You are on page 1of 31

NỘI DUNG CÂU HỎI TRỌNG TÂM HP TOÀN CẦU HOÁ

1. Trình bày những quan điểm khác nhau về Toàn cầu hoá? Phân tích những biểu
hiện của Toàn cầu hoá? Cho ví dụ minh hoạ (Chương 1)
- Những quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa
Trong ba thập kỷ gần đây, với những diễn biến và tác động ngày càng phức tạp của toàn
cầu hóa, trên thế giới đã có rất nhiều công trình được công bố gắn với kết quả nghiên cứu
“đối tượng” này; tuy nhiên, có thể khái quát thành ba “luồng” quan điểm khác nhau – đó
là: những người theo quan điểm cực đoan, những người hoài nghi và những người theo
chủ nghĩa chuyển hóa.
Những người theo quan điểm cực đoan gần như tuyệt đối hóa ý tưởng “thế giới không
biên giới”, khẳng định toàn cầu hóa là một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, trong
đó “các nhà nước quốc gia truyền thống đã trở thành những đơn vị kinh doanh phi tự
nhiên, thậm chí là không khả thi trong một nền kinh tế toàn cầu”. Quan điểm này
khuyếch trương logic kinh tế, và là một dạng biến thể của chủ nghĩa tự do mới, tán dương
sự nổi lên của một thị trường toàn cầu duy nhất và nguyên tắc cạnh tranh toàn cầu như là
“cánh chim” báo hiệu sự tiến bộ của loài người. Trong nền kinh tế “không biên giới” này,
vai trò của chính phủ các nước bị hạ thấp đến mức chỉ còn là “băng chuyển” cho nguồn
vốn toàn cầu, hoặc “cuối cùng, chỉ đơn thuần là các thể chế trung gian kẹp giữa các cơ
chế quản trị địa phương, khu vực và toàn cầu hùng mạnh”.
Những người theo chủ nghĩa hoài nghi lại đưa ra cách nhìn hoàn toàn đối lập. Họ biện
luận rằng toàn cầu hóa với tính cách là một ý tưởng cũng như với tính cách là quá trình
đang bị phóng đại quá mức, và tác động của nó chẳng hề giống những gì mà các nhà toàn
cầu hóa cực đoan đã giới thuyết. Những người hoài nghi đặc biệt nhấn mạnh rằng nhà
nước vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò rất quan trọng, và bất cứ ai phủ nhận điều đó thì chắc là
do bị thúc đẩy bởi động cơ chính trị không lành mạnh nào đó. Theo quan điểm của chủ
nghĩa hoài nghi, “các luật lệ điều chỉnh thương mại quốc tế hoặc các luồng vốn tự do
không phải tự dưng mà nảy sinh giữa trời, thực ra, chúng được các tác nhân quốc gia đưa
ra, và chính điều này khẳng định tầm quan trọng vẫn tiếp tục được duy trì của Nhà nước”.
Những người theo chủ nghĩa chuyển hóa được coi là “nằm ở lưng chừng giữa các nhà
toàn cầu hóa cực đoan và các nhà hoài nghi”. Theo chủ nghĩa chuyển hóa, họ lý luận rằng
thế giới trong thời đại toàn cầu hóa thực ra vẫn bao hàm sự khác biệt còn rất lớn giữa các
khu vực và các quốc gia, đến mức khó có thể khái quát hóa chính xác về phương diện học
thuật. Bàn về tác động của toàn cầu hóa đến các thể chế nhà nước, họ không nói rằng nhà
nước bị lu mờ, cũng không nói là không có sự thay đổi gì hết mà nhấn mạnh ý
tưởng “quyền lực đang được cấu trúc lại và tái định hình”. Luận đề của những người
theo chủ nghĩa chuyển hóa là tương đối lạc quan, ở chỗ lưu ý tới khả năng thích nghi nội
tại trong các nhà nước khi đối mặt với toàn cầu hóa và nhấn mạnh sự nổi lên của các hình
thức mới của các quyền lực xuyên quốc gia và phi nhà nước. Nhìn chung, theo quan điểm
của những người theo chủ nghĩa chuyển hóa, toàn cầu hóa đang và sẽ góp phần “mở rộng
năng lực quản trị thông qua sự chuyển hóa trong các quan hệ nhà nước – tư nhân và sự
tăng trưởng của các mạng lưới chính sách”.
VD: quỹ tiền tệ quốc tế IMF, diễn đàn hợp tác KT C.Á - TBD APEC, hiệp hội các QG
ĐNA ASEAN, tổ chức thương mại TG WTO, ngân hàng TG WB.....
***phân tích bd toàn cầu hóa ở câu 2
2. Phân tích những biểu hiện của Toàn cầu hoá. Cho Ví dụ minh hoạ (Chương 1)
Thương mại phát triển
Thương mại có tốc độ tăng trưởng nhanh và cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tổ chức Thương mại toàn cầu WTO được hình thành.
Đầu tư nước ngoài tăng nhanh
Tổng giá trị đầu tư tăng nhanh cùng với đó là sự đầu tư ngày càng mở rộng hơn vào lĩnh
vực dịch vụ
Thị trường tài chính mở rộng
Mạng lưới liên kết tài chính được hình thành
Vai trò then chốt của các tổ chức tài chính toàn cầu như WB, IMF…
Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng
Các công ty này hoạt động ở rất nhiều quốc gia và nắm giữ một khối lượng tài sản lớn.
Đối với quốc gia đó và cả thế giới, các công ty này có khả năng chi phối và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nền kinh tế.
- Gia tăng thương mại quốc tế (dễ dàng lưu chuyển hàng hóa, vốn, tiền tệ). Sự phân
công lao động trên toàn cầu.
- Sự phát triển và những tác động to lớn của các CTy xuyên QG. Giá trị trao đổi của
các CTy này tương đương 3/4 giá trị thương mại toàn cầu.
- Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sd các công nghệ như
internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại.
- Gia tăng sự di cư.
- Gia tăng trao đổi vh quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các vh phẩm như phim
ảnh hay sách báo.
- Làm mờ đi ý niệm chủ quyền QG và biên giới QG thông qua các hiệp ước quốc tế
dẫn đến việc thành lập các tổ chức quốc tế (WTO, OPEC, IMF, WB,…).
3. Phân tích nguyên nhân và điều kiện của Toàn cầu hoá (Chương 2)
Khái niệm TCH:
- Là một thuật ngữ được bàn luận nhiều, có tính khả biến lớn.
- Là quá trình ngày càng gia tăng sự liên kết, phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các cá nhân, quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới.
Toàn cầu hóa được xem như một quá trình tăng lên mạnh mẽ của các mối liên hệ, sự ảnh
hưởng, sự phụ thuộc cũng như những tác động qua lại giữa các khu vực, quốc gia và các
dân tộc trên thế giới. Điều này sẽ giúp tạo điều kiện để phát triển các lĩnh vực, đặc biệt là
kinh tế.
VD: Đại dịch Covid – 19
Có 2 nguyên nhân chính
Nguyên nhân kinh tế kĩ thuật
- Nguyên nhân kinh tế - kỹ thuật:
*Cách mạng khoa học công nghệ:
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt nguồn từ sự ra đời động cơ hơi nước - thúc
đẩy cơ khí hóa quá trình sản xuất (cuối thế kỷ XVIII). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện để tạo ra nền sản xuất hàng loạt vào 30
năm cuối của thế kỷ XIX. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào những
năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của điện tử và công nghệ thông tin - thúc đẩy tự
động hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba còn được gọi là cuộc Cách
mạng khoa học và công nghệ. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo
nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh -
quốc phòng... Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng khoa học và công
nghệ chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn hiện đại hóa với công nghiệp siêu dẫn, giai
đoạn vi điện tử, giai đoạn tin học hóa,… Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện
chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng rõ ràng nó đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước,
nhất là các nước đang phát triển, nhằm nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát
triển, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức lớn.

So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
khác cả về tốc độ, phạm vi và chắc chắn sẽ tác động to lớn lên toàn bộ các hệ thống toàn
cầu, báo trước sự chuyển hóa toàn bộ các hệ thống: sản xuất, quản lý, phân phối, tiêu
dùng... Không giống các cuộc cách mạng công nghiệp trước vốn chỉ tập trung ở các quốc
gia phát triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phủ khắp toàn cầu, do đó, tầm ảnh
hưởng cũng rộng hơn.
*Biến đổi sâu sắc của nền sản xuất thế giới: (Sự phát triển của LLSX) theo các
nguyên tắc: tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hoá, đồng bộ hoá, và tập trung hoá.
Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, nền kinh tế thế giới đã và đang chịu tác động
mạnh mẽ của xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế - thương mại. Tuy
nhiên, thời gian gần đây xuất hiện một số xu hướng mới làm thay đổi trật tự kinh tế thế
giới vốn tồn tại trong mấy thập niên qua. Thế giới đương đại đang có những chuyển biến
lớn lao với nhiều sự kiện diễn ra một cách nhanh chóng, phức tạp, khó lường, vừa mang
đến cho các quốc gia - dân tộc những thời cơ, vận hội và hy vọng vào tương lai; vừa đặt
ra nguy cơ, thách thức và bất an. Thế giới, khu vực đứng trước nguy cơ đe dọa chưa từng
có trong lịch sử làm thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, thương mại và mọi mặt
đời sống xã hội cùng với tương quan lực lượng đang chuyển dần sang cục diện mới. Đơn
cử, trung tâm kinh tế toàn cầu chuyển dịch mạnh về khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
kéo theo xu thế liên kết kinh tế - thương mại được thúc đẩy mạnh mẽ tại khu vực.
