You are on page 1of 7

Mục lục

1) Khái niệm dân tộc..........................................................................1


2) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin..........................1
3) Đặc điểm dân tộc Việt Nam...........................................................3
Khái quát quá trình hình thành và phát triển dân tộc Việt Nam..........................................3
Các dân tộc trên đất nước có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước, giữ
nước, xây dựng một cộng đồng thống nhất..............................................................................3
Cư trú các dân tộc Việt Nam là xen kẽ nhau giữa các dân tộc...............................................4
Các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau....................4
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh em có
những giá trị và sắc thái văn hoá riêng....................................................................................4
Cư trú trên các địa bàn chiến lược...........................................................................................4
4) Đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.........................5

1
1) Khái niệm dân tộc
Dân tộc là kết tinh của một quá trình dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc
xuất hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc.
Cho đến nay khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có
hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
- Chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế
riêng, có ngôn ngữ riêng, văn hoá có những đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa,
phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự
giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
- Chỉ cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó
với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh
chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia dân tộc, ví dụ: dân tộc
Kinh,dân tộc Bana... ở nước ta. Với nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân quốc gia
đó (quốc gia dân tộc), ví dụ: dân tộc Ấn Độ, dân tộc Việt Nam... Với nghĩa như vậy, khái
niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng
ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tố
hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố
hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình
phát triển.
Dân tộc thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây:
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân
tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
+ Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan
xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc
xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, tình cảm...
+ Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hoá dân
tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó với nền văn hoá của cảcộng
đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).

2) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin


Dựa trên quan điểm của C.Mác – Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc , tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, đồng thời phân
tích sâu sắc xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản, nhất là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. V.I Lênin đã khái
quát thành Cương lĩnh dân tộc. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ
“Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại. Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế
1
giới, kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân.” Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng
sản bao gồm ba nội dung cơ bản sau đây:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân
tộc các dân tộc dù lớn hay nhỏ; không phân biệt số đông, số ít, trình độ phát triển cao hay
thấp đều bình đẳng như nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Không có dân tộc nào tự cho mình có đặc quyền đặc lợi đối với dân tộc khác.
Trong một quốc gia quyền bình đẳng giữa các tộc người phải được pháp luật bảo vệ và cụ
thể hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong thời kì quá đọ lên CNXH
sự bình đẳng giữa các dân tộc chưa thể thực hiện ngay được mà phải thực hiện dần dần
trong quá trình phát triển của CNXH
Chống những biểu hiện trái với quyền bình đẳng dân tộc. Đó là: chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc sôvanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít
mới; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp
bực bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền tự quyết thực chất là một nội dung của quyền bình đẳng. Đó là quyền làm
chủ cảu mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình.
Quyền tự quyết có tính chất hai mặt. Một mặt là quyền tự do phân lập về chính trị,
có nghĩa là sự phân lập của các dân tộc với tư cách là một quốc gia độc lập. Mặt khác,
quyền dân tộc tự quyết còn là quyền tự nguyện liên bang với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Thực tiễn Lênin đã giải quyết rất khoa học vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN
ở Nga:
Trước cách mạng Tháng mười, Lênin ủng hộ xu hướng tách ra làm thất bại chính
sách sôvanh đại Nga và làm suy yếu chế độ Nga hoàng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách
mạng tháng 10 nổ ra và giành thắng lợi.
Sau cách mạng Tháng mười, Lênin ủng hộ liên hiệp tự nguyện thành lập liên bang
bảo đảm quyền bình đẳng, xoá bỏ thù hằn giữa các dân tộc; tăng sức mạnh cho cách mạng
đập tan sự bao vây của các nước đế quốc, xây dựng thành công XHCN. (Ngày
31/12/1922, Lênin ra quyết định thành lập Liên bang các nước cộng hoà Xô Viết, gọi tắt
là Liên Xô. Tuy nhiên, đến tháng 12/1991 Liên xô lại tách ra thành 15 nước cộng hoà;
trong đó một nước liên minh lỏng lẻo, thành lập cộng đồng các quốc gia độc lập)
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Là cơ sở đảm bảo cho sự đoàn kết giai cấp công nhân trong giải quyết vấn đề dân
tộc; đồng thời nó còn là mực tiêu phấn đấu để giai cấp công nhân thế giới thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bực đoàn kết lại”
Đây là nội dung xuyên suốt của cương lĩnh, phản ánh sự thống nhất về bản chất
của phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; giải quyết vấn đề dân tộc trong
quan hệ với vấn đề giai cấp.
Liên hiệp công nhân các dân tộc thực chất là đoàn kết, thống nhất các lực lượng
tiến bộ đấu tranh vì hoà bình, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp và dân tộc. Khi chủ nghĩa
tư bản trở thành một hệ thống, giải cấp tư sản là một lực lượng quốc tế thì giải cấp vô sản

