Professional Documents
Culture Documents
Louis Và Zélie Martin
Louis Và Zélie Martin
1
TIỂU SỬ
ÔNG BÀ LOUIS VÀ ZÉLIE
MARTIN
Song thân thánh nữ Têrêxa thành Lisieux
12
Công việc làm đăng ten của bà Zélie
phát triển đến nỗi ông Louis bán luôn cửa
hiệu làm đồng hồ và tiệm kim hoàn cho
người cháu để về lo điều hành công việc và
bán hàng cho vợ. Họ dời về ở tại ngôi nhà
trên đường Sainte Blaise mà bà Zélie đang
dùng làm văn phòng. Ông Louis đi khắp nơi
để nhận đơn đặt hàng cho thương hiệu Point
d'Alençon. Ông cũng vẽ mẫu cho hàng đăng
ten, như một nghệ nhân thành thạo. Ông
thường vắng nhà để lo công việc. Đọc lại các
thư của bà Zélie, ta thấy nhan nhản: "Ba
đang đi vắng". Khi chị thánh Têrêxa chào
đời ông cũng đang vắng nhà.
Cả hai vợ chồng đều làm việc cật lực
và có lương tâm. Họ rất nhạy cảm về trách
nhiệm xã hội và quan tâm đến người nghèo
cách thiết thực. Ông Louis nhấn mạnh rằng
khi thợ đăng ten làm xong phần việc của họ
thì phải trả tiền cho họ ngay, và ông quan
tâm chăm sóc họ, nhất là khi họ đau ốm.
Trong năm đầu sau ngày cưới, Zélie và
13
Louis chăm lo cho một cậu bé mất mẹ. Cậu
bé là một trong đám mười một anh chị em và
nhà Martin đón tiếp cậu như là con ruột của
họ. Bất cứ ai cần đến đều được họ giúp đỡ.
Cả hai đều làm việc rất chuyên cần, chuyên
cần đến độ Louis phải lo ngại cho sức khỏe
của Zélie. Từ Paris, ông viết cho bà: “Này,
anh đã từng bảo em cần nghỉ ngơi. Em đang
làm việc quá sức, đang tự khiến mình bị mệt
mỏi. Chúng ta cứ làm việc chuyên cần là đủ,
mọi sự khác Chúa sẽ lo. Chúng ta sẽ tạo một
doanh nghiệp nho nhỏ và phát đạt nhưng
đừng vì thế mà em tự giết chết em.”
Chỗ khác, ông viết: “Này em yêu dấu
nhất đời anh, anh nhắc lại, em đừng có âu lo
quá đáng. Có Chúa giúp, rồi ta sẽ tạo được
một doanh nghiệp nho nhỏ thật tốt.”
“Trong khi chờ niềm vui được gặp lại
em, anh ôm hôn em với tất cả lòng anh. Anh
mong rằng cả Marie và Pauline đều thật
mạnh giỏi.”
14
“Chồng em và là người bạn chân tình
yêu em mãi mãi”, vv..
Theo một nghĩa nào đó, chàng siêu
thoát hơn nàng. Zélie là một phụ nữ hết sức
năng động, có bao nhiêu năng lực đều tập
trung hết vào những việc đang làm. Bà vừa
điều hành một doanh nghiệp vừa gầy dựng
một gia đình lớn. Mẹ chồng qua đời, bà đưa
bố chồng về nhà chăm sóc. Bù bận rộn, bà
luôn trung thành với việc cầu nguyện và dự
lễ mỗi ngày cũng như việc giúp con cái cầu
nguyện. Những thư từ bà để lại cho thấy bà
quan tâm tới mọi thực tế của cuộc sống và
của thế giới quanh bà, đồng thời làm cho thế
giới ấy thấm đầy tinh thần đức tin. Đọc lại
những lá thư bà viết cho người chị ở Le
Mans, hoặc cho Isidore ở Paris, hoặc cho hai
cô con gái lớn đi học xa nhà, ta sẽ thấy. Hiện
chúng ta còn giữ được của bà hơn 200 lá thư.
