You are on page 1of 15

3.1.

Giá trị lý luận


3.3.1. Giá trị lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
http://hvlq.vn/tai-nguyen/cac-hoat-dong/gia-tri-khoa-hoc-lam-nen-suc-song-truong-
ton-cua-triet-hoc-m.html#:~:text=S%E1%BB%B1%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng
%20t%E1%BB%93n%20c%E1%BB%A7a%20tri%E1%BA%BFt,nh%E1%BB%AFng
%20n%E1%BB%99i%20dung%20c%C6%A1%20b%E1%BA%A3n%3A&text=Kh
%E1%BA%AFc%20ph%E1%BB%A5c%20nh%E1%BB%AFng%20nh
%C6%B0%E1%BB%A3c%20%C4%91i%E1%BB%83m,duy%20v%E1%BA%ADt
%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C4%91%C3%B3%2C%20C.

Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin

Thứ nhất, trên cơ sở kế thừa một cách chọn lọc và có phê phán những thành tựu
của tư duy tư tưởng triết học nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
đã sáng tạo nên một hệ thống triết học mới hoàn toàn về chất; có tính hoàn bị và
triệt để nhất. Trong đó, đã thể hiện sự thống nhất cao giữa chủ nghĩa duy vật với
phép biện chứng; giữa quan niệm duy vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về đời
sống xã hội; giữa việc giải thích hiện thực về mặt triết học với cung cấp phương
pháp luận khoa học cho giai cấp công nhân và chính đảng của nó trong cuộc đấu
tranh cải tạo hiện thực xã hội. Trước khi triết học Mác - Lênin xuất hiện, các học
thuyết triết học cũng đã chứa đựng không ít những luận điểm thể hiện tinh thần biện
chứng. Song, do hạn chế của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan nhất định,
nên chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng không có sự liên kết chặt chẽ, mà trái lại
luôn tách rời nhau. Theo Mác: “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật
từ trước tới nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái
cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, của thực
tiễn” .

Khắc phục những nhược điểm của chủ nghĩa duy vật trước đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật triết học chân chính khoa học bằng
cách xuất phát từ con người hiện thực - con người hoạt động thực tiễn mà trước hết
là thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội. Nói cách khác,
chủ nghĩa duy vật cũ là chủ nghĩa duy vật bị “cầm tù” trong cách nhìn chật hẹp,
phiến diện của phép siêu hình và duy tâm về xã hội. Trong khi đó, phép biện chứng
lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điển
Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cơ sở duy tâm
của triết học Hêghen, vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống triết học bảo thủ,
giáo điều với phương pháp biện chứng, cách mạng. Nếu như ở hệ thống triết học
của Hêghen đã coi thường nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc bức tranh khoa
học hiện thực; phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã bất lực trước sự phân tích
thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực
trước sự phân tích các sự kiện chính trị. Trái lại, bằng việc kết hợp một cách tài tình
giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình
và giải phóng phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí, các nhà kinh điển triết
học Mác - Lênin lần đầu tiên trong lịch sử đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết
học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội và mở
rộng vào nghiên cứu một lĩnh vực đặc thù của thế giới vật chất là sự tồn tại có hoạt
động của con người, tồn tại trong sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan. Từ đó, đã “làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học
thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học” [5,
tr.49-50].

