You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người.

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Ngô Thị Minh Nguyệt

Nhóm: 06

Lớp học phần: 2217HCMI0111

Hà Nội, 2022
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ NHÓM 6

S Họ và tên Nhiệm vụ Nhận xét TV tự Nhóm Ký


T đánh đánh tên
T giá giá
51 Cao Thị Liên Nội dung xây Đã ký
dựng con người

52 Dương Thị Đề tài phụ Đã ký


Thùy Linh

(nhóm trưởng)

53 Hồ Diệp Linh powerpoint Đã ký

54 Nguyễn Hiền Nội dung xây Đã ký


Diệu Linh dựng con người

55 Phạm Khánh Thuyết trình Đã ký


Linh

56 Phan Thị Ý nghĩa của Đã ký


Thanh Loan việc xây
dựng con
người

57 Dương Văn Phương pháp Đã ký


Lương xây dựng con
người

58 Trần Nhật Mai word Đã ký

59 Hoàng Đức Phương pháp Đã ký


Mạnh xây dựng con

1
người

60 Vũ Thị Mến Ý nghĩa của việc Đã ký


xây dựng con
người

2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------------
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
BỘ MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhóm: 6
Kính gửi: Cô Ngô Thị Minh Nguyệt
Thành viên tham gia: Đầy đủ 10/10 thành viên
Địa điểm: Trên nền tảng zoom online
Thời gian bắt đầu: 20h00, ngày 10/02/2022
Nội dung thảo luận nhóm:
● Hướng đi cho bài thảo luận
● Nhóm trưởng lập dàn bài chi tiết và phân chia công việc cụ thể cho các thành viên
thành viên đồng thời gia hạn thời gian
● Các thành viên thực hiện nhiệm vụ phân công theo đúng hạn và nhóm trưởng nhận
xét, chỉnh sửa.
● Các thành viên đều đóng góp ý kiến, cùng thống nhất hướng đi chung và tham gia
thảo luận làm bài đầy đủ. (Đánh giá chi tiết nằm trong bảng đánh giá thành viên
cuối file word).
Biên bản đã được đọc trước tất cả các thành viên trong nhóm. Cả nhóm đã đồng ý với
những điều đã viết như trên.
Thời gian kết thúc: 21h30, cùng ngày

Nhóm trưởng
Dương Thị Thùy Linh

3
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………..6

CHƯƠNG I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI

1.1. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược………………………………………………7

1.2. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phần hợp thành của chiến lược phát
triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội.……………………………………….……………………………………7

1.3. HCM nêu 2 quan điểm về sự cần thiết xây dựng con người…………………...…8

1.3.1. Vì lợi ích trăm năm “trồng người”

1.3.2. Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần phải có những con người XHCN

CHƯƠNG II. NỘI DUNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI…………………………11

2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “Mình vì mọi người; mọi
người vì
mình”..............................................................................................................11

2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ Quốc………………………..13

2.3. Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng………………………17

2.4. Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ và nêu
gương…………………………………………………………………………………19

CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI…………………...23

4
3.1. Mỗi người cần tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.……………………...…….23

3.2. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng…………….24

3.3. Giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng con người………………….26

3.4. Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng thông qua
các phong trào “thi đua yêu nước”; “người tốt việc tốt”..............................................31

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….34

PHẦN KẾT THÚC………………………………………………………………….35

5
PHẦN MỞ ĐẦU

Trong công cuộc xây dựng đất nước tiến tới thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
việc phát triển và xây dựng con người đã trở thành một vấn đề không thể bỏ qua trên
nhiều phương diện. Để nói về vai trò của con người, Hồ Chí Minh khẳng định, con
người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo
Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế
cả”.

Để nghiên cứu, đi sâu hơn cũng như chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng con người, nhóm chúng em đã phát triển đề tài ‘Quan điểm của Hồ Chí Minh
việc xây dựng con người’ thông qua việc khai thác, chọn lọc, tham khảo nhiều nguồn
tài liệu. Từ đó, nhóm đưa ra ý kiến riêng về ý nghĩa, nội dung và phương pháp xây
dựng con người, ủng hộ quan điểm của Hồ Chí Minh về việc xây dựng con người.

Trong quá trình xây dựng đề tài, nhóm có thể mắc phải một số lỗi sai không đáng có,
rất mong cô có thể bỏ qua cho chúng em ạ. Nhóm xin ghi nhận những góp ý của cô.

6
CHƯƠNG I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người

Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể
lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dòng tộc, làng
xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa,
đạo đức, tôn giáo...). Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải
thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng
bào cả nước; rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người có tính xã hội, là con người
xã hội, thành viên của một cộng đồng xã hội.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người

Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.

Giải phóng con người được coi như là mục tiêu , vừa là động lực của cách mạng .
Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu
dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp
và cá nhân. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng . Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh của con người khi được
tổ chức lại khi Người viết rằng : “ Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Dễ mấy lần
không dân cũng chịu . Khó vạn lần dân liệu cũng xong ” . Lòng yêu nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi

7
Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phần hợp thành của chiến lược phát
triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.

Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị, cả vật chất và tinh thần, và mọi của cải.
Hồ Chí Minh khẳng định : Vô luận việc gì, đều do con người làm ra, và từ nhỏ
đến to, từ gần đến xa, đều thế cả .

