Professional Documents
Culture Documents
Tiểu luận LLĐ
Tiểu luận LLĐ
* Căn cứ phạm vi của đình công, đình công được chia thành:
- Đình công doanh nghiệp: Đình công doanh nghiệp là đình công do tập
thể lao động trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành.
- Đình công ngành: Đình công ngành là đình công do người lao động
trong phạm vi một ngành tiến hành.
- Đình công toàn quốc: Đình công toàn quốc là đình công của người lao
động trong phạm vi nhiều ngành, nhiều khu vực trong toàn quốc tiến hành (tổng
đình công).
* Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công, đình công được chia thành:
- Đình công hợp pháp
Tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi
ích có quyền tiến hành thủ tục theo quy định của pháp luật để đình công trong
trường hợp sau đây:
+ Hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải theo quy định của pháp
luật mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải;
+ Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng
không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên
tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài
lao động.
- Đình công bất hợp pháp.
Đình công bất hợp pháp là đình công trái với quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, pháp luật quy định những trường hợp đình công bất hợp pháp bao
gồm:
+ Không thuộc trường hợp được đình công quy định tại Điều 199 của Bộ luật
Lao động.
+ Không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình
công.
+ Vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công theo quy định
của Bộ luật này.
+ Khi tranh chấp lao động tập thể đang được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật này.
+ Tiến hành đình công trong trường hợp không được đình công: Không được
đình công ở nơi sử dụng lao động mà việc đình công có thể đe dọa đến quốc phòng, an
ninh, trật tự công cộng, sức khỏe của con người.
+ Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
2. Thực trạng đình công, nguyên nhân và giải pháp khắc phục
2.1: Thực trạng
Theo báo cáo của Tổng LĐLĐ Việt Nam, kể từ khi Bộ luật Lao động có hiệu lực
thi hành (từ năm 1995 đến hết năm 2012), cả nước xảy ra 4.922 cuộc đình công,
trong đó: doanh nghiệp nhà nước xảy ra 100 vụ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài xảy ra hơn 3.500 vụ; doanh nghiệp tư nhân xảy ra gần 1.300 vụ.
Nếu tính riêng 5 năm từ năm 2008 đến 2012, cả nước xảy ra hơn 3.000 cuộc tranh
chấp cụ thể và đình công trên địa bàn 29 tỉnh, thành phố Theo số liệu thống kê, từ
khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành đến hết năm 2009, cả nước đã xảy ra
2863 cuộc đình công, bình quân 190,8 cuộc/năm. Số các vụ đình công diễn ra theo
xu thế tăng dần trong suốt giai đoạn từ 1995 (chỉ có 50 vụ) đến đỉnh điểm là năm
2008 (652 vụ), sau đó giảm mạnh vào năm 2009 (chỉ 216 vụ). Tuy nhiên, đến năm
2010, số các vụ đình công tiếp tục gia tăng. Theo số liệu của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2010 đã có trên 200 vụ đình
công trên phạm vi cả nước... Nhưng từ năm 2014 đến này, số cuộc đình công có
xu hướng giảm so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên kể từ khi Việt Nam chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường vào đầu
thập niên 1990, quan hệ lao động ở Việt Nam đã biến đổi về chất với sự xuất hiện
ngày càng nhiều các cuộc tranh chấp lao động tập thể và đình công. Sau khi Bộ
luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực năm 1995,
cho đến nay, đã có hơn 6.500 cuộc đình công diễn ra trên cả nước 1 , nhưng điểm
đáng chú ý là có rất ít các cuộc đình công là hợp pháp. Một cuộc đình công hợp
pháp phải đáp ứng hai tiêu chí: thứ nhất, phải tuân theo trình tự quy định trong Bộ
luật Lao động, trong đó không được phép đình công về quyền; và thứ hai, phải do
tổ chức công đoàn lãnh đạo. Thế nhưng, tất cả các cuộc đình công ở Việt Nam
dường như đều tự phát, không do công đoàn tổ chức và lãnh đạo, và vì vậy, được
xem là bất hợp pháp. Đáng chú ý, số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
cũng cho thấy, số cuộc đình công đa số xảy ra tại các doanh nghiệp FDI- doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ví như cuộc đình công của hơn 500 công nhân Công ty TNHH Công nghệ thực
phẩm PATAYA năm 2008. Theo báo Cần Thơ: “Công ty TNHH Công nghiệp
thực phẩm Pataya (Việt Nam) là một doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Thái Lan,
được thành lập theo Giấy phép đầu tư số 1915/GP ngày 30-5-1997 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, thuộc lĩnh vực chế biến thủy hải sản đóng hộp và thành phẩm
chuyên xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Hiện nay số CN của công ty này vào
khoảng 1.200 người, trong đó trên 700 CN được ký HĐLĐ, số còn lại là lao động
công nhật, thời vụ.
