You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC UEH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ

Sinh viên thực hiện: Lê Đức Hậu


Khoá: K47 – MSSV: 31211027639
Mã học phần: 22D1POL51002438
Giảng viên: Vũ Anh Tuấn

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 4 năm 2022


MỤC LỤC

PHẦN 1: VÌ SAO HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM LÀ MỘT TẤT YẾU
KHÁCH QUAN ? .......................................................................................................................... 1
1. Cơ sở lý luận: ..................................................................................................................... 1
1.1. Lý luận triết học: ....................................................................................................... 1
1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan ............................................. 1
2. Cơ sở thực tế ...................................................................................................................... 2
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta................. 3
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ ĐẾN PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ............................................................. 4
1. Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế........................................ 4
2. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập ....................... 5
3. Những yếu kém và hạn chế còn tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới ................... 7
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP THIẾT THỰC NHẰM GIA TĂNG TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM......................................................................... 9
PHẦN 1: VÌ SAO HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN ?
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Lý luận triết học:
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác
nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng thời
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống
nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách
rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ
xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ
là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi
mối liên hệ đều mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến. Bởi lẽ,
bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật
hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào
không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã
hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá,
khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đềđã và đang trở thành vấn đề toàn
cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia
đình, chiến tranh và hoà bình...Ngoài ra, mối liên hệđược biểu hiện dưới những hình thức
riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự vật
hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng theo nhiều cách
thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và trong mỗi sự vật hiện
tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên
hệ xác định.
1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước
hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm,
Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu
hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc
tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật, lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào
đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân công lao động
quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công mới gọi

1
là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao
động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế
giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất,
của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa
học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền
kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự
mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của
loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác,
nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số
lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng
toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy
luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
2. Cơ sở thực tế
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại,
chủđộng tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thếnước ta trên
trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủđộng hội nhập kinh tếquốc tếđể phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX –
trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tếđược đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới
và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm
sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều. Trên
thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh
tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh
tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm;
kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy
thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình
trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc
phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới
trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục;
Nam Á và Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có
khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước trên thế
giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và
những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất,
trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm.
Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn
tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và
khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)...
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ, do có
ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao,
2
đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với những nước chậm
phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt,
làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó
các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng
cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng,
công bằng. Ở khu vực Đông Nam Á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn là
khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình, dung
lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tốt, có quan
hệ quốc tế rộng rãi. Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói
chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kết hừa,
phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới
ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo
ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những
người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai
khai thác...Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu,
đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn
tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước,
nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào
không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một
trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng
XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư
bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh
tế, cô lập về chính trịđối với nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệđối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứVI của
Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước
tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại
diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những
năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội
đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội
và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị,
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình
thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với
nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta,
mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật
đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua
Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, đồng
3
thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại
rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển”. Hội nghịTrung ương lần thứ 3
khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉđạo là
“giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng
động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan
hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong
đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tựcường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệđối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên
hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một
nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị
Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mởrộng thị
trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại
với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thểđể chủ động thực hiện cam kết
trong khuôn khổ AFTA”.

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP


KINH TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA
1. Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ cho ta thông qua Chương trình tín dụng trung
han; Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương trình điều chỉnh cơ cấu
mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với
những yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quan hệ với các tổ chức
này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái với đường
lối chính sách của ta; có năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ quyền và lợi ích của ta nên
ta không nhận.
Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực hiện nghĩa
vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT) của
AFTA. Cụ thể, khi tham gia vào AFTA, Việt Nam có nghĩa vụ giảm thuế suất xuống còn
0 – 5 % vào năm 2006 và sau đó tiếp tục giảm thuế xuống 0% vào năm 2015. Bên cạnh
đó Việt Nam phải thực hiện lộ trình loại bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi
thuế quan khác; xây dựng một danh mục biểu thuế quan chung ASEAN; xây dựng hệ
thống luồng xanh hải quan theo GATT/WTO và xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan
nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại. Ngoài ra chúng ta còn tham gia đàm phán hiệp
định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp tác công nghiệp (AICO) và khu vực
đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp tác trong công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải...của ASEAN.

