You are on page 1of 24

VIỆT BẮC (TỐ HỮU)

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN:


1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ :
-Việt Bắc là quê hương CM, trước CM T8 có khởi nghĩa Bắc Sơn (1941), nơi thành
lập MTVM; trong kháng chiến chống Pháp là nơi ở và làm việc của TW Đảng và
chính phủ
-Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/ 1954. Đây là thời điểm các cơ quan
TW của Đảng và chính phủ rời chiến khu VB về Hà nội, sau khi cuộc kháng chiến
chống pháp đã kết thúc vẻ vang với chiến thắng ĐBP và hoà bình được lập lại ở
miền Bắc.
Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một thời kháng chiến gian
khổ mà hào hùng thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những người con kháng chiến
đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương CM.
2.Chủ đề của đoạn trích “Việt Bắc”
Đoạn trích ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu VB trong thời kì kháng
chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, đồng thời thể hiện tình nghĩa thủy chung
giữa người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
3. Nghệ thuật đậm đà tính dân tộc trong đoạn trích “Việt Bắc”:
- Thể lục bát tài tình, thuần thục.
- Sử dụng một số cách nói dân gian: thi liệu, xưng hô, đối đáp,...
- Giọng điệu quen thuộc, gần gũi, ấm áp.
- Sở trường sử dụng từ láy.
- Cổ điển+hiện đại
- Kết cấu bài thơ: lời đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Không chỉ là đối đáp
mà còn hô ứng.
- Cặp đại từ nhân xưng mình ta.
4. Nội dung đoạn trích:
4.1 - Sắc thái tâm trạng ,lối đối đáp của nhân vật trữ tình trong đoạn trích:
-Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng
khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay....Đó là cuộc chia tay của những người
từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia
mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định
nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng
đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.
-Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen
thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng,đồng
vọng.
+ Bốn câu đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của ngưòi ở lại,đồng thời cũng
khảng định tấm lòng thuỷ chung của mình:
Đại từ Mình-Ta:Mối quan hệ gần gũi thân thiết -> gợi bao lưu luyến, bâng khuâng,
bồn chồn, bịn rịn.
Điệp từ “nhớ.”(láy lại)
Lời nhắn nhủ của VB “Mình có nhớ ta, mình có nhớ không” vang lên ray rứt,gợi
nỗi nhớ triền miên
15 năm gợi thời gian.
Cây, núi, sông, gợi không gian thời gian hoạt động kháng chiến tại không gian Việt
Bắc + 4 câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi.
Nghe câu hỏi nên người về bâng khuâng , bồn chồn => Tình cảm thắm thiết của
người cán bộ với cảnh và người dânViệt Bắc.
Đại từ phiếm chỉ “ai”nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi thân thương
Áo chàm: H/ảnh bình dị, chân tình, chỉ người Việt Bắc.
“Cầm tay ....”.-> Câu thơ bỏ lửng ngập ngừng nhưng đã diễn đạt chính xác thái độ
xúc động nghẹn ngào không thể nói nên lời của người cán bộ từ dã Việt Bắc về
xuôi..
.->Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến
gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là
đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà
thơ, của những người tham gia kháng chiến.

Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp:

- Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng
Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng
biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. .

+ Hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, ấm áp tình người: Trăng lên đầu núi, nắng chiều
lưng nương., bản khói... sớm khuya...

+ Bức tranh tứ bình, mỗi mùa một hình ảnh đẹp làm say lòng người.
Mùa đông: rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Mùa xuân: hoa mơ nở trắng rừng
Mùa hè: ve kêu, rừng phách đổ vàng
Mùa thu: ánh trăng soi sáng khắp núi rừng...

= > Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong
phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa,đầy màu sắc lãng mạn, ấm áp
lòng người.
Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân
thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía
về cảnh Việt Bắc như vậy.

-Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa
cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần
cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình :
+ Người VB cần lao gian khổ và đầy tình thương yêu chia ngọt sẻ bùi (câu 31->câu
36)
+Hình ảnh sinh hoạt của cán bộ CM trong chiến khu hoà lẫn với sinh hoạt của nhân
dân VB: Tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, lớp học i tờ, giờ liên hoan
= >Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng
chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó
khăn,... tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ.

4.2-Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu và vai trò của Việt
bắc trong cách mạng và kháng chiến .
Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời
khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc.
+ Khí thế hào hùng lên đường hành quân của quân và dân ta với những hình ảnh
tuyệt đẹp mang dáng dấp sử thi (câu 53-> câu 70)
+ Chiến công Việt Bắc là bản tổng kết những nét lớn của sự phát triển ngày càng
cao những chiến dịch, những thắng lợi trong niềm vui phơi phới.
-Vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh Việt bắc đã làm nên những kì tích,
những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố
Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,...
-Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu
lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng
căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ
chung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình
ảnh đất nước đứng lên

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


……………………………
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

- Đặc biệt, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách
mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình
cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước:
+Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ
mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu
kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh
sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc (dẫn đoạn thơ từ câu Mình về,-còn nhờ núi non
đến câu Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa).
+ Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công.