10 giờ sáng 25-4-2008, trên 500 CN của Công ty TNHH Công nghiệp thực phẩm
Pataya (Việt Nam) - Lô 44 KCN Trà Nóc, TP Cần Thơ đồng loạt đình công, tụ tập
tại sân công ty yêu cầu lãnh đạo công ty trả lời dứt khoát về những kiến nghị tăng
tiền trợ cấp cơm trưa, trợ cấp tiền xe, ký HĐLĐ... Đại diện công nhân đình công
cho biết, những kiến nghị tăng tiền trợ cấp ăn trưa, trợ cấp tiền xe đưa rước công
nhân (gọi tắt là trợ cấp tiền xe) đã 20 ngày mà lãnh đạo công ty vẫn không có lời
giải thích khiến trên 500 công nhân (CN) bức xúc và đình công. Còn có những nữ
công nhân có thai nhưng vẫn phải làm ca đêm; lao động làm công nhật đã 3-4 năm
mà công ty vẫn không ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) nên không được đóng bảo
hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), tiền thưởng bị trừ...
Theo lãnh đạo công ty, lương của CN mức cao nhất khoảng 1 - 1,2 triệu
đồng/tháng, thấp nhất là mức lương cơ bản theo quy định. Ngoài ra, CN còn được
trợ cấp 8.000 đồng/người/ngày (trợ cấp cơm trưa, trợ cấp tiền xe)... Tuy nhiên đấy
là đối với công nhân được ký HĐLĐ, còn hàng trăm lao động công nhật thì thực
hiện theo kiểu “làm ngày nào ăn ngày đó”, ngoài ra họ không được hưởng chế độ
thưởng Tết, không được đóng BHXH, BHYT... dù họ làm việc cho công ty từ 2-3
năm, có người đã làm trên 6 năm.
Theo trình bày của các CN, từ ngày 5-4-2008, họ đã đề đạt với lãnh đạo công ty và
bộ phận Công đoàn với yêu cầu được tăng mức trợ cấp tiền cơm trưa, trợ cấp tiền
xe bởi từ trước Tết Nguyên đán 2008 đến nay vật giá leo thang, tiền nhà trọ, chi
phí bữa ăn hằng ngày tất cả đều tăng vọt, trong khi đồng lương của CN chẳng
thấm vào đâu, đời sống CN vô cùng khó khăn. Đại diện CN còn đề nghị lãnh đạo
công ty cho biết vì sao lương tháng 13 (thưởng cuối năm) được trên 800 ngàn
đồng (theo mức lương cơ bản) mà còn bị trừ với những lý do như bị đau ốm, thai
sản, nhà có tang ma... Khi lãnh lương tháng 13, có người chỉ còn lại 200 - 300
ngàn đồng. Các CN còn yêu cầu làm rõ việc CN nữ mang thai từ tháng thứ nhất
đến tháng thứ 7 sao vẫn bố trí làm ca đêm, vì sao có những công nhân làm công
nhật đã 3-4 năm, thậm chí có người làm trên 6 năm vẫn không được ký hợp đồng,
dù là hợp đồng lao động thời vụ. Có những CN bắt đầu đi làm từ khi công ty đi
vào hoạt động đến nay nhưng vẫn không biết tổ chức Công đoàn là thế nào, ai là
Chủ tịch Công đoàn. Ông Nguyễn Hải Long, Chủ tịch Công đoàn cơ sở Công ty
TNHH Công nghiệp thực phẩm Pataya (Việt Nam) thừa nhận những kiến nghị nêu
trên của CN là xác đáng và phía Công đoàn đã trao đổi với lãnh đạo công ty tìm
hướng giải quyết. Cũng theo ông Long, từ khi công ty hoạt động đã hình thành tổ
chức Công đoàn, nhưng đến nay chỉ có 100 công đoàn viên. Lý giải chuyện này,
ông Nguyễn Hải Long cho rằng: “Số lượng CN của công ty luôn biến động nên rất
khó kết nạp công đoàn viên (?!)”.