Bên cạnh sự điều chỉnh chính sách, đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược của các nước lớn, làn
sóng chống toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, xu hướng cường quyền,
dân tộc cực đoan trỗi dậy, sự phát triển vượt bậc về khoa học - công nghệ trong cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy sự hình thành, vận động một trật tự kinh tế
thế giới với nhiều xu hướng mới. Điều này càng trở nên rõ nét hơn bởi sự cạnh tranh giữa
hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và đại dịch COVID-19 xảy ra gần đây.
*Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường.
* Sự phát triển nhanh chóng của các TNCs => mở rộng hoạt động Thương mại QT=>
tăng cường liên kết hội nhập KTQT.
Điều kiện dẫn đến xu thế toàn cầu hoá
Có hai động lực chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đó là việc dỡ bỏ các rào cản  trong
các hoạt động thương mại và đầu tư ở các lĩnh vực; và sự phát triển của cách mạng khoa 
học và công nghệ. 
 Việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ, công
nghệ, sở  hữu trí tuệ giữa các nước và lãnh thổ trên phạm vi khu vực và toàn cầu
cùng với sự hình thành  và tăng cường các quy định, nguyên tắc, luật lệ chung với
cơ chế tổ chức để điều chỉnh và  quản lý các hoạt động, giao dịch kinh tế quốc tế
theo hướng tự do hoá là động lực quan trọng  thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đối
với lĩnh vực hàng hóa, trong khuôn khổ của Hiệp định  GATT, thương mại hàng
hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất việc dỡ bỏ các rào cản theo  hướng tự do hóa.
Từ năm 1947 đến nay đã diễn ra 8 vòng đàm phán để cắt giảm thuế quan.
Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới
quá  trình toàn cầu hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình này. Những tiến
bộ của khoa học  – kỹ thuật và công nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các
biện pháp kỹ thuật tiên tiến,  các giống mới, các phương pháp công nghệ hiện
đại.   
Nguyên nhân chính trị -xã hội
*Sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa cũ
* Chấm dứt chiến tranh lạnh
* Sự xuất hiện các vấn đề toàn cầu
Trải qua các giai đoạn
Thời kì tiền sử : Sự tiếp xúc giữa hàng ngàn nhóm săn bắt hái lượm dàn trải khắp thế
giới còn hạn chế về mặt địa lý và phần lớn ngẫu nhiên
Thời kì tiền hiện đại
Thời đại của các đế quốc Sự ra đời của con đường tơ lụa Phải nói tới Con đường
Tơ lụa là một mạng lưới các tuyến đường thương mại cổ đại, được chính thức thành lập
vào thời nhà Hán của Trung Quốc Đế quốc Trung Hoa và la mã hàng hóa được vận
chuyển qua lại trên Con đường Tơ lụa.
Từ Tây sang Đông những hàng hóa này bao gồm: Ngựa; Yên xe và Cưỡi ngựa;
Nho; Chó và các động vật khác cả ngoại lai và động vật trong nước; Bộ lông và da động
vật; Mật ong; Trái cây; Đồ thủy tinh; Chăn len, thảm, thảm; Hàng dệt ; Vàng và bạc; Lạc
đà; Nô lệ; Vũ khí và áo giáp.
Từ Đông sang Tây hàng hóa bao gồm: Lụa; Trà; Thuốc nhuộm; Đá quý; Đồ sứ; Gia vị;
Đồ tạo tác bằng đồng và vàng; Thuốc; Nước hoa; Ngà voi; Gạo; Giấy; Thuốc súng
 Chủ yếu phục vụ cho các quý tộc ,hoàng gia
Thời kỳ hiện đại sớm
Sự vươn lên của các trung tâm đô thị Âu châu và tầng lớp thương nhân gắn liền với
chúng tiêu biểu cho một yếu tố quan trọng chịu trách nhiệm củng cố các khuynh hướng
toàn cầu hoá trong thời kì hiện đại sớm.
Sự hình thành và phát triển của 2 khối liên kết kinh tế -chính trị có tính đối lập nhau
 Qúa trình liên kết kinh tế quốc tế mang tính chất ý thức hệ tư tưởng
-sự hình thành hệ thống Breton-Wood(1945) với chế độ bản vị đô la Mỹ
-Sự phát triển của các công ty đa quốc gia
Thời kỳ hiện đại:
Khối lượng mậu dịch thế giới gia tăng. Sự bùng nổ dân số. Tiến trình giải trừ thuộc địa
Thời kì đương đại
+Sau chiến tranh lạnh kết thúc ,đặc biệt từ khi Liên Xô sụp đổ làm phá vỡ cục diện lưỡng
cực làm thay đổi tận gốc cơ cấu lực lượng và các quan hệ chính trị-kinh tế
=>Thị trường thế giới được hình thành
+Sự phát triển mạnh mẽ của PTGPDT+CM KHKT
+CNTB chuyển sang giai đoạn hiện đại
Đây là thời kì bùng nổ về toàn cầu hoá các nước bắt đầu đề cao về sự phát triển kinh tế là
trọng tâm và văn hoá ,quân sự ,mở rộng giao lưu kinh tế ,không bị kiềm cập thực hiện
buôn bán thương mại với nhau ,năm 70 tạo ra mạng Internet,Phát triển các yếu tố quan
trọng : Yếu tố chính trị , yếu tố kĩ thuật
Điều kiện dẫn đến quá trình toàn cầu hóa: Các quốc gia chuyển sang cạnh tranh kinh tế,
mở rộng giao lưu, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, thi hành chính sách mở cửa , tích cực
tham gia các tổ chức liên kết khu vực và quốc tế.
4. Phân tích đặc điểm của Toàn cầu hoá (Chương 2)
 Sự định hình nền KT tri thức
- Trọng tâm và bước ngoặt là cuộc CM KHCN
=> Vai trò ngày càng trọng yếu của của CM KHCN vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội, đã nâng tầm quan trọng của tri thức.
 Toàn cầu hóa tài chính
- Quá trình TCH ngày nay không chỉ diễn ra ở lĩnh vực thương mại, hàng hóa mà
nét đặc trưng mới là TCH tài chính ngày càng giữ vị trí chi phối.
- Được biểu hiện ở hiện tượng các dòng vốn đầu tư di chuyển liên tục trên khắp thế
giới.
=> KTTG ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau và khiến cho biên giới KT quốc gia ngày
càng mờ nhạt
 Vai trò của các công ty xuyên quốc gia
- Có khoảng 60.000 TNCs đang kiểm soát 2/3 nền thương mại thế giới, 4/5 nguồn
vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoàiva 9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ thế giới.
+ Ưu thế trong phân phối tài nguyên trên phạm vi thế giới
+ Thúc đẩy phân công lao động quốc tế đi vào chi tiết hóa
+ Thông qua sản xuất và kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hóa kinh tế.
=> Như vậy, sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các TNCs vào các nền kinh
tế dân tộc đã góp phần xóa bỏ sự ngăn cách biệt lập trong phát triển của nhiều QG trên
thế giới.
 Vai trò của chính phủ
- Đặt chính phủ vào thế cạnh tranh về mặt thể chế tạo ra một khuôn khổ thể chế tốt,
thu hút nguồn lực kinh tế để giúp ptrien KT và đời sống XH
 TCH bị chi phối bởi các cường quốc TB lớn mạnh
- Là xu thế khách quan nhưng chịu tác động lớn từ các cường quốc TB phát triển,
đặc biệt là Mỹ.
+ Các quy chuẩn hoạt động kinh doanh quốc tế đều xuất phát từ Mỹ
+ Mỹ có vai trò lớn trong các tổ chức KTQT
+ Các TNCs của Mỹ khống chế phần lớn về thương mại, đầu tư và tài chính quốc
tế.
+ Vai trò của đồng đô la
+ Ưu thế được đảm bảo bởi sức mạnh KHCNTT
 Gia tăng bất bình đẳng giữa các QG và trong nội bộ QG
 TCH KT là cơ bản và thực chất nhất của xu thế TCH
 TCH đi đôi với khu vực hóa, TCH đi đôi với phong trào chống TCH

- Kinh tế: cho phép các tập đoàn KT lợi thế của mình để hợp tác phát triển trên các
QG khác. Từ đó hạn chế được chi phí sx, nhân công lao động, nguồn nhiên liệu,
khách hàng,…
- XH: liên kết dân cư giữa các vùng KT khác nhau.
- CT: tạo ra nhiều tổ chức chính trị lớn hợp pháp bảo vệ quyền lợi cho các đơn vị
đầu tư và được vị được đầu tư.
- Pháp lý: thay đổi cách thức luật pháp quốc tế được tạo ra và thực thi.
- VH: tạo ra sự giao lưu vh, nghệ thuật, xu hướng nghệ thuật, cảm thụ nghệ thuật
của TG...
5. Phân tích vai trò của Công ty Xuyên quốc gia (TNCs) đối với xu thế Toàn cầu hoá
(Chương 3)
Khái niệm TNCs - Công ty xuyên quốc gia trong tiếng Anh là Transational Corporations
– TNCs.
- Công ty xuyên quốc gia là các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn, có cơ cấu tổ
chức gồm công ty mẹ và hệ thống công ty chi nhánh ở nước ngoài, theo nguyên tắc công
ty mẹ kiểm soát tài sản của công ty chi nhánh thông qua góp vốn cổ phần.