II. MỘT SỐ ĐỀ VĂN:


Đề 1:’’bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu’’
I. Mở bài:
Tố Hữu (1920-2002) là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam .Ông để lại
một sự nghiệp văn chương phong phú , giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật
độc đáo mang tính trữ tình-chính trị sâu sắc , đậm đà tính dân tộc . Rất tiêu biểu
cho những tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc .Có thể nói
, tinh hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về
xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc :

“Ta về mình có nhớ ta ,


Ta về , ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh , dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
II.Thân bài
1.Giới thiệu chung
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 , ngay sau khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi , các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ
từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội . Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ
kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc , nay từ biệt chiến khu để về
xuôi . Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó .
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt , đầy xúc động bâng
khuâng . Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống , sử dụng
sáng tạo cặp đại từ nhân xưng mình-ta , lối đối đáp quen thuộc của ca dao , giọng
thơ tâm tình ngọt ngào , lời thơ đậm sắc thái dân gian để mở ra bao nỗi niềm nhớ
thương , bao kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng . Qua đó nghĩa
tình gắn bó thắm thiết thuỷ chung của những người kháng chiến với nhân dân, với
Việt Bắc , với đất nước được bộc lộ một cách thấm thía , chân thành , cảm động .
Phần đầu của bài thơ , dưới hình thức đối đáp giữa mình và ta , đã tập trung
khắc hoạ một khung cảnh tiễn đưa đầy thương nhớ , bịn rịn , bồn chồn , lưu luyến
của kẻ ở người đi . Qua lời đối đáp ân tình , cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật
đẹp .
2.Phân tích đoạn thơ
Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là ấn tượng không phai về những
người dân hoà quyện với thiên nhiên , núi rừng tươi đẹp :

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ , nhưng hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ
chiều sâu tình cảm . Điệp từ “ta” và “nhớ” khẳng định , nhấn mạnh nỗi nhớ da diết
của người về thủ đô. Phép liệt kê “ những hoa cùng người” nêu lên đối tượng của
nỗi nhớ . Đó là những gì tươi đẹp nhất của chiến khu . Hoa là kết tinh hương sắc
của thiên nhiên còn người là kết tinh vẻ đẹp của đời sống xã hội . Xét cho cùng ,
người cũng là một loại hoa của đất . Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ
đẹp cho nhau , làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp .
Những câu thơ tiếp theo tập trung tái hiện cụ thể , chân thực vẻ đẹp bốn mùa của
chiến khu . Cảnh và người hoà quyện , đan xen vào nhau , cứ câu thơ lục tả cảnh thì
câu thơ bát tả người . Mỗi mùa lại có một vẻ đẹp riêng tạo thành một bức tranh tứ
bình tràn ngập ánh áng , màu sắc , đường nét , âm thanh vui tươi , ấm áp .
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa đông :

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhớ về mùa đông Việt Bắc , nhà thơ không nhớ về cái giá rét âm u mà lại nhớ
tới những ngày nắng đẹp rực rỡ . Biện pháp tiểu đối “ rừng xanh” với “hoa chuối
đỏ tươi” đã tái hiện một không gian rừng núi mênh mông , bạt ngàn màu xanh tươi
của cây cỏ , ẩn hiện trong sắc xanh sống động đó là những bông chuối rừng ngời
ngời sắc đỏ như những ngọn đuốc . Hai gam màu ấm nóng kết hợp với nhau tạo
cảm giác vui tươi , làm ấm cả không gian , tạo ám ảnh trong tâm hồn con người .
Trong núi rừng ấy không chỉ có những bông chuối đỏ tươi mà còn có những con
người vượt lên không gian , xuất hiện trên đỉnh đèo cao ở tư thế đầy kiêu hãnh ,
xuất hiện trong ánh sáng lấp lánh của mặt trời phản chiếu vào chiếc dao đi rừng gài
ngang lưng . Hình bóng con người lồng lộng trong không gian , giữa núi và nắng,
giữa trời và rừng xanh chính là kết tinh vẻ đẹp của núi rừng , là điểm nhấn của núi
rừng .
Hai câu thơ tiếp khắc hoạ cảnh mùa xuân :
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Hai động từ “nở trắng” đặt cạnh nhau vừa diễn tả bước đi của mùa xuân vừa
nhấn mạnh vào màu sắc của Việt Bắc ngày xuân . Mùa xuân đến đem theo sức sống
mới , làm cho từng cây , từng cây mơ nở hoa trắng rồi dần dần làm cho cả núi rừng
tràn ngập sắc hoa trắng tinh khiết , dịu dàng , thơ mộng . Màu trắng của hoa mơ lấn
át các màu sắc khác làm cả khu rừng như toả sáng , khiến cho lòng người không
khỏi xao xuyến , bâng khuâng , nhung nhớ . Và nhà thơ đã nhớ đến những người
đan nón . Hành động chuốt từng sợi giang là biểu hiện của sự cần mẫn , khéo léo ,
tài hoa trong tâm hồn , tính cách người dân Việt Bắc . Họ nhẫn nại , tỉ mỉ trong
từng cử chỉ để tạo ra những sản phẩm đẹp cho đời . Câu thơ chứa đựng một thái độ
trìu mến , thân thương , trân trọng những người lao động của nhà thơ Tố Hữu .