Thứ hai, triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn; đồng thời luôn thể hiện tính mở, tính phát triển trong toàn hệ thống lý luận. triết
học Mác - Lênin là hệ thống lý luận lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại xác định đúng đắn vị trí, vai trò của thực tiễn, coi thực tiễn là “tính thứ nhất”, lấy
thực tiễn làm điểm xuất phát và là mục đích của mọi lý luận. Từ đó, làm cho Triết
học luôn phản ánh được “hơi thở của thực tiễn”; đồng thời đã khám phá ra bản chất,
vai trò của thực tiễn; thực hiện gắn bó một cách hữu cơ giữa quá trình phát triển lí
luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
và quần chúng nhân dân lao động. Coi việc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là
vấn đề có tính nguyên tắc trong mọi luận điểm đề xuất. Chính điều này đã làm cho
vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri thức khoa học
của nhân loại có sự biến đổi rất căn bản. Giờ đây, triết học không chỉ có chức năng
giải thích thế giới, mà luôn đặt mục tiêu là ngọn nến soi đường, dẫn dắt, hướng vào
cải tạo thế giới bằng bởi “phương pháp luận” khoa học, biện chứng và cách mạng.
Như lời khẳng định của C.Mác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [2, tr.53].

Cùng với việc giải quyết một cách thuyết phục những “đòi hỏi của lịch sử” trong xã
hội đương thời mà Mác, Ăngghen, Lênin cống hiến, sáng tạo thì sức sống của triết
học Mác - Lênin còn được quy định sâu sắc ở tính mở, tính phát triển trong toàn hệ
thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ xem hệ thống lý
luận của mình là “nhất thành bất biến, đóng khung và tuyệt đích”; trái lại, các ông
luôn hiểu rõ “là sản phẩm của thời đại của mình”, chịu sự quy định của bối cảnh
đương thời nên không thể khái quát, dự báo toàn diện khi thời cuộc thay đổi.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ
không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách
máy móc” [4, tr.796]. Tính mở và tính phát triển của triết học Mác - Lênin được thể
hiện ở chỗ luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo xã
hội, phát triển khoa học - công nghệ,...), hướng về thời đại, về tương lai, chứ tuyệt
nhiên không phải là thứ lý luận khép kín kiểu thư phòng và kinh viện. V.I.Lênin từng
nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi
hẳn và bất khả xâm phạm” [5, tr.593]. Triết học Mác - Lênin luôn hướng vào giải
quyết những vấn đề cơ bản và thiết thực do thực tiễn đặt ra, đồng thời nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Hệ thống ấy vì thế mà có
khả năng hấp thụ “sinh khí thực tiễn”, được thực tiễn lịch sử “phản biện”, kiểm
nghiệm, chứng minh, làm giàu để luôn “tự đổi mới và không ngừng phát triển”; vươn
lên tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn mới.

Thứ ba, triết học Mác - Lênin thực sự đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa tính
đảng và tính khoa học. Với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, Triết học
Mác - Lênin giữ vai trò là ngọn đuốc sáng cho con người đi trong đêm tối, hướng
vào cải tạo hiện thực mọi mặt đời sống xã hội của con người. Đồng thời, do gắn bó
mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giai cấp tiến bộ và
cách mạng nhất trong xã hội hiện đại, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ
bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội nên khác hẳn với mọi học thuyết
triết học trong lịch sử, triết học Mác - Lênin luôn công khai tính đảng, thấy được
nguồn sức mạnh vật chất của xã hội và biến triết học của mình thành vũ khí tinh
thần của lực lượng vật chất ấy - Giai cấp vô sản với tinh thần: “Giống như triết học
thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học
là vũ khí tinh thần của mình” [1, tr.12].

Bên cạnh việc công khai tính đảng, triết học Mác - Lênin ra đời với tính khoa học
triệt để đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn biến triết học thành
“khoa học của mọi khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Các nhà kinh điển của triết
học Mác - Lênin đã xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể.
Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng: “dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ
cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết
học tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận
dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó” [3, tr.796].
Trên thực tế, Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lí luận triết học của mình trên cơ sở
khái quát các thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi cả nội dung và hình thức
biểu hiện của nó. Ở chiều hướng ngược lại, triết học Mác - Lênin ra đời đã cung cấp
thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển của
các ngành khoa học cụ thể./.

