You are on page 1of 7

Tiểu luần triết học

Đỗ Thị Ngọc Anh

Trường : Cao Đẳng Y Hải Phòng


Lớp : Điều dưỡng
Họ và tên : Đỗ Thị Ngọc Anh

TIỂU LUẬN

Đề bài : Phân tích nội dung yêu cầu và tác động của các quy luật
kinh tế trong nề sản xuất hành hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối với
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.(quy luật giá
trị, cạnh trang, cung cầu, lưu thông tiền tệ và lạm phát).

Bài làm:
Quy luật kinh tế đó là sự phản ánh mối quan hệ nhân quả, tất yếu,
khách quan, bền vững, lắp đi lắp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản
phẩm sản xuất ra dùng để bán, để trao đổi trên thị trường, nó vận động chịu
sự tác động các qui luật kinh tế riêng có của nó:
+ Qui luật giá trị
+ Qui luật cung cầu
+ Qui luật lưu thông tiền tệ

I)Quy luật giá trị:


- Nội dung:
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của nền sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Ở đâu có sản xuất trao đổi hàng hóa ở đó có quy luật giá trị hoạt động.
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải giựa trên giá trị
của nó,tức là dựa trên lao động xã hội cần thiết.
- Yêu cầu:
+ Đối với sản xuất:
Khối lượng sản phẩm mà những nhà sản xuất tạo ra phải phù hợp với
nhu cầu và khả năng thanh toán của xã hội.
Hao phí lao động xã hội cá biệt phù hợp với lao động xã hội cần thiết.
+ Đối với lưu thông:
Phải thực hiện thực hiện theo nguyên tác ngang giá: hàng hóa trao đỏi
với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau,hoặc trao đổi, mua
bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tác giá cả phải phù hợp vói giá
trị.
Giá cả hành hóa trên thị trường lên xuống xung quanh giá trị của hành

1
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

hóa và trỏ thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Với mối hành hóa
riêng biệt, giá cả của nó có thể cao, thấp hơn giá trị hàng hóa nhưng xét
trên phạm vi xã hội,tổng giá cả luôn thống nhất với tổng giá trị của hành
hóa.

- Tác động:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Điều tiết sản xuất là phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động vào các
ngành thông qua sự biến động của giá cả và quan hệ cung cầu trên thị
trường, một ngành nào đó có cung tăng vượt cầu làm cho giá cả hàng hoá
giảm xuống (đến chi phí), người sản xuất bỏ ngành này, di chuyển tư liệu
sản xuất và sức lao động sang ngành cung chưa đáp ứng đủ cầu, cứ như vậy
có sự điều tiết qua lại giữa các ngành tạo ra một sự cân bằng.
Điều tiết lưu thông tức là điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá thấp đến
nơi có giá cao.
+ Kích thích sản xuất phát triển:
Trong nền sản xuất hàng hoá, lợi nhuận vừa là mục đích, vừa là động
lực thúc đẩy hoạt động kinh tế, để đạt được mức độ thu nhiều lợi nhuận,
người sản xuất không ngừng cải tiến kỹ thuật, vận dụng công nghệ mới
tăng năng suất lao động, giảm chi phí (đến mức tối thiểu), tối đa lợi nhuận,
kích thích sản xuất phát triển.
+ Phân hóa và thực hiện sừ lùa chọn tụ nhiên giũa người sản xuất:
Trong môi trường cạnh tranh, để giành những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, người nào có điều kiện sản xuất thuận lợi (kỹ
thuật tiên tiến, qui mô lớn,...) chi phí sản xuất thấp thu nhiều lợi nhuận và
tiếp tục mở rộng sản xuất và ngày càng phát tài. Ngược lại, người nào có
điều kiện bất lợi, chi phí sản xuất cao, việc thu lỗ dẫn đến phá sản.
Tình hình trên dẫn đến một sự phân hoá trong xã hội, một số ít người
giàu lên, trở thành ông chủ, ngược lại số đông người bị phá sản rơi vào điều
kiện làm thuê, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
II) Quy luật cung cầu
- Nội dung:
Cầu: là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một
thời kỳ tương ứng với giá cả,thu nhập và các biến số kinh tế khác.
Cung:là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem bán
trên thị trường trong một thời kỳ nhất định tương ứng với mức giá cả,khả
năng sản xuất chi phí sản xuất xác định.
- Các nhân tố ảnh huởng tới cung và cầu:

2
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu :thu nhập, sức mua của tiền,giá cả hàng
hóa,lãi suất,thị hiếu của người tiêu dùng…
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung:Số lượng ,chất lượng các nguồn
lực,các yếu tố sản xuất được sử dụng,năng suất lao động,và chi phí sản
xuất…
- Mối quan hệ cung và cầu:
Cung quyết định cầu: sản xuất quyết định tiêu dùng về số lượng,chất
lượng ,cơ cấu,chủng loại.
Cầu tác động đến cung: Nếu không có tiêu dùng cũng không có sản
xuấ,tiêu dùng ít sản xuất không phát triển.
- Tác động của cung, cầu đến sản lượng của nền kinh tế:
* Tăng cung sản lượng tăng
*Tăng cầu sản lượng tăng
- Tác dụng của cung - cầu lam cho giá cả vận động xoay quanh
giá trị của hành hóa.
Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị
Đồng thời, giá cả cũng có tác động tới cung và cầu.
III) Qui luật lưu thông tiền tệ
+ Khái niệm về lưu thông tiền tệ:
Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế, phục vụ
cho các quan hệ về thương mại hàng hoá, phân phối thu nhập, hình thành
các nguồn vốn và thực hiện phúc lợi công cộng.
+ Vai trò của lưu thông tiền tệ đối với sự phát triển và ổn định của
nền kinh tế thị trường:
= Lưu thông tiền tệ và chu chuyển hàng hoá
= Lưu thông tiền tệ và quá trình phân phối và phân
phối lại
= Lưu thông tiền tệ và quá trình hình thành các nguồn
vốn
+ Yêu cầu phải quản lý lưu thông tiền tệ:
= Xuất phát từ vai trò của lưu thông tiền tệ.
= Xuất phát từ các trạng thái không ổn định của lưu
thông tiền tệ và ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế.
= Từ việc nghiên cứu quản lý lưu thông tiền tệ, K.
Marx phát hiện ra quy luật lưu thông tiền tệ.
- Nội dung quy luật:
Khối lượng tiền cần thiết (M) cho lưu thông trong một thời gian nhất
định phụ thuộc vào tổng giá cả của hàng hoá được sản xuất và đưa vào lưu