Tiếp đến , mùa hè chiến khu hiện lên trong âm thanh và màu sắc không thể nào
quên :
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Qua cách miêu tả của nhà thơ , tiếng ve râm ran như khúc nhạc rộn rã không chỉ
làm cho núi rừng vang động mà còn làm cho màu sắc cây lá biến đổi . Động từ “đổ
vàng” đã diễn tả tài tình sự thay màu đột ngột của rừng phách . Khi tiếng ve vang
lên báo hiệu hè đến , cả rừng phách xanh tươi bỗng khai nở muôn nghìn cánh hoa
màu vàng óng ả như được trộn bằng mật ong và nắng rừng ngọt ngào . Trong giàn
nhạc và thảm hoa ấy , nhà thơ nhớ đến một người em gái . Cô sơn nữ một mình
trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì
cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả , giản dị nhưng cũng rất thơ mộng , vui vẻ .
Nhớ về mùa thu , nhà thơ không thể nào quên ánh trăng :
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi
rừng chiến khu . Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn gắn với
niềm xúc động của những con người từng trải qua bao năm khốc liệt , gian khổ của
chiến tranh . Trong khu rừng thấm đẫm ánh vàng ấy bỗng ngân nga lên tiếng hát ân
tình làm rạo rực lòng người .Tiếng hát bộc lộ lòng người , bộc lộ tâm hồn thuỷ
chung , tình nghĩa của con người Việt Bắc cũng chính là tấm lòng của người về
xuôi với chiến khu . Thế nên dường như ánh trăng cũng ngời sáng hơn và tiếng hát
cũng du dương và vang xa hơn.

Như vậy , nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng VB
với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa thơ mộng , thi vị , riêng biệt , độc đáo , khác hẳn
những miền quê khác của Tổ quốc . Gắn liền với cảnh là những con người lao động
bình dị nhưng chính họ đã gióp phần to lớn tạo nên chiến tháng vĩ đại của dân tộc .
Chỉ những người gắn bó sâu nặng , coi VB là quê hương thân thiết mới có những
xúc cảm , ấn tượng và nỗi nhớ da diêt như thế .

Nỗi nhớ VB còn được tác giả khắc sâu và mở rộng trong những đoạn thơ sau của
tác phẩm . Theo dòng hoài niệm , VB trong kháng chiến hiện lên vừa gian khổ vừa
hào hùng với niềm tin vào Đảng , vào Bác Hồ vĩ đại , với cảm hứng ngợi ca đất
nước sâu sắc .
III. Kết bài .
Đoạn thơ ngắn 10 dòng trên mang âm điệu ngọt ngào , từ ngữ trong sáng giản
dị giàu sức gợi , in đậm phong cách thơ Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của
nhà thơ với Việt Bắc . Qua nỗi nhớ , niềm trân trọng tha thiết của nhà thơ , cảnh và
người VB hiện lên thật gần gũi , chân thực mà thơ mộng , trữ tình. Thông qua tình
cảm riêng của mình , Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ với quê hương
đất nước , đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta .
Bài viết cụ thể:
Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt NAm và cũng
là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm
thăm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch
sử dân tộc. Vì vậy thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính
hiện đại.
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ TH, được sáng tác sau chiến thắng ĐBP , miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà
nội. TH đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể
hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân VB,
đối với quê hương cm. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài
thơ VB. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về VB
hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:
” Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh rao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với
người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó
được nếu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ
những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên VB, mà cái đẹp
của VB lại không thể tách rời cái đẹp của con người VB. Vì vậy , như một cặp song
hành đối xứng, hễ nhớ dến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng
người.
Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở VB. Trong nền thơ
ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ” trông
bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ” buồn trông” trong
“Kiều ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy
hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh
bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông –
Xuân – Hạ – Thu.
Bước vào khung cảnh mùa đông VB, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc
xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó
đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có
của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ
chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao,
nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, Nó tạo ra một dáng vẻ vững
chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.
Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh
khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên
tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
” Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
( -Theo chân Bác- Tố Hữu )
Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn,
cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.
Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được
“nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay
muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có
thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của TH. Đọc câu thơ lên ta co thế
cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên
nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng ,
bừng sáng cả núi rừng VB. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có
cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khuơng Hữu Dụng
nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu
dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.
Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu
như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp
thoáng thì lần này , con người VB hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới
hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.
Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện
tình cảm chân thành , tha thiết.
Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người VB cũng hiện lên trong dáng vẻ lao
động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả , vẻ đẹp của co người chân chính gắn
liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.
Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rõ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ
nhàng, bình yên. MÙa thu với ánh trăng huyền ảo , trải dài khắp núi rừng làm ta
liên tưởng đến câu thơ:
” Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(-Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)
Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu
cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có
thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua
trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước
chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn
người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm
một tình cảm nhớ thương da diết.
Bức tranh có buối trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng . Mùa
nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó
mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt
đến độ hài hòa , cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xa là thiên nhiên, mảng
gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền
cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở
nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về VB của
người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã
tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta
thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con
người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.