Nhưng không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong
động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt
động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

HCM nêu hai quan điểm về sự cần thiết xây dựng con người:

Vì lợi ích trăm năm “trồng người” : “Trồng người” là công việc lâu dài, gian khổ,
vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa giáo dục.
“Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách
mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát
triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người”
phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý
nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người. “Trồng
người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng: Con
người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến
lược, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến
lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp... Để thực hiện chiến lược “trồng người”,

8
cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc
nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho
thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và
phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý
tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. “Trồng
người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”, “việc
học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

Muốn xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội , trước hết cần phải có những con người Xã
Hội Chủ Nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã
hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa
ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người mới, con người xã
hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình
lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, gia đình và bản thân của mỗi người.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con
người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh
để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ
lượng. Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây
dựng con người - xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con
người - xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa. Việc
xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.

“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu
trước hết không phải tất cả mọi người phải và có thể trở thành người Xã
Hội Chủ Nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa

9
là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu
của người Xã Hội Chủ Nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã
hội để có thể làm gương và lôi cuốn người khác cũng như toàn xã hội đồng
thời, họ cũng không ngừng được hoàn thiện, được nâng cao. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số
đông là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng
cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến. ”

Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn
diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.

10
CHƯƠNG II. NỘI DUNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa hồng vừa chuyên với các khía
cạnh chủ yếu:

2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “Mình vì mọi người,
mọi người vì mình”.
Luận điểm này được Người lý giải như sau: Nhà nước ta ngày nay là của tất cả
những người lao động. Vậy công nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ
rằng: Hiện nay nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải
là những người làm thuê cho giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và
có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân
dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa,
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu
sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
“Muốn xây dựng XHCN phải có tinh thần XHCN, muốn có tinh thần XHCN phải
đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói
chuyện với sinh viên đại học vào tháng 6-1959.

Người thẳng thừng phê phán: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ
chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội.
Từ đó kết luận hết sức cụ thể về vai trò trách nhiệm của từng cá nhân: Đã là người
chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Người công nhân
phải yêu quý máy móc như yêu quý con mình, người nông dân phải yêu quý trâu bò
của hợp tác xã như bản thân của mình. Mọi người phải biết giữ gìn của công, phải
chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình. Đã là người chủ thì phải biết tự mình
lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công, góp
của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là
một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

11
Đối với cán bộ và Đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải gạt bỏ những
thái độ sai lầm như: Thỏa mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những
kinh nghiệm đã có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi
những sáng kiến bình thường của quần chúng; lười biếng, không tích cực học tập cái
mới...Chúng ta phải làm đúng lời dạy của Lênin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của
Đảng như con ngươi của mắt mình. Phải hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ
nội bộ; tuyệt đối không được độc đoán cá nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho
phép mình đứng ngoài kỷ luật. Càng có công lao, càng phải khiêm tốn. Chớ vì có ít
nhiều công lao mà sinh bệnh công thần, kèn cựa, địa vị. Phải nhớ rằng: Mọi thành
công là do sức phấn đấu, hy sinh của toàn Đảng, toàn dân, không phải của một cá
nhân anh hùng nào. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức
tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Cán bộ và đảng viên càng phải nâng
cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan
điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên
quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được
giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được
kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn luôn chăm lo đến đời
sống của quần chúng. Phải “chí công vô tư”, và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”. Đó là đạo đức của người cộng sản. Trái lại, đối với kẻ địch, người cộng
sản phải luôn luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường, quyết không được vì hoàn cảnh hòa
bình mà mất cảnh giác; phải luôn luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ
địch, bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân.
Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài, thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là
chủ nghĩa cá nhân.

12
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ Quốc
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân,
của đất nước, của bản thân mình “Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”.
Cần kiệm bao giờ cũng là hai yếu tố không thể tách rời, Hồ Chủ tịch lý giải: Nước ta
còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có tinh thần tự lực cánh sinh, cần cù lao động.
Phải cố gắng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của chúng ta. Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ
lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo,
kỹ sư nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn
“ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới là kém vì không phải là người XHCN.
Mỗi thứ của cải chúng ta làm ra phải tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lao động. Chúng
ta chỉ có thể xây dựng CNXH bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản
xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Cho nên phải biết giữ gìn của
công. Tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động
trộm cắp, mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ. Phải biết quý trọng sức người là vốn
quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng hợp lý sức lao
động của nhân dân ta.
Cán bộ và đảng viên cần phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương “cần kiệm
liêm chính”, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân;
phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí. Trong
mọi công việc phải tính toán, cân nhắc cẩn thận. “Thì giờ là vàng bạc”. Phải kiên
quyết chống thói hội họp lu bù, mất thì giờ, hại sức khỏe mà không kết quả thiết thực.
Quá trình xây dựng đất nước bao giờ cũng đi đôi với bảo vệ tổ quốc, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng là phương châm lãnh đạo của Đảng ta.
Có thể thấy bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan trong sự phát triển lịch sử của

13
đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thể hiện
như sau:
Thứ nhất: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan thể hiện ý chí
quyết tâm của nhân dân ta.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
được thể hiện và khẳng định rất rõ qua nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định. Ý chí
quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh. Cụ thể Người đã nhấn mạnh nhiều lần với nhân dân cả
nước rằng “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đứng
lên đánh quân Pháp với tinh thần: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ.. .Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối
cùng để gìn giữ đất nước”; “ Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ
không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực
dân đế quốc và bọn phản động tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra
nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho
kháng chiến lâu dài.
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người nói: “ Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,nhất định không chịu làm nô lệ…
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!…”
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”, “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải
chiến đấu quét sạch nó đi”. Trước khi đi xa trong bản di chúc Người căn dặn: “Cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh

14
nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến
thắng lợi hoàn toàn”.

