You are on page 1of 31

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG


PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH, SGK GDCD
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
(Bản đang hoàn thiện)

TS Nguyễn Thị Khương


Th.s Vũ Thị Thủy
Thái Nguyên, 2017
Chương 1
Những vấn đề chung của chương trình,
sách giáo khoa giáo dục công dân ở phổ thông

1.1. Chức năng, nhiệm vụ, lịch sử phát triển chương trình giáo dục công dân ở
trường phổ thông
1.1.1. Chức năng phát triển chương trình giáo dục công dân ở trường
phổ thông
Chương trình giáo dục/đào tạo được xem xét ở đây tương đương với
thuật ngữ  curriculum trong tiếng Anh (sau đây sẽ gọi là chương trình đào tạo
- CTĐT). Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CTĐT ở nước ta và ngay cả
trong các văn bản tiếng Anh. Chỉ xin nêu ra đây một vài quan niệm phản ảnh
được những nét cơ bản nhất của CTĐT và được nhiều người đồng tình.
Wentling (1993) cho rằng: “CTĐT là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt
động đào tạo (đó có thể là một khóa học kéo dài vài giờ, một ngày, một tuần
hoặc vài năm). Bản thiết kế tổng thể đó cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo,
chỉ rõ ra những gì có thể trông đợi ở người học sau khóa học, nó phác họa ra
qui trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, nó cũng cho biết các phương
pháp đào tạo và các cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập, và tất cả
những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ”1). Về cấu trúc
của một CTĐT, Tyler (1949) cho rằng CTĐT phải bao gồm 4 thành tố cơ bản
của nó, đó là: 1) mục tiêu đào tạo; 2) nội dung đào tạo; 3) phương pháp và qui
trình đào tạo và 4) cách đánh giá kết quả đào tạo.
Như vậy, quan niệm về CTĐT không đơn giản là cách định nghĩa mà nó
thể hiện rất rõ quan điểm về đào tạo
Các cách tiếp cận trong việc xây dựng chương trình giáo dục/đào tạo
Trong lịch sử phát triển giáo dục có thể thấy có ba cách tiếp cận khác nhau
trong việc xây dựng CTĐT: cách tiếp cận nội dung (content approach), cách
tiếp cận mục tiêu (objective approach) và cách tiếp cận phát triển
(developmental approach).
1) Cách tiếp cận nội dung (content approach) 
Nhiều người cho rằng CTĐT chỉ là bản phác thảo nội dung đào tạo. Với
quan niệm này, giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung - kiến thức. Đây là
cách tiếp cận kinh điển trong xây dựng CTĐT, theo đó mục tiêu của đào tạo
chính là nội dung kiến thức. Cách tiếp cận này hiện nay rất phổ biến ở nước
ta. Theo cách tiếp cận này, CTĐT chẳng khác gì bản mục lục của một cuốn
sách giáo khoa. Phương pháp giảng dạy thích hợp với cách tiếp cận này phải
nhằm mục tiêu truyền thụ được nhiều kiến thức nhất, người học thụ động
nghe theo người dạy. Việc đánh giá kết quả học tập sẽ gặp khó khăn vì mức
độ nông sâu của kiến thức không được thể hiện rõ ràng.
Với tốc độ phát triển khoa học và công nghệ như vũ bão, kiến thức gia
tăng theo hàm mũ, CTĐT được thiết kế theo nội dung sẽ bế tắc vì không thể
truyền thụ đủ nội dung trong một thời gian hạn chế, và nội dung truyền thụ
cũng nhanh chóng lạc hậu. Những người quen với cách tiếp cận nội dung
thường kêu ca thời gian dành cho chương trình quá ngắn, không thể truyền
thụ đủ nội dung cần thiết. Cách tiếp cận theo nội dung cho đến nay đã trở nên
lạc hậu, phần lớn quốc gia và trường đại học không còn sử dụng cách tiếp cận
này trong việc xây dựng CTĐT.
2) Cách tiếp cận mục tiêu (objective approach) 
Vào giữa thế kỷ 20 cách tiếp cận mục tiêu bắt đầu được sử dụng ở Mỹ.
Theo cách tiếp cận này, CTĐT phải được xây dựng xuất phát từ mục tiêu đào
tạo. Dựa trên mục tiêu đào tạo người lập chương trình mới quyết định lựa
chọn nội dung, phương pháp đào tạo cũng như cách đánh giá kết quả học tập.
Mục tiêu đào tạo ở đây được thể hiện dưới dạng mục tiêu đầu ra: những thay
đổi về hành vi của người học. Cách tiếp cận mục tiêu chú trọng đến sản phẩm
đào tạo và coi đào tạo là công cụ để tạo nên các sản phẩm với các tiêu chuẩn
định sẵn. Theo cách tiếp cận này người ta quan tâm những thay đổi ở người
học sau khi kết thúc khóa học về hành vi trong các lĩnh vực nhận thức, kỹ
năng và thái độ. Mục tiêu đào tạo phải được xây dựng rõ ràng sao cho có thể
định lượng được và dùng nó làm tiêu chí để đánh giá hiệu quả của quá trình
đào tạo. Dựa vào mục tiêu đào đào tạo có thể đề ra nội dung kiến thức đào
tạo, phương pháp giảng dạy cần thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra và
phương pháp đánh giá thích hợp theo các mục tiêu đào tạo.
Với cách tiếp cận mục tiêu có thể chuẩn hoá qui trình xây dựng CTĐT
cũng như qui trình đào tạo theo một công nghệ nhất định. Giống như một qui
trình công nghệ, các bước đều được thiết kế chặt chẽ nhằm tạo ra sản phẩm
với một chất lượng đồng đều theo các chỉ tiêu kỹ thuật. Chính vì thế người ta
mới đưa ra khái niệm về “công nghệ giáo dục” và chương trình đào tạo được
xây dựng theo kiểu này còn được gọi là “chương trình đào tạo kiểu công
nghệ” (technological curriculum).
Ưu điểm của cách xây dựng chương trình theo cách tiếp cận mục tiêu: 1)
mục tiêu đào tạo cụ thể và chi tiết tạo thuận lợi cho việc đánh giá hiệu quả và
chất lượng CTĐT. 2) Người học và người dạy biết rõ cần phải dạy và học như
thế nào để đạt được mục tiêu. 3) Cho phép xác định các hình thức đánh giá
kết quả học tập của người học.
Nhược điểm: 1) sản phẩm đào tạo phải đồng nhất ở đầu ra trong khi
nguyên liệu đầu vào là những con người lại rất khác nhau về năng lực và hoàn
cảnh, nguồn gốc, văn hóa…2) Việc rèn đúc mọi người học theo một khuôn
mẫu nhất định làm người học vẫn ở trạng thái bị động, giáo điều, máy móc,
thiếu tính sáng tạo. Các khả năng tiềm ẩn của mỗi cá nhân người học không
được quan tâm phát huy, nhu cầu và sở thích riêng của người học khó được
đáp ứng.
Đối với việc xây dựng chương trình theo cách tiếp cận mục tiêu, điều
quan trọng đầu tiên là xác định rõ mục tiêu đào tạo. Phương pháp tổng quát
phân chia mục tiêu đào tạo theo 3 lĩnh vực nhận thức, kỹ năng và tình cảm
thái độ của B. Bloom là cơ sở để tham khảo xác định các mục tiêu cụ thể. Để
mô tả mục tiêu được rõ ràng, nhiều tác giả 2)cho rằng một mục tiêu cụ thể
phải được cấu thành bởi ba bộ phận: điều kiện (condition) mà trong đó hành
vi được thực hiện, sự thực hiện (performance) hành vi có thể quan sát, và
các tiêu chuẩn mực (standards) về mức độ có thể đạt được của hành vi. 