- Từ định nghĩa trên , chúng ta có thể thấy các công ty con sau :
+ Công ty phụ thuộc ( công ty con – Subsidiary Enterprises ) : là công ty TNHH ở nước
có công ty con của TNCs đang hoạt động, trong đó chủ đầu tư tài sản sở hữu hơn 50% tài
sản của công ty.
+ Công ty liên kết ( Associate – Enterprises ) : chính là công ty TNHH, trong đó chủ đầu
tư công ty sẽ sở hữu ít nhất là 10% giá trị tài sản của công ty đó và chủ đầu tư này sẽ
không nắm toàn quyền đối với công ty, quyền hạn của chủ đầu tư sẽ bị giới hạn theo số
phần trăm giá trị tài sản của công ty và quy định của công ty
. + Công ty chi nhánh ( Branch – Enterprises ) : loại hình công ty này chính là công ty có
trụ sở hoạt động tại nước ngoài và loại hình công ty này sở hữu 100% giá trị tài sản thuộc
sự quản lý của công ty mẹ.
2. Khái quát sự ra đời TNCs
- Công ty toàn cầu bắt đầu ra đời trong thời kỳ phát triển CNTB, trong thời kỳ đầu cạnh
tranh tự do của CNTB, mục đích là lợi nhuận và sự phát triển đã làm tăng nhu cầu về thị
trường nguyên liệu , thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính . Sự
cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận sang thị
trường bên ngoài quá trình này được tạo nên sự phát triển của thương mại quốc tế đã
được hình thành qua nhiều thế kỷ trước sự ủng hộ của các nhà nước tư bản chủ nghĩa và
chủ nghĩa thực dân . Hai công ty toàn cầu ra đời sớm vào đầu thế kỷ XVII là công ty
Đông ấn của Anh được thành lập dưới Hiến chương của Hoàng gia Anh để thực hiện việc
buôn bán thương mại với Ấn Độ và công ty Đông Ấn của Hà Lan. Các công ty đã có ảnh
hưởng nhất định đến quan hệ quốc tế : khuyến khích hoặc thi hành chủ nghĩa thực dân rồi
sau đó là xâm lược mà nguồn lực chính là do các công ty này hỗ trợ. Khi ách thực dân đã
thiết lập, những công ty này đã đi đầu trong việc bốc lột và khai thác thuộc địa
3. Quá trình hình thành và phát triển của các TNCs
Thứ nhất, các công ty toàn cầu đã ra đời ở thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, trong
thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của CNTB thì yêu cầu về thị trường nguyên liệu thị trường
lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài chính đã không ngừng gia tăng nhằm thúc
đẩy tăng lợi nhuận và mở rộng sản xuất . Hơn nữa, các công ty hoạt động ở một quốc gia
còn gặp phải vấn đề cạnh tranh từ các đối thủ khác nên thúc đẩy việc mở rộng thị trường
và tìm kiếm lợi nhuận từ thị trường nước ngoài. Trên cơ cở đó các tổ chức kinh doanh
quốc tế bắt đầu hình thành và phát triển.
- Thứ hai, thời kỳ chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển mạnh, ở thời kỳ này quá trình
tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã
dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn sản xuất
– kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự
vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực
chính trị của nhà nước TBCN. Hai quyền lực này đã song hành cùng nhau trong việc
cạnh tranh thị trường quốc tế , mở rộng khu vực ảnh hưởng và chiến tranh đế quốc.
- Thứ ba, giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai nhu cầu về việc tăng cường quan hệ
quốc tế và sự hợp tác chính trị đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của TNCs, trong phát
triển kinh tế không ngừng củng cố qua sự đóng góp to lớn vào việc tăng trưởng các dòng
đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương mại và mở rộng phân công lao động quốc tế. Trong
những năm 1960 – 1970 , nhiều nước mới giành được độc lập đã coi TNCs là “ kẻ bốc lột
‘’ các nước nghèo, TNCs còn bị lên án xuất khẩu công nghệ lạc hậu, chèn ép sản xuất,…
vì thế, tài sản nước ngoài của TNCs được quốc hữu hoá nhiều nơi và phải rút khỏi thị
trường. Tuy nhiên điều này không thể ngăn cản sự lớn mạnh của TNCs và đặc biệt ở các
nước tư bản TBCN phát triển.
- Thứ tư, từ những năm 1980 thế giới đã chứng kiến sự phát triển mạnh đặc biệt là sau
thời kỳ chiến tranh lạnh, quan điểm nhìn nhận của công ty toàn cầu có sự thay đổi theo
hướng tích cực , tạo ra công ăn việc làm, tạo nguồn thu, khắc phục về vốn, kỹ thuật ,…
điều kiện chính trị thay đổi và nền kinh tế chuyển đổi , sự phát triển của hệ thống pháp
luật làm giảm bớt sự nghi ngại chính trị và các thị trường đều mở cửa, khuyến khích FDI.
Nhờ đó TNCs đã mở rộng vai trò đời sống khá nhanh.
Đặc điểm của TNCs
- Tính cá nhân trong tổ chức hoạt động
➢ Dựa trên ý chí cá nhân cá nhân của những người góp vốn hơn là ý chí quốc gia.
➢ Theo đuổi lợi ích của chính mình là lợi ích của quốc gia.
- Tính quốc tế trong mục tiêu hoạt động
➢ Mục đích là lợi nhuận trên thị trường quốc tế
➢ Hoạt động kinh doanh của nó là xuyên quốc gia với việc thực hiện, khai thác thị
trường quốc tế, thiết lập chi nhánh nước ngoài và sử dụng nguồn lực đa quốc gia.
- Có sự gắn bó với chính trị
➢ Sự chi phối lẫn nhau giữa kinh tế và chính trị, mục đích lợi nhuận quá lớn của các
TNCs đã quy định điều này.
- Hoạt động của các TNCs ngày càng tăng có sự liên quan gắn bó đều với nhau, tạo ra
khối liên minh chiến lược. Liên minh chiến lược là sự thoả thuận hợp tác với các đối thủ
thực tế và tiềm năng , sự liên kết này cho phép TNCs ở quốc gia khác nhau thâm nhập về
vốn, khoa học kỹ thuật, thiết bị sản xuất,… để hình thành một tổ chức liên hợp kinh
doanh quốc tế.
➢ Mua bán và sáp nhập
Mục đích, năng lực và sự ảnh hưởng về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội của các
TNCs đối với quá trình toàn cầu hoá.
+ Về mục đích chính là tìm kiếm lợi nhuận, doanh số, ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn
định , theo mục đích của mình, TNCs thường lựa chọn và quyết định dự án đầu tư vào
nơi mà họ cho là có thị trường , bảo toàn được vốn và thu lợi nhuận. TNCs chú trọng
tham gia vào lĩnh vực ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao đó là ngành khai thác dầu
khí, công nghiệp chế biến, dệt may, điện tử,…với mức lợi nhuận khoảng 40 – 60%.
+ Về năng lực
• Giai đoạn sau chiến tranh lạnh là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của TNCs với việc
tăng nhanh số lượng TNCs từ khoảng 37000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70000 năm 2004.
Ngoài ra, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng thấy với số lượng chi
nhánh nước ngoài tăng gần 4 lần, từ đầu thập kỷ 1990 là 170.000 lên gần 690.000 năm
2004.
• Năm 2009 với 82.000 TNCs và hơn 810.000 chi nhánh.
• Một điểm khác biệt cũng đáng chú ý , TNCs không còn là độc quyền của các nước phát
triển hàng đầu mà đã xuất hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy
nhiên quy mô và vai trò TNCs vẫn còn khiêm tốn, chúng chỉ chiếm 4 trong tổng số 100
TNCs phi tài chính lớn nhất thế giới ( 2003), chiesm 3 trong tổng số 50 TNCs tài chính
lớn nhất thế giới ( 2004).
• Sức mạnh kinh tế của các TNCs cũng không ngừng gia tăng với việc chi phối khoảng
80% trao đổi thương mại toàn cầu, thực hiện phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài
( khoảng 4/5 ) . Ngoài ra, TNCs còn có tác động đáng kể trong việc thúc đẩy các hoạt
động nghiên cứu và phát triển ( R&D), chuyển giao công nghệ , nhưngc hoạt động đầu
tư, thương mại góp phần tạo việc làm, phát triển nguồn lực và đóng góp vào quá trình hội
nhập toàn cầu. Vì vậy TNCs nằm trong trung tâm của sự phát triển, gia tăng vai trò và vị
thế của chúng trong quan hệ quốc tế.
+ Về ảnh hưởng kinh tế
• Thương mại quốc tế :
- Một trong những vai trò nổi bật của TNCs là thúc đẩy hoạt động thương mại thế giới.
Trong quá trình hoạt động của mình, TNCs đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giữa các
quốc gia và gia công quốc tế. Hay nói cách khác là TNCs thúc đẩy thương mại phát triển
với ba dòng lưu thông hàng hóa cơ bản là: hàng hóa xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng
hóa bán ra từ các chi nhánh ở nước ngoài và hàng hóa trao đổi giữa các công ty trong
cùng một tập đoàn. TNCs chi phối hầu hết chu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia bởi
các kênh lưu thông xuyên quốc gia của mình. Nếu tổng giá trị xuất khẩu 1982 là 647 tỷ
USD , 1990 là 1,366 tỷ USD , 2004 là 3.733 tỷ USD ,2005 tăng gấp 6,5 lần so với 1982
là 4,214 tỷ USD
. • Đầu tư quốc tế : - Thúc đẩy tự do hoá đầu tư giữa các nước : giảm bớt các hàng rào
đầu tư quốc tế , tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong thu hút đầu tư nước
ngoài trong đó số lượng hiệp ước về chống đánh thuế tăng 2,805 hiệp ước 2008 và số
lượng các thoả thuận quốc tế khác , cuối 2008 đạt 273 bản.
