You are on page 1of 11

Họ và tên: Phan Thị Thanh Hiền

MSV: 19010048

Lớp: QH-2019-S – Sư phạm Vật lí

GV: GS.TS. Vũ Văn Hùng

DẠY HỌC TÍCH HỢP VẬT LÍ VỚI CÁC MÔN KHTN KHÁC

ĐỀ BÀI:

1. Lịch sử giáo dục khoa học tích hợp


2. Đặc điểm mô hình Blum
3. Quan điểm tranh luận ủng hộ và phản bác dạy học tích hợp trên thế giới
4. Mục đích giáo dục tích hợp là gì
5. Quan điểm của anh/chị về giáo dục, dạy học tích hợp là như thế nào?

BÀI LÀM:

1. Lịch sử giáo dục khoa học tích hợp

- Trong giáo dục, khái niệm Tích hợp xuất hiện từ thời kỳ Khai sáng
(thế kỷ XVIII) dùng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện con
người, chống lại hiện tượng làm cho phát triển thiếu hài hòa, cân
đối. Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ
hợp các nội dung từ môn học thành “môn học” mới, như Vật lý, Hóa
học, Sinh học được tích hợp thành Khoa học tự nhiên; Lịch sử, Địa
lý, Xã hội học, Kinh tế học thành môn Nghiên cứu xã hội.
- Tích hợp cũng có thể hiểu là sự lồng ghép các nội dung cần thiết vào
nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung giáo dục
dân số, giáo dục môi trường… vào nội dung các môn học: Địa lý,
Sinh học, Giáo dục công dân…xây dựng trong các môn học truyền
thống.
- Sự xuất hiện của Khoa học tích hợp được bắt nguồn từ việc Hội
đồng khảo thí Tây Phi (WAEC) đề xuất với STAN một môn học
khoa học chức. Nhu cầu về giáo dục tích hợp lên đến đỉnh điểm vào
năm 1970 khi Ủy ban Tư vấn Khoa học Giáo dục Hoa Kỳ của Quỹ
Khoa học Quốc gia đề xuất một chương trình giảng dạy liên quan
đến Khoa học và Công nghệ cho các vấn đề xã hội và con người
(Hurd, 1986)
- Đan xen với cuộc thảo luận này là một cuộc thảo luận về giáo dục
tiến bộ dựa trên những ý tưởng của Dewey, (Gilbert, 2005).
- Thế kỷ 20 ở Hoa Kỳ đã chứng kiến một cuộc thảo luận liên tục về
giáo dục Khoa học tích hợp (Hurd, 1986)
- Trong cùng khoảng thời gian, hai tổ chức quốc tế lớn bắt đầu lập
bản đồ và phát triển liên tục của giáo dục Khoa học tích hợp. Một
trong những tổ chức này là UNESCO, nơi xuất bản loạt báo cáo Xu
hướng mới trong giảng dạy Khoa học tích hợp và khác là ICASE,
Hội đồng quốc tế của Hiệp hội Giáo dục Khoa học, một hiệp hội của
các tổ chức giáo viên với mục tiêu tích hợp giáo dục Khoa học.).
- Một trong những bước đầu tiên trong việc lập bản đồ và phát triển
giáo dục Khoa học tích hợp là tìm ra mô hình cho Khoa học tích hợp.

2. Đặc điểm mô hình Blum

- Năm 1973: BLUM đã tạo ra một mô hình hai chiều bao gồm phạm vi
và cường độ. Ông sử dụng mô hình này để phân loại các chương trình
giảng dạy ở các khu vực khác nhau trên thế giới (Blum, 1973).
- Năm 1979: sự đa dạng của các chương trình giảng dạy với Khoa học
tích hợp đã phát triển đến mức gần như vô nghĩa khi nói về các
chương trình giảng dạy tích hợp:

Phạm vi giao dịch


với các ngành
được tích hợp.