Đề 2: “Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu’’
A- Mở Bài
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan
trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp.Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng
20 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử.Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến
khu về thủ đô Hà Nội.Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết
giữa người ra đi và người ở lại,giữa miền xuôi và miền ngược,giữa người cán bộ
với Việt Bắc quê hương của cách mạng,với đất nước và nhân dân,với Đảng và Bác
Hồ,với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà
thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây
là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lại.Có thể
nói,bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa
của nó là tình cảm quê hương đất nước,là truyền thống ân nghĩa,đạo lý thuỷ chung
của dân tộc.
B-Thân bài
1.Việt Bắc với vẻ đẹp của cảnh và người
a) Nét độc đáo của cảnh Việt Bắc.
b)Sự hoà quyện giữa cảnh và người.
Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là
tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng
Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi.Cảnh Việt Bắc hiện ra những
vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng,thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều
miền quê khác của đất nước.Việt Bắc đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi,nắng chiều
lưng nương”,hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm,những bếp lửa hồng trong
đêm khuya,là những “rừng nứa bờ tre,ngòi thưa,sông Đáy” là tiếng mõ trâu về
trong rừng chiều,tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hoà quyện với
người,là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao
động,thuỷ chung trong nghĩa tình:
Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú,đa
dạng,thay đổi theo thời tiết,từng mùa.Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản
dị,người đi làm nương rẫy,người đan nói,người hái măng…Bằng những việc làm
tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc
kháng chiến.Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cũng nhau chịu đựng gian khổ thiếu
then,cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề,khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và
cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà
thơ.Việt Bắc- đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám,đậm đà lòng
son”,hình ảnh người mè “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”,là những ngày tháng
đồng cam cộng khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng
Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suet b ài thơ tạo nên khúc ca ngọt
ngào,đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào,của tình yêu thiên nhiên,yêu đất
nước,yêu đời.

2.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu


a) Khung cảnh sử thi
b) Vai trò Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến
đấu với những hình ảnh hào hùng,những hoạt động sôi nổi,những âm thanh náo
nức,phấn chấn.ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi
hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc,Tố Hữu đã nêu
bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá,muôn tàn lửa bay.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích,những chiến
cônghủ Thông,đèo Giàng,sông Lô,phố Ràng,Hoà Bình,Tây Bắc,Điện
Biên…..Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ
còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng.Đó là sức
mạnh của lòng căm thù : “Miếng cơm chấm muối,mối thù nặng vai”,sức mạnh tình
nghĩa thủy chung: “Mình đây ta đó,đắng cay ngọt bùi” nhất là sức mạnh của khối
đoàn kết toàn dân,của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên-tất cả
tạo thành hình ảnh “đất nước đứng lên”
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn
mạnh,hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng,căn cứ
vững chắc của cuộc kháng chiến.Trong những năm đen tối trước cách mạng,hình
ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù” cho đến
xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh,nơi sản
sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật,thủa còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình ,cây đa.
Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ soi
sáng”,có “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của
cả nước đối với Việt Bắc,Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt
dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.
ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

3.Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai


a)Vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp
b)Dự đoán về sự tha hoá.
Từ tình cảm yêu mến,gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững
chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ,Tố Hữu vẽ
ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống
mới hoà bình,phồn vinh.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy ,bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ,thiết Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Những hình ảnh ấy là mơ ước,khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán
bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng,nơi đã cưu
mang,che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.
+Đặc biệt ở
những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo,nhạy
bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai,nhà thơ không quên,một nét đẹp
trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung,có mới mà không
nới cũ,luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược,giữa cán bộ và
nhân dân của mình.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường,khi
người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì
mình.Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời
sự chứ không hề cũ xưa.
C-Kếtluận

Nhìn chung Việt Bắc là một bài thơ trữ tình,chính trị bởi vì thơ ở đây là thơ với căn
cứ cách mạng,với truyền thống cách mạng,với đất nước và nhân dân.Nhưng quan
trọng hơn cả chuyện công tác cái đã làm cho người ta cảm động là bài thơ đã thể
hiện hết được truyền thống ân nghĩa của dân tộc Việt Nam,thể hiện một khát vọng
về một chiến sĩ chan hoà tình yêu thương,hạnh phúc,thanh bình,bền vững mãi mãi
trên đất , quê hương

Bài văn tham khảo:


Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan
trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp.Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng
20 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử.Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến
khu về thủ đô Hà Nội.Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết
giữa người ra đi và người ở lại,giữa miền xuôi và miền ngược,giữa người cán bộ
với Việt Bắc quê hương của cách mạng,với đất nước và nhân dân,với Đảng và Bác
Hồ,với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình
nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi
đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lại.Có
thể nói,bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu
xa của nó là tình cảm quê hương đất nước,là truyền thống ân nghĩa,đạo lý thuỷ
chung của dân tộc
Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là
tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng
Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi.Cảnh Việt Bắc hiện ra những
vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng,thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều
miền quê khác của đất nước.Việt Bắc đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi,nắng chiều
lưng nương”,hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm,những bếp lửa hồng trong
đêm khuya,là những “rừng nứa bờ tre,ngòi thưa,sông Đáy” là tiếng mõ trâu về
trong rừng chiều,tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hoà quyện với
người,là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao
động,thuỷ chung trong nghĩa tình:
Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú,đa
dạng,thay đổi theo thời tiết,từng mùa.Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản
dị,người đi làm nương rẫy,người đan nói,người hái măng…Bằng những việc làm
tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc
kháng chiến.Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cũng nhau chịu đựng gian khổ thiếu
then,cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề,khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và
cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà
thơ.Việt Bắc- đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám,đậm đà lòng
son”,hình ảnh người mè “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”,là những ngày tháng
đồng cam cộng khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng
Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suet b ài thơ tạo nên khúc ca ngọt
ngào,đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào,của tình yêu thiên nhiên,yêu đất
nước,yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến
đấu với những hình ảnh hào hùng,những hoạt động sôi nổi,những âm thanh náo
nức,phấn chấn.ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi
hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc,Tố Hữu đã nêu
bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá,muôn tàn lửa bay.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích,những chiến
công:Phủ Thông,đèo Giàng,sông Lô,phố Ràng,Hoà Bình,Tây Bắc,Điện
Biên…..Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ
còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng.Đó là sức
mạnh của lòng căm thù : “Miếng cơm chấm muối,mối thù nặng vai”,sức mạnh tình
nghĩa thủy chung: “Mình đây ta đó,đắng cay ngọt bùi” nhất là sức mạnh của khối
đoàn kết toàn dân,của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên-tất cả
tạo thành hình ảnh “đất nước đứng lên”
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn
mạnh,hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng,căn cứ
vững chắc của cuộc kháng chiến.Trong những năm đen tối trước cách mạng,hình
ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù” cho đến
xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh,nơi sản
sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật,thủa còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình ,cây đa.
Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ soi
sáng”,có “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của
cả nước đối với Việt Bắc,Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt
dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.
ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

Từ tình cảm yêu mến,gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững
chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ,Tố Hữu vẽ
ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống
mới hoà bình,phồn vinh.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy ,bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ,thiết Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Những hình ảnh ấy là mơ ước,khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán
bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng,nơi đã cưu
mang,che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.
Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc
sảo,nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai,nhà thơ không quên,một
nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung,có mới
mà không nới cũ,luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền
ngược,giữa cán bộ và nhân dân của mình.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường,khi
người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì
mình.Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời
sự chứ không hề cũ xưa.

“Việt Bắc” là một bài thơ trữ tình,chính trị bởi vì thơ ở đây là thơ với căn cứ
cách mạng,với truyền thống cách mạng,với đất nước và nhân dân.Nhưng quan
trọng hơn cả chuyện công tác cái đã làm cho người ta cảm động là bài thơ đã thể
hiện hết được truyền thống ân nghĩa của dân tộc Việt Nam,thể hiện một khát vọng
về một chiến sĩ chan hoà tình yêu thương,hạnh phúc,thanh bình,bền vững mãi mãi
trên đất nước,quê hương.