- Vào thời kỳ suy thoái kinh tế năm 2001, hầu hết các ngành có tốc độ tăng trưởng chậm
lại. TNCs giảm hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực, động thái đó ảnh hưởng trực tiếp tới
dòng lưu chuyển FDI trên thế giới. Tổng đầu tư vào các nước giảm 51% từ 1492 tỉ xuống
còn 735 tỉ USD. Trong xu thế đó thì các nước đó thì các nước phát triển lại bị ảnh huởng
nhiều nhất do hầu hết các hoạt động sáp nhập và mua lại đều diễn ra tại các nước phát
triển. Trong giai đoạn 1982- 1994, FDI nước ngoài tăng 4 lần và đạt 3,2 nghìn tỉ USD.
Dòng vốn FDI tăng lên cả ở nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng giảm hơn so với cuối năm 90.
- Cơ cấu dòng vốn FDI đã thay đổi do có nhiều sự điều chỉnh trong chiến lược kinh
doanh của TNCs. Cũng chính nhờ mở rộng chính sách tự do hóa FDI, TNCs ngày càng
đóng vai trò quan trọng đối với thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước phát triển. - Truyền
bá khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý trên phạm vi toàn cầu, tạo không gian rộng
lớn để phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên
quy mô quốc tế. - Chiếm đoạt thị trường toàn cầu, xuất khẩu vốn và hàng hoá trên quy
mô lớn, thu về nhiều ngoại tệ, phát triển thực lực trong nước, tăng cường kiểm soát của tư
bản độc quyền trên phạm vi toàn cầu. Nhưng mặt khác, trong quá trình xuất khẩu vốn và
kỹ thuật ra thị trường thế giới cũng có khả năng làm cho kinh tế trong nước "trống rỗng",
khiến nạn thất nghiệp thêm trầm trọng, cũng có khả năng bùng nổ mâu thuẫn và xung đột
với các nước sở tại. - Tạo cơ hội và cả những thách thức to lớn cho các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, để độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế dân tộc, trong khi lợi dụng
những cơ hội mà các TNC đưa đến, các nước đang phát triển cũng cần có biện pháp đối
phó với những thách thức đang gặp phải; giảm bớt tình trạng dựa dẫm vào các TNC; đề
phòng các công ty đó thâm nhập về chính trị và kiểm soát về kinh tế, bảo vệ nền độc lập
chính trị và lợi ích căn bản của nhà nước dân tộc. - Ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực tài chính,
tiền tệ. Các TNC thao túng nguồn vổn tín dụng quốc tế khổng lồ, hình thành thị trường
tiền tệ lớn, trở thành các nhà kinh doanh ngoại tệ lớn nhất và là lực lượng chủ yếu thúc
đẩy lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ổn định thị trường tiền
tệ và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
. • Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - Quy mô và chất lượng lao động mà TNCs
tạo ra không phụ thuộc vào động cơ, chiến lược. Mỗi chiến lược thay đổi khi có sự biến
động của môi trường kinh doanh quốc tế , ngày nay quá trình toàn cầu hoá làm gia tăng
áp lực đối với TNCs và dù có áp lực nào thì TNCs vẫn đóng góp lớn vào tạo việc làm
. - TNCs tác động đối với nguồn lực vào tạo việc làm qua 2 cách Trực tiếp :
thông qua dự án TNCs góp phần tạo một khối công việc Gián tiếp : tạo ra cơ hội cho việc
phát triển nguồn lực - Với gần 77000 công ty mẹ và 900.000 chi nhánh trên toàn thế giới
các TNC là nguồn việc làm khổng lồ cho lực lượng lao động, các chi nhánh nước ngoài
đóng vai trò tạo việc làm cho người lao động. Tại Singapore, số người làm cho chi nhánh
nước ngoài chiếm 50% tổng số lao động trong các ngành sản xuất. Tại Ấn Độ , giải quyết
5 triệu việc làm.
• Động lực phát triển KHCN
- Thúc đẩy đổi mới công nghệ bằng hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) là nhiệm
vụ cốt lõi trong việc nâng cao cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, giữ vị trí độc quyền.
Công nghệ mới ra đời không chỉ ở các phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu,… mà còn từ
chính cơ sở TNCs như : Motorola đã thiết lập hệ thống R&D gồm 14 cơ quan tại 7 quốc
gia, tập đoàn Bristol có 12 cơ sở hoạt động tại 6 quốc gia. - Năm 1985-1998 hàng hoá chế
tạo có hàm lượng khoa học tăng 21,4%, hàng hoá có hàm lượng KHCN trung bình tăng
14,3% - Các quốc gia Nhật Bản và Mỹ đầu tư R&D 3% GDP, Đức và Pháp 2,3%,
Singapo 1,1%. Hàn Quốc là quốc gia theo đuổi chiến lược công nghệ và đặt mục tiêu đến
năm 2010 trở thành 1 trong nước đứng đầu về KHCN.
- Mức độ đầu tư cho công nghệ thông tin của Mỹ hằng năm là 8% GDP, Nhật Bản 7%,
Hàn Quốc 6%, Pháp và Đức 4%. TNCs không chỉ đầu tư cho hoạt động R&D bằng sức
của mình mà còn nhận được sự hỗ trợ về mặt chính phủ của các nước tư bản. Ví dụ :
chính phủ Nhật Bản giúp các công ty như Hitachi, Míthubushi, Fujisu, Toshiba,… nghiên
cứu kỹ thuật siêu mạch.
➢ Như vậy, TNCs là nguồn gốc và là động lực của toàn cầu hoá kinh tế.
+ Về chính trị : - Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu
thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hoá, các TNC đã có tác động lớn
đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thế lực của họ đã thâm
nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới.
- Nhờ vào mạng lưới dày đặc các công ty chi nhánh, TNCs có thể khai thác và tận dụng
mọi nguồn hàng tiềm tàng của thế giới bằng hoạt động khai thác thị trường tại chỗ, làm
giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp với thị trường mục tiêu, phục
vụ có hiệu quả cho khâu tiêu thụ hàng hóa của công ty. ,... Do đó các sản phẩm chất
lượng cao của TNCs đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc gia, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa sản phẩm trên thế giới. - Về lĩnh
vực tham gia, hoạt động của TNC không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn mà còn
đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự tham gia của TNC trong chính
trị - lĩnh vực quan trọng trong. Ngoài ra, TNC còn hiện diện khả lớn một cách trực tiếp
hoặc giản tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế như khoa học, văn
hóa, xã hội, không chỉ về bề rộng mức độ tham gia quan hệ quốc tế của các TNC cùng rất
sâu sắc, đặc biệt trong kinh tế. Điều này tạo khả năng cho TNC tham gia sâu hơn nữa vào
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
- Việc ký kết liên minh chiến lược giữa TNCs là một hình thức cạnh tranh quốc tế mới
và cũng làm thay đổi cục diện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Hiện nay, sự liên minh
chiến lược của TNCs chủ yếu diễn ra cạnh tranh kịch liệt, tập trung ở các xí nghiệp có
vốn và kỹ thuật cao như: vi tính, phần mềm cao cấp v.v... Đồng thời, liên minh còn biểu
thị rõ xu hướng hợp tác toàn diện, phần lớn hệ thống hợp tác là từ nghiên cứu ứng dụng
triển khai, đến tiêu thụ, hình thành một mối quan hệ phức tạp và quan niệm về quốc tịch
của TNCs cũng có xu hướng ngày càng mờ nhạt
. - Tạo cơ hội và cả những thách thức to lớn cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, để
độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế dân tộc, trong khi lợi dụng những cơ hội mà các
TNC đưa đến, các nước đang phát triển cũng cần có biện pháp đối phó với những thách
thức đang gặp phải; giảm bớt tình trạng dựa dẫm vào các TNC; đề phòng các công ty đó
thâm nhập về chính trị và kiểm soát về kinh tế, bảo vệ nền độc lập chính trị và lợi ích căn
bản của nhà nước dân tộc.
- Ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Các TNC thao túng nguồn vổn tín dụng
quốc tế khổng lồ, hình thành thị trường tiền tệ lớn, trở thành các nhà kinh doanh ngoại tệ
lớn nhất và là lực lượng chủ yếu thúc đẩy lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng
trực tiếp đến việc ổn định thị trường tiền tệ và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
+ Về văn hoá – xã hội :
- Nền kinh tế quốc gia của các nước đang phát triển không ngừng tăng trưởng, làm cho
các công ty con của TNCs buộc phải vứt bỏ quan niệm dân tộc trong quản lý kinh doanh,
làm mờ nhạt mẫu sắc bản quốc của xí nghiệp, chú trọng đào tạo những người kinh doanh
toàn cầu, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế và văn hóa của công ty với nước chủ
nhà. Ngoài ra về mặt phân phối lợi nhuận, cũng cần thực hiện việc tái đầu tư đối với lợi
nhuận của địa phương. Đồng thời còn đòi hỏi người giám đốc phải am hiểu phương thức
tư duy và văn hóa của địa phương, khi tuyển dụng nhân viên quản lý cắn nhấn mạnh việc
không phân biệt quốc tịch, cố gắng hết sức khai thác nguồn quản lý của địa phương.