Cường độ có ba
cấp độ: tích hợp

tích hợp đầy đủ


TH kết hợp TH Phối hợp
(hợp nhất)
- Kích thước, cường độ Blum được chia thành ba cấp độ trong đó sự
pha trộn là cấp độ tích hợp đầy đủ nhất và phối hợp là cấp độ tích hợp
ít nhất.
- Mức độ tích hợp kết hợp xảy ra khi các chương của các đơn vị chính
được tổ chức xung quanh các tiêu đề từ các ngành khác nhau. Phối
hợp Hợp nhất Pha trộn - Phối hợp là cấp độ tích hợp ít nhất.
- Phối hợp tồn tại khi các chương trình độc lập được dạy đồng thời
Sự hợp nhất xảy ra khi một chủ đề liên ngành hình thành nguyên tắc
thống nhất ở cấp độ chương Sự pha trộn là cấp độ tích hợp đầy đủ
nhất

3. Quan điểm tranh luận ủng hộ và phản bác trên thế giới

a. Quan điểm của VACH

sự cần thiết phải


Các khái niệm vẫn xử lý các kỹ năng chuyển học sinh
là thứ tự đầu tiên thứ hai đến cấp độ ứng
dụng vẫn là thứ ba.

b. Quan điểm kiến tạo

- Quan điểm kiến tạo cho việc học tập cho thấy bối cảnh là khía cạnh
quan trọng nhất để xác định liệu việc học có xảy ra hay không
- Bối cảnh: Đối với nhiều sinh viên, bối cảnh cho khoa học là nơi để
bắt đầu; bối cảnh có thể cung cấp sự tập trung vào cách thức để tìm
hiểu vấn đề, đặt được câu hỏi nghiên cứu và tìm cách giải quyết vấn
đề
- Trải nghiệm: Xem xét bối cảnh ngụ ý tập trung vào các trải nghiệm
trước đây của sinh viên. Mạnh [Mạnh] ‘Bắt đầu với các khái niệm
thúc đẩy sự tiếp tục tập trung vào những gì người học đã từng trải
nghiệm.” c. Quan điểm của Andersson
- Andersson đã thực hiện nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực ‘Các
khái niệm trong bối cảnh Giáo dục Khoa học trong đó việc giải thích
Khoa học liên ngành đã được thực hiện ở Thụy Điển (Andersson,
1994, 2001). • Andersson liên hệ đến khoa học tự nhiên trong bối
cảnh các vấn đề trong môi trường tự nhiên và xã hội.
- Andersson tuân thủ quan điểm xây dựng xã hội về học tập và phát
triển một số khái niệm trong Khoa học (thích nghi với hoàn cảnh
Thụy Điển).

d. Quan điểm của Schwab

- Về mặt ngoại khóa, điều này có nghĩa là kiến thức về cấu trúc của
lịch sử, toán học và khoa học không cho phép chúng ta tổ chức kiến
thức hoặc chương trình giảng dạy.
- Điều này không có nghĩa là sự rõ ràng về cấu trúc toán học là không
quan trọng, nhưng đối với người xây dựng chương trình giảng dạy
thì sự rõ ràng như vậy là không đủ cho nhiệm vụ của anh ta.
'(Schwab, 1964)
- Schwab viết về' cấu trúc thực chất của khoa học tự nhiên ' và thảo
luận về các nguyên tắc khoa học, "hữu cơ", "toàn diện" và hợp lý.
- Theo ông, đây là những cách khác nhau để xem xét nội dung Khoa
học và Khoa học.
- Bài viết của Schwab chỉ ra rằng các môn học khác nhau trong Khoa
học khác biệt với nhau. e. Quan điểm của Scriven
- Ông đề cập cụ thể các môn học khác nhau trong Khoa học khác biệt
với nhau: Vật lý, Sinh học và Hóa học. Theo Scriven, loại phân biệt
này không áp dụng cho Khoa học xã hội (Scriven, 1964).
- Ông tuyên bố rằng Khoa học xã hội được xây dựng từ Lịch sử, Địa
lý và Tâm lý học.
- Các môn học này được xâu chuỗi lại với nhau bằng logic, Toán học
và phương pháp luận. Kinh tế, Nhân chủng học, Xã hội học và Khoa
học Chính trị bổ sung cho lĩnh vực nghiên cứu này.
- Đạo đức mang tất cả các chủ thể lại với nhau trong hành động xã
hội.
- Scriven khẳng định rằng không có môn học nào trong Khoa học xã
hội độc lập với các môn học khác và có thể tự đứng vững.
- Quan điểm của ông về Khoa học xã hội về cơ bản khác với Schwab
về khoa học tự nhiên.
4. Mục đích giáo dục tích hợp

Mục đích của dạy học tích hợp là để hình thành và phát triển năng lực học
sinh, giúp học sinh vận dụng để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn
của cuộc sống. Bản chất của năng lực là khả năng của chủ thể kết hợp một
cách linh hoạt, có tổ chức hợp lý các kiến thức, kỹ năng với thái độ, giá
trị, động cơ, nhằm đáp ứng những yêu cầu phức hợp của một hoạt động,
bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả tốt đẹp trong một bối cảnh nhất
định; và phương pháp tạo ra năng lực đó chính là dạy học tích hợp.