3) Cách tiếp cận phát triển (developmental approach)
- Theo Kelly3), “CTĐT là một quá trình, và giáo dục là một sự phát
triển” (curriculum as process and education as development). Câu nói đó phản
ánh thực chất của cách tiếp cận phát triển.
Giáo dục phải phát triển tối đa mọi năng lực tiềm ẩn trong mỗi con
người, làm cho họ làm chủ được những tình huống, đương đầu được với
những thách thức sẽ gặp phải trong cuộc đời một cách chủ động và sáng tạọ;
giáo dục là quá trình tiếp diễn liên tục suốt đời, do vậy nó không thể được đặc
trưng bằng chỉ một mục đích cuối cùng nào. Theo cách tiếp cận này người ta
chú trọng đến phát triển sự hiểu biết ở người học hơn là truyền thụ nội dung
kiến thức đã được xác định trước hay tạo nên sự thay đổi nào đó về hành vi ở
người học. Với quan điểm giáo dục là một quá trình, mức độ làm chủ bản
thân tiềm ẩn ở mỗi người được phát triển một cách tối đa. Whitehead (1932)
cũng đã từng nói giáo dục là nghệ thuật sử dụng kiến thức hơn là nắm được
các “ý tưởng trơ trọi”.
Con người không thể học tất cả những gì cần trong cuộc đời chỉ qua quá
trình đào tạo ở nhà trường, vì vậy chương trình đào tạo phải được xây dựng
sao cho tạo ra được những sản phẩm có thể đương đầu với những đòi hỏi của
nghề nghiệp không ngừng thay đổi, với một thế giới không ngừng biến động.
Do đó CTĐT phải là một quá trình cần phải thực hiện sao cho có thể giúp
người học phát triển tối đa các tố chất sẵn có nhằm đáp ứng được mục đích
đào tạo nói trên. Như vậy, sản phẩm của quá trình đào tạo phải đa dạng chứ
không gò bó theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Cách tiếp cận theo quá trình
chú trọng việc dạy người ta học cách học hơn là chỉ chú trọng đến nội dung
kiến thức.
Vì quan niệm giáo dục là một sự phát triển, người thiết kế chương trình
chú trọng nhiều đến khía cạnh nhân văn (humanity) của chương trình đào tạo.
Cách tiếp cận này chú trọng đến lợi ích, nhu cầu của từng cá nhân người học,
chú trọng đến những giá trị mà chương trình đem lại cho từng người học.
CTĐT theo tiếp cận phát triển xem cá nhân người học như một thực thể chủ
động, độc lập suy nghĩ, và quá trình đào tạo giúp người học phát triển được
tính tự chủ (autonomy), khả năng sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề. Để có
thể tự chủ, con người phải phát triển sự hiểu biết của mình cả về bề rộng lẫn
chiều sâu, biết nhìn nhận thế giới một cách sáng tạo và cần có khả năng tự bổ
khuyết tri thức của mình. Vì vậy CTĐT phải đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của
người học. Việc xây dựng CTĐT theo môđun cho phép người học với sự giúp
đỡ của thầy có thể tự mình xác định lấy chương đào tạo cho riêng mình. Theo
Kelly, CTĐT chỉ thực sự có tính giáo dục nếu nội dung của nó bao gồm
những cái mà người học quí trọng và thông qua việc kiên trì theo đuổi những
cái đó người học phát triển được sự hiểu biết và mọi năng lực tiềm ẩn của
mình.
Như vậy, cách tiếp cận phát triển gắn với quan niệm “người học là trung
tâm” (learner’s centered). Các bài giảng được tổ chức dưới dạng các hoạt
động khác nhau nhằm giúp cho học viên lĩnh hội dần các kinh nghiệm học tập
(learning experiences) thông qua việc giải quyết các tình huống, tạo cho sinh
viên cơ hội được thử thách trước những thách thức khác nhau. Trong khi theo
cách tiếp cận mục tiêu, người ta quan tâm nhiều đến việc học sinh sau khi học
có đạt được mục tiêu hay không mà không quan tâm nhiều đến quá trình đào
tạo thì theo cách tiếp cận phát triển người ta quan tâm nhiều đến hoạt động
của người dạy và người học trong quá trình. Người dạy phải hướng dẫn người
học tìm kiếm và thu thập thông tin, gợi mở giải quyết vấn đề, tạo cho người
học có điều kiện thực hành, tiếp xúc với thực tiễn, học cách phát hiện vấn đề
và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Nhìn chung theo cách tiếp cận này
người ta luôn quan tâm đến vấn đề giá trị (value)- vấn đề đáng giá
(worthwhile) của mọi hoạt động đào tạo.
- Có một câu hỏi được đặt ra: vậy trong cách tiếp cận phát triển có mục
tiêu đào tạo hay không? Hiển nhiên là có, nhưng ở đây mục tiêu không phải là
mục tiêu hành vi ở đầu ra, bên ngoài quá trình đào tạo, mà mục tiêu là cái gì
đó nằm ngay trong quá trình đào tạo, là thuộc tính của quá trình đó, được thể
hiện ở mọi nơi mọi lúc trong quá trình đào tạo, có tác dụng chỉ đạo toàn bộ
quá trình. Vì vậy ở đây người ta gọi mục tiêu làchuẩn mực và nguyên lý chỉ
đạo quá trình đào tạo (normes and principles of procedure), hoặc còn gọi
là mục tiêu biểu hiện sáng tạo (creative-expressive objective). Với quan niệm
như vậy, sau khoá học mỗi người học cần thể hiện một cái gì đó độc đáo, sáng
tạo trong sự muôn hình muôn vẻ cũng như sự đa dạng vốn có của cộng đồng
người học, người học phải biết vận dụng kiến thức một cách sáng tạo, biết
cách bổ sung hoàn thiện kiến thức. Có một điều cần nhấn mạnh là theo cách
tiếp cận phát triển, mục đích và quá trình không thể tách rời nhau: mục đích
luôn được phản ánh trong quá trình và quá trình thể hiện trong mục đích. Mục
đích theo kiểu nguyên lí quá trình phải được thể hiện trong mọi giai đoạn của
quá trình đào tạo (Kelly).
Có thể nêu ví dụ về các nguyên lý chỉ đạo quá trình đào tạo, chẳng hạn
do Wentling 1) (1993) đã nêu: 1) phải tạo hứng thú cho người học; 2) người
học phải chủ động tham gia quá trình dạy và học; 3) người học phải được
hướng dẫn và thường xuyên có thông tin phản hồi từ người dạy; 4) người học
phải được cung cấp phương tiện và vật liệu hỗ trợ quá trình giáo dục; 5) phải
có nhiều cơ hội thực hành; 6) phải sử dụng các phương pháp giảng dạy khác
nhau một cách thích hợp.
- Như vậy có thể thấy, cách tiếp cận phát triển có rất nhiều ưu điểm, tuy
nhiên cũng có không ít người phê phán nhược điểm của cách tiếp cận này.
Một trong những ý kiến phê phán tương đối phổ biến là cách tiếp cận này quá
chú trọng đến nhu cầu và sở thích cá nhân mà không quan tâm nhiều đến lợi
ích cộng đồng. Hai nữa, nhu cầu và sở thích của các cá nhân thường rất đa
dạng và hay thay đổi nên CTĐT rất khó thoả mãn.     
Phát triển chương trình giáo dục/đào tạo
Liên quan đến CTĐT có các khái niệm thiết kế CTĐT (curriculum
design) và phát triển CTĐT (curriculum development). Thiết kế CTĐT theo
nghĩa hẹp là một công đoạn của việc phát triển CTĐT. Tuy nhiên, người ta
thường hiểu thuật ngữ thiết kế CTĐT theo nghĩa rộng đồng nhất với thuật
ngữ phát triển CTĐT.