Hạnh phúc trong Hôn nhân
15
Những thư ấy kể lại đủ chuyện ngớ
ngẩn của mấy đứa con bà. Chẳng hạn,
“Pauline nó bảo Marie rằng bõ đỡ đầu của
em đẹp trai hơn bõ của chị, vì bõ của em có
tóc, bõ của chị sói nhẵn.” Hoặc trong một
thư kể về Têrêxa: “Nó tíu tít nói đớt từ sáng
tới chiều. Nó hát cho cả nhà nghe những bài
hát nhỏ, nhưng phải quen lắm mới hiểu nó
muốn nói gì” “Nó đọc kinh như một thiên
thần”. Thư từ của bà kể đủ những chuyện vặt
hằng ngày, đọc vào ta có ngay cái ấn tượng
bà là một người mẹ hạnh phúc trong cuộc
sống hôn nhân. Các thư của bà cũng nhắc
nhiều đến những chuyện đau ốm của đám
trẻ, hầu hết là những bệnh thông thường của
trẻ con. Ta có thể đọc thấy ở đó là bà rất lo
lắng về những chuyện ấy. Bà có một phán
đoán lạ thường và khách quan về con cái:
“Têrêxa là đứa sáng dạ nhất mà cũng lì lợm
nhất, nhưng má nghĩ rồi nó sẽ tốt. Nó có
thiện chí, và không muốn làm buồn lòng ai.
16
Céline thì vui vẻ hơn nhiều, vâng lời và tử tế
hơn nhiều.”
Qua các thư của bà Zélie ta biết được
một tiểu tiết trong cuộc chiến Pháp-Phổ.
Năm 1870 quân Phổ xâm chiếm nước Pháp.
Họ trú quân trong nhà dân ở Alençon. Đó
quả là một sự sỉ nhục khủng khiếp đối với
con cháu của những người lính Napoléon.
Trong một lá thư, bà Zélie viết: "Bọn Phổ
phá hết trật tự của nhà tôi chỉ trong một nháy
mắt. Cả thị trấn thành tiêu điều. Ngoại trừ
nhà chúng tôi, còn thì ai cũng khóc.” Vào lúc
đó đã xảy ra một chuyện làm lộ rõ cá tính
của ông Louis. Có chín người lính trú trong
nhà. Một trong bọn họ ăn trộm của ông một
cái đồng hồ. Ông Louis bắt gặp, nắm ngay
gáy tống cổ ra ngoài. Hôm sau ông viết đơn
khiếu nại đem nộp. Thế nhưng rồi hôm sau
nữa ông nghe nói có lệnh bắn bỏ những kẻ
cướp bóc và rằng có một người lính Đức sắp
bị đem bắn. Lập tức, ông Louis quay tìm
viên chỉ huy xin rút lại đơn khiếu nại, và xin
17
đừng bắn kẻ đã ăn cắp chiếc đồng hồ. Dường
như sự kiện đủ cho thấy tính tình ông vốn
bén nhạy, có thể bùng phát thành nóng giận,
có thể do những thôi thúc bất ngờ mà đi tới
chỗ hành động quyết liệt. Về sau các con
ông không hiểu nhờ đâu ông đã học được
cách kiềm chế tính nóng nảy hấp tấp. Cái
tính chất hiếu hòa điềm đạm mà về sau ta
thấy được nơi ông hẳn ông đã phải đấu tranh
biết bao trong tâm hồn mình mới có được.
Những thánh giá trong gia đình
Cái tai họa do sự chiếm đóng của quân
Đức không phải là nỗi buồn duy nhất trong
cuộc sống gia đình. Ngay trong nội bộ gia
đình, thánh giá đã đổ xuống dồn dập. Năm
1865 thân phụ ông Louis qua đời. Bà Zélie
viết: “Tôi chẳng bao giờ tin được làm sao cái
chết của cụ lại ảnh hưởng trên tôi đến thế.