Vai trò sứ mệnh lãnh đạo của giai cấp công nhân:
- Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và
cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-
xã hội khách quan:
+ Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ
phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình
độ xã hội hóa cao.
+ Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
+ Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cách mạng triệt để và có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là
khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp
bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
- Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định
được vai trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới,
tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải quyết các vấn
đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa,
năng lượng, lương thực,…
- Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
- Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
- Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu
cực, tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng
trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân.
- Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân
lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công
xã hội cộng sản chủ nghĩa.

https://luathoangphi.vn/su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-viet-nam/#:~:text=K
%E1%BA%BFt%20lu%E1%BA%ADn%3A%20S%E1%BB%A9%20m%E1%BB
%87nh%20l%E1%BB%8Bch,h%E1%BB%99i%20c%E1%BB%99ng%20s%E1%BA
%A3n%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a.
3.1.2. Giá trị lý luận việc bổ sung phong trào yêu nước của Nguyễn Ái Quốc
http://truongchinhtrils.vn/node/1299

Luận cương của V.I. Lênin tác động mạnh mẽ tạo ra sự biến đổi mang tính chất
bước ngoặt, căn bản, về chất trong tư tưởng, tình cảm, quan điểm, lập trường, cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc, giúp Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc là con đường cách mạng vô sản - được coi là con đường duy nhất đúng của
cách mạng Việt Nam. Người chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường vô
sản.

Thứ nhất, Người đã xác định rõ kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải chĩa ngọn
cờ cách mạng vào đúng kẻ thù.

Nhận thức về bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa, Lênin viết: “Chế độ dân chủ tư sản,
do bản chất của nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về
quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp
dưới quyền bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố
quyền bình đẳng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và
người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; do đó, làm cho những giai cấp bị
áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm” (4). Nội dung của Luận cương Lênin đã đánh
giá đúng tình hình lịch sử cụ thể; phải phân biệt rõ rệt lợi ích giai cấp của những
người lao động, những người bị bóc lột, làm sáng tỏ bức tranh của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Chính giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nhân dân lao động chính quốc,
đồng thời đô hộ đàn áp các nước thuộc địa. Về kẻ thù của cách mạng Việt Nam
được Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm
1930, đó là: thực dân Pháp và bọn phong kiến. Đồng thời, phân tích rõ mâu thuẫn
giai cấp, mâu thuẫn dân tộc để lôi kéo, đoàn kết tập trung mọi lực lượng tiến hành
cách mạng, nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của giai cấp vô sản, nhân dân lao động.

Thứ hai, Sơ thảo Luận cương của Lênin chỉ rõ cho Nguyễn Ái Quốc thấy động lực
to lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp công nhân và nông dân.

Từ ý chí tìm lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách
mạng, thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là
cuộc cách mạng tháng Mười Nga, lại được lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường,
Nguyễn Ái Quốc đã xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công
nhân và nông dân: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ
là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” (5).

Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa mà Sơ thảo Luận cương của Lênin đã vạch ra, đó là: Con
đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Chánh cương vắn tắt của Đảng do
lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường giải phóng và phát triển
của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”
(tức cách mạng dân tộc dân chủ), “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày
có ruộng” để đi tới xã hội cộng sản” (6). Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ
Chí Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa
như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác, giải phóng, giành độc lập dân tộc là
bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở thuộc địa ở Việt Nam.

Sau này Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị
đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
cho chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế ba” (7). Khi ủng hộ
Quốc tế III, tin theo Lênin Người vẫn chưa thực sự hiểu về cách mạng tháng Mười
Nga, càng chưa thể hiểu được học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin là gì. Nhưng
sau khi đọc Sơ thảo luận cương của Lênin, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
(8).

Thứ tư, Sơ thảo Luận cương của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng
thuộc địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc
địa.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng cách mạng ở thuộc địa có thể giành thắng lợi
trước ở chính quốc. Cơ sở của quan điểm này xuất phát từ nhận thức sâu sắc bản
chất của chủ nghĩa đế quốc của Nguyễn Ái Quốc. Người viết: “chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác
bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nên muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp
tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra” (9). Khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và vai trò quan trọng của cách mạng ở
thuộc địa, Người chỉ rõ: Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư
bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng
dễ” (10).