Phát triển CTĐT có thể được xem như như một quá trình hoà quyện vào
trong quá trình đào tạo, bao gồm 5 bước: 
- Phân tích tình hình;
- Xác định mục đích chung và mục tiêu (aims and obectives);
- Thiết kế (design);
- Thực thi (implementation);
- Đánh giá (evaluation).
Hơn nữa, quá trình này cần phải được hiểu như là một quá trình liên tục
và khép kín, do đó 5 bước nêu trên không phải được sắp xếp thẳng hàng mà
phải được xếp theo một vòng tròn
Cách sắp xếp như trên cho thấy rõ đây là một quá trình liên tục để hoàn
thiện và không ngừng phát triển CTĐT, khâu nọ ảnh hưởng trực tiếp đến khâu
kia, không thể tách rời từng khâu riêng rẽ hoặc không xem xét đến tác động
hữu cơ của các khâu khác. Chẳng hạn, khi bắt đầu thiết kế một CTĐT cho
một khoá học nào đó người ta thường phải đánh giá CTĐT hiện hành (khâu
đánh giá CTĐT), sau đó kết hợp với việc phân tích tình hình cụ thể - các điều
kiện dạy và học trong và ngoài trường, nhu cầu đào tạo của người học và của
xã hội v..v.. (khâu phân tích tình hình) để đưa ra mục tiêu đào tạo của khoá
học. Tiếp đến, trên cơ sở của mục tiêu đào tạo mới xác định nội dung đào tạo,
lựa chọn các phương pháp giảng dạy, phương tiện hỗ trợ giảng dạy, phương
pháp kiểm tra, thi thích hợp để đánh giá kết quả học tập. Tiếp đến cần tiến
hành thử nghiệm (tryout) CTĐT ở qui mô nhỏ xem nó có thực sự đạt yêu cầu
hay cần phải điều chỉnh gì thêm nữa. Toàn bộ công đoạn trên được xem như
giai đoạn thiết kế CTĐT. Kết quả của giai đoạn thiết kế CTĐT sẽ là một bản
CTĐT cụ thể, nó cho biết mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp
đào tạo, các điều kiện và phương tiện hỗ trợ đào tạo, phương pháp kiểm tra
đánh giá kết quả học tập cũng như việc phân phối thời gian đào tạo.
Sau khi thiết kế xong CTĐT có thể đưa nó vào thực thi
(implementation), tiếp đến là khâu đánh giá (evaluation). Tuy nhiên, việc
đánh giá CTĐT không phải chỉ chờ đến giai đoạn cuối cùng này mà cần được
thực hiện trong mọi khâu. Chẳng hạn, ngay trong khi thực thi có thể chương
trình sẽ tự bộc lộ những nhược điểm của nó, hay qua ý kiến đóng góp của
người học, người dạy có thể biết phải hoàn thiện nó như thế nào. Sau đó khi
khoá đào tạo kết thúc (thực thi xong một chu kỳ đào tạo) thì việc đánh giá
tổng kết cả một chu kỳ này phải được đề ra. Người dạy, người xây dựng và
quản lí CTĐT phải luôn tự đánh giá CTĐT ở mọi khâu qua mỗi buổi học, mỗi
năm, mỗi khoá học để rồi vào năm học mới kết hợp với khâu phân tích tình
hình, điều kiện mới sẽ lại hoàn thiện hoặc xây dựng lại mục tiêu đào tạo. Rồi
dựa trên mục tiêu đào tạo mới, tình hình mới lại thiết kế lại hoặc hoàn chỉnh
hơn CTĐT. Cứ như vậy CTĐT sẽ liên tục được hoàn thiện và phát triển
không ngừng cùng với quá trình đào tạo.
Như vậy khái niệm “phát triển CTĐT” xem việc xây dựng chương trình
là một quá trình chứ không phải là một trạng thái hoặc một giai đoạn tách biệt
của quá trình đào tạo. Đặc điểm của cách nhìn nhận này là luôn phải tìm kiếm
các thông tin phản hồi ở tất cả các khâu về CTĐT để kịp thời điều chỉnh từng
khâu của quá trình xây dựng và hoàn thiện chương trình nhằm không ngừng
đáp ứng tốt hơn với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo của xã hội.
Với quan điểm của phát triển CTĐT, ngoài yêu cầu quan trọng  là người xây
dựng chương trình cần phải có cái nhìn tổng thể bao quát toàn bộ quá trình
đào tạo, cần lưu ý đảm bảo độ mềm dẻo cao khi soạn thảo chương trình: phải
để cho người trực tiếp điều phối thực thi chương trình và người dạy có được
quyền chủ động điều chỉnh trong phạm vi nhất định cho phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể nhằm đạt được mục tiêu đề ra. 
Chương trình giáo dục phổ thông (sau đây viết tắt là chương trình) và
sách giáo khoa hiện hành được xây dựng, biên soạn theo Nghị quyết số
40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khoá X về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông (sau đây viết tắt là Nghị quyết 40) và đã
được thực hiện trên phạm vi toàn quốc từ năm học 2002 - 2003 đến nay (năm
2014).
Chương trình, sách giáo khoa hiện hành có một bước tiến rõ rệt so với
chương trình, sách giáo khoa trước đó; góp phần từng bước đổi mới sự nghiệp
giáo dục; đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn vừa
qua. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chương trình, sách giáo khoa
hiện hành vẫn còn những hạn chế và bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi
mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; trước sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - công nghệ và xu thế đổi mới nhanh chóng chương trình giáo
dục phổ thông trên thế giới.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định một trong các định hướng phát triển
kinh tế - xã hội là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và
phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh việc “Đổi mới
mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp,
bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo
dục phổ thông mới”(1). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 29) đã xác định: “Hoàn thành
việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015”.
Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội về
chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XIII (sau đây gọi
tắt là Nghị quyết 75) yêu cầu: “Tiếp thu, hoàn chỉnh Đề án Đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông trình Quốc hội xem xét, quyết định
vào kỳ họp thứ 8 để triển khai tổ chức thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2020
và những năm tiếp theo”.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng và Quốc hội nêu trên, Chính phủ đã
giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án Đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông.
1.1.2. Nhiệm vụ và lịch sử phát triển chương trình giáo dục công dân ở
trường phổ thông
* Những bất cập của chương trình hiện hành:
- Chương trình mới chú trọng việc truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng
phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh
Chương trình hiện hành chưa xác định chuẩn đầu ra về phẩm chất và
năng lực học sinh; chương trình của từng môn học, hoạt động giáo dục chỉ

1 (?)
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia,
tr.131.
xác định mục tiêu cần đạt về kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với
học sinh. Điều đó cũng thể hiện trong việc thiết kế nội dung, áp dụng hình
thức và phương pháp giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục.
- Trong thiết kế chương trình, chưa xây dựng thành hai giai đoạn: giai
đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
Trong chương trình, sách giáo khoa hiện hành, quan điểm tích hợp và
phân hoá chưa được coi trọng; việc tích hợp nội dung giáo dục vừa thiếu, vừa
chưa đảm bảo tính khoa học nên phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình triển
khai (như giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng phòng chống tệ nạn xã hội, kỹ năng
tiếp cận nghề nghiệp…); chưa tích hợp nhiều lĩnh vực thành một môn học ở
cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông; số môn học bắt buộc của mỗi
lớp học, cấp học còn khá nhiều.