Tôi tiều tụy đi”. Rồi đến lượt cha ruột của bà
chết năm 1868. Vào thời điểm ấy bà viết:
“Tôi hy vọng, đúng hơn, tôi tin chắc rằng ba
18
tôi đã được Thiên Chúa nhân lành đón nhận.
Tôi chỉ mong sao khi chết tôi cũng được như
ba. Tôi đã xin nhiều lễ cầu nguyện cho ba và
chúng tôi sẽ xin thêm nhiều nữa. Mộ của ba
nằm gần mộ hai bé Joseph của tôi”. Câu chót
trong đoạn thư nói về hai đứa con trai của
bà, Joseph, chết năm 1867 khi mới được một
tuổi, và Joseph-Jean-Baptiste, cũng mới một
tuổi đã chết, năm 1868. Năm 1870 cô con
gái nhỏ của bà là Hélène, chết khi mới được
năm tuổi rưỡi. Cũng năm 1870 bà còn mất
bé Mélanie mới chưa được hai tháng. Trong
năm năm, bà Zélie phải ra nghĩa trang sáu
lần. Qua những biến cố đau thương dồn dập
ấy, ta thấy bà đầy lòng yêu thương, hết sức
đau khổ mà cũng thấm nhuần tinh thần dũng
cảm của đức tin.
Nói về cái chết của các con, bà viết:
“Khi tôi vuốt mắt những đứa con yêu dấu
của tôi và lo chôn cất chúng, quả tình tôi bấn
loạn trong đau thương, nhưng tạ ơn Thiên
Chúa, tôi vẫn luôn sẵn sàng đón nhận ý
19
Ngài. Tôi không hối tiếc gì về những đau
đớn và hy sinh tôi đã phải chịu vì chúng.”
Thậm chí bà còn viết bà “không hiểu nổi tại
sao có những người lại bảo nếu tôi không
phải chịu tất cả những nông nỗi ấy thì tốt
hơn”. Và bà thêm: “Bây giờ các cháu đang
vui hưởng thiên đàng. Hơn nữa, tôi đâu có
mất chúng mãi. Cuộc đời vắn vỏi, và chẳng
bao lâu tôi sẽ gặp lại những đứa con bé bỏng
của tôi trên thiên đàng."
Têrêxa chào đời
Khi Têrêxa chào đời năm 1873, bà
Zélie biết đó là đứa con cuối cùng bà có thể
có được. Vừa sinh ra, Têrêxa đã hết sức ốm
yếu. Sau bao lần quá quen với chết chóc, bà
Zélie cứ sợ rằng Têrêxa khó sống nổi. Sau ba
đứa con đầu, bà Zélie không còn thể cho con
bú và phải tìm vú em cho con bú. Bà mô tả
cơn bệnh của Têrêxa như sau:
“Nếu không quá khuya thì đêm ấy tôi
đã ra đi tìm một người vú em. Đêm ấy mới
20
dài làm sao! Têrêxa chẳng có được một chút
dưỡng chất tối thiểu nào, và, suốt đêm ấy, tất
cả những dấu hiệu đã từng đi trước những
cái chết mấy thiên thần nhỏ kia của tôi đều
lộ rõ. Tôi hết sức buồn vì chẳng giúp được
chút gì cho đứa con út này trong cái phận
yếu ớt mỏng manh của nó”.
Vừa hừng sáng, bà vội đi ngay, và trên
đường bà gặp hai người đàn ông trông có vẻ
thô bạo tiến về phía bà ngay ở một khúc
đường vắng. Bà tự nhủ: “Mình đã mang sẵn
nỗi phiền muộn đến chết trong lòng thế này,
thì họ có giết mình đi nữa cũng chẳng sao!”