2
phải liên hiệp lại để chống kẻ thù chung của mình, giải phóng mình, đồng thời giải phóng
toàn nhân loại. Ph. Ăngghen đã viết: “Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng
dân tộc về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giải cấp vô sản
và sự hợp tác hoà bình và sự tự giác của các dân tộc để đạt mục đích chung.
Mối quan hệ giữa các nội dung của cương lĩnh: Tuy có tính độc lập tương đối
song các nội dung lại có quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau; trong đó nội dung liên
hiệp giai cấp công nhân các dân tộc là tư tưởng quan trọng nhất.
Ý nghĩa: Nó vạch rõ bản chất, phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc, là cơ sở lý
luận, phương pháp luận cho các Đảng cộng sản về giải quyết vấn đề dân tộc trong cách
mạng XHCN.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin được Hồ Chí Minh coi là cẩm nang
thần kỳ, là mặt trời soi sáng con đường đi tới thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Khi bắt
gặp cương lĩnh dân tộc của CN Mác – Lênin, Người đã từng nói: “Hỡi đồng bào bị đoạ
đầy đau khổ đây là cái cần thiết của chúng ta, đây là con đường giải phóng của chúng ta”.

3) Đặc điểm dân tộc Việt Nam


Khái quát quá trình hình thành và phát triển dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam được hình thành bao giờ và như thế nào? Câu hỏi này đã được
đặt ra từ những năm 60 của thế kỉ XX. Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và
tiếp tục tranh luận.Tuy nhiên, các nhà khoa học tương đối thống nhất ý kiến cho rằng: dân
tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm trong lịch sự và không gắn liền với sự ra đời của
chủ nghĩa tư bản. Theo những kết quả nghiên cứu khoa học thì Việt Nam là một trong
những cái nôi của loài người. Lịch sử dân tộc ta gắn liền với truyền thống chống giặc
ngoài xâm và chống thiên tai, đặc biệt là vấn đề trị thuỷ.
Nước ta gồm 54 dân tộc. Dân tộc Kinh là dân tộc đông nhất, chiếm 87 %. Các dân
tộc còn lại chiếm 13%. Mười dân tộc có số dân dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày,
Nùng, Mường, Thái, Khơme, H’Mông, Dao, Ja rai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới
100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân dưới 10 ngàn đến 1 ngàn; 6 dân tộc có số dân dưới
1 ngàn là: Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu.
Đồng bào dân tộc thiểu số nước ta cư trú trên địa bàn rộng lớn ¾ diện tích đất
nước, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo và một số đồng bằng. Nhiều tỉnh như Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu,… các dân tộc
thiểu số chiếm hơn 70% dân số. Cao Bằng là tỉnh có số lượng đồng bào các dân tộc ít
người đông nhất, chiếm khoảng 92%.
Đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam
Đặc điẻm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc nước ra là sự liên kết cộng đồng
đã đạt đến mức độ bền vững, ý thức tự giác dân tộc người phát triển từ rất sớm. Đó là ý
thức độc lập, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Truyền thống yêu nước trở thành ngọn cờ đoàn
kết các dân tộc anh em trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tình cảm dân tộc được bồi
đắp, nâng niu và trân trọng qua hàng nghìn năm lịch sử. Từ khi có Đảng lãnh đạo, tính
cộng đồng dân tộc được củng cố và nâng lên thành một chất lượng mới. Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam đều có sự đồng thuận trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
Các dân tộc trên đất nước có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước,
giữ nước, xây dựng một cộng đồng thống nhất

