Professional Documents
Culture Documents
Đặc điểm Chương trình dựa theo nội dung Chương trình dựa theo năng lực
Mô hình chương trình
Trọng · Vận dụng kiến thức vào cuộc
· Tiếp nhận kiến thức
điểm sống.
Kiểu · Người học và người dạy cùng
· Từ người dạy đến người học
hoạt động hợp tác
· Vận dụng kiến thức, kĩ năng,
· Chủ yếu tiếp nhận kiến thức,
thái độ theo kiểu tích hợp trong bối
kĩ năng nhận thức;
cảnh thực để phát triển dần năng lực.
· Nhấn mạnh kĩ năng nhận thức, tư
Kiểu học · Nhấn mạnh kĩ năng nhận thức, tư
duy phê phán, kĩ năng giao tiếp, kĩ
tập duy logic.
năng hợp tác.
· Mỗi kiến thức, kĩ năng được học
· Mỗi năng lực được phát triển liên tục
không liên tục, ít lặp lại và ở từng
theo hình xoăn ốc ở nhiều lĩnh
môn học.
vực/môn học, dọc theo thời gian.
· Vừa cung cấp nguồn lực, vừa
Trách · Chịu trách nhiệm cung cấp
chịu trách nhiệm đến kết quả cuối
nhiệm các nguồn lực hỗ trợ là chủ yếu.
cùng.
Các thành tố chương trình
· Mức độ phát triển năng lực
· Yêu cầu về từng kiến thức, kĩ
(tổng hoà kiến thức, kĩ năng, thái độ,
năng, thái độ cụ thể.
Mục tình cảm, động cơ và xúc cảm).
tiêu/ kết quả · Được phát triển trên cơ sở nhu cầu
· Được xác định trên cơ sở yêu cầu
đầu ra của công việc trong xã hội.
về nội dung môn học.
· Là kì vọng đối với cả người học và
· Là kì vọng đối với người học.
người dạy.
· Lựa chọn những năng lực cần
· Lựa chọn những tri thức cần
thiết cho HS trong cuộc sống.
Nội thiết từ khoa học của môn học.
· Tổ chức nội dung chủ yếu theo cách
dung học tập · Tổ chức nội dung chủ yếu là theo
tích hợp giúp hình thành và phát triển
logic khoa học môn học.
năng lực.
Phương · Xuất phát từ kinh nghiệm · Xuất phát từ kinh nghiệm gắn
pháp dạy và trong quá trình nghiên cứu khoa học kết với cuộc sống thực.
học môn học. · Thông qua trải nghiệm, chú ý đến
· Chú ý đến việc tổ chức học tập các việc tổ chức phát triển tiềm năng sẵn
nội dung trong chương trình. có ở mỗi người.
· Thích ứng với kinh nghiệm đã có · Thích ứng với kinh nghiệm mỗi
của cả lớp khi học tập mỗi môn học. người trong học tập và cuộc sống.
· Nhấn mạnh những kết quả đầu
· Nhấn mạnh những kiến thức,
ra thực sự ở mỗi HS
kĩ năng đã được quy định.
· Tập trung đánh giá quá trình (theo
· Tập trung vào đánh giá tổng kết.
dõi sự tiến bộ) và đánh giá tổng kết.
Đánh giá · Tập trung đo lường nhiều năng lực
· Tập trung đo lường các mục tiêu
người học trong quá trình HS tham gia hoạt động
môn học đơn lẻ.
thực;
· Chủ yếu do GV thực hiện.
· Do GV và HS thực hiện.
· Thường thu thập thông tin tại các
· Thông tin được thu thập trong suốt
thời điểm cố định.
quá trình (hồ sơ, dự án,…).
Bảng 1. So sánh chương trình dựa theo nội dung với chương trình dựa theo năng lực
người học
(Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự)
2.9. Tiếp cận sáng tạo và khởi nghiệp
Tiếp cận sáng tạo và khởi nghiệp hướng đến mục tiêu cốt lõi là năng lực sáng tạo và
năng lực khởi nghiệp.
+ Các năng lực nghề nghiệp : năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hành động
+ Các kĩ năng mềm: kĩ năng hợp tác, kĩ năng giao tiếp (trong đó có kĩ năng giao tiếp
bằng ngoại ngữ), kĩ năng quản lí và lãnh đạo, kĩ năng sử dụng thành thạo các thành tựu của
CNTT&TT, kĩ năng làm việc trong môi trường đa văn hóa, kĩ năng tư duy phản biện…
Với mục tiêu chương trình đã được phác thảo như trên thì việc tổ chức nội dung
chương trình phải tuân thủ nguyên tắc tích hợp, liên ngành, xoáy ốc. Nội dung chương
trình không thể chỉ là các môn học, cũng không chỉ là một ngành khoa học đơn lẻ, như toán
học, vật lí học… mà phải là một lĩnh vực, đại loại như khoa học về trái đất, khoa học về
cuộc sống, khoa học về môi trường, khoa học về hạnh phúc…
Hình thức tổ chức dạy học trong thực thi chương trình mới phải lấy trải nghiệm sáng
tạo làm chủ đạo. Mọi kiến thức mới phải được người học tự kiến tạo thông qua trải nghiệm
của bản thân trong bối cảnh thực của cuộc sống.