Cuối cùng, bà đã tới được làng Semallè và
nhờ chị Rose Taillè đến giúp Têrêxa. Rose
đã từng lo bú mớm cho mấy đứa nhỏ khác
của nhà Martin. Bà nhờ chị Rose đến
Alençon và ở lại đó giúp. Thế nhưng chị
Rose cũng đang phải nuôi con thơ, không thể
đi được. Cả hai người mẹ đều phải lo cho
những đứa bé họ đã sinh ra trên đời. sau
cùng, chị Rose đồng ý đi ẵm Têrêxa về
21
Semallè chăm sóc. Về đến Alençon, chị
Rose nhìn thấy Têrêxa thì thốt lên: "Muộn
quá rồi!" Bà Zélie chạy vội lên lầu đến trước
tượng Thánh Giuse xin Thánh Cả thương
giúp đứa bé. Khi bà xuống lại thì Têrêxa
đang bú say sưa.
Ở trang trại, Têrêxa lớn lên mạnh khỏe.
Bà Zélie được yên lòng yên trí, “biết rằng
đứa bé của tôi đang yên lành và được chăm
sóc kỹ lưỡng”. Ta thấy là bà Zélie không thể
cho Têrêxa bú. Hồi còn con gái, bà bị té gục
xuống bàn và bị chấn thương ngực. Tới năm
1865 trong một lá thư gửi cho em trai, bà
cho biết là thấy đau. Thế nhưng bà đã chẳng
chữa chạy gì, có lẽ vì hy vọng rồi sớm muộn
cũng khỏi. Về sau nó biến chứng thành bướu
trong ngực, đau đớn, không thể cho con bú
được. Cuối cùng, đau quá, bà mới hiểu ra
mình bị ung thư thì đã quá muộn. Các bác sĩ
bảo đã đến giai đoạn chót. Bà Zélie đưa
Marie, Pauline và Léonie đi Lộ Đức hành
hương, cuộc hành trình chỉ gây thêm mỏi
22
mệt và đau đớn. Mấy cô gái thất vọng thấy
Đức Mẹ không chịu chữa cho mẹ họ, thế
nhưng bà Zélie bảo: “Đức Mẹ đã bảo mẹ
như bảo Bernadette: ‘Ta sẽ làm cho con
được hạnh phúc, chẳng phải ở đời này nhưng
ở đời sau!” Nếu nhớ rằng lúc ấy Bernadette
còn sống, ta sẽ thấy quả quyết này đáng cảm
kích biết bao!
Cái chết của bà Zélie
Trong thủ bản, chị thánh Têrêxa viết
một trang thật đẹp và tinh tế mô tả thân mẫu
của chị trên giường chết: “Những nghi thức
Xức Dầu Cuối Cùng in sâu vào trí tưởng
tượng của con. Con còn nhớ rõ chỗ con quỳ
bên cạnh Céline. Cả năm chị em chúng con
đều có mặt, theo thứ tự lớn nhỏ, cả bố dấu
yêu khốn khổ cũng quỳ đó, nức nở”. Trong
bút ký viết về thân phụ, chị Céline ghi nhận
chị chỉ thấy bố khóc hai lần, lần ấy là một.
Bà Zélie qua đời ngày 28 tháng Tám, 1877,
23
mới 46 tuổi, sau 19 năm sống đời hôn nhân.
Con gái út của bà, Têrêxa, mới hơn bốn tuổi.