3
Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế lúa nước, một kết cấu công xã nông thôn
bền chặt xuất hiện rất sớm. Trải qua lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ta trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết dân tộc là xu hướng
khách quan vì lợi ích, vận mệnh lịch sử, tương lai và tiền đồ của dân tộc.
Cư trú các dân tộc Việt Nam là xen kẽ nhau giữa các dân tộc.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng gia tăng, tuy trong từng khu
vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung nhưng không hình thành địa bàn
riêng biệt.
Các dân tộc ở nước ta không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Sự
thống nhất hữu cơ giữa dân tộc và quốc gia ngày càng được củng cố.
Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta là một điều kiện thuận lợi cơ
bản để tăng cường quan hệ dân tộc. Tuy nhiên, tình trạng này có tính hai mặt: ‘Một mặt là
điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, đoàn kết, xích lại gần nhau; mặt khác, cần đề
phòng trường hợp có thể chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục, tập quán,… làm
xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn tới khả năng va
chạm những người thuộc các dân tộc cùng sinh sống trên một địa bàn”.
Các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bực, bóc lột, xâm lược
trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc còn chênh
lệch đáng kể. Đây là một đặc trưng cần hết sức quan tâm nhằm từng bước khắc phục tình
trạng trên để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh
em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng
Các dân tộc Việt Nam đều có đời sống văn hoá mang bản sắc phong phú, đa dạng,
phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần và niềm tự hào dân tộc. Đặc trưng của
sắc thái văn hoá dân tộc bao gồm tiếng nói, chữ viết “Về ngôn ngữ, các dân tộc nước ta
đều có tiếng nói riêng – tiếng “mẹ đẻ” và đến nay có 26 dân tộc có chữ viết”.
Cư trú trên các địa bàn chiến lược
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú ở địa bàn
có vị trí chiến lược quan trọng, có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng
và khu vực.
Từ năm 2007 đến nay đã có 118.530 hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó
khăn được vay vốn, 33.969 hộ được hỗ trợ phát triển sản xuất, 80.218 hộ được hỗ trợ mở
rộng quy mô chăn nuôi, 4.343 hộ được hỗ trợ mở rộng sang ngành nghề dịch vụ. Bên
cạnh đó, quyền bình đẳng giữa các dân tộc về mặt văn hoá là các dân tộc được tự do bảo
tồn và phát triển văn hoá truyền thống, chữ viết của mình, được hưởng các thành quả phát
triển văn hoá chung của đất nước. Chất lượng cuộc sống của người dân tộc thiểu số cũng
từng bước được cải thiện. Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ
của đồng bào được đầu tư xây dựng. Đến nay, 100% xã có trạm ý tế và cán bộ y tế, 100%
số huyện có trung tâm y tế và bác sĩ; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống
dưới 25%. Một số dịch bệnh trước đây phổ biến ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi
như sốt rét, bướu cổ,… được ngăn chặn và đẩy lùi.
Tóm lại, xuất phát từ quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng cơ bản của dân
tộc ta, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, coi đó là vấn dề
4
chính trị - xã hội rộng lớn, toàn diện gắn với mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.

4) Đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể, nhằm thực hiện tốt chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nêu rõ: Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Chính
sách của Đảng, Nhà nước ta đối với dân tộc là “giữ gìn, làm giàu, phát huy bản sắc văn
hoá và truyền thống tốt đẹp giữa các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc,
giữa miền núi và miền xuôi”. Những đề xuất cụ thể là:
Thứ nhất, chúng ta cần hết sức tránh tư tưởng “dân tộc lớn” trong xây dựng, hoạch
định các chính sách liên quan đến vấn đề dân tộc. Bởi lẽ, áp đặt tư tưởng, quan điểm của
người dân tộc đa số cho dân tộc thiểu số dù với mong muốn tốt đẹp cũng là bất bình đẳng
dân tộc.
Thứ hai, tăng cường sự giúp đỡ các dân tộc phát triển hơn cho những dân tộc kém
phát triển hơn. Ở Việt Nam, để đảm bảo quyền lợi của người dân tộc thiểu số cần có sự
giúp đỡ, hỗ trợ của dân tộc Kinh và các dân tộc khác phát triển hơn. Điều này được Hồ
Chí Minh bổ sung, phát triển và thực tiễn đang khẳng định tính đúng đắn.
Thứ ba, thực hiện chính sách định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số
(Hiện nay nước ta có khoảng 1 triệu người còn sống du canh, du cự). Đẩy mạnh phân
công lao động xã hội để hình thành cơ cấu dân cư mới ở các vùng dân tộc thiểu số, tạo
động lực thúc đẩy các dân tộc phát triển kinh tế. Chăm lo xây dựng đời sống vật chất, tinh
thân, xoá đói giảm nghèo và chú trọng xây dựng các cơ sở hạ tầng ở miền núi.
Thứ tư, tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng
của đồng bào các dân tộc. Đây là vấn đề quan trọng và tế nhị, cần lắng nghe ý kiến của
đồng bào và có chính sách cụ thể nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Tạo điều kiện để có được quyền bình đẳng thực tế của các ngôn ngữ trên tất cả
lĩnh vực; đồng thời có chính sách tích cực để phổ biến nhanh chóng và sâu rộng ở trình độ
ngôn ngữ phổ thông – Tiếng Việt trong các dân tộc thiểu số ở nước ta. Tiếng Việt là ngôn
ngữ chung, để giao lưu văn hoá giữa các dân tộc ở Việt Nam với các dân tộc khác trên thế
giới.
Cuối cùng, ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, coi trọng đào tạo cán bộ và trí
thức thuộc con em dân tộc thiểu số. Cần hỗ trợ lẫn nhau giữa đội ngũ cán bộ thuộc mọi
dân tộc trong cả nước. Cần có chính sách đãi ngộ vật chất, tinh thân xứng đáng để cán bộ
sua khi được đào tạo trở về xây dựng và yên tâm đóng góp cho quê hương, rút dần
khoảng cách về sự phát triển, tạo điều kiện đề miền núi tiến kịp miền xuôi.

5
6

You might also like