- Nội dung giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu về tính thiết thực, tinh
giản, hiện đại
Chương trình hiện hành đặt trọng tâm vào việc cung cấp nhiều kiến thức
thông qua hoạt động dạy học, chưa quan tâm đúng mức các nội dung phục vụ
rèn luyện đạo đức, kỹ năng. Một số nội dung của một số môn học và hoạt
động giáo dục chưa cân đối, chưa phù hợp với đối tượng; chưa đảm bảo tính
hiện đại, cơ bản và thiết thực; chưa phù hợp với đặc thù của các bộ môn
- Việc thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục còn phiến diện, lạc hậu,
chưa hướng tới mục tiêu phát triển hài hoà phẩm chất và năng lực của học
sinh
Nhìn chung, chưa triển khai đúng và đầy đủ về nội hàm và ý nghĩa của
hoạt động đánh giá chất lượng giáo dục. Việc thi, kiểm tra và đánh giá hiện
nay chỉ chú trọng yêu cầu ghi nhớ kiến thức, chưa coi trọng vận dụng kiến
thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề thực tiễn; nặng về đo lường định kỳ kết
quả học tập (thông qua cho điểm), chưa coi trọng nhận xét của giáo viên để
đánh giá sự tiến bộ và khuyến khích học sinh vươn lên; chưa hướng dẫn học
sinh tự đánh giá để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và học. Việc phối hợp
giữa đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà
trường với đánh giá của gia đình và của xã hội còn hạn chế; phương thức thi
tốt nghiệp trung học phổ thông chưa được đổi mới căn bản và kết quả kỳ thi
chưa đảm bảo độ tin cậy để làm cơ sở cho tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học.
- Các hạn chế nêu trên của nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá đã hạn chế hiệu quả hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực
học sinh; chưa đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống,
rèn luyện kỹ năng, phát triển khả năng sáng tạo, tự học để học tập suốt đời.
Do mục tiêu của chương trình giáo dục hiện hành chủ yếu là trang bị
kiến thức nên phương pháp dạy học vẫn theo lối truyền đạt một chiều, học
sinh thụ động, ghi nhớ máy móc kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa mà ít
được rèn luyện phương pháp học. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là trên
lớp học, chưa dành thời lượng thoả đáng cho các hoạt động trải nghiệm (đây
là một nguyên nhân làm mất dần hứng thú học tập, gây quá tải). Những hạn
chế về cách thiết kế nội dung các môn học và hoạt động giáo dục (nêu tại mục
c) cùng với những hạn chế về hình thức tổ chức và phương pháp dạy học,
phương pháp và nội dung của hoạt động kiểm tra, đánh giá (nêu tại mục d) là
nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng.
Việc vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tiên tiến, hiện đại
mới bước đầu được chú trọng.
* Nhiệm vụ phát triển chương trình, sách giáo khoa
- Là nhiệm vụ cần thiết, với mục đích làm cho chương trình phù hợp với
thực tiễn trên cơ sở đảm bảo yêu cầu chung của Chương trình quốc gia;
- Lựa chọn xây dựng nội dung và xác định cách thức thực hiện phản ánh
đặc trưng và phù hợp với thực tiễn nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của người học, thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục đề ra
1.2. Quan điểm và nguyên tắc xây dựng chương trình giáo dục công dân
ở trường phổ thông
1.2.1. Quan điểm xây dựng chương trình giáo dục công dân ở trường phổ
thông
- Chương trình môn GDCD phải được xây dựng dựa trên các môn khoa
học cơ bản như triết học, đạo đức học, pháp luật, kinh tê chính trị học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, xã hội học và các đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, của nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Môn GDCD còn có thể tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần
thiết cho các công dân trẻ tuổi như: giáo dục quyển trẻ em, giáo dục kĩ năng
sống, giáo dục văn hóa hòa bình, giáo dục môi trường, giáo dục giới tính, sức
khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục phòng
chống ma túy; phòng tránh HIV/AIDS… Tuy nhiên, việc tích hợp phải hợp
lý, phải phù hợp với đặc trưng môn học và không làm nặng nề thêm nội dung
môn học.
- Do vậy quá trình dạy học môn GDCD là quá trình khai thác tiềm năng
và phát triển tiêm năng,trí lưc của học sinh, phát triển tính tích cực hoạt động
nhận thức và năng lực tự hoàn thiện của học sinh
- Nội dung môn GDCD phải cơ bản, hiện đại, hướng học sinh vươn tới
những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam trong thời kì CNH-HĐH
đất nước, đó là những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong sự hòa nhập với tinh
hoa văn hóa nhân loại; thể hiện sự thống nhất giữa tính truyền thống với tính
hiện đại.
- Chương trình môn GDCD từ tiểu học đến THCS, THPT phải đảm bảo
tính hệ thống, tính phát triển của các giá trị, đáp ứng được mục tiêu của cấp
học, ngành học, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và khả năng nhận thức của học
sinh
- Chương trình môn GDCD phải đảm bảo cân đối, hài hòa giưã yêu cầu
trang bị kiến thức với việc rèn luyện kĩ năng và phát triển thái độ tích cực cho
học sinh. Môn GDCD không những trang bị cho học sinh những kiến thức
phổ thông, cơ bản phù hợp với lứa tuổi học sinh về thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan cộng sản, về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống mà còn
cần hình thành và phát triển ở các em những tình cảm, niềm tin, hành vi và
thói quen phù hợp với các giá trị đã học, giúp các em có sự thống nhất cao
giưã ý thức và hành vi
- Nội dung môn GDCD phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn của
học sinh, gắn liền với sự kiện trong đời sống đạo đức, pháp luật, kinh tế chính
trị xã hội của địa phương, đất nước. Vì vậy, ngoài nội dung thống nhất
chung cho cả nước, chương trình còn có phần mở để dạy các vấn đề cần quan
tâm của địa phương.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng chương trình giáo dục công dân ở trường phổ
thông
* Môn GDCD ở THPT phải kế thừa phát triển kết quả giáo dục dạy học
của môn đạo đức ở tiểu học và môn GDCD ở trung học cơ sở
* Môn GDCD ở THPT phải góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở
THPT góp phần phát triển, củng cố ở học sinh lí tưởng sống cao đẹp, những
phẩm chất và năng lực cơ bản của con người Việt Nam thời kì CNH, HĐH.
Những phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống phải là những giá trị
của con người Việt Nam thể hiện ở nhận thức, hành vi, tình cảm, niềm tin, với
tư cách là một chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát triển xã hội những
năng lực cơ bản như: tự hoàn thiện bản thân, giao tiếp ứng xử, tổ chức quản
lí, hoạt động chính trị xã hội, hợp tác cạnh tranh lành mạnh, định hướng lao
động nghề nghiệp để thích ứng với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong
quá trình phát triển của xã hội
Môn GDCD phải kết hợp hài hòa giữa kiến thức với kĩ năng, giữa nhận
thức và hành động của học sinh để hình thành ở họ niềm tin va ý thức trách
nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước.
* Môn GDCD ở THPT phải là một hệ thống kiến thức về nhiều lĩnh vực,
giúp học sinh có đủ những hiểu biết cơ bản để hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan, góp phần giúp học sinh có cơ sở lí luận để giải quyết những vấn
đề của thực tiễn cuộc sống. Môn GDCD phải cung cấp cho học sinh những
kiến thức và phương pháp luận để xem xét, phân tích những hiện tượng tự
nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về
các giá trị của con người Việt Nam thời kì CNH-HĐH, những hiểu biết về
CNXH về nhà nước XHCN Việt Nam, về các định hướng phát triển kinh tế,
xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đói với sự tồn tại và phát triển của
mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội.