4
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập. Nội dung chủ yếu tập trung vào thuân lợi hoá thương mại, đầu tư và
hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Cam kết về tự do hoá thương mại đầu tư chưa
được đặt ra.
Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được công nhận là thành viên chính
thức của tổ chức này. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với
thành viên là các nước phát triển và vào năm 2020 đối với các nước đang phát triển (trong
đó có Việt Nam).
Tháng 12/1994, ta gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Mười năm kể từ khi nộp đơn gia nhập tổ chức này, Viêt Nam đã đạt được những bước
tiến nhất định. Và mới đây, chúng ta vừa mới kết thúc phiên đàm phán đa phương thứ 10
tại Geneva (Thuỵ Sĩ). Tại phiên họp này chúng ta đã nhận được sựủng hộ rất lớn của các
nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam hiện đang ở ngưỡng cửa chính thức
bước vào ngôi nhà chung của đại gia đình 148 thành viên của Tổ chức thương mại lớn
nhất hành tinh này. Theo các chuyên gia nước ngoài để gia nhập WTO vào cuối năm nay
tại Hội nghị các Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông chúng ta phải cơ bản kết thúc đàm phán
song phương và đa phương vào quãng tháng 6 – 7 trong đó có những đối tác rất lớn như
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này thực hiện còn gặp nhiều khó khăn bởi
vẫn còn nhiều đối tác nước ngoài muốn gây sức ép cho ta. Thế nên, đến giờ, thời hạn để
ta gia nhập WTO vẫn là một câu hỏi lớn.
2. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập
Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế thế giới hiện đại. Việt
Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu này và cũng không muốn bị
tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc Việt Nam phải bắt nhịp với sự phát
triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nhưng hoạt
động kinh tế thị trường với chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa để hội nhập, các hoạt
động đối ngoại mở rộng, đa phương, song phương từng bước tham gia vào các diễn đàn
kinh tế lớn, mở rộng quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các mối quan hệ hàng hoá thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết là chúng
ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng
được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao vị thếđất nước trên chính trường và thương trường thế giới.

5
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu.

Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế rõ rệt,
một nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần được hình thành và
tiến từng bước tăng trưởng và phát triển.
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. DP cả năm 2018 tăng 7,08%,
là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của
các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa
phương cùng nỗ lực thực hiện. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng
7,03%, đóng góp 42,7%.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cảnền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờđó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý,
nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và phát triển,
và thực tế sức cạnh tranh của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một tư duy mới, một nếp
làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các doanh
nghiệp năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản
lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc
tếđã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệhiện đại, dây chuyền
sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất.
Cùng với đó thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp
Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của
đông đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội cho các vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số

6
đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế. Cụ thể: mỗi năm
có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từtrên 30% giảm xuống còn
10%. Người có công với cách mạng, với đất nước được quan tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng
dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi lên
68,3 tuổi. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chúng ta đã đạt được thành tựu to
lớn. Nếu thời Pháp thuộc tỉ lệ dân sốđi học mới chỉ đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số người học
đại học không quá 1000 người, 95% dân số mù chữ. Thì gần 50 năm sau, năm 1999,
chúng ta có 16.508.452 học sinh, số sinh viên là 401.666 người. Đặc biệt là năm 2000
Việt Nam đã hoàn thành giáo dục phổ cập bậc tiểu học. Có được kết quả trên là do nhiều
nguyên nhân. Trong đó một trong những nguyên nhân có vai trò quyết định đó là việc
tăng ngân sách trong lĩnh vực giáo dục trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ
lệ ngân sách chi cho giáo dục chiếm 11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%,
năm 1999 là 12,4%. Nhờ thế năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng
nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn hoá thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao
chất lượng, góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện sức
khỏe phát triển, thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) tiếp
tục được chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được chú trọng, hệ thống chính trịđược củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương đã đề ra
những chủ trương, giải pháp củng cốĐảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền
hành chính được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thểnhân dân tiếp tục đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
được phát huy, một số chính sách và quy chếđảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trước
hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện, lòng tin của nhân dân được củng cố.
Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được tăng
cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn
dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo được phát huy. Tổchức quân
đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh
với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ. Vì vậy đã tạo môi trường thuận
lợi, an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Như vậy, chúng ta đã
kết hợp khá tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến
những thành tựu kinh tế to lớn và nhờđó giúp chúng ta tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập
tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc. Thực
hiện hội nhập thời gian qua cho thấy : Đảng ta và Nhà nước ta có đủ bản lĩnh khắc phục
khó khăn, vượt qua thách thức, khai thác các lợi thế trên thị trường thế giới, bảo đảm sự
phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Những yếu kém và hạn chế còn tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộđã đạt được chưa đủđể vượt qua tình trạng
nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độphát triển
kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước
xung quanh. Thực trạng kinh tế – xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là:

7
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Quý IV năm 2020, tỷ lệ thiếu
việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 1,10%, ở khu vực nông thôn là 2,20%. Quý
IV năm 2019, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 0,58%, ở khu vực
nông thôn là 1,51%. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Trong giáo dục
có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại. Đào tạo chưa gắn với sử dụng, gây lãng phí.
Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Các hoạt động
khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường đô thị, nơi công nghiệp tập trung và một số
vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Mức sống nhân dân, nhất là nông dân ở một
số quá thấp. Các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và mại dâm lan rộng. Cùng với đó là
tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật. Rừng và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm
trọng. Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tế
– xã hội. Hệ thống tài chính – ngân hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ
cán bộđảng viên là rất nghiêm trọng. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến.
Chưa làm rõ nội dung xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
chậm phát triển đồng bộ các loại thị trường. Có phần thiếu chủđộng trong hội nhập kinh
tế quốc tế, chậm cải tiến tôt môi trường đầu tưđể thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Lại thêm
tư tưởng bảo hộ còn nặng nề. Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lí và khả
năng cạnh tranh. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát
triển. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Cơ chế, chính sách về thị trường tài
chính, tiền tệ chưa đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển
mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn, trong khi đó, nền kinh tế nước ta còn yếu, tư tưởng
bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới quản lý và cải tiến công
nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục sẽ bị thua thiệt, thậm chí còn bị
tụt hậu xa hơn. Thiếu sót đáng kể là công tác nghiên cứu triển khai chậm, chất lượng thấp.
Cho đến nay, ở nước ta còn chưa hiểu thật sâu, chưa nắm thật vững toàn bộđịnh chế của
các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và
nhiều văn kiện pháp lý khác mà nước ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này. Công tác
hội nhập quốc tế mới cần tập trung triển khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương; sự tham
gia của các ngành, các cấp tuy có được đặt ra nhưng còn yếu và chưa đồng bộ, do đó chưa
tạo được sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế.
Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Luật pháp,
chính sách là công cụ để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt động
hợp tác kinh tế thương mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu
thế thuận lợi hoá, tự do hoá, theo “luật chơi” của các thể chế kinh tế quốc tếvà khu vực.
Nhưng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của ta chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ,
gây nhiều khó khăn cho ta khi đáp ứng các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc
hoàn chỉnh luật pháp và chính sách của ta phải phù hợp với thông lệ quốc tế và những quy
tắc của các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt
là bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta cũng chưa nghiên cứu sâu để đề xuất
những biện pháp chính sách cần thiết, những cách làm khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng
những ưu đãi mà quốc tế dành cho nước đang phát triển và kém phát triển như quy chế tối

8
huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, chế độ hạn ngạch thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá giá...
bảo vệ lợi ích của ta.
Một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, bất cập về
trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương vị và
trách nhiệm được giao, một số không ít cán bộ thoái hoá về phẩm chất; chạy theo sự cám
dỗ vật chất, sống thực dụng, cửa quyền, hối lộ, sách nhiễu, tham nhũng,...ảnh hưởng rất
xấu tới uy tín của Đảng và Nhà nước, nhân dân chê trách, gây cản trở lớn cho sự nghiệp
phát triển đất nước. Đồng thời đội ngũ công nhân lành nghề và có thể lực tốt còn ít. Tình
trạng thừa thầy, thiếu thợ diễn ra rất phổ biến trong nhiều nganh nghề. Do cách tổ chức và
quản lí lao động đã dẫn đến thói “hư danh”; sưu tầm bằng cấp, xin học hàm, chạy học
vị,...Không những vậy trong cơ cấu độ tuổi của lao động, số lao động trẻ (từ 15 đến 29
tuổi), lứa tuổi chủ lực của nguồn lao động và rất dễ dàng tiếp cận với tiến bộ khoa học kĩ
thuật của thế giới cũng đang diễn ra tình trạng: thiếu đầu óc kinh doanh hiện đại, cung
cách làm ăn lớn; tính toán nhìn xa trông rộng, táo bạo nhạy cảm và năng động với cái
mới, thích ứng mau lẹ để xoay chuyển tình thế khi gặp khó khăn; miệt mài học tập, ngẫm
nghĩ sâu sắc mọi vấn đề. Tất cả những nhược điểm trên đây đã trở thành lực cản không
cho phép chúng ta tiến nhanh.

