân hóa sâu dần qua các cấp học để đảm bảo phù
hợp với các biểu hiện hay mức độ biểu hiện của PC, NL hiện có của người học và phát triển ở tầm cao
mới sao cho phù hợp.
6) Kiểm tra, đánh giá theo năng lực, phẩm chất là điều kiện tiên quyết trong dạy học phát triển phẩm
chất, năng lực
Kiểm tra, đánh giá theo NL, PC là không lấy kiểm tra, đánh giá khả năng tái hiện kiến thức đã học làm
trung tâm của việc đánh giá. Kiểm tra, đánh giá theo NL chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong
những tình huống cụ thể.
Điều kiện tiên quyết là điều kiện cần phải có, phải được giải quyết trước nhất trong dạy học phát triển
PC, NL. Đánh giá kết quả học tập đối với các môn học và HĐGD ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp
chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết
quả học tập của HS. Với sự thay đổi về mục tiêu của CT GDPT 2018, rõ ràng kiểm tra, đánh giá theo NL
là điều kiện tiên quyết trong dạy học phát triển PC, NL.
Trong chương trình giáo dục phát triển PC, NL, bên cạnh mục tiêu đánh giá là cung cấp thông tin chính
xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình, cần chú trọng mục tiêu đánh
giá sự tiến bộ của HS. Đây là cơ sở để để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy
học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng HS và nâng cao chất lượng giáo dục.
Vì vậy, GV cần đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy học để xác định mức độ tiến bộ so với chính
bản thân HS về NL. Các thông tin về NL người học được thu thập trong suốt quá trình học tập thông qua
một loạt các phương pháp khác nhau: đặt câu hỏi; đối thoại trên lớp; phản hồi thường xuyên; tự đánh giá
và đánh giá giữa các HS với nhau; giám sát sự phát triển qua sử dụng bảng danh sách các hành vi cụ thể
của từng thành tố NL; đánh giá tình huống; đánh giá qua dự án, hồ sơ học tập …
5. Kết luận sư phạm:
• Đối với dạy học theo định hướng phát triển năng lực, quá trình quan trọng hơn kết quả.
Bởi vì quá trình đúng dẫn đến kết quả đúng. Vì vậy GV phải xác định mục tiêu dạy học theo định
hướng năng lực cho mỗi bài học
• GV cần tìm hiểu thêm các kiến thức thực tiễn để giúp HS giải thích đúng và vận dụng kiến
thức vào thực tiễn cuộc sống tốt hơn.
• Quá trình dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu những quan niệm, kiến thức sẵn có của
người học, khai thác những thuận lợi đồng thời nghiên cứu những chướng ngại có khả năng xuất hiện
trong quá trình dạy học
• Mục đích dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức, kỹ năng mà còn phải dạy
cho học sinh cách học, cách tự học, tự hoạt động nhận thức nhằn đáp ứng các nhu cầu của bản thân
của xã hội.
• Trước sự phát triển không ngừng và nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi phải đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy học hướng đến người học. Người học cần phải có những năng lực
kiến tạo tri thức, kỹ năng đa dạng, có tư duy tốt. Để phát huy ưu thế của phương pháp dạy học nêu
vấn đề đòi hỏi người giáo viên cần quan tâm đến kĩ thuật xây dựng và sử dụng tình huống có vấn đề.
Tuy nhiên, để đưa lại hiệu quả cao đòi hỏi người dạy phải căn cứ vào đặc trưng từng loại bài, kết hợp
nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học để xây dựng các tình huống có vấn đề có tỉ lệ hợp lý giữa cái
chưa biết và cái đã biết phù hợp với khả năng của học sinh.
• Nên dạy học theo hướng tiếp cận năng lực để học sinh sẽ học được phương pháp học tập
tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy, năng lực học tập, biết vận dụng kiến thức vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn, giáo viên sẽ phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, tăng sự linh hoạt
cho bài giảng, tạo thêm niềm say mê với nghề nghiệp của mình.
Câu 15. Các đặc điểm của dạy học tích hợp