Thứ hai: Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân
Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc,
nội dung giai cấp và nội dung thời đại.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đã xác định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách
nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu thắng lợi hoàn
toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà.

Thứ ba: Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước,
kết hợp với sức mạnh thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của toàn dân tộc,
toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, là sức
mạnh của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, an ninh, ngoại giao, văn hoá – xã
hội, sức mạnh truyền thống với sức mạnh hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Trong sức mạnh tổng hợp đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng sức mạnh nhân
dân, sức mạnh lòng dân. Người khẳng định, phải “dựa vào lực lượng của dân, tinh

15
thần của dân”, “toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng, quyết không làm nô lệ; kết hợp
với sức mạnh thời đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc
đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của
các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất
định thắng.
Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và
củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi
đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng
quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất
nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “
Đảng và chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến
dần lên CNXH, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc
lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hòa bình ở Á
đông và trên thế giới” và khẳng định “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính
phủ, với sự đoàn kết nhất chí, lòng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh
của mình, với sự giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á phi, nhân dân ta nhất định
khắc được mọi khó khăn, làm tròn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ
đã đề ra”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được

16
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số
nội dung chiến lược sau đây:
Một là: Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế
và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hai là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại.

Ba là: Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi
hoàn cảnh, tình huống chiến tranh.

Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc
phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều biến
đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo
vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung
cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.

2.3. Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước, trong bối cảnh đất nước ta thường
xuyên phải đấu tranh chống lại những kẻ xâm lược ỷ cậy về quân sự, kinh tế, thì tinh
thần yêu nước luôn là nhân tố quan trọng kết thành sức mạnh vô địch - đại đoàn kết -
để dân tộc Việt Nam giành chiến thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã phát
hiện và tổng kết sức mạnh đó. Trong tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”
Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự

17
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Lòng yêu
nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ sở để
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của
một dân tộc. Và từ đó, cho dù đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế,
quân sự của nước ta không lớn, song nhờ có tinh thần đoàn kết, đồng lòng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc
lập, tự do; tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Khi nước nhà đã giành được độc lập, nhưng hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt
và giặc ngoại xâm" vẫn luôn đe dọa nền độc lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được
sau hơn 80 năm trời nô lệ. Chính vì vậy, Bác đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm
cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân
tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”; đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước
của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội. Trong bức thư gửi cho các cụ phụ lão,
Bác đã viết: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không”;
cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam
đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa); cho một Việt kiều:
“Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp này rất thuận tiện cho ông
tỏ lòng trung thành với Tổ quốc” (Tháng 9/1945); Thêm vào đó, Bác còn thể hiện
lòng bao dung, vị tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu
nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”... để
quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở
của lòng yêu nước chân chính, tiến hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Cũng theo quan điểm của Bác, yêu nước nồng nàn nhưng đồng thời phải gắn với
tinh thần quốc tế cao cả. Nhất là trong xu hướng hội nhập ngày nay thì "tinh thần quốc
tế trong sáng" có vai trò vô cùng to lớn to lớn. Vào tháng 3/1953, trong thư gửi các
đơn vị bộ đội được giao nhiệm vụ giúp bạn Lào tác chiến ở Thượng Lào, Chủ tịch Hồ

18
Chí Minh căn dặn: “Giúp bạn là tự giúp mình”. Với Bác, giúp đỡ một dân tộc khác
bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Nói về
mối quan hệ giữa lòng yêu nước và tinh thần quốc tế, Người đã nhấn mạnh: "Tinh
thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức
kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới. Nếu tinh thần yêu
nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng có thể dẫn đến chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc...". Có
thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con
người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và
xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của Nhân dân Việt Nam với các dân tộc
trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt nam và Nhân
dân thế giới.

Ngày này, đất nước ta vẫn đang trong quá trình đổi mới và hội nhập sâu rộng. Hơn
bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần quốc tế trong sáng đã gắn liền với trách nhiệm
và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó
khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần quốc tế trong sáng của mỗi người
dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam để luôn chủ
động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…

2.4. Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ và nêu
gương.
Không thể phủ nhận rằng, tư tưởng, đạo đức và phong cách, phương pháp làm việc
khoa học theo tư tưởng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá cho Đảng và dân
tộc ta. Theo Bác, một trong những phẩm chất quan trọng của người cán bộ, đảng viên

19
là phải có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan để hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao, trước khi thực thi công vụ, bất kể việc gì, từ lớn
đến nhỏ đều cần xác định rõ mục đích, nội dung, chương trình, kế hoạch. Phong cách
làm việc khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ ở chỗ khi làm
xong một công việc, dù thành công hay thất bại đều có tổng kết rút kinh nghiệm để
tiến hành những công việc khác tốt hơn. Đặc biệt, phải biết quý trọng thời gian, biết
giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một
thời gian ngắn nhất. Cuối cùng, phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ phải không
ngừng sáng tạo, đổi mới cái cũ, cái lạc hậu và làm những cái mới chưa có trong tiền
lệ, để tìm ra hướng đi mới, cách làm hay đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải: “có tinh thần sáng tạo, tìm tòi
cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái mới thì việc gì cũng làm
được”. Người căn dặn: “Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình
thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”