- TNCs của Mỹ còn áp dụng một phương thức kinh doanh đặc biệt, đem tài sản vô hình
nhượng cho các xí nghiệp nước ngoài như nhãn hiệu hàng hóa, bí mật kỹ thuật, để tăng
nhanh tốc độ, hình thức kinh doanh đặc biệt đó đã phổ biến trong lĩnh vực phục vụ như
ăn nhanh, chuyển phát nhanh, giải khát, những thành quả kỹ thuật cao và mới… Chính
điều này thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học - công nghệ ở một mức độ rất lớn trên toàn thế
giới. Có thể nói là tiến bộ của khoa học - công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của các
công ty xuyên quốc gia và sự thịnh vượng của TNCs.
- Cuối những năm 80, Cộng đồng châu Âu vẫn kiên trì chống lại việc bán phá giá, và còn
quy định giá thấp nhất cho các sản phẩm điện tử của Nhật Bản và Hàn Quốc, điều này đã
buộc công ty thông tin Fuji, công ty Samsung phải đặt xí nghiệp trong hàng rào mậu dịch
của cộng đồng châu Âu, đồng thời làm cho sản xuất của xí nghiệp hoà hợp với kinh tế và
văn hóa của khu vực và quốc gia sở tại để trụ được và phát triển.
➢ Và đó cũng là nhân tố chủ chốt thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá phát triểưng học hỏi cần
phải nâng cao cảnh giác tránh mất đi bản sắc dân tộc.
6. Có quan điểm cho rằng : “Nhà nước và chủ quyền có năng lực biến đổi để thích
nghi với hoàn cảnh mới, nhưng sự tồn tại của chúng không còn nguyên nghĩa do phải
chia sẻ quyền lực với những tác nhân phi Nhà nước”. Trình bày nhận định của anh
(chị) về quan điểm trên. (Chương 3)
Tác nhân phi nhà nước là gì?
Tác nhân phi nhà nước còn có thể hiểu là các tổ chức phi chính phủ, Hoạt động đa dạng
trong các lĩnh vực dịch vụ, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhân đạo… Gọi chung là các hoạt
động phục vụ lợi ích công cộng phát triển lành mạnh, công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã
hội,...
Bản chất của tác nhân phi nhà nước:
+ Vì lợi ích chung của cộng đồng như y tế, văn hóa, giáo dục…, không hoạt động nhằm
mục đích thu lợi nhuận, xác định mục tiêu thương mại.
+Định hướng của tổ chức phi chính phủ có nhiệm vụ thúc đẩy mọi người vì lợi ích chung
mang tính nhân đạo, khuyến khích mọi người thực hiện các hoạt động từ thiện, tuyên
truyền và phổ biến giáo dục.
+Tổ chức phi chính phủ thành lập giúp phát triển các lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ
thuật, mang tính mạng lưới toàn cầu.
+ Đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng, ý chí của người dân trên thế giới về đói nghèo,
bình đẳng, môi trường, sức khỏe,…
-Tác động của các tác nhân phi nhà nước đối với quyền lực của nhà nước:
Từ thời cổ đại những mô hình nhà nước đã tồn tại hàng trăm năm đều có đặc điểm
chung là quyền lực tập trung vào tay nhà nước, Vua có quyền lực tối cao quyết định mọi
việc. Tuy nhiên, tình hình thế giới đã có sự thay đổi trong hàng ngàn năm qua, toàn cầu
hóa phát triển với tốc độ nhanh chóng vì vậy có những quốc gia đã có những thay đổi
trong việc quản lý nhà nước nhằm thích ứng với tình hình chung của quốc tế. Quyền lực
nhà nước lại bi chi phối do các tác nhân phi nhà nước, các tác nhân phi nhà nước và các
chủ thể mới ngày càng phát triển thậm chí còn có tiềm lực và sức mạnh lớn hơn cả nhà
nước. Bối cảnh này buộc nhà nước phải hoạt động trong một cấu trúc thể chế mới, tuân
thủ một số giá trị chung về dân chủ, pháp quyền và quyền con người. Bởi vì một số thiết
chế quốc tế vượt lên cả quyền lực của nhà nước, sự củng cố và lớn mạnh của trật tự đa
quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh và chủ quyền của nhà nước. Nhà nước theo
đó phải chia sẻ quyền lực với các chủ thể mới, logic đa quốc gia đòi hỏi tìm kiếm sự thỏa
thuận thay vì cơ chế mệnh lệnh - phục tùng truyền thống. Nhà nước buộc phải cạnh tranh
với các chủ thể kinh tế mới như các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh, nhưng cũng có thể
với cả tổ chức phi chính phủ, thậm chí mạng lưới đa quốc gia đủ mọi loại hình,…bên
cạnh đó còn có sự xé nhỏ cấu trúc nhà nước quyền lực bị phân tán, tản quyền từ trung
ương đến đại phương, tục ngữ “Phép vua thua lệ làng” ngày càng có ý nghĩa trong bối
cảnh hiện nay. Quyền lực trước nay đều là một trong những khái niệm cốt lõi của chính
trị quốc tế. Khái niệm quyền lực trong nghiên cứu chính trị quốc tế truyền thống phần lớn
là quyền lực cứng, là quyền lực vật chất, cốt lõi của nó là thực lực quân sự. Định nghĩa
căn bản về quyền lực là “buộc người khác làm những việc mà họ vốn không muốn làm”.
Trong những năm qua, phần lớn người ta căn cứ vào diễn biến tình hình chính trị quốc tế
để suy nghĩ về sự thay đổi tính chất quyền lực và mở rộng khái niệm quyền lực, đồng
thời suy xét đến tính chất khác nhau của quyền lực. Ngày nay các quốc gia ngày càng
nâng cao quyền lực của họ qua việc sùng bái quyền lực vật chất, tăng cường liên minh
quân sự, phô trương và sử dụng thực lực quân sự,…
Từ năm 1948 khi thiết lập hệ thống Westphalia đến nay, nhà nước là tác nhân chủ đạo
trong hệ thống quốc tế, có quyền uy chính trị tối cao đối với đối nội, không cần chịu trách
nhiệm trước bất kỳ quyền uy nào khác đối với đối với đối ngoại. Việc tự xác định và tái
xác định tư cách nhà nước thường là hoàn thành trong quá trình xác định và tăng cường
tác nhân khác đối địch. Trong thời đại toàn cầu hóa nhà nước xuất hiện ba vấn đề lớn:
một là “nhân tố khác” tức là mối đe dọa xuên quốc gia này không phải là một người, một
nhà nước cụ thể nào đó mà là toàn thê loài người, không cấu thành mối đe dọa đối với
một nhà nước cụ thể nào đó, mà là mối đe dọa đối với mọi nhà nước, trở thành kẻ thù
chung của cộng đồng quốc tế. Hai là một nhà nước dù mạnh đến đâu cũng không thể ứng
phó và giải quyết hữu hiệu các vấn đề xuyên quốc gia nổi lên liên tục. Mỹ là siêu cường
duy nhất trên thế giới, nhưng hiệu quả rất thấp nếu về mặt tấn công chủ nghĩa khủng bố,
trong ứng phó với khủng hoảng tài chính, khó khăn chồng chất. Trong thời mà các mối
đe dạo xuyên quốc gia không ngừng xuất hiện, bất luận thực lực tự thân của một nhà
nước đạt đến trình độ nào đều không thể muốn gì làm nấy như trước đây. Ba là sự nổi lên
mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. Các tổ chức cách mạng phi chính phủ xuyên quốc gia
đã phát huy vai trò quan trọng trong các vấn đề toàn cầu khác nhau, không những đánh
thức ý thức con người ta còn đặt ra các chương trình nghị sự có tính toàn cầu mà các
quốc gia không thể không tham gia. Điều này đã làm suy yếu địa vị và vai trò của nhà
nước ở mức dộ nhất định, cho thấy quyền lực đã phân tán từ nhà nước dân tộc ra cộng
đồng quốc tế. Ngày nay quyền lực cứng không còn là tất cả, các tác nhân phi nhà nước
giải quyết các vấn đề toàn cầu theo khuynh hướng quyền lực mềm. Đây là công cụ hiệu
quả để ngăn chặn các tổ chức khủng bố và giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu bằng kết
đoàn kết các quốc gia vì vậy quyền lực và chủ quyền của nhà trên thế giới hiện nay
không còn tồn tại nguyên nghĩa.
7. Đánh giá tác động của Toàn cầu hóa đến mô hình Nhà nước - Dân tộc trên thế
giới. (Chương 3)
Tác động của TCH đến Nhà nước – dân tộc
Các yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại của Nhà nước dân tộc
Những thách thức Nhà nước đang phải đối mặt
• Mở rộng không gian KT quốc dân vượt ra ngoài giới hạn chủ quyền lãnh thổ =>
Gây khó khăn cho NN trong việc can thiệp vào nền KT
• Suy yếu khả năng chu cấp phúc lợi công cộng
• Giảm năng lực bảo tồn tính cố kết của xã hội công dân
• Suy giảm khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ một cách tuyệt đối

Lãnh thổ
“Không gian xã hội” ngày càng phát triển theo chiều hướng phá vỡ “không gian địa lý”

Chuyển từ “Không gian địa điểm” sang “không gian mạng lưới” ( tiền tệ)
Đường biên giới lãnh thổ đang bị “đục thủng” bởi những “lực lượng mềm” của TCH.
mang tính đa sắc tộc.