Vài ý nghĩ khi đọc bài thơ Việt Bắc


Trong thời kỳ cách mạng chưa thành công, chế độ thực dân còn chà đạp lên đời
sống của nhân dân ta, bóp nghẹt tâm hồn của chúng ta, thơ Tố Hữu đã có tác dụng
làm ấm lòng người đọc, bồi dưỡng lòng yêu Tổ quốc của quần chúng, khuyến
khích người cán bộ nằm trong nhà tù giữ vững lòng tin đối với tiền đồ vẻ vang của
dân tộc. Tập thơ Việt Bắc chủ yếu gồm những bài thơ sáng tác trong thời kỳ kháng
chiến từ sau thu đông thắng lợi 1947, những bài thơ đã làm ấm lòng của chúng ta;
và một số bài thơ sáng tác sau khi hòa bình thắng lợi những bài thơ này cũng đã có
tác dụng giáo dục, cổ vũ cán bộ và nhân dân. Tập thơ Việt Bắc vừa mới ra chưa
được 2 tháng, con số phát hành đã lên gần 3 vạn quyển. Chưa có một quyển sách
nào phát hành nhiều như thế trong một thời gian ngắn.
Ở đây tôi không giới thiệu toàn quyển và đi sâu vào tập thơ Việt Bắc. Tôi chỉ trình
bày một vài ý nghĩ đầu tiên khi đọc lại những bài thơ trong tập thơ này.
Có thể nói chủ đề bao trùm tập thơ Việt Bắc là tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí
phấn đấu kiên quyết bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hình ảnh tiêu biểu cho tinh
thần đó là Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của kháng chiến
và anh bộ đội anh dũng, thân mến, nổi nhất trong tập thơ Việt Bắc. Tố Hữu đã để cả
tâm hồn, tất cả tình cảm đằm thắm nhất của mình để diễn tả những hình ảnh yêu
kính và quý mến nhất ấy của thời đại chúng ta.
Ðối với anh bộ đội, chỉ “gần nhau là thân thiết”, chỉ “một thoáng lặng nhìn nhau” là
“âm thầm thương mến”. Trong đời sống bình dị của người nông dân Việt Nam có
phút nào yêu nhau say sưa bằng chia cho nhau điếu thuốc lào:
Trưa nay trên đèo cao
Ta say sưa vài phút!
Chia nhau điếu thuốc lào
Nào anh hút tôi hút
Rồi lát nữa chia đôi
Anh về xuôi tôi ngược
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước
Tố Hữu thông cảm với anh bộ đội không phải chỉ qua bộ quần áo nâu. Tố Hữu
thông cảm qua sức lao động của con người.
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai nặng ba lô, chân đạp rừng gai đá sắc, trèo đèo
lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió nằm sương với anh bộ đội. Nên Tố
Hữu là nhà thơ thông cảm mãnh liệt đối với sức lao động ấy một khi nó dốc ra mặt
trận đánh đổ quân thù. Xúc động biết bao khi đọc những đoạn thơ Tố Hữu để tình
cảm của mình rung lên những nhạc điệu, những ý thơ hùng dũng:
Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Ðầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Ðầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Trong tập thơ Việt Bắc ngoài hình ảnh anh bộ đội, những hình ảnh bà mẹ, em thiếu
nhi, chị phụ nữ cũng nổi lên đầy tình mến thương của nhà thơ. Nhưng Tố Hữu tha
thiết yêu anh bộ đội, Tố Hữu không muốn tình yêu ấy bị chia xẻ. Tố Hữu muốn đặt
tất cả những hình ảnh trong một cảm xúc chung đối với người chiến sĩ. Những bà
mẹ trong thơ Tố Hữu là những bà mẹ của chiến sĩ, giản dị như cánh đồng quê, thiết
tha yêu con nhưng lại yêu nước hơn. Em thiếu nhi trong thơ Tố Hữu là chiến sĩ nhỏ
tuổi, tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu tình yêu nước, em là những
chú “đồng chí nhỏ” làm nhiệm vụ giao thông vượt qua mặt trận, không sợ đạn của
giặc, không sợ hiểm nghèo. Những chị phụ nữ trong thơ Tố Hữu là những chị dân
công dù con bế con bồng “em cũng theo chồng đi phá đường quan”, những chị
ngày đêm ra tiền tuyến phục vụ chiến trường. Có những lúc tình cảm của Tố Hữu
đi ra ngoài biên giới, nhớ tới em bé Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên đang anh dũng
chiến đấu. Tố Hữu yêu em bé Triều Tiên và em bé Triều Tiên trong thơ Tố Hữu là
con của người dân công tải đạn, con của người nữ cứu thương, con của anh bộ đội
“mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui”.
Tố Hữu để hết tấm lòng yêu nước, yêu Ðảng, yêu dân vào một người, người anh
hùng kiệt xuất, người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và của Ðảng: Hồ Chủ tịch. Trong
bài “Sáng tháng Năm”, hình ảnh Hồ Chủ tịch là hình ảnh của người cha thân yêu và
hiền từ, là hình ảnh chói lọi làm “trong sáng lòng anh xung kích”, làm “vững tay
người chiến sĩ nông thôn”, vững tay anh công nhân quốc phòng, em học sinh đốt
đuốc đến trường làng và “các chị dân công mòn đêm vận tải”.
Lãnh tụ của chúng ta vĩ đại, vì Người là biểu hiện tập trung nhất những đức tính
cao quý của dân tộc. Tố Hữu ca tụng lãnh tụ qua tình cảm của quần chúng đối với
lãnh tụ.
Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
… Người là Cha là Bác là Anh
Quả tim lớn lọc trăm giòng máu nhỏ
Qua những bài thơ ca tụng lãnh tụ, Tố Hữu đã tăng cường lòng tin của nhân dân
đối với sự nghiệp của dân tộc dưới lá cờ vinh quang của Hồ Chủ tịch.