5. Quan điểm của anh/chị về giáo dục, dạy học tích hợp là như thế
nào?

Tư tưởng “tích hợp” trong giáo dục được thể hiện ở việc xây dựng chương
trình dạy học và được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các
kiến thức trong một môn học hoặc giữa các môn học thành một nội dung
thống nhất. Trên thế giới, tư tưởng tích hợp giáo dục xuất hiện từ những
năm 60 của thế kỷ XX và đã được áp dụng rộng rãi.

Ở mức độ cao có thể tích hợp các môn vật lí, hóa học, sinh học thành môn
khoa học tự nhiên, hoặc tích hợp các môn lịch sử, văn học, địa lí thành
môn khoa học xã hội nhân văn. Những môn tích hợp này là môn mới chứ
không phải chỉ là việc ghép các môn riêng rẽ với nhau, không có sự tách
rời, độc lập giữa các lĩnh vực trong một môn tích hợp.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại
phát minh ngày càng nhiều, kiến thức giữa các lĩnh vực có liên quan mật
thiết với nhau. Đồng thời, do yêu cầu của xã hội, do nhu cầu thực tế đang
đòi hỏi con người phải giải quyết rất nhiều tình huống trong cuộc sống.
Khi giải quyết các vấn đề đó, kiến thức của một lĩnh vực chuyên môn sẽ
không thể thực hiện được mà cần phải vận dụng kiến thức liên ngành một
cách sáng tạo. Từ thực tế đó đã đặt ra cho giáo dục và đào tạo một vấn đề
là phải thay đổi quan điểm về giáo đục mà dạy học tích hợp là một định
hướng mang tính đột phát để đổi mới căn bản và toàn diện về nội dung và
phương pháp giáo dục.

Dạy học tích hợp (hay dạy học theo chủ đề) là cách tiếp cận giảng dạy liên
ngành theo đó các nội dung giảng dạy được trình bày theo các đề tài hoặc
chủ đề. Mỗi đề tài hoặc chủ đề được trình bày thành nhiều bài học nhỏ để
người học có thể có thời gian hiểu rõ và phát triển các mối liên hệ với
những gì mà người học đã biết. Cách tiếp cận này tích hợp kiến thức từ
nhiều ngành học và khuyến khích người học tìm hiểu sâu về các chủ đề,
tìm đọc tài liệu từ nhiều nguồn và tham gia vào nhiều hoạt động khác
nhau. Việc sử dụng nhiều nguồn thông tin khuyến khích người học tham
gia vào việc chuẩn bị bài học, tài liệu, và tư duy tích cực và sâu hơn so
với cách học truyền thống với chỉ một nguồn tài liệu duy nhất. Kết quả là
người học sẽ hiểu rõ hơn và cảm thấy tự tin hơn trong việc học của mình.

Dạy học tích hợp không chỉ là sự kết hợp đơn thuần giữa lý thuyết và thực
hành trong một tiết/buổi dạy. Chúng ta cần phải hiểu rằng, phía sau quan
điểm đó là một triết lý giáo dục, nó phản ánh mục tiêu của việc học. Theo
quan điểm truyền thống thì mục tiêu của dạy học là cung cấp một hệ thống
các kiến thức hoặc kỹ năng riêng lẻ cho người học để sau đó người học
muốn làm bất kì việc gì với những kiến thức và kỹ năng đó. Còn theo
quan điểm dạy học tích hợp thì mục tiêu của dạy học là hướng đến việc
đào tạo ra những con người với những năng lực cụ thể để giải quyết những
vấn đề trong thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo.