Đường biên giới lãnh thổ bị xói mòn từ cả “bên trên” và “bên dưới”.
Khái niệm lãnh thổ không đồng nhất với khái niệm quyền lực nữa.
=> Lợi ích và hiểm họa chủ yếu nằm ở không gian xuyên biên giới chứ không chỉ bên
trong biên giới.
Biến dạng xã hội công dân hay cơ cấu dân tộc trong lòng Nhà nước
Sự suy giảm khả năng duy trì, củng cố tính gắn kết trong lòng xã hội công dân.
Ý niệm “mình thuộc về một cộng đồng dân tộc nào đó” đang dần bị xói mòn.
Quyền lực Nhà nước
Vai trò điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế ngày càng trở nên khó khăn.
Khả năng có hạn của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, môi
trường.
TCH đang làm “mềm” các giới hạn lãnh thổ.
Giảm sút năng lực kiểm soát tín dụng, tiền tệ và ngân sách.
Suy giảm khả năng chu cấp phúc lợi công cộng và khả năng duy trì công bằng trong xã
hội công dân.
Xu hướng gạt Nhà nước ra ngoài lề các chương trình nghị sự liên quan đến : Môi trường
– Dân chủ - Nhân quyền.
Biến dạng chủ quyền
Chủ quyền Quốc gia là tập hợp các quyền mà một Nhà nước dân tộc có. Là quyền lực tối
cao của Nhà nước trong lãnh thổ mà nó quản lý.
CQQG đang bị tác động trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hiệp ước đa phương về
kinh tế, tài chính, an ninh, sinh thái…
Các quan điểm phổ biến đánh giá vai trò và khả năng tồn tại của Nhà nước – dân
tộc
Nhà nước dân tộc cùng với chủ quyền tiếp tục tồn tại, bởi sức sống nội tại của chính
chúng và bởi lợi ích cộng đồng mà chúng quản lý.
Sự tiêu vong tất yếu của Nhà nước dân tộc cùng với chủ quyền để thay vào đó là những
hình thức cai trị mới, thích hợp và đa dạng hơn.
Nhà nước và chủ quyền có năng lực biến đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng sự
tồn tại của chúng không còn nguyên nghĩa do phải chia sẻ quyền lực với những tác nhân
phi Nhà nước.
Xu thế phân rã Nhà nước – dân tộc cùng với chủ quyền chỉ tỏ ra tương hợp với các Nhà
nước Phương Tây. Đối với các Nhà nước phương Đông, mô hình Nhà nước dân tộc vẫn
là một phương thức cai trị không thể thay thế.
Vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, đặc biệt là bảo đảm nền kinh tế độc lập, tự chủ trong
điều kiện toàn cầu hóa là vấn đề trở nên phức tạp, chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ
trong đời sống chính trị quốc tế.
Các quan hệ chính trị quốc tế được dựa trên cơ sở của các mối liên kết kinh tế
song phương, đa phương và các thiết chế kinh tế, tài chính quốc tế, khu vực, trở nên phụ
thuộc lẫn nhau nhiều hơn.
Các quan hệ chính trị lại làm cho các mối liên kết và quan hệ kinh tế của các nước
có điều kiện được mở rộng và vững chắc hơn.
8. Hiểu thế nào là toàn cầu hoá về văn hoá ? Phân tích tác động của Toàn cầu hoá
đối với bản sắc văn hoá dân tộc (Liên hệ với Việt Nam). (Chương 3)
 TCH về VH
Toàn cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là quá trình văn hoá các dân tộc, thông qua giao
lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau, không ngừng phá vỡ tính hạn chế về khu
vực và về mô hình của văn hoá dân tộc mình và trong sự bình phán và chọn lọc của loài
người mà đạt được sự hoà đồng văn hoá, không ngừng chuyển các nguồn khu vực của
văn hoá dân tộc mình thành các nguồn hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người.
Tuy nhiên, điều cần chú ý là toàn cầu hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung đột,
giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời bản thân nó cũng là một kết
quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các dân tộc có thể được loài người cùng
hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt nhiên không có nghĩa là sự mất đi của các nền văn
hoá dân tộc để hình thành nên một thứ văn hoá có tính toàn cầu thống nhất, liên thông,
phổ quát
 Phân tích tác động của Toàn cầu hoá đối với bản sắc văn hoá dân tộc (Liên hệ
với Việt Nam)
Khái niệm và vị trí của bản sắc dân tộc
Khái niệm : Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững , những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước . Đó là lòng yêu nước nồng nàn , ý chí tự cường dân tộc , tinh thần đoàn kết
cá nhân - gia đình -làng xã - Tổ quốc ; lòng nhân ái , khoan dung , trọng nghĩa tình, đạo
lý , đức tính cần cù , sáng tạo trong lao động ; sự tinh tế trong ứng xử , tính giản dị trong
lối sống ... Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm đà trong các hình thức biểu hiện mang tính
dân tộc độc đáo . Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc giữ vị trí rất
quan trọng : Chính bản sắc văn hoá dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại , đứng vững và
phát triển qua các biến động của lịch sử . Nhờ bản sắc văn hoá dân tộc , chúng ta biểu lộ
được trọn vẹn sự hiện diện của một bản sắc trong giao lưu với quốc tế . Mục tiêu của giao
lưu là thông qua giao lưu với nền văn hoá mới , ta hội nhập với văn hoá thế giới . Chỉ giữ
được bản sắc văn hoá dân tộc thì ta mới có điều kiện giao lưu bình đẳng với các nền văn
hoá thế giới . Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới , trước nguy cơ “ đồng nhất ” về
văn hoá thực chất là sự thống trị của văn hoá nước lớn , nước giàu thì bản sắc văn hoá
dân tộc có ý nghĩa cực kỳ lớn trong việc xây dựng nước và giữ nước.
Khái niệm văn hóa
Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần đó con người sáng tạo và tính
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Theo UNESCO “Văn hóa phản ánh và thể hiện
một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống( của mỗi cá nhân và các cộng
đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ,
nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà dựa
trên đó các dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.” Nói một cách dễ hiểu văn hóa
chính là mọi thứ con người tạo ra thông qua quá trình lao động từ xưa đến nay và mang
tính chất riêng của từng dân tộc, văn hóa theo 2 hướng chính là văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần.
Tích cực của toàn cầu hóa về mặt văn hóa và bản sắc dân tộc
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới
hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập
các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa,
pháp luật, giáo dục,... Chính quá trình tác động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế vào toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang
đứng trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng
quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang tính toàn cầu
đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự
hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều
khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị
văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh
và đặc điểm mới của thế giới hiện đại. Khi toàn cầu hóa chưa trở thành xu thế chủ đạo
của thế giới, bản sắc dân tộc của Việt Nam được phân định theo các vùng văn hóa chính
một cách cụ thể và rõ ràng. Do vậy khi mà toàn cầu hóa chưa có tác động to lớn thì bản
sắc dân tộc Việt Nam ít có cơ hội thể hiện, mài dũa và khẳng định mình trên mọi mặt từ
đây không thể so chiếu và nhận diện tích các mặt cực hay hạn chế trong bản sắc dân tộc
Việt Nam. Khi mà toàn cầu hóa đã lan rộng trên thế giới thì đây chính là cơ hội để bản
sắc dân tộc Việt Nam có thể nhìn nhận lại mình và đánh giá được đúng bản thân mà đặc
biệt là có thể khẳng định mình với thế giới. Toàn cầu hóa cũng chính là cơ hội để bản sắc
dân tộc Việt Nam thay đổi và phát triển. Trong thực tế từ khi mà Việt Nam hội nhập đến
nay có thể thấy bản sắc dân tộc Việt Nam phong phú hơn rất nhiều, hiện đại hơn, đổi mới
một cách rõ rệt ngoài ra nhờ xu thế toàn cầu hóa mà bản sắc dân tộc Việt Nam cũng tự
nhận xét chính mình và điều chỉnh theo xu hướng phát triển rõ rệt. Ví dụ như văn hóa làm
việc, các công ti nước ngoài vào Việt Nam đầu tư ngoài có thể tạo công ăn việc làm thì
các công ty này tới đây mang theo cả văn hóa của nước họ mà điển hình là văn hóa làm
việc, từ đó các người lao động được mài dũa và thay đổi để theo kịp xu hướng của toàn
cầu. Mặt tốt trong toàn cầu hóa về văn hóa hay bản sắc dân tộc chúng ta luôn tiếp thu và
thay đổi theo đúng cái gọi là Việt Nam, biến cái của người khác thành của chính mình
nhưng ở đây chúng ta phải tiếp thu có chọn lọc tránh đồng nhất hóa về mọi mặt mà mất đi
cái gốc của chúng ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đây cũng chính là cơ hội mà bản sắc
dân tộc hay văn hóa Việt Nam được khẳng đình mình trên thị trường quốc tế. Trong
những năm gần đây Việt Nam đã triển khai tốt và toàn diện các lĩnh vực hợp tác, giao lưu
văn hóa, thông tin đối ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ, mấy
năm gần đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa là chúng ta đã tạo được sự
hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ và châu Phi. Đồng thời, chúng ta
cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức hợp tác đa dạng, phong phú, phù hợp với
từng khu vực, từng nước. Đây là bước phát triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác
quốc tế về văn hóa, qua đó đã làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa,
đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn,
khoa học, tiến bộ của nưóc ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu biết và xích lại gần nhau
hơn nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính ưu
việt của hợp tác quốc tế về văn hóa qua đó vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao, con người và cuộc sống Việt Nam thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu
biết rõ hơn, đúng hơn. Tác động của toàn cầu hóa dường như là về mọi mặt trong đời
sống của một cá thể hay một quốc gia ví dụ như kinh tế, chính trị, tư tưởng,… nhưng đặc
biệt là lối sống và thích ứng văn hóa. Toàn cầu hóa có thể đào tạo một lớp tư tưởng mới
hoặc một thế hệ thích ứng được với “thế giới phẳng”. Từ đây con người Việt Nam được
nâng cao trình độ, tư tưởng, khả năng làm việc,… mà trên hết là nâng tầm giá trị con
người Việt trên thị trường quốc tế.