Phong cách quần chúng trong tư tưởng của Bác trước hết là phải có tình thương
yêu bao la và niềm tin tưởng vô tận đối với quần chúng, bởi quần chúng là người sáng
tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi
đúng đường lối quần chúng, cần phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan hệ mật
thiết với quần chúng để nắm bắt sâu sắc tình hình thực tế, nhất là thực tế đời sống,
thực tế tâm lý, văn hóa của quần chúng, từ đó, quan tâm, chăm lo lợi ích chính đáng
và thiết thực của quần chúng, coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự
nghiệp Cách mạng. Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải luôn biết phấn đấu,
hy sinh vì lợi ích của tập thể, lợi ích của nhân dân. Phải yêu dân, kính dân thì thì dân
mới dành cho mình sự kính yêu; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn
hiện nay. Phong cách quần chúng không chỉ là phong cách cần thiết của cán bộ, đảng
viên trong quan hệ với dân, mà còn cần thiết trong quan hệ của cấp trên với cấp dưới,
của cán bộ lãnh đạo với cán bộ, đảng viên bình thường. Đối với người lãnh đạo cấp
trên, hiểu dân và hiểu cấp dưới đều có tầm quan trọng đặc biệt. Hiểu dân là để hiểu

20
cấp dưới được chính xác hơn, hiểu cấp dưới là để hiểu dân được đầy đủ hơn. Càng
hiểu dân và càng hiểu cấp dưới, người lãnh đạo càng hiểu chính mình và càng rút ra
được những điều bổ ích để bổ sung cho chủ trương, chính sách đã được đề ra.

Về phong cách dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là hành động, việc
làm thể hiện sự tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh tập thể, tranh thủ ý kiến sáng tạo
của nhiều người để bàn bạc dân chủ, làm cho tư tưởng thông suốt, không áp đặt, độc
đoán, chuyên quyền. Mọi người có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung của
tập thể, ai cũng được tôn trọng, mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được chứng
kiến quan điểm của mình. Đồng thời, khi đề ra đường lối, chính sách, giải quyết
nhiệm vụ chính trị cần phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng,
phải dùng kinh nghiệm dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Cơ sở của
phong cách dân chủ là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của dân, quan hệ tốt với dân, học hỏi dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề. Người viết: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan
hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. uy
nhiên, phong cách dân chủ không có nghĩa là mạnh ai nấy làm mà phải tuân thủ
chặt chẽ nguyên tắc tập thể lãnh đạo phải luôn đi đôi với cá nhân phụ trách; phải
tuyệt đối tránh phong cách quan liêu.

Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang đậm
dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người,
trong đó, không thể không nhắc đến phong cách nêu gương. Đó là những hoạt động,
lề lối làm việc thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, có chất lượng hiệu quả cao, để
người khác noi theo; việc tự nêu gương được thể hiện từ việc nhỏ đến lớn, thường
xuyên liên tục về mọi mặt. Phải nêu gương chủ yếu trên ba mối quan hệ là đối với
mình, đối với người và đối với việc. Đối với mình thì không nên tự cao tự đại, kiêu

21
ngạo mà luôn học tập, cầu tiến, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
chưa tốt của bản thân; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết, thật thà, không dối trá, biết khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hoàn
cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (để việc công lên trên, lên
trước việc tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm làm, không sợ khó khăn, gian khổ,
việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh. Thêm vào đó, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm, thống nhất lời
nói với hành động. Bác từng dạy: "Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực
hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm.” Để việc giáo dục nêu gương đạt
được kết quả cao, Bác chủ trương: "Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo
dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Trong gia đình, cha mẹ sẽ
làm tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương cho các em; trong nhà trường thì
thầy cô giáo sẽ là tấm gương cho học sinh noi theo hay trong các cơ quan tổ chức thì
cán bộ lãnh đạo sẽ là tấm gương cho cấp dưới.

Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí
Minh, thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy
sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người. Phong cách Hồ Chí Minh không phải để cho
người đời ca ngợi, sùng bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không
phải chỉ người Việt Nam, từ lao động chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ
miền xuôi đến miền ngược đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình,
mà cả người nước ngoài ở phương Đông hay ở phương Tây cũng cảm thấy gần gũi,
không xa lạ với phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phong cách của Người không chỉ
là bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng mà
còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.

22
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI

3.1. Mỗi người cần tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức kết hợp chặt chẽ với xây dựng
cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
Xuất phát từ bản chất mang tính xã hội của con người, mỗi người phải hiểu về
mình và hiểu biết lẫn nhau thì mới tạo nên được động lực phát triển bền vững cho
cả xã hội. Người đặt vấn đề hiểu chính mình lên trước hiểu người khác, tức là phải
nhìn nhận cho đúng về bản thân rồi mới đi đến nhận thức những quy luật, hiện tượng
của tự nhiên. Hồ Chí Minh cho rằng đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ
xấu, chỗ tốt, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong mình. Điều quan trọng là dám nhìn
thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy được cái hay, cái tốt,
cái thiện để phát huy, thấy được cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Như vậy, để việc
xây dựng con người đạt được hiệu quả, cần có sự tự nhận thức, tự điều chỉnh, tự tu
dưỡng của mỗi cá nhân trong xã hội.