* Môn GDCD phải được xây dựng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi học sinh … Mục tiêu, nội dung phương pháp dạy học bộ môn phải phù
hợp với lứa tuổi học sinh (từ 16 đến 18 tuổi), phải căn cứ vào vốn sống, sự
hiểu biết về tự nhiên xã hội cuả họ,phải phát huy tối đa tiềm năng và ý thức
trách nhiệm của họ trong quá trình học tập và rèn luyện, muốn vậy phải đặc
biệt quan tâm tới sự phát triển cân đối hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với
việc bồi dưỡng tình cảm,niềm tin và rèn luyện kĩ năng thực hành cho học
sinh.
* Môn GDCD phải coi trọng hoạt động, gắn hoạt động dạy và học với
hoạt động xã hội, hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động thực tiễn
khác.
QUÁN TRIỆT TINH THẦN GDCD VÀ TÍNH THIẾT THỰC CỦA CHƯƠNG TRÌNH
* Trong quá trình dạy và học bộ môn cần luôn quán triệt mục tiêu môn
học là GDCD. Mục tiêu đó phải được quán triệt trong việc xác định nội dung,
mức độ, cấu trúc của toàn bộ chương trình, của từng bài, từng phần, từng đơn
vị kiến thức.
- Mức độ hiểu biết của người công dân được giáo dục ở đây là những
hiểu biết của người công dân bình thường được giáo dục, có trình độ học vấn
phổ thông.
- Tính thiết thực ở đây dược hiểu là thiết thực với đời sống của người
công dân thời kì đổi mới. Vì vậy những hiểu biết về triết học về thời đại, về
đạo đức, lối sống về kinh tế về chính sách, pháp luật là rất cần thiết để giúp
cho người công dân ở bất kì cương vị nào, ngành nào cũng biết sống, làm
việc, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
* Phải đảm bảo tính cơ bản và tính hệ thống của tri thức môn học :
- Tri thức môn GDCD phải là tri thức khoa học. Nó không phải là những
lời kêu gọi chung chung theo kiểu thời sự hóa. Những tri thức ở từng phần,
từng bài phải hết sức cơ bản, rõ ràng ;.các kiến thức được dạy, được học phải
gắn bó chặt chẽ với nhau trong một hệ thống nhất định; điều đó giúp cho học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ và vận dụng vào cuộc sống không bị phiến diện.
* Nội dung chương trình môn GDCD phải mang tính tích hợp cao
Nội dung môn GDCD dựa trên cơ sở tri thức của nhiều môn học: triết
học, kinh tế chính trị, CNXH khoa học, đạo đức, pháp luật… nhưng những tri
thức từ các môn học này khi đã được lựa chọn và tạo thành tri thức của môn
GDCD thì chúng phải chịu sự quy định một cách chặt chẽ về mục đích, yêu
cầu và cấu trúc của môn GDCD, phục vụ cho những yêu cầu xác định của
môn GDCD
* GDCD phải là môn khoa học có tính tư tưởng cao
Những nội dung môn GDCD đề cập và giải quyết dựa trên một hệ thống
tri thức của các bộ môn khoa học cụ thể xác định cũng như dựa trên hệ thống
các phạm trù, khái niệm của các bộ môn khoa học đó. Do vậy khi dạy và học
bộ môn phải luôn có chủ đích rõ ràng; phải nhằm đạt được mục đích gì; góp
phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc gì trong tư tưởng, tình cảm cũng
như trong nhận thức và thực tiễn cuộc sống. Từ đó củng cố niềm tin vào sự
thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH và CNCS
* Dạy và học môn GDCD phải coi trọng lý luận gắn với thực tiễn.
Tri thức môn GDCD chỉ được truyền đạt và lĩnh hội một cách sinh
động, phong phú và hấp dẫn khi nó được gắn liền với đời sống xã hội... vì
vậy khi giảng giáo viên cần hết sức chú ý gắn nội dung môn học với đòi sống
xã hội; lấy thực tiễn đòi sống mà minh họa, giải thích lí luận; không chỉ chú
trọng giờ dạy lí thuyết mà còn phải đảm bảo giờ thực hành một cách nghiêm
túc.
- Cần diễn đạt một cách rõ ràng mạch lạc và dễ hiểu. những kiến thức
của môn GDCD mang tính trừu tượng và khó đối với học sinh nên khi giảng
dạy giáo viên phaỉ diễn đạt sao cho phù hợp với trình độ học sinh, mà không
nên đi qúa sâu vaò các khái niệm chuyên nghành.
1.3. Đánh giá sách giáo khoa giáo dục công dân ở trường phổ thông hiện
nay.
1.3.1. Những ưu điểm của sách giáo khoa giáo dục công dân ở trường phổ
thông hiện nay
Sách giáo khoa hiện hành cơ bản đã được đổi mới theo tinh thần Nghị
quyết 40, đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu giáo dục, chuẩn kiến thức, kỹ
năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ
chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn
học, lớp học, cấp học giáo dục phổ thông được quy định trong Luật Giáo dục
năm 2005. Đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm cơ bản của SGK
trước, phù hợp với xu hướng quốc tế về phát triển SGK
Sách GK đã chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản của học sinh.
Nội dung SGK đã bao quát được chuẩn kiến thức, kỹ năng; về cơ bản
chuẩn kiến thức và kỹ năng phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh.

Nội dung giáo dục đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại và tiếp cận với
trình độ các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; đã chú ý tới sự liên
thông trong môn học, giữa các môn học, giữa các cấp học theo nguyên tắc kế
thừa và phát triển; bước đầu thể hiện được quan điểm dạy học tích hợp và
phân hoá.
1.3.2. Những hạn chế của sách giáo khoa giáo dục công dân ở trường phổ
thông hiện nay
Luật Giáo dục quy định: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
chương trình; duyệt và quyết định chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức,
ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Trên thực tế, cả nước chỉ có một bộ sách giáo khoa. Điều này dẫn đến chưa
huy động được sự sáng tạo phong phú của các tổ chức, cá nhân vào việc viết
các sách giáo khoa khác nhau như ở hầu hết các nước hiện nay;
Sách giáo khoa không phù hợp với điều kiện cụ thể của một số vùng,
miền; hạn chế tính năng động, sáng tạo của giáo viên và học sinh.
Nhà trường, giáo viên, học sinh chưa có kinh nghiệm và thói quen lựa
chọn, sử dụng các sách giáo khoa khác nhau.
Việc biên soạn sách giáo viên và sách bài tập tương ứng với sách giáo
khoa như hiện nay sẽ không phù hợp và không cần thiết khi có nhiều sách
giáo khoa khác nhau được biên soạn.
Chương 2
Kinh nghiệm xây dựng chương trình và sách giáo khoa
của một số Quốc gia
Chương 3
Phân tích chương trình giáo dục công dân ở trường phổ thông

3.1. Vị trí, vai trò của môn giáo dục công dân ở trường phổ thông
Nội dung chương trình môn GDCD ở trường THPT được cấu trúc thành
5 phần chính như sau:
- Phần I: Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp
luận khoa học.
- Phần II: Công dân với đạo đức.
- Phần III: Công dân với kinh tế.
- Phần IV: Công dân với các vấn đề chính trị- xã hội.
- Phần V: Công dân với pháp luật.
Năm phần trong chương trình trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau,
đồng thời có quan hệ với chương trình môn GDCD ở THCS theo nguyên tắc
đồng tâm, phát triển. Ngoài những bài học chính trong SGK, chương trình
còn dành một số thời gian cho các hoạt động thực hành, ngoại khóa, các vấn
đề gắn với tình hình địa phương. Nội dung và hình thức của các hoạt động
này, giáo viên căn cứ vào các phong trào chính trị - xã hội, địa phương, các
chủ trương, chính sách mới, các cuộc vận động chính trị-xã hội lớn của Đảng
và nhà nước để thực hiện phục vụ mục tiêu môn học.
