You are on page 1of 13

BÀI ĐÁNH GIÁ HẾT HỌC PHẦN

Phần I: Kiến thức về chính trị, về quản lý nhà nước và các kỹ năng
chung
BÀI LÀM
Câu 1: Để thực hiện được sứ mệnh góp phần phát triển xã hội, Giáo
dục Đại học cần được đảm bảo những yêu cầu nào? Việc thực hiện các yêu
cầu đó ở Việt Nam có thể gặp những trở ngại gì? Hãy nêu hướng khắc phục
các trở ngại đó.
Trả lời:
1. Để thực hiện được sứ mệnh góp phần phát triển xã hội, Giáo dục
Đại học cần được đảm bảo những yêu cầu nào?
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay, Giáo dục Đại học cần được đổi mới trên cơ sở vẫn giữ vững những nét
đặc thù của giáo dục đại học trong nước, đồng thời tiệm cận được các chuẩn
chung của thế giới. Vì vậy, Giáo dục Đại học cần đảm bảo những yêu cầu sau:
a. Chuẩn hóa chương trình đào tạo về kiến thức và kỹ năng, đáp ứng
linh hoạt nhu cầu nhân lực của thị trường lao động

Chương trình đào tạo bao gồm khung chương trình và chương trình chi tiết
các học phần.

- Đối với khung chương trình: Khi xây dựng, cần thống nhất chung về số tín
chỉ, số học phần đối với các ngành đào tạo; về cấu trúc học phần theo hướng
giảm thời lượng lý thuyết, tăng thời lượng thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm,
thực tập, thảo luận, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên (SV); về tính liên thông
các học phần thuộc khối ngành, nhóm ngành; về số lượng các học phần tự
chọn…

- Đối với chương trình chi tiết các học phần: Khi xây dựng, cần dựa trên các
nội dung: thông tin về giảng viên (GV), môn học, mục tiêu môn học; tóm tắt nội
dung môn học; nội dung chi tiết môn học; học liệu; hình thức tổ chức dạy học;

1
các quy định đối với môn học và các yêu cầu khác của GV; phương pháp kiểm
tra, đánh giá học phần.

Thực tiễn đào tạo ở nhiều trường đại học hiện nay cho thấy, chương trình
đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, dẫn tới chất lượng đào tạo chưa
thật sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. SV tốt nghiệp ra trường còn thiếu nhiều
kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng “mềm” (như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng
giao tiếp…) và khả năng ngoại ngữ. Vì thế, phải mất một thời gian SV mới thích
ứng được với công việc mà mình đảm nhận. Thậm chí có những SV còn phải
đào tạo lại mới sử dụng được.

Để chương trình đào tạo được chuẩn hóa, khi xây dựng cần tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:

- Đảm bảo chất lượng đào tạo: Đảm bảo đào tạo ở bậc cao về các năng lực
nhận thức, năng lực thực hành, năng lực tư duy và phẩm chất nhân văn cho
người học; Đảm bảo tính khoa học, tính cập nhật và tính thực tiễn của chương
trình đào tạo; Phù hợp với yêu cầu của người học và đáp ứng thị trường nhân
lực, yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội trong nước và hội nhập quốc tế…

- Đảm bảo hiệu quả đào tạo: Phải bao gồm một số học phần có tính kế thừa
cao, tránh sự trùng lặp; những học phần để tạo kiến thức rộng cần được biên
soạn có độ nén cao, mang tính tích hợp mạnh để “học một biết mười”; Các học
phần SV có thể tự học nhờ các kiến thức cơ bản, cơ sở đã được trang bị thì giảm
thời lượng lên lớp; Phải bao gồm các học phần bắt buộc, tự chọn có hướng dẫn
và tùy ý để làm mềm hóa quá trình đào tạo và làm tăng hiệu quả đào tạo; Có sự
liên thông giữa các chương trình, các bậc học…

- Đảm bảo hiệu suất đào tạo: Được modul hóa triệt để thành các học phần để
có thể lắp ghép thành các chương trình đào tạo khác nhau; Có nhiều học phần
dùng chung được cho các chương trình đào tạo khác nhau; Chương trình được
chia thành các khối kiến thức giáo dục đại cương, giáo dục chuyên nghiệp để