Mỗi cá nhân cần tự tu dưỡng hàng ngày, bền bỉ suốt đời, gắn với thực tiễn cách
mạng. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên, chăm lo tu
dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó cũng là công việc phải làm kiên trì,
bền bỉ suốt cả cuộc đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Trong giáo dục đạo
đức cho cán bộ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá
trình đấu tranh quyết liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Trong bài nói tại
Lớp chính Đảng Trung ương khóa 2 (tháng 3/1953), Người ví trong bản thân mỗi con
người đều có “hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau.
Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại. Nếu không đấu tranh mà để cho
phe thiện bại, thì là hỏng”. Theo Hồ Chí Minh, đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo
đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời
công, trong mọi mối quan hệ từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn.

23
Cần biết kế thừa những phẩm chất tốt đẹp của con người truyền thống, hình
thành những phẩm chất mới: có tư tưởng, đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, tác phong xã hội
chủ nghĩa. Đi đôi với nó là phải đấu tranh, phê phán chống lại những tư tưởng, tác
phong xấu, những hiện tượng phi đạo đức, phản văn hoá, những tàn dư của đạo đức
và lối sống cũ (chủ nghĩa cá nhân, quan liêu mệnh lệnh, tham ô lãng phí, bảo thủ rụt
rè,...). Sinh thời, Hồ Chí Minh gọi đó là một loại bệnh, hơn thế nữa, là một loại giặc,
giặc nội xâm, giặc ở trong lòng. Người có bệnh thì phải uống thuốc để chữa bệnh, có
khi phải dùng “thuốc đắng” để “giã tật”. Đã là giặc thì phải có những chủ trương, biện
pháp để chống lại, loại trừ, phải chấp nhận những hy sinh, mất mát. Chủ nghĩa cá
nhân được biểu hiện đa dạng, luôn biến hóa muôn hình vạn trạng. Cách đây 50 năm,
trước khi về cõi vĩnh hằng, trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” (3-2-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra 10 loại bệnh nảy sinh từ
chủ nghĩa cá nhân cần nhận diện và phòng chống: bệnh quan liêu; bệnh tham lam;
bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh “hữu danh vô thực”; bệnh cận
thị (biểu hiện là chỉ để ý đến cái nhỏ, vụn vặt, không thấy cái lớn, cái quan trọng);
bệnh tị nạnh; bệnh xu nịnh, a dua và bệnh kéo bè, kéo cánh. Người coi chủ nghĩa cá
nhân là “địch nội xâm” và “địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ
hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Nhận rõ được tác hại ghê gớm của những căn
bệnh ấy, theo Người phải luôn nghiêm khắc đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá
nhân, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.

3.2. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu
giữa lời nói đi đôi với việc làm, giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và thực
tiễn vì nêu gương là thể hiện phương thức và phong cách lãnh đạo của Đảng ta,
của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết và nói về xây dựng Đảng, về công tác cán bộ, đảng
viên, trong đó nhiều lần Người nhấn mạnh trách nhiệm, bổn phận, tư cách của người
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo rằng “Nói đi đôi với làm”, “Cố gắng làm

24
kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc”; “gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ
đi sau”. Đó chính là vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách
mạng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Đảng, phục vụ Nhân dân. Cán bộ, đảng viên có
chức vụ càng cao càng phải coi trọng nêu gương, nêu gương một cách thiết thực, chân
thành, nêu gương trong mọi hoàn cảnh, từ việc nhỏ đến việc lớn; từ việc học tập, rèn
luyện, tu dưỡng cho đến việc làm cụ thể trong thực tiễn. Có như vậy thì mới chiếm
được lòng tin, sự nể phục từ những người cấp dưới, từ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng dạy: “Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình thì người đảng
viên từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân
yêu”, hay “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Cần nêu gương trong 3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với việc. Đối
với mình là không được tự cao tự đại, tự mãn. Bởi tự cao tự đại, tự mãn là căn bệnh
rất nguy hiểm. Nếu cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì dễ mù quáng, thiển
cận, luôn đề cao cá nhân mình, coi thường quần chúng, nhất định sẽ thoái bộ, dừng
lại. Đối với người phải yêu thương, khoan dung, độ lượng; phải luôn có thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt điều
“Nhân”: “Thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên
quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân”. Đối với
việc phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải luôn giữ vững nguyên tắc “Dĩ
công vi thượng”, nghĩa là để việc công lên trên, lên trước việc tư. Người luôn giáo
dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “chí công vô tư”, nghĩa là phải biết hy sinh lợi
ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và của Đảng.

Để nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nghiêm
túc, trung thực, thật thà tự phê bình; có khuyết điểm thì gương mẫu nhận trách

25
nhiệm về mình, không đổ lỗi, tranh công. Đó là bản chất của người cộng sản, người
đảng viên. Cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân nên càng tự phê bình trước dân chừng
nào, dân càng bằng lòng phục vụ mình chừng ấy. Thông qua nêu gương trong tự phê
bình nghiêm túc, trung thực thì dân tin, dân theo, uy tín của cán bộ, đảng viên càng
cao. Mà dân tin, dân theo thì chế độ ta còn, Đảng ta còn. Qua các bản Di chúc viết từ
năm 1965 đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có thể thấy, vấn đề xây dựng, chỉnh
đốn Đảng luôn là mối quan tâm hàng đầu. Để Đảng có sức mạnh tuyệt đối dẫn dắt dân
tộc qua mọi thử thách, cần phải giữ vững tinh thần đoàn kết trong Đảng, giữa nhân
dân với Đảng. Muốn vậy, cần thực hành dân chủ, giữ vững đạo đức đảng viên, bằng
cách thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình - vũ khí hiệu
quả và sắc bén chống lại mọi biểu hiện vi phạm đạo đức đảng viên cũng như sự chia
rẽ trong Đảng.