PHẦN 3: ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP THIẾT THỰC


NHẰM GIA TĂNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ GIẢM THIỂU
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
Từ những điều nói trên, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ
bản sau đây trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta: Thứ nhất là phải thống
nhất được nhận thức về nhu cầu tất yếu phải hội nhập kinh tế, coi hội nhập kinh tế quốc tế
là một trong những nhiệm vụ then chốt trong hoạt động kinh tế, nhằm phục vụ lợi ích
chung của đất nước. Vấn đề thống về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng, vì hội nhập
kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa, thực hiện tự do hoá thương mại sẽ làm xuất hiện
nhiều mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa xu bảo hộ với xu hướng tự do hoá;
nhiều doanh nghiệp còn yếu kém không đủ sức cạnh tranh, ngại phải thay đổi cách làm
cũ, vẫn muốn nhà nước tiếp tục bảo hộ; mâu thuẫn giữa tăng nguồn thu ngân sách qua
thuế nhập khẩu với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, phi thuế quan khi thực hiện tự
do hoá sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách...Những mâu thuẫn đó làm cho qúa trình hội
nhập kinh tê quốc tế vấp phải không ít trở ngại khi đi vào các vấn đề cụ thể. Thế nên, chỉ
khi nào nhận thức thông suốt thì mới có đủ ý chí, bản lĩnh, quyết tâm và sức mạnh để thật
sựđưa vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế vào cuộc sống, vào suy nghĩ, vào kế hoạch, chương
trình hành động, chiến lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định xã hội, phát huy nội lực, phát
triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và từng doanh
nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đánh giá lại tiềm lực kinh tế của đất nước trong mọi lĩnh
vực, ngành hàng; nghiên cứu lợi thế so sánh giữa nước ta với khu vực và các nước
khác...Từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá hiện

9
đại hoá, mở cửa hội nhập; xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng thị trường trong và
ngoài nước; xác định ngành mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát triển...
Thứ ba là chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới một cách có chọn lọc.
Nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế. Không bỏ sót, bỏ lỡ cơ hội nhưng cũng không
nên quá nôn nóng, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tránh để bị lệ thuộc vào một quốc
gia, một thế lực nào đó. Sớm có chủ trương, chính sách và triển khai việc chuyển đổi cơ
cấucủa nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, nhằm tạo ra các mặt hàng xuất khẩu đủ lớn
về số lượng, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, nhằm tạo ra
một đội ngũ doanh nghiệp có đủ quy mô và năng lực, tất cả những yếu tố này cùng với
môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo thành một sức mạnh tổng hợp nâng cao sức mạnh
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Thứ tư là chúng ta cần tiếp cận, dần dần đi vào kinh tế tri thức. Nếu không có tri
thức, không phát triển nguồn trí lực đủ tầm sẽ rất khó chủ động trong hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực cũng như trong quan hệ chung với thế giới hiện đại. Bởi tri thức hiện
đóng vai trò số một trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức tạo ra những
cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng vươn lên rút ngắn
khoảng cách với các nước phát triển.
Thứ năm là xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và bản
lĩnh vững vàng. Nhân tố con người là yếu tố quyết định nhất trong các khâu, các hoạt
động phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, đó là việc giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy được những
giá trị ưu tú của dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước.
Đồng thời cũng cần chọn lọc tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu
thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm
năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới.

10
Tài liệu tham khảo
1. Tác phẩm kinh điển của Mac – Anghen – Lênin
2. Các tác phẩm của các vị lãnh tụ Lênin, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX
4. Tạp chí pháp luật Việt Nam số 29 ngày 3 – 2 -2005
5. Báo sinh viên Việt Nam số 19 năm 2005

You might also like