2
làm tăng đáng kể hiệu suất đào tạo, nhất là trong các trường đại học đa ngành,
đa lĩnh vực…

- Đảm bảo tính sư phạm: Phải mang tính khả thi cao về mặt thời lượng cũng
như nội dung; Cần dành thời gian thích đáng cho các hoạt động chủ động của
SV (xemina, hội thảo, thảo luận nhóm, đối thoại, thực hành, thực tập…); Khối
lượng kiến thức đưa vào chương trình phải phù hợp với thời gian đào tạo, tránh
quá tải hoặc ngược lại quá nhàn rỗi; Phải bao gồm các học phần cơ bản, cơ sở,
chuyên ngành của một ngành học để có thể dễ dàng nâng dần trình độ và năng
lực của SV trong quá trình đào tạo sau này
b. Đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá theo hướng
phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc
nhóm của sinh viên
* Đổi mới phương pháp dạy học

Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) hiện đang là một yêu cầu cấp thiết
đối với các trường đại học, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự đổi mới PPDH cần triển khai theo các
định hướng sau đây:

- Phải tiến hành một cách đồng bộ: PPDH là một yếu tố của quá trình đào
tạo đại học, có mối quan hệ với các yếu tố khác. Do đó muốn đổi mới PPDH,
không thể không đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, xây dựng và
phát triển đội ngũ GV; cơ sở vật chất thiết bị phục vụ đào tạo; kiểm tra, đánh giá
kết quả đào tạo. Điều rõ ràng là việc đổi mới PPDH của trường đại học chỉ thực
hiện được khi mục tiêu của trường đại học hướng vào việc đào tạo nhân lực tư
duy nhân lực tạo nghiệp; Các học phần có đủ tài liệu, giáo trình được biên soạn
dưới dạng vấn đề, tình huống có vấn đề; Nhà trường có thiết bị dạy học mới như
overhead, projector, multimedia; Việc kiểm tra, đánh giá nhằm vào lĩnh vực
nhận thức bậc cao của SV (áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá)…

3
- Phải hướng vào việc phát huy tính tích cực, chủ động của SV, tránh lối
truyền thụ một chiều, nhồi nhét kiến thức, tiến tới dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề.

Đây là định hướng cơ bản nhất đối với việc đổi mới PPDH ở trường đại
học, nhằm tạo ra khâu đột phá, từ bỏ thói quen thụ động, chuyển sang cách học
có nghiên cứu, tích cực, chủ động. Theo định hướng này phải đổi mới cách dạy
của của GV và cách học của SV.

+) Về cách dạy của GV

GV phải dạy cho SV năng lực nhận thức, năng lực tư duy sáng tạo. Muốn thế
người GV phải nắm vững năng lực nhận thức, năng lực tư duy của SV và phải
áp dụng các phương pháp khác nhau, tùy theo mục tiêu, tính chất của học phần,
đặc điểm của người học, lớp học…

+) Về cách học của SV

Trong cách học của SV cần chú trọng đến phương pháp tự học. Có hình
thành được phương pháp tự học, SV mới có thể thích ứng nhanh với phương
thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) và việc học tập suốt đời, trong bối
cảnh khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh tự học, cần chú ý đến
“cùng học”. Cùng học (theo nhóm, tổ, lớp) mới rèn luyện cho SV khả năng hợp
tác, khả năng thuyết phục và khả năng quản lý.

- Phải có bước đi và mức độ thích hợp cho việc đổi mới PPDH

Hiện nay, ở nhiều trường đại học còn có khó khăn về giáo trình, tài liệu
học tập của SV, về đội ngũ GV (nhất là đối với những ngành mới) và về cơ sở
vật chất, thiết bi… trong khi quy mô đào tạo không ngừng tăng lên. Điều đó, đòi
hỏi việc đổi mới PPDH ở đại học phải có bước đi thích hợp, cụ thể là:

+) Cần xác định đổi mới PPDH ở đại học là một quá trình lâu dài, phức tạp.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, muốn thay đổi một cách dạy,
một cách học (ví dụ chuyển từ dạy học thụ động sang dạy học tích cực) ở đại

4
học phải mất nhiều năm. Điều đó lưu ý chúng ta không nên nóng vội nhưng
cũng cần phải khẩn trương ở những khâu có thể cải tiến, “đột phá” ngay được.