Lênin là người đã phát hiện ra vai trò to lớn của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái
Quốc tiếp nhận một cách sâu sắc. Tại Đại hội lần thứ I của Quốc tế III, Nguyễn Ái
Quốc đã kêu gọi vô sản các nƣớc đoàn kết lại. Trong Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt của Đảng năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Phải thực hành liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp” (11).

Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Do nhu cầu của cách mạng, Người càng ra
sức tìm hiểu và thấu suốt được tinh túy của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn
cách mạng Việt Nam đặt ra. Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, chính
Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển
nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
người yêu nước trở thành ngƣời cộng sản. Qua Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã tìm thấy ở đó con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Chính Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
40 năm sau nhìn lại sự kiện này, đã viết: “Riêng về cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được
học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh
anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý
chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội
chủ nghĩa”

3.2. Giá trị thực tiễn


3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, là một bước ngoặt
vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự kiện đánh dấu một
mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng CỘng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân
Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được
xây dựng ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách
mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở
để Đảng Cộng sản Việt Nam – môt Đảng vừa mới được thành lập nhưng đã giương
cao được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết tốt nhất tình
trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra
đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước và
dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng
và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để
hoàn thành thắng lợi cuộc cách mang dân tộc dân chủ, từng bước xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương
hướng phát triển, con đường cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại và đã làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam
cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, biết ơn và tin
yêu Đảng, toàn thể đảng viên, cán bộ viên chức, sinh viên Trường Đại học Kinh tế
và Quản trị kinh doanh hôm nay không ngừng ra sức thi đua thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng bộ Nhà trường thành một tổ chức
Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể xây
dựng Nhà trường thành một cơ sở giáo dục đại học phát triển, góp phần tích cực
vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chung tay xây dựng quê
hương, Đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, như sinh thời Bác Hồ hằng mong
ước

Sự ra đời và nắm quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua 90 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam luôn ý thức được
vị trí, vai trò, trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước,
tạo ra những dấu mốc quan trọng của cách mạng Việt Nam “Đảng đã lãnh đạo nhân
dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc
kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(1).

ĐCS Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời mang bản chất
giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân
và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Có thể nói,
sứ mệnh lịch sử của ĐCS Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại
biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong
và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác -
con đường cách mạng vô sản”(2). Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ:
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có
vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
chạy”(3). ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo nhân dân cùng một lúc phải làm tư
sản cách mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách mạng. Đây là đặc điểm
nổi bật nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS lãnh đạo và cũng là một đặc
điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.

Vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi của
Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;... “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... giải phóng
công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông
nghiệp;... đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân”.