Môn “Giáo dục công dân” giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Trong hệ thống các môn học ở
trường phổ thông, đây là môn góp phần hình thành thế giới quan lành mạnh ở
học sinh, giúp học sinh biết phân biệt lẽ phải, trái; biết tôn trọng bản thân và
tôn trọng người khác; biết sống trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu
thương và vị tha; biết “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Kiến
thức mà môn Giáo dục công dân trang bị cho học sinh còn giúp hình thành ở
học sinh những kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: biết tôn
trọng ý thức tổ chức kỷ luật, có niềm tin và thái độ đúng đắn trong việc nhận
thức, chấp hành pháp luật. Vị trí, vai trò của môn học này được thể hiện cụ
thể ở chỗ:
Thứ nhất: Giáo dục công dân giữ vị trí, vai trò quan trọng trong quá
trình hình thành nhân cách học sinh. Học sinh THPT, xét về mặt thể chất và
tâm lý, các em vừa tồn tại giống như người trưởng thành, nhưng đồng thời
trong cuộc sống các em cũng bộc lộ ra như những đứa trẻ nhỏ, sự nhận thức
về đạo đức, lối sống, về xã hội còn tinh khiết, trong trắng như tờ giấy. Chính
sự dạy dỗ của gia đình, nhà trường và xã hội ở lứa tuổi này sẽ giúp các em
hình thành nên nhân cách một con người trưởng thành đầy đủ về mặt chất.
Góp phần hình thành nên nhân cách ấy cho học sinh THPT là môn học Giáo
dục công dân. Những tri thức mà môn học này cung cấp sẽ hình thành cho các
em những quan niệm đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan; những tri
thức, niềm tin đạo đức; những quan niệm sống… từ đó hình thành nên các
hành vi, động cơ đạo đức tương ứng.
Thứ hai: Giáo dục công dân là môn học cung cấp cho học sinh cái
nhìn đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan từ đó các em biết nhìn nhận
mọi vấn đề một cách khách quan, không áp đặt ý kiến chủ quan của mình.
Nhận thức đúng đắn quá trình hình thành và phát triển của thế giới. Tin tưởng
vào sự phát triển của xã hội, tránh xa những hủ tục, lạc hậu và mê tín dị đoan.
Trở nên bình tĩnh trước mọi tình huống của cuộc sống. Có thái độ cầu thị
trong học tập, rèn luyện và lao động sản xuất. Đây là những đức tính tốt giúp
ích rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu của học sinh sau này. Là
con đường để hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Giáo dục công dân là phương tiện hữu hiệu để giúp học sinh
hình thành kỹ năng sống. Kỹ năng sống của học sinh là khả năng vận dụng
những kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết một
nhiệm vụ. Những kiến thức mà môn Giáo dục công dân cung cấp cho học
sinh còn giúp các em hình thành những kỹ năng quan trọng mà sau này các
em phải sử dụng trong cuộc sống như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ
năng tiếp nhận thông tin, kỹ năng nhận biết, kỹ năng phán đoán, kỹ năng phân
tích, kỹ năng phản hồi thông tin…. Nhờ những kỹ năng này mà học sinh có
thể tự tin hơn trong cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân gia đình và
xã hội.
Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, lẽ ra môn học này cần phải được
nhìn nhận ở mức độ cao, cần được tôn trọng, được đầu tư công sức để dạy và
học thật tốt. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, chất lượng dạy và học môn
học này trong thời gian qua còn có nhiều bất cập.
 Về phía người học: học sinh thường có tâm lý coi nhẹ môn học này, cho
nó là môn phụ, nên họ dành rất ít thời gian để quan tâm, học tập môn học.
Một số học sinh còn có thái độ thiếu nghiêm túc khi học môn học này. Đặc
biệt, với suy nghĩ môn Giáo dục công dân không phải là môn chính để tuyển
sinh vào đại học nên đa phần học sinh nhìn nhận phiến diện, lệch lạc môn học
này. Các em chỉ học để đối phó với giáo viên và để đủ điểm để lên lớp. Số
học sinh thật sự yêu quý môn học này trong phạm vi một trường học chỉ đếm
trên đầu ngón tay và chỉ tồn tại ở các em chọn môn học này để thi học sinh
giỏi để đạt giải cho có “thành tích” – làm bước nhảy để thi đại học. Hiện
tượng học sinh không mặn mà trong việc học môn Giáo dục công dân từ lâu
đã trở thành “nếp”, tạo nên sức ì về mặt tâm lí, truyền từ hết thế hệ học sinh
này đến thế hệ học sinh khác.
 Tuy nhiên, một cách công bằng cho thấy rằng, góp phần làm nên thực
trạng trên còn do phía người dạy, người quản lý. Về phía người dạy, qua thực
tế có thể nhận thấy, những kiến thức môn học vốn đã mang tính lý luận cao,
cứng nhắc lại được các thầy cô dạy học chủ yếu bằng phương pháp thuyết
trình truyền thống, không có tính chủ động, sáng tạo hay áp dụng phương
pháp học tập tích cực nên không chỉ tạo cảm giác khô khan, gượng ép mà còn
gây nên cảm giác mệt mỏi, thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận
kiến thức. Cá biệt, chính một số giáo viên còn lên lớp với tâm lý cho rằng
môn Giáo dục công dân là môn phụ nên ít có sự quan tâm, đầu tư trong việc
soạn giáo án, chuẩn bị bài lên lớp.
Đã đến lúc chúng ta phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm
túc, khách quan cả từ phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp
nâng cao chất lượng dạy và học môn học này, nhất là trong bối cảnh hiện đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay ở nước ta.
Nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân
trong nhà trường hiện nay, trước hết cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò, vị
trí của môn học này trong hệ thống các môn học trong trường phổ thông.
Người học, cần thay đổi thiên kiến của mình đối với môn học. Giáo viên phải
là người giúp các em đánh giá vị trí, vai trò của môn học trong việc trau dồi
nhân cách, hoàn thiện bản thân, từ đó có động cơ và thái độ học tập đúng đắn
đối với môn học. Ngoài ra, giáo viên cần phải luôn đổi mới, cải tiến phương
pháp giảng dạy. Thay phương pháp dạy học nhồi nhét sang phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên phải thường xuyên năng động, sáng
tạo ra những cách thức cụ thể trong việc làm “mềm” hoá môn học vốn được
xem là khô khan, trừu tượng. Thay những lý luận khô cứng bằng lý thuyết
mềm dẻo, linh hoạt gắn với những thí dụ sinh động trong đời sống thực tế. Có
thể thay cách thuyết giảng một chiều bằng việc nêu những câu hỏi gợi mở
nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số
tiết học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học
sinh vào bài học, có thể dàn dựng những vở kịch ngắn do chính học sinh thể
hiện. Mặt khác, cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh
hoạ, cùng các dụng cụ trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp. Các
phương pháp dạy học mới như dạy học kiến tạo, dạy học hợp tác, dạy học dự
án… là những phương pháp dạy học tích cực cần phải được áp dụng để nâng
cao chất lượng học tập môn học này.
Môn học “Giáo dục công dân” tự tên gọi đã nói lên vị trí quan trọng của
nó trong nội dung giáo dục toàn diện của nhà trường, góp phần tích cực vào
việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh để trở thành người hữu ích
cho gia đình và xã hội. Môn học Giáo dục công dân cần có vị trí xứng đáng
trong hệ thống các môn học nhằm thực hiện mục tiêu quan trọng “Học để làm
người”.
3.2. Mục tiêu của môn giáo dục công dân ở trường phổ thông
3.2.1. Mục tiêu của môn giáo dục công dân ở trường phổ thông thời kỳ quá
độ lên CNXH
- Nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế giới quan,
nhân sinh quan, các hệ thống giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị và
phương hướng phát triển kinh tế, xã hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong thời
kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở trang bị kiến thức mà
nâng cao trách nhiệm công dân của học sinh, xác định vị trí của bản thân với
tư cách là chủ thể phảt triển cá nhẫn, xã hội và tự nhiên.