3.3. Giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng con người.
Giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất để thực hiện thành công
chiến lược trồng người. Người từng nhắc nhở: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần
nhiều do giáo dục mà nên”. Với Người, học sinh như tờ giấy trắng, vẽ xanh thì xanh,
vẽ đỏ thì đỏ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến tầm quan trọng
của giáo dục và đào tạo trong xây dựng con người, ở đây không chỉ có con người cách
mạng mà còn có cả con người xã hội chủ nghĩa với những phẩm chất đạo đức, lối
sống tốt đẹp. Người bắt đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo dục lí tưởng và đạo
đức cách mạng cho mọi người. Hồ Chí Minh chú trọng quan tâm đến việc giáo dục
đạo đức cách mạng không chỉ đối với những cán bộ đầu tiên từ những năm 1925 -
1927, mà cho mọi người, mọi thời kỳ cách mạng. Cuốn sách “Đường cách mệnh”
ngay ở trang đầu đã nêu lên hai mươi ba điều về “tư cách một người cách mệnh”. Hay
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chí Minh đã nói: “
Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện:
Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Năm 1969, Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để kịp thời chỉnh đốn và khắc phục những thói xấu,

26
những căn bệnh nguy hiểm trong đội ngũ cán bộ. Bên cạnh những việc làm để giáo
dục, đào tạo những cán bộ, chiến sĩ cách mạng chuyên sâu về tài, hồng thắm về đức,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng
tư tưởng cho lớp thanh niên, học sinh, những mầm non tương lai của đất nước. Trong
“Thư gửi các bạn thanh niên” (17/8/1947), Người viết: “Thật vậy, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng
của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó… Có chí làm thì quyết tìm ra
việc và quyết làm được việc. Tôi lại khuyên các bạn một điều nữa là chớ đặt những
chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.
Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được”.

Xuất phát từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Coi con người là sức sống
của dân tộc, trí tuệ là sức mạnh nội sinh của con người, muốn tạo nên sức mạnh
ấy phải thông qua giáo dục, ở đây là hệ thống giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Ngày 3-
9-1945, ngay sau lễ tuyên bố độc lập một ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
nhiệm vụ giáo dục và giáo dục lại nhân dân ta là một công việc cấp bách nhất sau khi
giành được chính quyền từ tay bọn thực dân và phát xít xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết rằng: "Chúng ta có một nhiệm vụ cấp bách là giáo dục lại nhân dân chúng
ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước,
một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập". Như vậy, lần đầu tiên trong lịch
sử giáo dục ở Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất ý tưởng giáo
dục và giáo dục lại trong phạm vi rộng lớn đối với tất cả mọi tầng lớp nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch chống và xóa nạn mù chữ là một bước đột phá
khẩu của chiến lược giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, xây dựng con người mới. Là
một nhà vǎn hoá, nhà giáo dục, nhà cách mạng lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rằng
cái nghèo, cái dốt không chỉ tàn phá nhân cách mỗi con người mà còn tàn phá cả một
dân tộc. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống và xóa nạn mù chữ là khởi đầu của
tiến trình tiêu diệt giặc dốt, khơi dậy sức mạnh trí tuệ trong mỗi con người. Phong trào

27
chống và xóa nạn mù chữ đã mở đầu cho chiến lược mang giá trị vǎn hoá của con
người trả lại cho con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Nó đã tạo ra một
sức sống rất mới cho cả một khối người đông đảo sau 80 nǎm mất nước. ánh sáng vǎn
hoá bước đầu soi tới số phận những con người trước đây sống trong tǎm tối. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự nghiệp xây dựng con người mới thông qua hệ
thống giáo dục kỹ thuật tổng hợp bao gồm một hệ thống các quan điểm về giáo dục
nhân cách: giáo dục trí tuệ, thể lực gắn với cả thời gian, không gian, trình độ và nội
dung giáo dục.

Mục tiêu giáo dục ở đây là phải xây dựng con người có những phẩm chất cơ
bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa để làm gương và lôi cuốn xã
hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới
xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị
tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành
những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ
nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có
tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Những phẩm chất tốt
đẹp và cao quý ấy khi đã thấm sâu vào đông đảo các tầng nhân dân trong xã hội sẽ tạo
nên một nguồn sinh khí dồi dào có tác động mạnh mẽ đến các đối tượng yếu kém
khác, nó truyền cảm hứng và lôi cuốn họ phấn đấu để hoàn thiện mình hơn, cũng
giống như làn sóng mạnh mẽ của tinh thần yêu nước năm xưa.

Yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục là phải toàn diện về cả đức, trí,
thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ
nghĩa lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục phải có tính toàn diện,
trong đó giáo dục đạo đức là gốc rễ, nền tảng. Trong thư gửi các em học sinh nhân
ngày mở trường 24/10/1955, Người nhắn nhủ việc giáo dục gồm có: (1) Thể dục: Để
làm thân thể mạnh khỏe, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung. (2) Trí

28
dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới. (3) Mỹ dục: Để phân
biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp. (4) Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công”. Cả bốn nội dung trên của giáo dục
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát lại trong hai chữ “tài” và “đức”. Theo quan
điểm của Người, dù giáo dục cho con người Việt Nam điều gì cũng luôn phải đặt đạo
đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Đạo
đức ở đây là phải hướng con người ta đến cái thiện, làm gì cũng phải dựa trên những
chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Lý tưởng và tình cảm cách mạng đòi hỏi mọi
người dân Việt Nam đều phải trung thành với con đường cách mạng, với Tổ quốc và
với mục tiêu lý tưởng của Đảng. Con đường và đích đến mà Đảng ta đang đi tới là
con đường xã hội chủ nghĩa, một xã hội tốt đẹp cho tất cả mọi người, vì vậy ắt sẽ cần
phải đảm bảo một lối sống xã hội chủ nghĩa để phù hợp với sự phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nội dung mới của quá trình hình thành con
người bằng con đường giáo dục là gắn tri thức sách vở với thực tế, gắn lý luận với
thực hành. Nền giáo dục của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến về cơ bản là
nền giáo dục cho những người giàu có. Trong các nền giáo dục đó, người được giáo
dục thường xa thực tế, các tri thức phần lớn có tính chất sách vở. Để cải tạo lại tình
trạng thâm cǎn cố đế này, trong chiến lược giáo dục cần gắn tri thức sách vở với thực
tế, gắn lý luận với thực hành. Có như vậy thì việc học mới có ý nghĩa và công cuộc
giáo dục mới đem lại hiệu quả. Người viết: "Đại học, thì cần kết hợp lý luận khoa học
với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp
thực tiễn ở nước ta, để thiết thực giúp ích cho công việc xây dựng nước nhà. Trung
học cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực thích hợp
với nhu cầu tiền đồ xây dựng nước nhà. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi
yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dậy
phải nhẹ nhàng, vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn".

29
Hoạt động và nội dung giáo dục phải lấy con người làm trung tâm, chủ nghĩa
yêu nước chân chính làm nền tảng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ khi ra đi
tìm đường cứu nước đến lời di chúc cuối cùng, lúc là thầy giáo, khi là nhà báo, nhà
vǎn, là chủ tịch nước... Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi các vấn đề của con người,
các công việc của con người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là mối quan tâm
thường trực, là trách nhiệm vẻ vang trong cuộc đời hoạt động của mình. Mong muốn
cháy bỏng trong suốt cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao nhân
dân ta, những người cùng khổ, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, người già cả đều vui vẻ
khỏe mạnh, ai cũng có cơm ǎn, có áo mặc, được học hành, và sống trong hoà bình,
tình hữu nghị, sự yêu thương và niềm hạnh phúc. Và hoạt động giáo dục cuối cùng
cũng chỉ vì con người hay sao. Trong “Bài nói tại Hội nghị Tổng kết Phong trào thi
đua dạy tốt, học tốt của ngành giáo dục phổ thông và sư phạm” (8/1963), Người đã
nêu mấy ý kiến về giáo dục, trong đó nhấn mạnh: “Nội dung giáo dục cần chú trọng
hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc,...
sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi giảng dạy, thầy giáo và học
trò cần phải luôn luôn nhớ đến cuộc đấu tranh gian khổ và anh dũng của đồng bào ta ở
miền Nam.” Chủ nghĩa yêu nước là động lực giúp dân tộc ta chiến đấu, chiến thắng
mọi kẻ thù và đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử. Vì vậy, giáo
dục chủ nghĩa yêu nước cho mỗi người dân Việt Nam và lấy đó làm nền tảng cho
những hoạt động giáo dục khác là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Chiến lược hình thành con người mới bằng hình thức phát triển giáo dục, nâng
cao dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã đào tạo được hàng vạn những nhà
khoa học hồng thắm, chuyên sâu, có đức, có tài. Một hệ thống các cấp học từ mẫu
giáo, tiểu học, trung học đến đại học và sau đại học đã đào tạo cho đất nước những
con người có lý tưởng, có tri thức, đáp ứng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân
ta. Nền giáo dục mới mang tính cách mạng, tính nhân dân, tính khoa học, vừa là kết
quả, vừa là động lực của quá trình xây dựng con người mới ở nước ta. Tuy nhiên, do

30
cơ sở hạ tầng còn thấp, do nội dung giáo dục của chúng ta còn cổ điển cho nên việc
đào tạo tri thức cho con người mới chưa kịp với sự phát triển chung của đất nước và
của thế giới.

3.4. Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng
thông qua các phong trào thi đua yêu nước, người tốt việc tốt.
Người luôn hết sức coi trọng khơi dậy, phát động phong trào thi đua yêu nước
trong cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, coi đây là một trong những biện
pháp căn bản để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Ngay sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Ngày 11-6-1948, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” động viên đồng bào, chiến sỹ
phát huy truyền thống yêu nước thực hiện những nhiệm vụ cấp bách chống giặc đói,
giặc dốt và giặc ngoại xâm, góp của, góp công vào sự nghiệp kiến thiết và bảo vệ đất
nước. Trong lời phát biểu tại buổi lễ khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ
gương mẫu toàn quốc ngày 1/5/1952 ở Việt Bắc, Bác Hồ nói: “Thi đua là yêu nước,
yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Như
vậy, Người đã nâng thi đua lên một tầm tư tưởng cao, lấy thi đua làm động lực phát
huy lòng yêu nước. Để khắc phục tình trạng giảm sút của phong trào thi đua yêu nước
và của công tác lãnh đạo thi đua của các cấp sau khi hòa bình được lập lại, Bác đề ra
việc tăng cường công tác lãnh đạo thi đua của Đảng, Chính phủ và các đoàn thể nhân
dân. Bác yêu cầu thống nhất sự lãnh đạo thi đua, có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính
quyền và các đoàn thể từ trung ương đến các ngành, các địa phương,...