3
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

thông (ΣPQ) và tốc độ lưu thông tiền tệ trong thời gian đó(V)được ngân
hàng qui định.

M = ∑PQ/V

Trong đó:
M: lượng tiền cần thiết trong lưu thông.
P : Mức giả cả
Q: Khối lượng hàng hóa đem ra lưu thông
V: số vòng luan chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ

- Sự vận dụng qui luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện nền kinh
tế thị trường:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các mối liên hệ chủ yếu đề do
thị trường (cung và cầu) quyết định, kể cả mối quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Vì
vậy lưu thông tiền tệ cũng phải được quản lý dựa trên cơ sở xác định mức
cung và cầu tiền tệ nhằm đảm bảo cân bằng cung và cầu tiền tệ.
+ Mức cung tiền tệ và sự xác định mức cung tiền tệ:
Khái niệm về cung tiền tệ: Tổng giá trị của các PTTT trong nền kinh tế
- Về thực chất là những tài sản có khả năng chuyển hoán (liquidity) ở mức
độ nhất định.
Thành phần mức cung tiền: Được phân định theo khả năng chuyển
hoán, bao gồm M1 gồm tiền mặt và những tài sản được coi như tiền mặt;
M2 gồm M1 và những tài sản có khả năng chuyển hoán thấp hơn như tiền
tiết kiệm, tiền gửi trên các tài khoản kinh doanh trên thị trường tiền tệ...;
M3 gồm M2 và một số tài sản khác có khả năng chuyển hoán thấp hơn ví
dụ như tiền gửi của các công ty kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp,
giấy chứng nhận sở hữu bất động sản, trái phiếu Chính phủ.M4 gồm M3 và
jấy chứng nhận sở hữu bất động sản. Và cứ như vậy tuỳ theo sự phát triển
của hệ thống tài chính của từng nước mà thành phần của mức cung tiền tệ
có thể kéo dài thêm.
Các nhân tố ảnh hưởng tới mức cung tiền tệ: Thu nhập, Lãi suất, Giá
cả và các biến số khác phản ánh sự biến động của nền kinh tế xã hội.
+ Mức cầu tiền tệ và sự xác định mức cầu:
Khái niệm cầu tiền tệ: Là nhu cầu của công chúng hay nền kinh tế đối
với việc năm giữ tiền, hay là những tài sản có tính thanh khoản.
Thành phần của cầu tiền tệ: Có nhiều quan điểm khác nhau về thành
phần cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu tiền tệ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới mức cầu tiền tệ: Thu nhập, Lãi suất, Giá cả,
Tần suất thanh toán, Lợi tức kỳ vọng của việc đầu tư vào các tài sản khác
có liên quan đến tiền.

4
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

+ Điều tiết cung và cầu tiền tệ:


Việc điều tiết cung và cầu tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường
phải dựa vào các tín hiệu thị trường (mức chung giá cả, tỷ giá hối đoái và
tình hình tăng trưởng kinh tế) sao cho MS ≡ Md , và đây chính là sự nhận
thức và vận dụng qui luật lưu thông tiền tệ.
- Lạm phát:
Là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ, đồng tiền bị mất giá vì tiền giấy
không thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ. Do đó biểu hiện
của lam phát là mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế tăng lên.
Nói chung làm phát là hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hóa và có
tác động đến đời sống kinh tế xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát là do sự mất cân đối giữa hàng và tiến,
do số lượng tiền giấy vượt quá mức trong lưu thông.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu các quy luật kinh tế đối với nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta la:

+ Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh
tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước
đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục
tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách
khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển
khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất
của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng
thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa
người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện
nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và

5
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít
nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước
nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.

Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư
bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới
văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi
cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị
trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản
xã hội”, “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”…, tức là
phải có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã
hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư
bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được
chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện
đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để chuẩn
bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây
là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến
lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.

- Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội,
tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư
bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một
phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý
tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn
bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do
nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng
ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh
khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công.
Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ
nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình
phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình

6
Tiểu luần triết học
Đỗ Thị Ngọc Anh

tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước.

= Do vậy đê xây dựng thàng công nền kinh tế thị trường định hương xã
hội chủ nghĩa nhà nước ta, Đảng ta phải nghiên cứu kí các quy luật kinh tế
và quy luật vân đông của lịch sư để có sự điều tiết hợp lý đảm bảo cho sự
phát triên nôn nóng làm trái quy luật.

You might also like