+) Lựa chọn các học phần, các tổ bộ môn, các khoa có điều kiện triển khai
trước việc đổi mới PPDH để rút kinh nghiệm chung cho toàn trường.

+) Tiến hành đổi mới PPDH theo các mức độ khác nhau: Thuyết trình có
đàm thoại, thảo luận; Tổ chức dạy học theo cách hướng dẫn SV học tập là chính;
Tổ chức dạy học theo hướng phát hiện và giải quyết vấn đề; Tổ chức dạy học
theo hướng nghiên cứu…
* Đổi mới phương pháp đánh giá

Trong đào tạo theo HTTC, người ta áp dụng các thang điểm đánh giá kết
quả học tập (gồm thang điểm 10, thang điểm chữ A, B, C, D, F và thang điểm
4). Đây là hệ thống thang điểm rất khoa học, được các trường đại học hàng đầu
trên thế giới áp dụng và đây cũng là tiêu chí để đánh giá quá trình đào tạo theo
HTTC có triệt để không.

Thang điểm 4 rất có lợi cho SV: SV chỉ cần đạt điểm học phần 8.5 (thang
điểm 10) thì khi quy đổi sang thang điểm 4 sẽ là điểm A=4 (điểm cao nhất của
thang điểm 4); SV đạt điểm học phần từ 4.0-4.9 (thang điểm 10) là điểm không
đạt đối với học chế niên chế, nhưng trong HTTC, khi quy đổi sang thang điểm 4
là điểm D=1 lại là điểm đạt; Trong học chế niên chế, SV muốn có kết quả học
tập xếp loại khá thì điểm trung bình chung của tất cả các học phần tối thiểu là 7,
trong khi đào tạo theo HCTC chỉ cần một nửa số tín chỉ tích lũy có điểm học
phần 7.0 và nửa số còn lại có điểm học phần 5.5 là được…

Để áp dụng thang điểm 4 trong đánh giá kết quả học tập của SV, cần thực
hiện tốt một số điều sau đây: Phải làm cho SV hiểu rõ về các thang điểm trong
đào tạo theo HTTC; Thường xuyên cảnh báo đối với SV trong quá trình học tập
có nhiều học phần điểm D (4.0-5.4) nếu không có các học phần cao điểm hơn bù
lại thì SV đó dù tích lũy đủ các học phần của chương trình đào tạo nhưng vẫn
không đủ điều kiện về điểm trung bình chung tích lũy để được công nhận tốt