Ông Louis hết sức lo lắng cho đám con
gái mồ côi mẹ. Để các con có được ảnh
hưởng tốt của một người phụ nữ, ông dời
nhà về Lisieux, nơi ông Isidore cùng với vợ
là Céline sống với hai người con gái là
Jeanne và Marie. Trong khi lưu lại ít lâu ở
Alençon để thanh lý ít đồ đạc, ông viết cho
các con, đã dọn về Lisieux trước: "Các con
nên biết ba phải mất mát nhiều khi ra đi,
nhưng ba phải đi vì các con… Cậu mợ bảo
làm gì, các con hãy làm theo. Hãy học nơi
cậu mợ!" Vì con cái, ông phải rời bỏ
Alençon, nơi ông có nhiều bạn hữu, nơi mẹ
ông vẫn còn sống ở đó, và là nơi có mộ của
người vợ thân yêu. Ra đi, ông phải bỏ lại
biết bao bạn bè thân thuộc. Ông vốn là một
người ưa giao thiệp, lại là thành viên của các
câu lạc bộ xã hội Công Giáo và các câu lạc
bộ dân ca và dân vũ. Ông thích ăn mặc theo
phong tục Brittany, hát những bài ca và múa
24
những điệu vũ miền này. Ông thích hát với
cái giọng trầm ấm của ông. Thật nát lòng khi
phải rời Alençon, nhưng ông đã nhất quyết
ra đi chỉ vì lợi ích của con cai. Góa vợ năm
54 tuổi, ông mua nhà đất và đầu tư vào một
vài việc an toàn rồi về Lisieux dưỡng già.
Tại Lisieux ông có nhiều giờ rảnh rỗi.
Ông đọc nhiều sách: lịch sử, thơ ca và sách
thiêng liêng. Ông thả bộ trên đồng quê và
đưa con cái đi câu. Chị thánh Têrêxa có mô
tả những buổi dã ngoại này, khi chị được
ngồi nghe bản nhạc của những người lính
diễu hành ở đàng xa. Ông cũng bỏ ít giờ
chăm sóc khu vườn, tiếp tục làm đồng hồ
như một cái thú riêng, vui vẻ ngồi chế tạo đồ
dùng cho con cái, và tìm sinh lợi trong vài
việc làm ăn nho nhỏ. Trên hết, ông cầu
nguyện nhiều, viếng các nhà thờ và nhà
nguyện ở Lisieux. Đôi khi ông đưa cả nhà đi
nghỉ mát ở bãi biển Deauville và Trouville,
cũng có lần ông đưa Têrêxa và Céline đi dự
Hội Chợ Đấu Xảo ở Le Havre.
25
Pauline và Marie vào Dòng Cát
Minh
Việc Pauline và Marie nhập Dòng Cát
Minh là một hy sinh lớn lao. Ông vẫn canh
cánh nỗi âu lo của một người cha, phải nuôi
dạy năm cô con gái thiếu vắng sự giúp đỡ
của một người mẹ. Sức khỏe của “hữ hòang
bé nhỏ”, Têrêxa, cũng chẳng phải là chuyện
nhỏ. Năm 1883, khi Têrêxa được chữa lành
cách nhiệm lạ, ông viết cho một người bạn ở
Brittany: “Têrêxa, nữ hòang bé bỏng của tôi
– tôi vẫn quen gọi cháu bằng tên gọi ấy – là
một thiếu nữ dễ mến. Tôi bảo đảm với anh
như thế. Bây giờ cháu đã hoàn toàn bình
phục rồi. Bao nhiêu kinh nguyện đã được gió
bão cuốn lên trời, và Thiên Chúa, hết sức tốt
lành, đã thương nhượng bộ."
Chúng ta có được vài lá thư của ông
Louis gửi cho con cái. Như bao nhiêu đàn
ông khác, ông ít khi chịu viết thư. Vợ ông đã
viết thư thay ông. Chúng ta còn giữ được
26
nhiều thư của bà nhưng của ông thì chẳng
mấy lá. Trong các thư của ông Louis, ta tìm
thấy một số kiểu nói ẩn chứa tình âu yếm.
“May mắn là ba đã xong mọi việc và đang
háo hức về với các con. Bây giờ tạm chào
đã. Nhắn hộ ông bà Guérin ngàn lời chúc tốt
lành và gửi đến năm đứa chúng con một ôm
hôn rõ chặt đấy.”