Người đã đề cập tới tác dụng nhiều mặt của phong trào thi đua yêu nước trong
việc xây dựng, phát triển các phẩm chất và năng lực của những con người mới
Việt Nam. Về tác dụng tích cực của thi đua yêu nước trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Người khẳng định: “Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng
khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và
mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”. Bước sang giai đoạn miền Bắc

31
tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, Người từng nói: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội không
phải muốn là tự khắc có, mà phải làm thế nào cho nó tiến lên, tức là phải lao động, lao
động thiết thực”. Nên phong trào thi đua do Người phát động không phải là một áp
lực chủ quan mà bắt nguồn từ sự ra đời của chế độ mới. Bác phân tích: “Dưới chế độ
tư bản, thực dân và phong kiến không thể có phong trào thi đua yêu nước. Vì giai cấp
lao động không dại gì mà ra sức thi đua làm giàu thêm cho bọn chủ rồi lại bị chúng áp
bức, bóc lột thêm. Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế
độ mà nhân dân lao động làm chủ nước nhà thì mới có phong trào thi đua”. Mỗi người
lao động, dù là lao động trí óc, lao động sản xuất, hay lao động quản lý có lòng yêu
nước, yêu chế độ đều nhận thức được “Thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích lợi cho
gia đình mình và lợi ích cho làng cho nước, cho dân tộc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
định trong những phong trào thi đua sẽ xuất hiện những anh hùng, chiến sỹ thi đua, họ
chính là những hạt nhân cách mạng trong phong trào sản xuất, công tác bởi họ là
“những người tiên phong trong sản xuất mà cũng là gương mẫu về đạo đức cách
mạng. Họ đặt lợi ích chung của dân tộc trên lợi ích riêng cá nhân… họ không sợ khó
nhọc, ra sức vượt mọi khó khăn để hoàn thành vượt mức nhiệm vụ mà Đảng, Chính
phủ giao cho, chứ họ không suy bì hơn thiệt cá nhân, không ganh tỵ về địa vị và
hưởng thụ. Họ không giấu nghề, không dìm những anh em chung quanh mình. Họ
giúp đỡ mọi người cùng tiến bộ…”.

Người đã gián tiếp khẳng định trong Lời kêu gọi Thi đua yêu nước: Qua phong
trào thi đua và trải qua rèn luyện, thử thách trong thi đua đã hình thành mỗi người
những việc tốt, phẩm chất tốt để hình thành một lớp người tốt, lớp người mới để
“dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Trong lời kêu gọi Thi đua yêu nước. Hồ Chí Minh
không trực tiếp đề cập đến vấn đề xây dựng con người mới, song, trên thực tế chỉ đạo
thực hiện phong trào và chủ đích thực sự của Người chính là: “Mỗi người tốt, mỗi
việc tốt là những bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người Việt Nam

32
mới thì chỉ có gắn mình vào phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và chính qua phong
trào đó bản thân tự đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở thành người tốt.

Người đã phân tích một cách sâu sắc những vấn đề liên quan đến thi đua yêu
nước, từ bản chất thi đua, nội dung thi đua, cách thức thi đua, mức thi đua, ý
nghĩa thi đua, lực lượng thi đua, động lực thi đua, tính chất của thi đua yêu nước.
Nói về bản chất của thi đua, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “thi đua không phải là ganh
đua” mà đó là nơi để mỗi người đều có thể tìm tòi, phát triển tài năng, sáng kiến của
mình, học hỏi điều hay, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm và cùng tiến bộ. Cùng với
đó, nội dung thi đua yêu nước phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ
chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động
của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và
xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết thực của
nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người. Về cách tổ chức
phong trào thi đua yêu nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dựa vào lực lượng
của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu
nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực
của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Về lực lượng thi đua, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng của phong trào thi đua yêu nước là toàn thể nhân
dân: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ,
đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị,
văn hóa”. Từ đó, Người nhận định: “Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô
cùng tận của nhân dân ta, cuộc Thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to”.

33
Tài liệu tham khảo:
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị),, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
2.https://tinhuyquangtri.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phong-trao-thi-dua-yeu-nuoc-va-
su-van-dung-trong-giai-doan-hien-nay
3.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI
MỚI*
4.tulieuvankien.dangcongsan.vn
5.soctrang.dcs.vn
6.Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua trong giai đoạn cách mạng
hiện nay
7. Chuyên đề học tập Hồ Chí Minh: Tu dưỡng đạo đức suốt đời | Tỉnh đoàn Khánh
Hòa

34
PHẦN KẾT THÚC

Sau khi đã tìm hiểu về đề tài, nhóm đã đưa ra ý kiến chủ quan, cũng như khai thác quan
điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người ở các khía cạnh như ý nghĩa, nội dung và
phương pháp xây dựng con người, dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, cũng
như nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh. Từ đó, ta có thể thấy tầm quan trọng của việc xây
dựng con người trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 ngày nay.

Do hạn chế hiểu biết thực tế và lý luận, thêm vào đó thời gian thời gian nghiên cứu có
hạn nên nhóm không tránh khỏi việc mắc một vài lỗi sai không đáng có, rất mong cô có
thể bỏ qua.

Nhóm xin chân thành cảm ơn cô!

35

You might also like