90 năm qua, Đảng ta đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
15 năm sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại
xâm lược Việt Nam, cả dân tộc ta đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của lãnh tụ Hồ
Chí Minh tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc và đã giành được thắng lợi to lớn,
đánh thắng đế quốc xâm lược; lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn
cảnh đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến
hành đồng thời hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi đế quốc Mỹ đưa quân vào
xâm lược miền Nam (năm 1965), tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ
cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (năm 1964),
Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đánh cho Mỹ cút (năm 1973), đánh cho ngụy
nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (ngày 30/4/1975), đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm
1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975) do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở
thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành
công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên đánh bại
chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải phóng
dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - La tinh.
3.2.2. Đối với sự phát triển của đất nước hiện nay (1975-nay)
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, đất nước
Việt Nam thống nhất, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều
khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng đã chủ động khởi
xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước. Những thành tựu to lớn
sau hơn 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc
phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong vai
trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch chống phá, bị
bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra,
Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các
tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin
của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao. Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới
đất nước, Việt Nam trở thành một trong những nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên tiến
hành đổi mới thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân, dân tộc Việt
Nam có quyền tự hào về ĐCS Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Từ thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, có thể khẳng định
rằng: đường lối lãnh đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng suốt và
luôn được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin tưởng. Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ,
năng lực lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ giành thắng lợi trong cuộc kháng
chiến giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mà cả
trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo mục tiêu: “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Cách mạng Việt Nam hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới. Những mục tiêu cơ
bản của cách mạng do Đảng xác định từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay đang
được thực hiện. Đất nước đã được độc lập, nhân dân được tự do. Tuy nhiên, đời
sống của nhân dân lao động vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế đất nước vẫn chưa
phát triển mạnh. Đảng ta chỉ rõ: “Nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên,... sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí”(4),... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Các thế lực thù địch, cơ hội thực hiện
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam đã thực
hiện nhiều hoạt động thâm độc nhằm gây chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ
Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Đảng ta đang tiến hành
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thì các thế lực thù địch càng ráo riết dùng mọi thủ đoạn để chống phá Đảng, đòi “đổi
mới thể chế chính trị” ở Việt Nam. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết xuyên
tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật, kích động, lôi kéo những người bất mãn với chế độ,
bôi nhọ, nói xấu Đảng và Nhà nước... gây ra sự bất ổn về chính trị ở một số nơi, gây
hoài nghi về vai trò, khả năng lãnh đạo của Đảng, nhằm từng bước làm mất lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng với mưu đồ tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của ĐCS đối với giai cấp, dân tộc và xã hội.

Có hay không vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với giai cấp và xã hội, câu hỏi này chỉ có
người dân Việt Nam mới có câu trả lời chính xác. Chính nhân dân - chứ không phải
ai khác mới là cán cân chân lý, là người đánh giá chính xác nhất vai trò, uy tín của
Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo đối với cách
mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Những kẻ bán nước cầu vinh, vụ lợi
chính trị tuyên truyền bịa đặt, giả danh, giả nghĩa… thì không đủ tư cách, nhân
phẩm để có tiếng nói trong vấn đề này. Dù họ có nỗ lực đến đâu và cố tình bịa đặt
“bóp méo sự thật” đến mức độ nào thì kết quả nhận được cũng sẽ là sự tuyệt vọng.
Đảng ta không có quyền lợi nào khác ngoài quyền lợi được phục vụ nhân dân, được
phục vụ đất nước và trên thực tế Đảng ta đã là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Cho dù thời cuộc có thay đổi phức tạp, khó khăn, nhưng người dân Việt Nam
vẫn một lòng theo Đảng; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã
hội ngày càng được khẳng định.

Có thể nói, vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc và xã hội
được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và
đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan. Đây là một yếu tố quan
trọng, bảo đảm tính chính danh đầy đủ của Đảng được quy định tại Điều 4 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: 1) Đảng Cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2)
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3) Các tổ
chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt,
nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc
nhất quán của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Đảng
ta, nhân dân ta đã lựa chọn.

Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là vấn
đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Nghị quyết Đại
hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ”(5). Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công
tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên”(6). Vấn đề đặt ra hiện nay là, mọi tổ chức đảng từ
Trung ương đến địa phương, cán bộ, đảng viên phải nắm vững toàn bộ nội dung
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo; đổi
mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực,
nói đi đôi với làm; quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đó là những vấn đề cơ bản, cấp thiết nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kiên định vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc đã
và đang đặt ra những yêu cầu mới và toàn diện, song bên cạnh đó cũng còn nhiều
khó khăn, thách thức. Với bản lĩnh đã được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng,
nhất định Đảng ta sẽ vượt qua và làm tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân
giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch
nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với
giai cấp và xã hội chắc chắn sẽ vị vạch trần và thất bại. Bởi vậy, Đảng cần kế thừa
và phát huy những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng
kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về
vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới./.
https://www.moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/su-ra-
doi-va-su-menh-lich-su-cua-dang-43003.html

You might also like