Có lần ông theo một linh mục đi thăm
Constantinople, Athens và Rôma, và trên
chuyến đi này ông viết thư về nhà. Ông kết
thúc các thư với những kiểu nói: "Hôn các
con của ba một ngàn cái. Người cha lúc nào
cũng thương các con", hoặc “Người luôn
thương các con và luôn mang các con trong
tim”, hoặc "Ba ôm hôn các con với tất cả cõi
lòng." Ông còn có chuyến hành hương thời
danh sang Rôma với Têrêxa và một vài cuộc
hành hương ngắn ngày khác, nhưng hầu hết
thời giờ ông sống ở nhà với con cái.
27
Năm 1887, ông Louis bị đột quỵ nhẹ
trên đường đi lễ. Chị Céline cho rằng nguyên
nhân là do ông bị con gì chích sau tai trong
một lần đi câu. Ông bị sưng nhưng chẳng
quan tâm cho đến khi nó sưng tấy và đau
nhiều. Mãi lúc ấy ông mới đi bác sĩ. Céline
nhớ đã thấy ông bước lên bước xuống trong
vườn, đưa hai tay lên đầu gọi con cái: “Cầu
nguyện cho ba, cầu nguyện cho ba!” Ít lâu
sau lần đột quỵ, ông đang ngồi trong vườn,
sau khi đi đọc kinh chiều ở Nhà thờ Chánh
Tòa về. Têrêxa đi ra. Thấy têrêxa, ông đứng
dậy. Hai cha con đi lên đi xuống rồi ông ôm
lấy Têrêxa, siết chặt con vào lòng. Thấy
Têrêxa khóc, ông hỏi: “Cưng có chuyện gì
không ổn vậy?” Lúc ấy Têrêxa mới xin ông
cho phép nhập Dòng Cát Minh Lisieux. Ông
bảo con gái rằng cô còn bé quá, mới 14 tuổi!
Têrêxa thuyết phục ông và ông bảo nếu quả
đó là điều Chúa muốn thì ông sẽ cho phép và
sẽ chúc lành. Ông ngắt một bông trắng nhỏ
28
trên tường trao cho Têrêxa. Bông hoa ấy sẽ
thành biểu tượng cho cuộc đời của chị.
. . . . Và rồi Têrêxa
Ông Louis đã thành chỗ dựa, giúp
Têrêxa đạt được sự đồng thuận của người
cậu là ông Isidore, của Đức Giám Mục và cả
của Đức Giáo Hoàng. Từ Rôma về, sau khi
nhận được phép lành của Đức Giáo Hoàng
Lêô XIII trong một nghi thức đầy cảm động,
ông bắt đầu chuẩn bị cho Têrêxa lên đường.
Chị rời biệt thự Les Buissonnets và cha già
ngày 9 tháng Tư, 1888. Đêm ấy, một người
bạn nói với ông Louis: “Anh còn ngon hơn
cả Abraham nữa đấy!” Ông đáp: “Vâng, nếu
tôi ở vào trường hợp Abraham, tôi cũng hiến
dâng như vậy, nhưng đồng thời tôi phải cầu
nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện. Tôi đã
đưa con dao lên thật là khủng khiếp, chậm
một cách khủng khiếp và xin Chúa sớm gởi
cho tôi cả thiên thần và con cừu mắc sừng
trong bụi gai.” Hôm sau ông viết cho một
29
người bạn là ông Breton: “Hôm qua, Têrêxa,
nữ hòang bé bỏng của tôi, đã vào Dòng Cát
Minh. Chỉ có Thiên Chúa mới đòi phải hy
sinh đến thế nhưng Ngài cũng đã giúp tôi hết
sức để dù dàn dụa nước mắt lòng tôi vẫn tràn
ngập niềm vui. (Ký tên) Một người rất yêu
thương anh, Louis Martin.”