- Mục tiêu đó dược thể hiện ở vai trò nhiệm vụ của bộ môn (GDCD) ở
trường THPT:
- Trang bị cho học sinh THPTmột cách tương đối có hệ thống các tri
thức phổ thông cơ bản, thiết thực của triết học duy vật biện chứng, của lý luận
về CNTB và CNXH về các vấn đề nhà nước và pháp quyền, về đạo đức, lối
sống, về các quan điểm xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh, con
người ngày càng ấm no, hạnh phúc.
- Bước đầu hình thành cho họ những quan điểm khoa học về con người,
thời đại cách mạng, về các quá trình kinh tế - xã hội diễn ra trên đất nước và
trên thế giới, từ đó hình thành niềm tin khoa học về lý tưởng cao đẹp CNXH –
CNCS hướng họ tới các giá trị chân,thiện, mĩ.
- Bước đầu bồi dưỡng cho học sinh những phương pháp tư duy biện
chứng, biết đánh giá các hiện tượng xã hội theo quan điểm khoa học, tiến bộ,
biết ủng hộ cái đúng, cái mới, đấu tranh chống cái sai, tiêu cực, lạc hậu, biết
kế thừa các truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Từng bước hình thành ở học sinh thói quen và kỹ năng vận dụng những
tri thức đã học vào cuộc sống, học tập lao động và sinh hoạt, giúp họ có định
hướng đúng đắn về tư tưởng, đạo đức trong các hoạt động xã hội, trong cuộc
sống hiện tại và tương lai sau này.
Tât cả các nhiệm vụ trên có quan hệ mật thiêt với nhau và phải được
thực hiện đồng bộ trong tất cả các giờ dạy học.
3.2.2. Mục tiêu của môn giáo dục công dân ở trường phổ thông thời kỳ
CNH, HĐH đất nước
VỀ KIẾN THỨC
- Nhằm giúp học sinh có kiến thức ban đầu về thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng.
- Biết được một số phạm trù cơ bản của đạo đức học, hiểu một số yêu
cầu đạo đức đói với người công dân hiện nay.
- Biết một số phạm trù quy luật kinh tế cơ bản, vai trò quản lý kinh tế
của nhà nước
- Biết được bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, hiểu đường
lối quan điểm của Dảng các chính sách quan trọng của nhà nước về xây dựng
và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Hiểu bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của công
dân, của đất nước; hiểu quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
- Hiểu trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện đường lối quan
điểm của Đảng pháp luật chính sách của nhà nước, hiểu rõ trách nhiệm đạo
đức, trách nhiệm tham gia kinh tế của công dân
VỀ KĨ NĂNG
- Vận dụng được các kiến thức đã học để phân tích đánh giá các hiện
tượng, các sự kiện các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù hợp với lứa tuổi
- Biết lựa chọn thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã
hội
- Biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, cái đẹp và đấu tranh phê phán đối với các
hành vi hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với khả năng của bản
thân.
VỀ THÁI ĐỘ
- Yêu cái đúng, cái tốt cái đẹp, không đồng tình với các hành vi việc làm
tiêu cực
- Yêu quê hương đất nước, trân trọng và phát huy các giá trị truyền thống
của dân tộc.
- Tin tưởng vào các đường lối, chủ trương của Đảng, tôn trọng pháp
luật, chính sách của nhà nước và các quy định chung của cộng đồng tập thể.
- Có hoài bão ước mơ và mục đích sống cao đẹp.
Để thực hiện được các nhiệm vụ đã nêu trên, chương trình môn GDCD
ở trường THPT hiện nay đã được đổi mới và cấu trúc thành một hệ thống chặt
chẽ.
3.3. Nội dung chương trình giáo dục công dân ở trường phổ thông
3.3.1. Nôi dung chương trình môn GDCD lớp 10
Được cấu trúc thành hai phần: công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và công dân với đạo đức.
Phần thứ nhất: công dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học
* Mục tiêu :
Về kiến thức : học xong phần này học sinh cần nắm được :
-Nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng.
-Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất ;thế giới vật chất vận động
và phát triển theo các quy luật khách quan ; song con người có thể nhận thức
và vận dụng được các quy luật khách quan đó.
- Thấy được mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động của chủ thể với
khách thể qua các mối quan hệ như: quan hệ giữa thực tiễn với nhận thức,
giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội ;con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa
là mục tiêu phát triển của xã hội.

Về kĩ năng :học sinh biết vận dụng những tri thức triết học với tư cách
là thế giới quan, phương pháp luận để phân tích các hiện tượng tự nhiên, xã
hội thông thường và các hiện tượng đạo đức, kinh tế, nhà nước pháp luật sẽ
được học ở các phần sau.
Về thái độ :phải tôn trọng quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội,
khắc phục được các biểu hiện duy tâm trong cuộc sống hàng ngày, phê phán
các hiện tượng mê tín dị đoan và các phong cách sống không lành mạnh trong
xã hội .
có quan điểm phát triển, ủng hộ và làm theo cái mới , cái tiến bộ, tham
gia tích cực và có trách nhiệm đối với các hoạt động cộng đồng .
* Nội dung chương trình :
Nội dung chương trinh phần này được sắp xếp thành 9 bài với thời
lượng phân bố như sau :
- Bài 1 ( 2 tiết ) thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng
- Bài 2 (2 tiết ) thế giới vật chất tồn tại khách quan.
- Bài 3 (1 tiết ) Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
- Bài 4 (2 tiết ) Nguồn gốc vận động và phát triển của các sự vật và
hiện tượng.
- Bài 5 (1 tiết ) cách thức vận động phát triển của các sự vật hiện
tượng.
- Bài 6 (1 tiết ) khuynh hướng vận động, phát triển của các sự vật hiện
tượng.
- Bài 7 (2 tiết ) Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức .
- Bài 8 (3 tiết ) Tồn tại xã hội và ý thức xã hội .
- Bài 9 (2 tiết ) con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát
triển của xã hội.
* Ngoài các bài học chính trong sách giáo khoa, chương trình còn có
một số chủ đề tự chọn. những chủ đề này bám sát chương trình nhằm củng cố,
khắc sâu kiến thức và giúp học sinh vận dụng lí luận vào thực tiễn cuộc sống.
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức
* Mục tiêu :
Về kiến thức: Học sinh phải nắm vững một số phạm trù đạo đức cơ bản
có quan hệ trực tiếp đến mục tiêu đào tạo THPT hiện nay.
Nắm được các yêu cầu cơ bản về đạo đức của người công dân Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về kĩ năng: học sinh phải có kĩ năng phân tích, đánh giá các quan điểm,
các hành vi, hiẹn tượng dạo đức trong đời sống hàng ngày ở gia đình , nhà
trường và xã hội .
Biết tự điều chỉnh, hoàn thiện bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội.
Về thái độ :
- Tôn trọng các giá trị đạo đức xã hội
- Có tình cảm và niềm tin đối với các quan điểm đạo đức đúng đắn, dám
phê phán các thái độ và hành vi đạo đức lệch lạc
- Có quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân theo các yêu
cầu đạo đức của xã hội.
* Nội dung chương trình :
Nội dung chương trình phần này được sắp xếp thành 7 bài với thời
lượng phân bố như sau :
- Bài 10 (1 tiết ) quan niệm về đạo đức.
- Bài 11 (2 tiết ) Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
- Bài 12 (2 tiết ) Cong dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình
- Bài 13 (2 tiết) Công dân với cộng đồng .