Ngoài bài “Sáng tháng Năm”, trong những bài thơ khác cũng như hình ảnh người
chiến sĩ, hình ảnh của Hồ Chủ tịch vĩ đại bao giờ cũng là hình ảnh tươi sáng nhất,
bao trùm tất cả.
Ðiều làm người đọc thông cảm nhất với hình ảnh những người con yêu quý của
nhân dân ta trong thơ Tố Hữu là những hình ảnh ấy gắn chặt với đất nước, dân tộc,
quê hương. Ðây chính là phần mà thơ Tố Hữu hấp dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng
cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng chính là phần sáng tác tươi nhất
trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ðọc thơ Tố Hữu, chúng ta càng tin tưởng nhân
dân ta anh hùng, đất nước ta đẹp đẽ, quê hương ta đầm ấm.
Hình ảnh vĩ đại của Hồ Chủ tịch là hình ảnh rộng lớn của đất nước:
Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non
Bên cạnh hình ảnh bộ đội gặp nhau lưng đèo Nhe là:
Cánh đồng quê tháng mười
Thơm nức mùa gặt hái
Người chiến sĩ trên chiến trường Tây Bắc
Mỗi bước, vàng theo đồng lúa chín
Lửa vui từng mái nứa tươi xanh
Và còn cảnh nào đẹp hơn khi chiến sĩ chiến thắng trở về:
Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
Em Lượm, em bé giao thông anh dũng hy sinh vì nhiệm vụ, thi sĩ lặng người lại
trước “một giòng máu tươi”, nhưng em Lượm hy sinh mà em Lượm không chết. Tố
Hữu đặt em Lượm nằm trên cánh đồng lúa vàng rượi, tượng trưng cho lẽ sống:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng
Người chiến sĩ anh dũng tuyệt vời của chúng ta ở trên chiến trường một khi ngã
xuống:
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
Ðất nước và con người, cảnh và người đối với Tố Hữu không thể xa rời, nhưng đất
nước tốt đẹp là do người làm nên, cảnh vật vui tươi cũng là do người quyết định.
Ðối với Tố Hữu cảnh vật đất nước của chúng ta bao giờ cũng vui cũng tươi cũng
đẹp và cái vui tươi trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng biểu hiện một lòng tin vững
chắc ở tương lai, vì nhân dân chúng ta chiến đấu ngày nay đã nhìn thấy thắng lợi
ngày mai. Tinh thần lạc quan cách mạng tươi sáng ấy xuất phát từ lòng thiết tha
yêu nước và lòng tin tưởng ở quần chúng đã tác động mãnh liệt đến người đọc.
Trước cảnh chết, “Giữa thành phố trụi,” thi sĩ nhìn thấy mầm sống, thấy sức mạnh,
sức mạnh ấy bản thân cảnh vật không có, mà do chúng ta xây dựng nên:
Bàn tay đã nắm lời thề
Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây
Từ trong đổ nát hôm nay
Ngày mai đã đến từng giây từng giờ
Bài thơ “Ta đi tới” đã diễn tả nhân dân vui sướng, quang cảnh tưng bừng của hoà
bình, của thắng lợi vĩ đại sau 8, 9 năm kháng chiến. Cảnh và người hoạt động sau
thắng lợi của hoà bình ăn nhịp với nhau, con người của chúng ta anh dũng, đất
nước của chúng ta đẹp đẽ vô cùng. Cảm xúc của Tố Hữu rạt rào trên rừng cọ, đồi
chè, bến đò, trên những cánh đồng phì nhiêu bát ngát, cảm xúc của Tố Hữu vào tận
đáy lòng của mỗi người. Vui quá, thi sĩ như muốn nhảy lên, ôm lấy mọi người, hát
lên tiếng hát thắng lợi, nói lên tiếng nói của mỗi dân tộc anh hùng.
Nhưng còn nửa nước ta chưa giải phóng. Trong nỗi vui mừng của thi sĩ sáng lên
lòng tin tưởng ở sự thống nhất nước nhà:
Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào rậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ
Sáng lên sức mạnh của dân tộc ta:
Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chỉ ta lớn như biển Ðông trước mặt!
Cảm xúc của Tố Hữu đối với những con người, đối với đất nước, Tổ quốc quê
hương còn đằm thắm hơn một khi nó biểu hiện lên như tình yêu vợ chồng, tình mẹ
con.
Ðối với anh bộ đội ra tiền tuyến xa xôi “yêu bầm, yêu nước, cả đôi mẹ hiền”.
Việt Bắc là nơi chôn rau cắt rốn của cách mạng, là căn cứ địa của kháng chiến. Hòa
bình trở lại, Chính phủ, Trung ương Ðảng về Hà Nội. Mỗi người chúng ta đều nhớ
Việt Bắc, nhớ những bà mẹ, những người chị đã nuôi nấng chúng ta, nhớ anh du
kích đã dẫn đường cho chúng ta, nhớ núi rừng đã giúp ta chặn tay giặc, nhớ suối,
nhớ nương, nhớ rẫy, nhớ những bãi rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, những ngày xuân
hoa mai nở trắng. Nỗi nhớ nhung ấy đối với Tố Hữu âu yếm lạ lùng. Trong những
lời nhắn nhủ say tình của bài “Việt Bắc”, chúng ta không còn phân biệt Việt Bắc và
Tố Hữu, tiếng nói của Việt Bắc và của Tố Hữu là của hai người, nhưng nó lại nằm
trong một người. Và thắm thiết gì hơn khi nỗi nhớ nhung ấy biến thành nỗi nhớ
nhung của đôi trai gái yêu nhau hàng chục năm ròng mà phải xa cách!
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Tố Hữu, nhà thơ của chúng ta, đưa tình yêu vào trong thơ để nói lên lòng yêu chân
thành đối với Tổ quốc với đất nước. Tình yêu đối với Tố Hữu cũng như đối với tất
cả những người chiến sĩ cách mạng không phải là mục đích mà nó là động cơ cách