5
nghiệp ( tối thiểu từ 2.0); Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho SV có cơ hội học cải
thiện điểm và học lại những học phần chưa đạt; Sử dụng thang điểm chữ nhiều
mức (B+ và B; C+ và C; D+ và D)…
c. Đổi mới quản lý giáo dục đại học
- Phân cấp hợp lý: Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện chiến lược giáo
dục; Bộ tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo
dục, xây dựng chính sách và quy chế quản lý nội dung và chất lượng đào tạo;
kiểm tra, thanh tra.
- Tăng cường tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học.
- Cải cách hành chính trong giáo dục và đổi mới quản lý giáo dục; Chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ quản lý; Xây dựng hệ thống đảm bảo, kiểm định công nhận
chất lượng; Xây dựng hệ thống thông tin quản lý giáo dục.
d. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu và chuẩn hóa về trình độ
Đội ngũ cán bộ quản lý, GV đóng vai trò quan trọng trong ĐBCL đào tạo
của trường đại học. Vì thế, các trường đại học phải xem phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý, GV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa về trình độ là
nhiệm vụ trung tâm của mình.
* Đối với đội ngũ cán bộ quản lý
Cần phải quy hoạch bổ nhiệm cán bộ quản lý đáp ứng mục tiêu, chức năng,
nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường đại học; có quy trình,
tiêu chí tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng, minh bạch; bồi dưỡng để bổ sung, cập
nhật các kiến thức, kỹ năng về khoa học quản lý, quản trị trường đại học theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cho đội ngũ Hiệu trưởng,
Phó Hiệu trưởng; nâng cao tầm nhìn chiến lược, năng lực sáng tạo và tính
chuyên nghiệp của cán bộ lãnh đạo quản lý trường đại học.
* Đối với đội ngũ giảng viên
Nâng cao ý thức, lòng say mê nghề nghiệp và tính gương mẫu, mô phạm
của người GV; Tạo cơ hội cho GV được nâng cao bằng cấp (thạc sĩ hoặc tiến
sĩ); Chuẩn bị cho GV trong các lĩnh vực như phương pháp sư phạm, thiết kế và
6
phát triển giảng dạy, phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao bằng cấp về
tâm lý sư phạm, đo lường và thống kê; Giúp GV phát triển và sử dụng PPDH
tương tác và các PPDH tích cực; Tạo điều kiện để GV tiếp cận với các nguồn tri
thức mới, chương trình dạy học hiện hành, các tài liệu dạy học liên quan trên
mạng; Hình thành ở người GV những khả năng cần thiết, đáp ứng với một môi
trường đang thay đổi, đó là: Biết và hiểu cách học khác nhau của SV; có kiến
thức, kỹ năng và quan điểm liên quan đến việc kiểm tra, đánh giá SV nhằm giúp
đỡ họ học tập; Nhạy cảm trước những dấu hiệu của thị trường bên ngoài và coi
trọng nhu cầu của nhà tuyển dụng; Hiểu biết về khách hàng, coi trọng quan điểm
và niềm say mê của những người có liên quan, bao gồm cả SV; hiểu biết ảnh
hưởng của nhân tố văn hóa quốc tế và đa văn hóa đối với chương trình học…
e. Tăng cường sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ với hoạt động đào tạo của nhà trường

Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của từng quốc gia,
từng doanh nghiệp thì kết hợp chặt chẽ giữa công tác đào tạo với nghiên cứu
khoa học là một xu thế tất yếu, một giải pháp tích cực của nền GDĐH năng
động và sáng tạo.

Để đào tạo và nghiên cứu khoa học gắn kết chặt chẽ, hiệu quả, cần thực
hiện tốt các yêu cầu sau đây: Hoàn thiện hệ thống mục tiêu đào tạo của từng
chuyên ngành trong các trường đại học, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống
chương trình nghiên cứu khoa học theo các chuyên ngành; Tổ chức các hội thảo
về công tác đào tạo giữa các trường đại học với các cơ quan sử dụng nhân lực,
lấy ý kiến góp ý của cơ quan sử dụng về  những ưu điểm, hạn chế của SV tốt
nghiệp; Ðổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo theo xu hướng
giảm số tiết giảng dạy lý thuyết chung, tăng thời gian xử lý bài tập tình huống,
giờ học thực hành, tổ chức thực tập theo các môn học có báo cáo thu hoạch,
chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu theo hướng dẫn của GV bộ môn; Nâng cao
hiệu quả thiết thực của việc thực tập cho SV tại cơ sở thực tế; Liên kết hợp tác