Tiêu cực của toàn cầu hóa về mặt văn hóa và bản sắc dân tộc
Lấn áp văn hóa của Việt Nam hay có nhiều luồng văn hóa không hợp với nền văn hóa
Việt dẫn đến phản văn hóa, phản giá trị lấn áp văn hóa > thay đổi văn hóa, mất văn hóa là
mất dân tộc. Nguy cơ mất an ninh trật tự xã hội, thông tin sai lệch tư tưởng, nguy cơ các
thành phần chống phá lợi dụng dể thực hiện diễn biến hòa bình. Lợi dụng những sai lầm
trong quản lý xã hội để kích động, thổi phồng gây mâu thuẫn trong tầng lớp nhân dân,
thực hiện truyền đạo trái phép; tạo hiềm khích gây mất đoàn kết giữa các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam Dễ quay lưng lại với những giá trị tinh thần cao đẹp, sa đà
vào dung tục tầm thường, tạo ra những chướng ngại cho sự nâng cao mặt bằng dân trí,
làm ô nhiễm môi trường văn hóa. Văn minh kỹ trị đem lại tiện nghi, tiện lợi nhưng cũng
dễ đẩy con người vào thái cực khác: cô đơn, tự kỷ, ích kỷ, vô cảm, sống gấp, thờ ơ với
cuộc sống, với con người, thậm chí với chính bản thân mình. Xuất hiện và phát tán một
cách nhanh chóng những luồng tư tưởng độc hại khiến một số người thay đổi nhanh
chóng lối sống, tha hoá đạo đức. Xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá trị văn hóa ngoại
lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Nguy cơ về sự chọn lọc, tiếp nhận văn hóa. Nếu
không có sự chọn lọc và nghiên cứu về văn hóa du nhập cũng có thể xảy ra vấn đề đồng
hóa văn hóa, dẫn đến một mặt là hội nhập nhưng mặt khác lại là phai mờ đi bản sắc dân
tộc.
9. Thế nào là công dân toàn cầu? Cho ví dụ minh hoạ. Dưới góc độ của một sinh
viên, anh/chị làm thế nào để trở thành công dân toàn cầu
Công dân toàn cầu là những người sống và làm việc ở nhiều QG khác nhau. Họ có thể có
một hoặc nhiều quốc tịch. Hiện tượng xuất hiện khái niệm công dân toàn cầu đã làm thay
đổi cơ bản mọi khái niệm và giá trị về biên giới, lãnh thổ, chính trị, vh, QLNN và cả
nghành tư pháp QT.
Vd: các sinh viên, du học sinh trao đổi giữa các nước, giữa các trường chuẩn quốc tế trên
toàn cầu. Ở Việt Nam thì có thể kể đến trường chuẩn quốc tế giáo dục theo hướng công
dân toàn cầu như: VinSchool, The Dewey Schools, Newton,…
Dưới góc độ của 1 sinh viên, anh/chị làm thế nào trở thành công dân toàn cầu? cần
xác định cho mình một mục tiêu cụ thể và phải biết giới hạn của nó. Xác định được vấn
đề này cũng đồng nghĩa với việc các bạn đã hiểu được tiềm lực nội tại của bản thân. Từ
đó sẽ tránh lãng phí thời gian, cũng như nguồn lực để theo đuổi mục tiêu. Chắc chắn ở
bước đầu tiên sẽ không tránh khỏi những va vấp, thất bại, nhưng có vậy các bạn mới có
quá trình tự kiểm tra, kiểm nghiệm lại bản thân để làm tốt hơn, hoàn thiện hơn. Cũng
giống như việc giải Toán, không phải lúc nào bạn cũng có thể tìm ra đáp án đúng ngay
lần đầu tiên, mà phải qua vài lần “thử nghiệm” mới có được đáp án chính xác.
+ VD:

10. Khái niệm toàn cầu hóa? Phân tích tính hai mặt của quá trình Toàn cầu hoá?
Liên hệ với Việt Nam
KN TCH: dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra
bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá
nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu.
Tính hai mặt của quá trình Toàn cầu hoá
 Tích cực của toàn cầu hóa về mặt văn hóa
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới
hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập
các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa,
pháp luật, giáo dục,... Chính quá trình tác động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế vào toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang
đứng trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng
quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang tính toàn cầu
đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự
hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều
khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị
văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh
và đặc điểm mới của thế giới hiện đại. Khi toàn cầu hóa chưa trở thành xu thế chủ đạo
của thế giới, bản sắc dân tộc của Việt Nam được phân định theo các vùng văn hóa chính
một cách cụ thể và rõ ràng. Do vậy khi mà toàn cầu hóa chưa có tác động to lớn thì bản
sắc dân tộc Việt Nam ít có cơ hội thể hiện, mài dũa và khẳng định mình trên mọi mặt từ
đây không thể so chiếu và nhận diện tích các mặt cực hay hạn chế trong bản sắc dân tộc
Việt Nam. Khi mà toàn cầu hóa đã lan rộng trên thế giới thì đây chính là cơ hội để bản
sắc dân tộc Việt Nam có thể nhìn nhận lại mình và đánh giá được đúng bản thân mà đặc
biệt là có thể khẳng định mình với thế giới. Toàn cầu hóa cũng chính là cơ hội để bản sắc
dân tộc Việt Nam thay đổi và phát triển. Trong thực tế từ khi mà Việt Nam hội nhập đến
nay có thể thấy bản sắc dân tộc Việt Nam phong phú hơn rất nhiều, hiện đại hơn, đổi mới
một cách rõ rệt ngoài ra nhờ xu thế toàn cầu hóa mà bản sắc dân tộc Việt Nam cũng tự
nhận xét chính mình và điều chỉnh theo xu hướng phát triển rõ rệt. Ví dụ như văn hóa làm
việc, các công ti nước ngoài vào Việt Nam đầu tư ngoài có thể tạo công ăn việc làm thì
các công ty này tới đây mang theo cả văn hóa của nước họ mà điển hình là văn hóa làm
việc, từ đó các người lao động được mài dũa và thay đổi để theo kịp xu hướng của toàn
cầu. Mặt tốt trong toàn cầu hóa về văn hóa hay bản sắc dân tộc chúng ta luôn tiếp thu và
thay đổi theo đúng cái gọi là Việt Nam, biến cái của người khác thành của chính mình
nhưng ở đây chúng ta phải tiếp thu có chọn lọc tránh đồng nhất hóa về mọi mặt mà mất đi
cái gốc của chúng ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đây cũng chính là cơ hội mà bản sắc
dân tộc hay văn hóa Việt Nam được khẳng đình mình trên thị trường quốc tế. Trong
những năm gần đây Việt Nam đã triển khai tốt và toàn diện các lĩnh vực hợp tác, giao lưu
văn hóa, thông tin đối ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ, mấy
năm gần đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa là chúng ta đã tạo được sự
hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ và châu Phi. Đồng thời, chúng ta
cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức hợp tác đa dạng, phong phú, phù hợp với
từng khu vực, từng nước. Đây là bước phát triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác
quốc tế về văn hóa, qua đó đã làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa,
đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn,
khoa học, tiến bộ của nưóc ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu biết và xích lại gần nhau
hơn nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính ưu
việt của hợp tác quốc tế về văn hóa qua đó vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao, con người và cuộc sống Việt Nam thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu
biết rõ hơn, đúng hơn. Tác động của toàn cầu hóa dường như là về mọi mặt trong đời
sống của một cá thể hay một quốc gia ví dụ như kinh tế, chính trị, tư tưởng,… nhưng đặc
biệt là lối sống và thích ứng văn hóa. Toàn cầu hóa có thể đào tạo một lớp tư tưởng mới
hoặc một thế hệ thích ứng được với “thế giới phẳng”. Từ đây con người Việt Nam được
nâng cao trình độ, tư tưởng, khả năng làm việc,… mà trên hết là nâng tầm giá trị con
người Việt trên thị trường quốc tế.