mạng. Nói đến tình yêu trong tập thơ Việt Bắc, chúng ta không quên nhắc đến
những bài thơ dịch của Tố Hữu “Ðợi anh về”, “A-lê-sa nhớ chăng” (của Ximô-
nôp). Tố Hữu cảm thông với thi sĩ Ximô-nôp và đồng thời giới thiệu với chúng ta
những tình yêu cách mạng. Con người cách mạng là con người xúc cảm nhất, con
người biết yêu đằm thắm và cũng biết cách giữ gìn và bảo vệ tình yêu ấy, tình yêu
ấy là động cơ thúc đẩy chúng ta thêm mạnh trên đường chiến đấu bền bỉ và lâu dài.
Bộ đội, cán bộ nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhớ thơ Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã
nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu Tổ quốc, khêu gợi
trong lòng chúng ta sức tin tưởng ở chúng ta, ở những con người lao động đã chiến
đấu, sản xuất và đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thần lạc quan cách mạng của
chúng ta của nhân dân ta, vì thơ Tố Hữu đã hun đúc thêm chí căm thù, nâng cao chí
khí chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo vệ quê hương và đất nước.
Nhưng đọc tập thơ Việt Bắc, chúng ta chưa thỏa mãn. Tuy ca tụng người chiến sĩ
bộ đội là Tố Hữu đã ca tụng người nông dân, tình cảm, sức mạnh của người chiến
sĩ trong thơ Tố Hữu là tình cảm, sức mạnh của người nông dân, những bà mẹ,
những người chị, người vợ trong thơ Tố Hữu là những nông dân lao động, nhưng
chúng ta muốn những người nông dân lao động sản xuất ở hậu phương được nêu cụ
thể hơn. Trong tập thơ Việt Bắc, hình ảnh người nông dân sản xuất bị mờ đi trong
những tình cảm chung ca tụng đất nước, quê hương. Tuy trong tất cả những bài thơ
của Tố Hữu đã nói lên tư tưởng của giai cấp công nhân, đường lối chỉ đạo của
Ðảng, ca tụng Hồ Chủ tịch, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta muốn hình ảnh
Ðảng tiên phong của dân tộc, người công nhân được nêu cụ thể hơn, đầy đủ hơn,
chúng ta rất tiếc rằng Tố Hữu chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng
chục triệu con người đảng viên và quần chúng đối với Ðảng tiên phong của giai cấp
công nhân, Tố Hữu chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh của người công nhân trên
các ngành hoạt động luôn luôn nêu cao chí khí phấn đấu, khắc phục khó khăn, chưa
ghi lại cho chúng ta hình ảnh người nông dân đã vươn mình dậy đánh đổ thế lực
của giai cấp địa chủ. Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ không
thể tách rời trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Trong cuộc đấu tranh chống
phong kiến hiện nay của hàng triệu nông dân đang diễn ra gay go ở nông thôn,
chúng ta hy vọng ở Tố Hữu những bài thơ nói lên khí thế của nông dân, cũng như
Tố Hữu đã ca tụng khí thế của người chiến sĩ ngoài mặt trận.
Thời đại của chúng ta đẹp đẽ vô cùng, sinh hoạt hàng ngày của quần chúng muôn
màu muôn vẻ, tình cảm của quần chúng thật dồi dào và chúng ta đang ở trong một
thời đại biến chuyển dồn dập. Những màu sắc ấy, những tình cảm ấy Tố Hữu đã cố
ghi lại một phần nào nhưng những màu sắc và tình cảm ấy ở một số bài thơ trong
tập thơ Việt Bắc chưa được thể hiện cụ thể. Bài “Ðời đời nhớ Ông” mới nói lên
những tình cảm chung, nó chưa đi vào tình cảm, hành động cụ thể của nhân dân, nó
chưa biểu hiện lên được lực lượng của quần chúng trong sự đau xót xé ruột xé gan
khi nghe Sta-lin mất. Hòa bình lập lại, sung sướng nhất là những người lao động
sản xuất, những người nông dân vùng tự do cũ cũng như vùng mới giải phóng. Nỗi
sung sướng ấy nói lên chưa được hả dạ trong bài “Ta đi tới”. Hà Nội sống tủi nhục
dưới ách thực dân và phong kiến, tinh thần chiến đấu, chịu đựng của nhân dân Hà
Nội, tinh thần quật khởi của công nhân thủ đô đáng lẽ phải được nói lên đầy đủ
hơn, rõ ràng hơn trong một bài thơ như bài “Lại về”…
Những bài thơ đăng trong tập thơ Việt Bắc đã nói lên một phần tình cảm tốt đẹp
nhất của con người mới của một thời đại mới, dưới một chế độ mới. Tình yêu thiết
tha của Tố Hữu đối với quê hương, đất nước, Tổ quốc, lòng tin tưởng vững bền,
tinh thần lạc quan cách mạng bao trùm tập thơ của Tố Hữu đã từng kích thích
chúng ta trong những năm chiến đấu gay go gian khổ nhất, cũng như trong cuộc
đấu tranh ái quốc gay go và phức tạp hiện nay. Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
chúng ta được nuôi dưỡng thêm tinh thần và tình cảm mạnh mẽ đó. Về mặt nghệ
thuật thì những thành công đó chính là những thành công của chủ nghĩa hiện
thựccách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng trong thơ.
Tố Hữu là một thi sĩ cộng sản. Tập thơ Việt Bắc trào lên lòng yêu nước nồng thắm
chứng tỏ thêm một nguyên lý: những người cộng sản là những người tha thiết yêu
mến Tổ quốc của mình, yêu mến nhân dân của mình và suốt đời tận tụy đấu tranh
cho sự nghiệp của dân tộc.

You might also like