Trong hình thức tổ chức dạy học như vậy thì việc lựa chọn và kết hợp các phương pháp
dạy học tích cực là điều bắt buộc. Hỗ trợ cho các phương pháp này sẽ là các phương tiện,
kĩ thuật dạy học hiện đại,trong đó chủ yếu là các phương tiện của CNTT. Các kĩ thuật đánh
giá lớp học được sử dụng thường xuyên nhằm mục đích kích thích, tạo động lực, giúp
người học tiến bộ trong suốt quá trình học tập.
Hình thức đánh giá tổng kết trong thực thi chương trình mới cũng được đổi mới.
Thay vì một bài thi, tiểu luận…kết quả học tập phải được thể hiện dưới dạng một sản phẩm
có tính sáng tạo của cá nhân hoặc nhóm, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Để có thể thiết kế và tổ chức thực thi chương trình giáo dục theo mô hình trên, cần
tuân thủ các nguyên tắc tối thiểu sau:
• Chương trình phải lấy người học, sự học làm gốc.
Trong mọi hoạt động giáo dục người học luôn được xem là chủ thể quan trọng nhất.
Mỗi người học phải là một cá thể với nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở trường riêng, và cần
được tôn trọng. Thực tế là mỗi người học phải tự rèn luyện những phẩm chất, năng lực cho
riêng mình, bằng cách của mình, trên cơ sở những tiềm năng vốn có của bản thân, không
ai học hộ được cho ai. Chương trình mới cũng cần tuân thủ nguyên tắc này.
• Trải nghiệm sáng tạo trong dạy học là điều bắt buộc.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở để hình thành năng lực. Nhưng chỉ những kiến thức
do người học tự kiến tạo (dưới sự hướng dẫn của thầy) mới là cơ sở để hình thành năng
lực. Do vậy dạy học phải lấy hình thức trải nghiệm là cơ bản. Thông qua trải nghiệm người
học tự kiến tạo kiến thức cho bản thân. Trong trải nghiệm người học có thể gặp thất bại,
song chính thất bại là con đường ngắn nhất tới năng lực.
• Chọn lọc những vấn đề cốt lõi
Năng lực không phát triển theo tuyến tính, mà theo hình xoắn ốc. Năng lực cần được
rèn luyện hàng ngày, liên tục, lặp đi lặp lại trong suốt quá trình học tập. Do vậy chỉ nên lựa
chọn những vấn đề, những nội dung cốt lõi, tổ chức phù hợp với quá trình rèn luyện năng
lực
• Mở cửa trường ra xã hội lấy bối cảnh sống làm bối cảnh dạy học
Năng lực không thể rèn luyện được trong lớp học. Những kiến thức trong sách cần
được vận dụng trong bối cảnh thực, giải quyết những vấn đề trong cuộc sống thực.
• Dạy học phân hóa, tiến tới cá thể hóa
Như đã nói ở trên, mỗi người học là một cá thể, có sở trường, hứng thú, điểm
yếu, điểm mạnh riêng. Do vậy, không thể yêu cầu mọi người học đều phải giỏi như nhau
về tất cả các lĩnh vực. Trong một lớp học người học phải đồng đều về trình độ nhận thức,
về nguyện vọng…. Những người kém hơn, hoặc giỏi hơn phải được học theo một lộ trình
khác.
• Đánh giá thường xuyên, theo quá trình, vì sự tiến bộ của người học trong
suốt quá trình học tập là yếu tố quyết định chất lượng của quá trình giáo dục và
đào tạo.
Đánh giá trong dạy hoc ở tất cả các bậc học là công cụ quan trọng nhất, quyết định
chất lượng của cả quá trình dạy học và giáo dục. Trong đó đánh giá thường xuyên, theo
quá trình với các hình thức đa dạng, phong phú, là yếu tố quan trọng nhất. Các hình thức
đánh giá này không chỉ động viên, khích lệ, tạo động lực cho người học, mà còn giúp người
học tiến bộ không ngừng trong suốt quá trình học tập. Đây cũng là việc giáo dục thực hiện
một mục đích nhân văn nhất của mình là giúp người học tiến bộ hàng ngày. Cần nhớ “người
học đi học không phải để đánh giá, nhưng người học có quyền được đánh giá để tiến bộ
không ngừng”. Còn đánh giá kếtquả (hay đánh giá tổng kết) chỉ có một mục đích duy nhất
là biết người học đỗ hay trượt, và hết…