7
và nghiên cứu khoa học với các cơ quan kinh doanh và cơ quan nghiên cứu; Mở
rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa
học; Hiện đại hóa thư viện, trung tâm thông tin tư liệu, các cơ sở thực hành,
phòng thực nghiệm, phòng nghiên cứu chức năng; Ðầu tư kinh phí thích đáng
cho hoạt động nghiên cứu khoa học để khuyến khích, động viên cán bộ nghiên
cứu, GV và SV tích cực tham gia hoạt động này.
f. Huy động nguồn lực và cơ chế tài chính
- Đảm bảo ngân sách chung danh cho giáo dục là 20%, khuyến khích các
địa phương tăng ngân sách đầu tư, tranh thủ vay của WB, ADB cho các dự án
giáo dục và đào tạo.
- Hằng năm, nhà nước dành ngân sách đưa cán bộ khoa học đi đào tạo ở
các nước tiên tiến.
- Hiện đại hóa trang thiết bị; Xây dựng một số phòng thí nghiệm quốc gia ở
các trường đại học đầu ngành.
- Hỗ trợ các trường ngoài công lập, tạo điều kiện để các trường ngoài công
lập phát triển.
- Thực hiện chính sách học phí và chia sẻ chi phí đào tạo.
- Tăng cường quan hệ nhà trường với các ngành, địa phương, thu hút các
đoàn thể làm giáo dục.
g. Đảm bảo các điều kiện về học liệu, trang thiết bị học tập, cơ sở vật
chất đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và sinh viên
Các điều kiện về học liệu, trang thiết bị học tập, cơ sở vật chất đóng một
vai trò quan trọng trong việc ĐBCL đào tạo của trường đại học. Vì thế, các điều
kiện này phải đáp ứng những yêu cầu sau đây: Thư viện của trường được nối
mạng, có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nước
ngoài; Có đủ số phòng học, giảng đường lớn, phòng thực hành, thí nghiệm phục
vụ cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa của từng ngành đào tạo; Có đủ
trang thiết bị giảng dạy và học tập để hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo và nghiên
cứu khoa học, được đảm bảo về chất lượng và sử dụng có hiệu quả; Cung cấp
đầy đủ thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả các hoạt động giảng dạy, học tập,
8
nghiên cứu khoa học và quản lý; Có đủ diện tích lớp học theo quy định cho việc
giảng dạy và học tập; có ký túc xá cho người học, đảm bảo đủ diện tích nhà ở và
sinh hoạt cho SV nội trú; có trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt động văn hoá,
nghệ thuật, thể dục thể thao theo quy định; Có quy hoạch tổng thể về sử dụng và
phát triển cơ sở vật chất trong kế hoạch chiến lược của trường…
h. Đẩy mạnh đổi mới quản lý đào tạo theo hướng phân cấp cho các
phòng ban, trung tâm, khoa
Phân cấp cho các phòng ban, trung tâm, khoa trong quản lý đào tạo là một
yêu cầu cấp thiết, nhất là khi các trường đại học đã chuyển sang đào tạo theo
HTTC. Việc phân cấp này vừa huy động được sự tham gia, vừa phát huy được
vai trò của các phòng ban, trung tâm, khoa trong quản lý đào tạo. Tuy nhiên, để
có thể phân cấp, cần xác định rõ trách nhiệm của Ban Giám hiệu nhà trường, các
phòng ban, trung tâm, các khoa đào tạo, GV trong quản lý đào tạo. Đồng thời
phải xây dựng hệ thống văn bản chặt chẽ, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ của
các phòng ban, trung tâm, khoa trong công tác quản lý đào tạo; xây dựng phần
mềm quản lý đào tạo tiện ích và thân thiện đối với người sử dụng
i. Giáo dục đại học và hội nhập quốc tế
- Hợp tác xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong các trường đại
học.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào phát triển các cơ sở đào tạo nghề.
- Xây dựng hệ thống văn bản phù hợp với bối cảnh hiện này để quản lý
việc tiếp nhận, chuyển giao các dịch vụ giáo dục và đào tạo khi việt nam là
thành viên của tổ chức thương mại thế giới nhằm: bảo vệ chủ quyền quốc gia,
bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo vệ lợi tích người học.
2. Việc thực hiện các yêu cầu đó ở Việt Nam có thể gặp những trở ngại
gì? Hãy nêu hướng khắc phục các trở ngại đó.
a. Những trở ngại khi thực hiện các yêu cầu trên ở Việt Nam
Hiện nay, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với
nền giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng.