- Bài 14 (2 tiết ) Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
-Bài 15 (1 tiết ) Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại.
- Bài 16 (1 tiết ) Tự hoàn thiện bản thân .
Ngoài những bài học chính trong sách giáo khoa, chương trình còn có
một số chủ đề tự chọn. Những chủ đề này bám sát chương trình nhằm củng cố
khắc sâu kiến thức và giúp học sinh tập vận dụng lý luận vào thực tiễn cuộc
sống.
3.3.2. Nội dung chương trình môn GDCD lớp 11
Được cấu trúc thành hai phần: Công dân với vấn đề kinh tế và Công
dân với các vấn đề chính trị xã hội, gồm 27 tiết lí thuyết, trong đó :
Phần một gồm 7 bài (13 tiết lí thuyết ) . Công dânvới các vấn đề kinh
tế :nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết tối thiểu, cơ bản về phương
hướng phát triển kinh tế của đất nước thời kì hiện nay để từ đó các em có thể
xác định phương hướng học tập, lựa chọn ngành nghề hoặc các lĩnh vực hoạt
động khác sau khi ra trường.
* Mục đích yêu cầu :
+ Về kiến thức : học sinh hiểu một số quy luật phạm trù kinh tế cơ bản
và phương hướng phát triển kinh tế trong thời kì CNH –HĐH của nước ta ,
đồng thời hiểu trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng phát triển kinh
tế của cá nhân, gia đình, đất nước
+ Về kĩ năng : Vận dụng các kiến thức đã học vào lí giải một số vấn đề
về phát triển kinh tế trong đời sống xã hội
Có kĩ năng nhận xét, đề xuất, tham gia giải quyết các hiện tượng kinh tế
gần gũi và phù hợp với lứa tuổi
Có kĩ năng định hướng nghề nghiệp phù hợp với cá nhân và nhu cầu
phát triển của xã hội
+ Về thái độ: tin tưởngvào đường lối chính sách phát triển kinh tế của
Đảng, nhà nước, tin tưởng vào khả năng của bản thân trong việc xây dựng
kinh tế gia đình và góp phần phát triển kinh tế đất nước.
* Kết cấu cụ thể gồm :
+ Bài 1 (2 tiết ) công dân với sự phát triển kinh tế
+ Bài 2 ( 3 tiết ) hàng hóa - tiền tệ -thị trường
+ Bài 3 ( 2 tiết ) quy luật giá trị trong sản xuất, lưu thông,hàng hóa.
+ Bài 4 ( 1 tiết ) cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hóa
+ Bài 5 (1 tiết ) cung – cầu trong sản xuất lưu thông hàng hóa
+ Bài 6 (2 tiết ) CNH, HĐH đất nước.
+ Bài 7 (2 tiết ) thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và
tăng cường vai trò quản lí kinh tế của nhà nước.
Phần hai gồm 8 bài (14 tiết lí thuyết ) nhằm giúp cho học sinh
những hiểu biết cơ bản về chính trị –xã hội dể họ có thể xác định được trách
nhiệm công dân đối với việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
* Mục đích yêu cầu :
Về kiến thức :học sinh hiểu được một số vấn đề về CNXH : nắm được
một số chính sách lớn của nhà nước (chính sách dân số, bảo vệ tài nguyên
môi trường, an ninh quốc phòng, đối ngoại …vv).Hiểu được tính tất yếu và
đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Hiểu được bản chất của
nhà nước và nền dân chủ XHCN ở nước ta. Nám được nội dung cơ bản về
một số chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Về kĩ năng :Biết vận dụng kiến thức để phân biệt sự khác nhau về bản
chất giữa nhà nước ta với các kiểu nhà nước trước kia. Biết thực hiện các
quyền dân chủ XHCN ; biêt vận dụng hiểu biết để tuyên truyền dường lối
chính sách của đảng, sống và làm việc theo đúng đường lối chính sách của
Đảng pháp luật của nhà nước. Biết tìm hiểu, phân tích, đánh giá một số vấn đề
gần gũi trong đời sống chính trị, xã hội hiện nay.
Về thái độ : Có ý thức đúng đắn về trách nhiệm công dân đối với việc
xây dựng, bảo vệ nhànước và chếđộ XHCN. tin tưởng ủng hộ chủ trương
đường lối của đảng, dám đấu tranh phê phán các quan điểm và biểu hiện sai
lầm. ,tự giác thực hiện tốt đường lối, chủ trương chính sách của đảng và pháp
luật của nhà nước.
* Kết cấu cụ thể gồm :hai nhóm bài :
Nhóm 1: một số vấn đề về CNXH gồm 3 bài ( 8,9,10 )
+Bài 8 ( 2tiết ) CNXH
+ Bài 9 ( 3 tiết ) nhà nước XHCN.
+ Bài 10 (2 tiết ) nền dân chủ XHCN.
Nhóm 2 một số chính sách lớn ở nước ta :gồm 5 bài ( 11,12,13,14,15,)
+Bài 11 ( 1 tiết) chính sách dân số và giải quyết việc làm.
+ Bài 12 ( 1 tiết ) chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường.
+ Bài 13 (3 tiết ) chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hóa.
+ Bài 14 (1 tiết ) chính sách quốc phòng và an ninh.
+ Bài 15 (1 tiết ) chính sách đối ngoại.
Ngoài các bài trên chương trình còn một số nội dung tự chọn dể củng cố
ôn luyện kiến thức đã học cho học sinh.
3.3.3. Nội dung chương trình lớp 12 :
* Mục tiêu
Về kiến thức
- Nêu được khái niệm, bản chất của PL, mối quan hệ giữa PL với KT,
CT, đạo đức.
- Hiểu được vai trò của PL với đời sống của cá nhân, Nhà nước và XH.
- Hiểu được thế nào là vi phạm PL và trách nhiệm pháp lí, các loại vi
phạm PL và trách nhiệm pháp lí.
- Hiểu được bản chất giai cấp, xã hội của pháp luật, mối quan hệ biện
chứng giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức.
 - Nhận biết được vai trò, giá trị cơ bản của pháp luật đối với sự tồn tại
và phất triển của mỗi công dân, nhà nước và xã hội.
 - Hiểu được một số nội dung cơ bản của pháp luật liên quan đến thực
hiện và bảo vệ quyền bình đẳng, tự do, dân chủ và phát triển của công dân.
  Về kỹ năng
- Biết đánh giá hành vi xử sự cử bản thân và những người xung quanh
theo những chuẩn mực của PL.
- Biết cách thực hiện Pl phù hợp lứa tuổi...
Về thái độ
- Có ý thức tôn trọng PL, tự giác sống và học tập theo qui định của PL.
Nâng cao ý thức tôn trọng PL.
- Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng PL và phê phán những hành vi
vi phạm PL.
* Cấu trúc chương trình gồm các bài:
Bài 1: Pháp luật và đời sống (3t)
Bài 2: Thực hiện pháp luật (3t)
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật (1t)
Bài 4: Quyền bình đẳng của CD trong một số lĩnh vực của đời sống (3t)
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo (2t)
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4t)
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (3t)
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân (2t)
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước (4t)
Bài 10: Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại (2t)
Chương 4
Phát triển chương trình chương trình giáo dục công dân
ở trường phổ thông

4.1. Những yêu cầu về phát triển chương trình giáo dục công dân ở
trường phổ thông
4.2. Xây dựng nội dung chương trình giáo dục công dân ở trường phổ
thông gắn liền với xu thế đổi mới của đất nước
4.3. Xây dựng kế hoạch dạy học chương trình giáo dục công dân ở
trường phổ thông
4.4. Xác định phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương trình
giáo dục công dân ở trường phổ thông

You might also like