• Khái niệm:
- Dạy học tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng
một lĩnh vực hoặc của một vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học.
- Theo nghĩa hẹp thì DHTH là việc đưa những vấn đề về nội dung của nhiều môn học vào một
giáo trình/môn học.
 “Dạy học tích hợp là một quan điểm sư phạm, ở đó người học cần huy động (mọi)
nguồn lực để giải quyết một tình huống phức hợp - có vấn đề nhằm phát triển các năng
lực và phẩm chất cá nhân” .
• Đặc điểm:
- Mục tiêu cơ bản:
+ Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa
+ Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan tâm
+ Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống thực tiễn
+ Thiết lập mối liên hệ giữa các khái niệm
- Các đặc điểm cơ bản của dạy học tích hợp:
+ Tính tích hợp, trong đó chú trọng tích hợp trong môn học, liên môn học
→ tăng khả năng và hiệu quả vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề.
Ví dụ: Chủ đề “Nghệ thuật dân gian vùng Kinh Bắc” là nội dung giao nhau của Âm nhạc,
Mỹ thuật, Lịch sử, Địa lý,...
+ Tính thực tiễn → vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng của quá trình học tập để giải
quyết vấn đề thực tiễn.
Ví dụ: Chủ đề “Nước trong môi trường xung quanh” tích hợp các môn học và nhận thức
thực tiễn HS hiểu rõ vai trò của nước đối với sự sống và xã hội.
+ Tính hợp tác: hình thức hoạt động chủ yếu là theo nhóm.
+ Tính tích cực, sáng tạo của HS: gợi được hứng thú khi HS tự tìm tòi, nghiên cứu giải quyết
vấn đề, thu thập và xử lí thông tin.
- Các mức độ dạy học tích hợp
+ Tích hợp trong một môn học
+ Truyền thống (traditional)
+ Tích hợp liên môn (interdisciplinary)
+ Kết hợp/lồng ghép (fusion)
+ Tích hợp đa môn (multidisciplinary)
→ Trong đó, tích hợp liên môn là dạng vận dụng dạy học tích hợp ở mức độ cao nhất, đem
lại hiệu quả giáo dục cao nhưng cũng đặt ra nhiều yêu cầu, thách thức cho người giáo viên khi
xây dựng lớp học tích hợp.

Phương diện Liên môn Dạy từng môn

Mục tiêu rộng, hướng đến mục tiêu Mục tiêu hạn chế và chuyên biệt, hướng
Mục tiêu chung của một số nội dung thuộc các đến xử lý riêng rẽ từng môn học.
môn khác nhau.

Kết nối với lợi ích và sự quan tâm của Xuất phát từ một tình huống có liên quan
Kế hoạch dạy học
học sinh và cộng đồng. tới một môn học.

Xuất phát từ một vấn đề cần giải quyết Hoạt động học được cấu trúc chặt chẽ theo
mà cần cầu viện vào các kiến thức, kĩ tiến trình đã dự kiến hoặc tự phát.
Tổ chức dạy học năng thuộc các môn học khác nhau.

Trung tâm của Nhấn mạnh đến sự phát triển và làm Nhắm tới việc làm chủ mục tiêu ngắn hạn.
việc dạy chủ mục tiêu lâu dài

Phát triển thái độ và kĩ năng phức hợp. Việc tiếp nhận kiến thức và kĩ năng phần
Kết quả của việc
Hoạt động học dẫn đến việc tích hợp lớn thông qua các thao tác tư duy.
học
các kiến thức đã tiếp nhận.
- Trong dạy học, thường có 3 loại chủ đề tích hợp liên môn, bao gồm:
+ Chủ đề được đề cập trong nhiều môn học
+ Chủ đề trong thực tiễn liên quan tới kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học.
+ Chủ đề trong 1 môn học kết hợp với các môn học khác theo nghĩa công cụ.
- Căn cứ vào đó chúng ta có các phương pháp xác định chủ đề liên môn trên bình diện: chương
trình, môn học, môn học công cụ.
- Các đặc điểm này của dạy học tích hợp thể hiện ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào các mức
độ tích hợp. Trong chương trình giáo dục phổ thông, các mức độ tích hợp được phân chia theo mức
độ tăng dần.
Câu 16: Các biện pháp dạy học phân hóa:

• Khái niệm:
- Hiện tượng phân hóa là hiện tượng mà ở đó có sự khác biệt giữa các HS về những đặc điểm
nào đó trong học tập. Việc phân loại các HS thành các nhóm có đặc điểm khác hẳn nhau, đôi
khi đối lập nhau, được gọi là phân hóa.
Ở trường phổ thông Việt Nam, GV thường sử dụng từ “học lực” để phân hóa HS các mức:
khá, giỏi, trung bình, yếu, kém.
- Dạy học phân hóa là cách tiếp cận dạy học nhằm đáp ứng tối đa khả năng cá nhân của các
đối tượng HS. Những khả năng cá nhân tạo ra sự khác biệt giữa các đối tượng HS, tiêu biểu là:
năng lực trí tuệ, năng lực nhận thức, kiểu người học, phong cách học tập, đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi, nhu cầu, hứng thú và điều kiện học tập.
• Các biện pháp dạy học phân hóa:
- Các biện pháp dạy học phân hóa được thiết kế dựa trên 03 yếu tố:
+ Nội dung: Phân hóa mục tiêu dạy học và nội dung
+ Sản phẩm: Đưa ra nhiệm vụ học tập phân hóa mà cụ thể là các yêu cầu, bài tập phân hóa.
+ Quy trình: Lựa chọn, sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học và cách tổ chức dạy học
phù hợp với nhiệm vụ học tập phân hóa.
+ Đánh giá phân hóa: “nội dung” và “ sản phẩm” là các yếu tố để đánh giá phân hóa
1. Phân hóa từ mục tiêu dạy học
→ Phân hóa mục tiêu dạy học nhằm xác định những mục tiêu dạy học (kiến thức, kĩ năng,
thái độ và năng lực) phù hợp đối với từng đối tượng HS, tức là cần xác định được những
mục tiêu tối thiểu (mục tiêu dành cho đại đa số HS nhằm đạt chuẩn) và mục tiêu nâng
cao (đối với những HS khá, giỏi)
2. Lựa chọn nội dung dạy học cụ thể theo hướng phân hóa
- GV có thể tiến hành một hoặc kết hợp thực hiện một số cách thức sau:
+ Lựa chọn các nội dung học tập phù hợp với các đối tượng HS.
+ Phân bậc các nội dung học tập theo các mức độ phù hợp để tất cả các đối tượng HS có
thể tiếp cận.
- Không nên nhầm lẫn giữa phân hóa nội dung với phân hóa nhiệm vụ học tập.
Ví dụ: trong truyện ngắn “Chí Phèo”, học sinh được học về bi kịch tha hóa, bị tước đoạt
quyền làm người của nhân vật Chí Phèo:
Mục tiêu tối thiểu: hiểu khái niệm bi kịch và phân tích được bi kịch tha hóa của Chí Phèo.
→ Trong trường hợp không trả lời được (tức là chưa đạt đến mục tiêu tối thiểu), học sinh
sẽ được yêu cầu tìm đọc lại bài cũ để trình bày khái niệm bi kịch, phân tích bi kịch của Chí
Phèo.
3. Xây dựng nhiệm vụ phân hóa: Ra bài tập phân mức
Để DHPH, GV cần thiết kế các nhiệm vụ học tập, các bài tập thể hiện các hành vi của các
năng lực ứng với các mức độ khác nhau sẽ được giao cho HS. Một cách lí tưởng, nhiệm
vụ, bài tập đó sẽ được phân hoá phù hợp với vùng phát triển gần của từng HS hay thực tế
hơn, GV sẽ chọn mức độ nhiệm vụ phù hợp với đa số trình độ của HS. Sau đó, có thể cung
cấp thêm những nhiệm vụ nâng cao với nhóm HS giỏi và tăng cường trợ giúp với nhóm
HS yếu.
→ Để đánh giá quá trình, trước hết GV cần xây dựng được hệ thống nhiệm vụ có mức
độ yêu cầu khác nhau.
Cách Số lượng thao
Độ mở của Độ phức tạp của
phân tác phải thực Độ tự lực của HS
nhiệm vụ nhiệm vụ
mức hiện

Sự trả lời tự do HS vận dụng các Để hoàn thành Tự lực là có khả


của cá nhân và kiến thức, kĩ năng nhiệm vụ, HS năng thực hiện
không có lời giải đã học vào giải cần thực hiện nhiệm vụ mà
cố định quyết vấn đề của một hoặc nhiều không cần sự trợ
→ dành không cuộc sống thao tác. giúp, gợi ý.
Đặc gian cho sự sáng → Nhiệm vụ càng → Một nhiệm vụ → Nếu nhiệm vụ
trưng tạo, tự quyết sát với tình huống phải trải qua yêu cầu HS tự lực
định của người thực thì mức độ càng nhiều thao thực hiện càng
học. phức tạp càng tác để thực hiện nhiều thao tác thì
cao. thì yêu cầu năng nhiệm vụ đó có
lực của HS càng mức độ tự lực
cao. càng cao.

Chú trọng việc Chú trọng sự phân Năng lực của HS Chú trọng đến sự
HS biết lập luận tích, tổng hợp, thể hiện qua các chủ động, tích cực
thích hợp cho đánh giá, vận thao tác mà họ khi thực hiện
Đánh con đường giải dụng kiến thức thực hiện, gồm nhiệm vụ.
giá quyết hay quan trong quá trình thao tác tư duy
điểm của mình. giải quyết vấn đề và hành động.
của HS.

4. Đánh giá kết quả học tập của HS theo hướng phân hóa
3 loại hình đánh giá đánh giá chẩn đoán, đánh giá quá trình và đánh giá tổng kết.
→ Đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng, điều chỉnh hoạt
động của trò mà còn giúp đưa ra những nhận định về thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy
của thầy cho phù hợp với đối tượng HS, qua đó nâng cao hiệu quả dạy và học.

You might also like