Từ định nghĩa trên, có thể phân tích thấy mục tiêu cơ bản của việc áp dụng
cách dạy học khoa học này đó là:

- Hình thành và phát triển năng lực toàn diện cho học sinh
- Tạo dựng mối quan hệ giữa các môn học với nhau và áp dụng với
kiến thức thực tiễn.
- Cho phép các em học sinh lĩnh hội càng nhiều kiến thức rộng lớn
của nhân loại.
- Hạn chế tối đa việc trùng lặp nội dung thuộc các môn học khác nhau.

Ưu điểm của dạy học tích hợp:

- Mục tiêu của việc học được người học xác định một cách rõ ràng ngay
tại thời điểm học;

- Nội dung dạy học: Tránh những kiến thức, kỹ năng bị trùng lặp; phân
biệt được nội dung trọng tâm và nội dung ít quan trọng; Các kiến thức gắn
liền với kinh nghiệm sống của học sinh;

- Phương pháp dạy học: Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống; Thiết
lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học;
- Đối với người học: cảm thấy quá trình học tập có ý nghĩa vì nó giải quyết
được một tình huống, một vấn đề trong thực tiễn cuộc sống từ đó có điều
kiện phát triển kỹ năng chuyên môn.

Tuy nhiên, khi thực hiện dạy học tích hợp cũng gặp phải không ít khó
khăn vì đây còn là một quan điểm còn mới đối với nhà trường, với giáo
viên, với phương diện quản lý, với tâm lý học sinh và phụ huynh học sinh
cũng như các nhà khoa học của mỗi bộ môn; Các chuyên gia, các nhà sư
phạm đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm, các chuyên viên phụ
trách môn học rất khó để chuyển đổi từ chuyên môn sang lĩnh vực mới
trong đó cần sự kết hợp với chuyên ngành khác mà họ đã gắn bó; Giáo
viên và các cán bộ thanh tra, chỉ đạo thường gắn theo môn học, không dễ
để thực hiện chương trình tích hợp các môn học; Phụ huynh học sinh khó
có thể ủng hộ những chương trình khác với chương trình mà họ có đã
được học.

Không phải môn học nào, bài học nào cũng có thể dễ dàng soạn giảng
theo mẫu giáo án tích hợp được. Đây là một vấn đề được đặt ra và cần có
một sự thống nhất từ phía các giáo viên giảng dạy cùng một bộ môn và
quản lý chuyên môn ở các Khoa. Tích hợp theo Mô-đun, tiến độ dạy có
thể dạy - học toàn bộ lý thuyết trước tiếp sau là thực hành; tích hợp theo
bài, lý thuyết dạy học trước, thực hành dạy sau khi học xong toàn bộ lý
thuyết của bài; mức độ 3 là tích hợp theo từng bước công việc, trong đó
kiến thức và kỹ năng thực hành được dạy học tích hợp trong từng bước
công việc. Ngoài ba mức độ trong dạy học tích hợp trên thì tích hợp không
chỉ có lý thuyết và thực hành mà còn có sự tương tác giữa người dạy và
người học trong giờ học, tích hợp cả những kỹ năng mềm khác để phát
huy kinh nghiệm, hiểu biết của người học từ đó làm cho người học tiếp
thu kiến thức chủ động hơn.

Mặc dù mỗi người có một cách giảng dạy khác nhau nhưng nội dung tích
hợp cần phải thống nhất chung, cấu trúc của giáo án tích hợp phải được
thống nhất, bài nào thực hiện theo phương thức tích hợp và nội dung nào
được tích hợp trong bài giảng đó cũng phải được sự bàn bạc thống nhất
chung giữa các giáo viên cùng dạy.

Dạy học tích họp là một xu thế hiện đại, xu thế này không mới so với các
chương trình giáo dục tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, để chuyển đổi từ
chương trình dạy học mang tính lý thuyết, hàn lâm sang chương trình đào
tạo nghề, giảm bớt giờ lý thuyết tăng cường các giờ học tích hợp, tăng
cường sự tương tác giữa giáo viên và người học thì cần phải có sự cố gắng
rất lớn từ phía người dạy, người học và nhà Trường. Mục tiêu giáo dục có
đạt được hay không là nhờ vào sự cố gắng đổi mới mạnh mẽ từ cách tiếp
cận phương pháp dạy học, cách soạn giảng và cách truyền thụ kiến thức
hợp lý.

You might also like