9
Tuy nhiên, Với xu hướng phát triển xã hội hiện nay thì nội dung chương trình
giáo dục đại học nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế:
- Nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa
tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm
đối với người học.
- Chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong
nước và quốc tế.
- Chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Thời gian học dài nên
người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các
chương trình môn học, ít có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia
các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương
trình giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay tỏ ra bất cập.
b. Hướng khắc phục các trở ngại trên
- Xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục trong giai đoạn hiện nay,
đồng thời mỗi trường đại học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có triết lý giáo dục
riêng phù hợp với tôn chỉ, mục đích và hướng tới hội nhập vào dòng chảy phát
triển chung của giáo dục quốc tế.
- Việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng xã hội học
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được chuẩn
hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc. Hướng tới cho phép các
cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách nhiệm
với người học bằng chính đào tạo của mình, cho phép hình thành nhiều mô hình
đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để
bảo đảm chất lượng chung…
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo
hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức
xây dựng và triển khai theo hướng mở, nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù
hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Về
phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên
10
tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học
có thời gian tự học và tự nghiên cứu.
- Tăng cường các hoạt động nghiên cứu và công bố quốc tế, tiến tới quốc tế
hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động về chuyên môn tại các cơ
sở giáo dục đại học. Nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học cần có các cơ chế
chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu và tích cực
công bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế. Về lâu dài, cần
đặt ra lộ trình (đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học khác nhau cần có những lộ
trình khác nhau) tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa
học và các hoạt động về chuyên môn trong tất cả các cơ sở giáo dục đại học,
đồng thời cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa giáo dục đại học Việt Nam
hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế.
Câu 2: Nêu một số kỹ năng chủ yếu của giảng viên đại học trong bối
cảnh hội nhập giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn hiện nay. Theo anh/chị,
trong những kĩ năng đó, kĩ năng nào là kĩ năng then chốt? Vì sao?
Trả lời:
a. Một số kỹ năng chủ yếu của giảng viên đại học
* Nhóm kỹ năng phát triển chương trình và biên soạn tài liệu
Trong phần này có 5 kỹ năng được phân tích, đó là:
- Kỹ năng tìm hiểu thông tin về nhu cầu người học đối với ngành học và
môn học.
- Kỹ năng xây dựng chương trình đào tạo.
- Kỹ năng xây dựng đề cương môn học.
- Kỹ năng xây dựng giáo án.
- Kỹ năng viết bài giảng, giáo trình.
* Nhóm kỹ năng giảng dạy và đánh giá
Trong phần này được chia thành 2 nhóm là kỹ năng giảng dạy và kỹ năng
đánh giá.
- Kỹ năng giảng dạy bao gồm 5 kỹ năng, đó là:
+ Kỹ năng trình bày và gợi mở vấn đề.
11
+ Kỹ năng sử dụng câu hỏi trong giảng dạy.
+ Kỹ năng xử lý các tình huống trong dạy học.
+ Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp học.
+ Kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học.
- Kỹ năng đánh giá tập trung vào 2 kỹ năng:
+ Kỹ năng xây dựng tiêu chí kiểm tra và đánh giá.
+ Kỹ năng biên soạn câu hỏi và bài tập môn học.
* Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học
Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học (NCKH) bao gồm 5 kỹ năng:
+ Kỹ năng tìm và lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học.
+ Kỹ năng viết đề cương nghiên cứu khoa học.
+ Kỹ năng thu thập thông tin, số liệu khi triển khai đề tài nghiên cứu khoa
học.
+ Kỹ năng xử lý thông tin, số liệu trong nghiên cứu khoa học.
+ Kỹ năng viết báo cáo nghiên cứu khoa học.
b. Theo tôi trong những kĩ năng đó, kĩ năng giảng dạy và kỹ năng nghiên
cứu khoa học là then chốt. Vì:
Đối với một giảng viên trong trường đại học, công tác giảng dạy luôn được
coi trọng, tuy nhiên đây mới chỉ là một nửa của hoạt động chuyên môn của
người giảng viên, việc nghiên cứu khoa học luôn được các trường đề cao, chú
trọng, đặt ra như một nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên và là một tiêu chuẩn
quan trọng hàng đầu đánh giá khả năng toàn diện của giảng viên. Vì vậy là một
giảng viên tôi nhận thức được tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học, do vậy
tôi sẽ chủ động hơn nữa trong việc đưa ra đề xuất các đề tài nghiên cứu. Quá
trình thực hiện các hoạt động NCKH là cơ hội tốt để tôi có thể tiến hành đổi mới
nội dung, phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Thực tiễn và lý luận đều chứng minh một cách rõ ràng rằng, NCKH và giảng
dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho
nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng
dạy ở trên lớp. Ngược lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động
12
NCKH. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH
là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên.

13

You might also like