 Tiêu cực của toàn cầu hóa về mặt văn hóa
Lấn áp văn hóa của Việt Nam hay có nhiều luồng văn hóa không hợp với nền văn hóa
Việt dẫn đến phản văn hóa, phản giá trị lấn áp văn hóa > thay đổi văn hóa, mất văn hóa là
mất dân tộc. Nguy cơ mất an ninh trật tự xã hội, thông tin sai lệch tư tưởng, nguy cơ các
thành phần chống phá lợi dụng dể thực hiện diễn biến hòa bình. Lợi dụng những sai lầm
trong quản lý xã hội để kích động, thổi phồng gây mâu thuẫn trong tầng lớp nhân dân,
thực hiện truyền đạo trái phép; tạo hiềm khích gây mất đoàn kết giữa các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam Dễ quay lưng lại với những giá trị tinh thần cao đẹp, sa đà
vào dung tục tầm thường, tạo ra những chướng ngại cho sự nâng cao mặt bằng dân trí,
làm ô nhiễm môi trường văn hóa. Văn minh kỹ trị đem lại tiện nghi, tiện lợi nhưng cũng
dễ đẩy con người vào thái cực khác: cô đơn, tự kỷ, ích kỷ, vô cảm, sống gấp, thờ ơ với
cuộc sống, với con người, thậm chí với chính bản thân mình. Xuất hiện và phát tán một
cách nhanh chóng những luồng tư tưởng độc hại khiến một số người thay đổi nhanh
chóng lối sống, tha hoá đạo đức. Xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá trị văn hóa ngoại
lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Nguy cơ về sự chọn lọc, tiếp nhận văn hóa. Nếu
không có sự chọn lọc và nghiên cứu về văn hóa du nhập cũng có thể xảy ra vấn đề đồng
hóa văn hóa, dẫn đến một mặt là hội nhập nhưng mặt khác lại là phai mờ đi bản sắc dân
tộc.
11. Thế nào là các vấn đề toàn cầu? Vai trò của các vấn đề toàn cầu đến QHQT?
Liệt kê một số vấn đề toàn cầu được quan tâm nhất hiện nay (chương 4)
Vấn đề toàn cầu là những vấn đề đụng chạm đến lợi ích của cả nhân loại mà muốn giải
quyết cần phải có những hoạt động quốc tế phối hợp chặt chẽ trên phạm vi toàn thế giới.
Vai trò của các vấn đề toàn cầu đến QHQT:
Tháng 5-1967, các nước thành viên của ba cộng đồng CECA (Cộng đồng than thép Châu
Âu), EURATUM (Cộng đồng nguyên tử Châu Âu) và EEC (Cộng đồng kinh tế Châu Âu)
đã ký Hiệp ước hợp nhất thành một tổ chức gọi là Hiệp ước về Cộng đồng Châu Âu (EC).
Ngày 1-1-1994, Cộng đồng Châu Âu (EC- European Community) đổi tên thành Liên
minh Châu Âu EU. Sau khi Hiệp ước thống nhất Châu Âu được ký tại Maastricht giữa 12
nước (Ailen, Anh, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Italy, Lúcxămbua,
Pháp, Tây Ban Nha), mở đầu cho những bước tiến tới sự thống nhất chính trị, kinh tế,
tiền tệ cho các thành viên EU. Và hiện nay EU đã trở thành một liên minh kinh tế - chính
trị với 28 quốc gia thành viên.
Ngoài việc tăng lên về chiều rộng (số thành viên), EU cũng phát triển về chiều sâu, đưa
sự hội nhập ngày càng đi xa hơn cả về mức độ và phạm vi, trở thành một liên hiệp kinh tế
gần như toàn diện, đã thống nhất tiền tệ và trong tương lai xa hơn, có thể thống nhất cả về
chính trị và xã hội. Hiệp ước Maastricht ký ngày 7/2/1992 không chỉ đổi tên của Cộng
đồng Châu Âu thành Liên hiệp Châu Âu, với sự hoàn tất của một quá trình dài cải tổ và
củng cố các cơ cấu, mà còn đánh dấu một bước tiến mới trong xu thế hội nhập ở Châu Âu
và cả một sự thay đổi tư duy về vấn đề này.
Để có hiệu lực, hiệp ước Maastricht phải được dân chúng các nước thành viên chấp thuận
thông qua biểu quyết. Tuy nhiên quá trình biểu quyết luôn nhận lại những ý kiến trái
chiều xoay quanh những vấn đề về chủ quyền quốc gia, tính dân chủ và sự phân bố quyền
lực giữa các thành viên trong EU. Điển hình là năm 1992, Thụy Sĩ và Na Uy đệ đơn xin
gia nhập EU nhưng hồ sơ của hai nước này này đã bị gạc lại vô thời hạn sau khi dân
chúng hai nước này hai lần biểu quyết chống với một tỉ lệ rất sít sao. Điều này nói lên sự
phân vân của dư luận trước những lý lẽ trái ngược nhau và lợi ích của hội nhập và cái giá
của chủ quyền quốc gia. Hay vào tháng 5/2001, Cựu thủ tướng Đức Gerhard và cựu bộ
trưởng ngoại giao Joschka Fischer đã đưa ra đề nghị củng cố Liên minh Châu Âu thành
một liên bang hoà nhập tất cả các quốc gia trong một thể chế chính trị duy nhất, với một
chính quyền trung ương đặt dưới sự kiểm soát của một quốc hội toàn Châu Âu. Điều này
vấp phải một sự dè dặt của cựu thủ tướng Pháp Lional Jopin. Đức - một quốc gia đã quen
sống với chế độ Liên bang, dễ dàng ủng hộ dự án này. Thế nhưng, Pháp - với truyền
thống là nhà nước tập quyền, đương nhiên ít phấn khởi hơn trước viễn tưởng nhà nước
dân tộc bị tan loãng trong một thể chế siêu quốc gia.
Tuy nhiên, Liên minh Châu Âu vẫn tiếp tục phát triển và củng cố các cơ cấu của mình,
càng ngày càng đi xa hơn trong sự hội tụ. Từ Thị trường chung của những năm đầu đến
Định ước duy nhất Châu Âu (European Single Act) năm 1986 nới rộng tự do đi lại,
không chỉ cho hàng hoá, mà còn cho dịch vụ, tài chính và con người, đến không gian
Schengen năm 1995 xoá bỏ các giới tuyến giữa các nước tham gia, bước đầu cho việc
hình thành một không gian chính trị chung, quá trình xây dựng Châu Âu là ví dụ điển
hình của những giằng co giữa những động lực khác nhau trong một xu thế toàn cầu hoá.
Cuộc tranh cãi về chủ quyền quốc gia trong công luận đạt cao điểm trong năm 2005 khi
các nước trong Liên minh lần lượt tiến hành thủ tục phê chuẩn Hiến chương Châu Âu,
được coi như văn kiện nền tảng cho một thể chế dấy xa hơn nữa sự hội nhập để đi đến
thống nhất hoá về cả chính trị. Sự thất bại của hiến chương Châu Âu trong hai nước tiên
phong trong công cuộc xây dựng cộng đồng Châu Âu tác động mạnh đến nỗi các nước
còn lại đình chỉ vô hạn định việc tổ chức bỏ phiếu.
Tuy tạm thời thất bại trên chủ đề hiến chương. Liên minh Châu Âu vẫn là kết quả cao
nhất của quá trình toàn cầu hoá và là hình thức tập hợp đi xa nhất trong việc xây dựng
một thể chế siêu quốc gia và chuyển nhượng chủ quyền quốc gia.
Một số vấn đề toàn cầu được quan tâm nhất hiện nay là:
+ Con người đang đứng trước hàng loạt vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu. Nhưng vấn đề
đó đang tồn tại và có xu hướng gia tăng về số lượng, quy mô và mức độ.
+ Tổng thể các vấn đề toàn cầu bao gồm một số dạng thức: các vấn đề có liên quan đến
việc khắc phục những mâu thuẫn trong các quan hệ quốc gia, dân tộc như các vấn đề lợi
ích kinh tế, vấn đề lãnh thổ, quân sự, chính trị vấn đề đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt
nhân - bảo vệ hòa bình khắc phục tình trạng lạc hậu ở các nước đang phát triển, thiết lập
trật tự kinh tế thế giới mới; những vấn đề và những mâu thuẫn giữa các hành vi của con
người đối với tự nhiên, môi trường sinh thái: “Nền văn minh đang bị khủng hoảng, nền
văn minh đang nức nở", người ta gọi vấn đề toàn cầu bằng các thuật ngữ như thế.
+ Sự khủng hoảng đó, những vấn đề toàn cầu đó đặt ra câu hỏi nghiêm túc cho cả loài
người. Khả năng tiếp tục tiến lên một cách tự phát như hôm nay, mạnh ai nấy làm như
hôm nay hoặc như hôm qua sẽ đưa nhân loại đi tới vực thẳm. Thế giới đang xuất hiện
những tiếng chuông cảnh báo toàn cầu. Lối thoát chỉ có thể là tìm kiếm những con đường
có tính chất đối sách của tiến bộ xã hội một cách hợp lý. Các quốc gia, các dân tộc cần
phát triển, cần có chiến lược phát triển cho mình, những cũng cần dành ưu tiên nhất định
cho toàn nhân loại.
+ Không một người nào, dân tộc nào, giai cấp nào bỏ qua lợi ích của mình, vì vậy không
thể quan tâm đến lợi ích toàn nhân loại.
Một số vấn đề mạng tính toàn cầu hiện nay cần được giải quyết:
 Biến đổi khí hậu
 Ô nhiễm môi trường
 Bạo lực gia đình
 An ninh và phúc lợi
 Trẻ e ko đc đi hc
 Thất nghiệp
 Tham nhũng
 Suy dinh dưỡng và nghèo đói
 Lạm dụng chất gây nghiện
 Khủng bố
 Đại dịch covid - 19

You might also like