Ông Louis lâm bệnh lần cuối
Từ sau ngày Têrêxa vào Dòng, ông bắt
đầu bị đột quỵ nhiều hơn. Ông bắt đầu mất
trí. Ông ra khỏi nhà, đi lang thang và lạc
mất, ba bốn ngày sau người ta mới tìm thấy
ở Le Havre hoặc một chỗ nào khác. Ông
không còn thể nào đến Dòng Cát Minh để
thăm Marie, Pauline và Têrêxa. Vì ông
không thể vào thăm các con, Pauline đã xin
một vị linh mục có đang công việc phải giúp
nhà Dòng, chụp cho Têrêxa hai tấm ảnh mặc
tu phục Dòng Cát Minh. Đó là hai tấm ảnh
thật đẹp của cô tập sinh Têrêxa đứng dưới
chân thập giá. Một trong hai tấm, Têrêxa
30
mặc áo choàng trắng. Sau lưng mấy tấm ảnh
này, Pauline viết: “Xin đừng để ai thấy kẻo
dân chúng lại xì xèo nữ tu mà còn chụp
hình!” Vì việc ông Louis đi lạc ngày càng
thường xảy ra, Léonie và Céline không còn
thể nào chăm sóc ông. Tháng Hai 1889, họ
phải đưa ông gửi vào dưỡng trí viện ở Caen.
Đây cũng là năm mà ông Van Gogh3 vào nhà
thương điên ở San Remy. Những họa phẩm
của Van Gogh vào thời này giúp chúng ta
cảm nhận phần nào khung cảnh thiên nhiên
của dưỡng đường nơi ông Louis đã ở. Khi
ông tới đó, người y tá bảo ông: “Ở đây ông
có thể làm một việc tông đồ tuyệt vời.” Ông
đáp: “Tôi biết, nhưng tôi thích làm việc ấy ở
bất cứ đâu khác. Vâng, cả đời tôi lúc nào tôi
cũng điều khiển và ra lệnh, cho nên có lẽ
Thiên Chúa đang thanh tẩy tôi – bắt tôi tập
tuân lệnh để tôi bớt tự hào và hống hách."
Suốt ba năm, mỗi tuần Léonie và Céline đáp
xe lửa đi Caen để thăm thân phụ một lần.
3
Vincent Willem van Gogh danh họa người Hòa Lan (1853-1890) (ND)
31
Sau ba năm, ông bị đột quỵ trầm trọng và bị
bại liệt. Vì ông không còn thể đi lạc nữa, họ
đã có thể đưa ông về nhà ở Lisieux. Thoạt
đầu họ ở chung với gia đình Guérins. Về sau
họ thuê một ngôi nhà gần đó. Thỉnh thoảng,
họ về nghỉ tại “La Musse”, ngôi nhà đẹp ở
miền quê mà gia đình Guérins được thừa kế.
Vào những lúc tỉnh táo, ông Louis xin con
cái cầu nguyện cho ông. Suốt thời gian chịu
đau khổ, ông luôn kiên nhẫn, đặt hết tin cậy
phó thác nơi Thiên Chúa. Ngày 29 tháng
Bảy, 1894, sau một cơn nhồi máu cơ tim,
ông chết bình an tại biệt thự La Musse. Ông
được an táng tại Lisieux.
Đức tin và sự tín thác
Chúng ta đã thấy câu chuyện cuộc đời
và hoàn cảnh sống của ông bà Louis và Zélie
Martin. Chúng ta đã thấy những khổ đau, vui
mừng cũng như đức tin và niềm tín thác của
họ nơi Thiên Chúa. Có lần bà Zélie viết:
"Tôi vẫn luôn đặt hết sự tín thác nơi Thiên
32
Chúa tốt lành và phó hết mọi công việc của
tôi cho tay Ngài chăm sóc, cho nên khi tôi
nghĩ đến những gì Thiên Chúa tốt lành ấy đã
làm cho tôi và cho chồng tôi, tôi không thể
nghi ngờ chút nào rằng Sự Quan Phòng của
Ngài luôn đoái nhìn các con cái Ngài với
một sự chăm sóc đặc biệt.” Mặc dù ông
Louis có tinh thần chiêm niệm hơn, suy tư
hơn, nên thơ hơn và có chiều sâu hơn bà
Zélie, lá thư này của bà dường như có thể
tóm tắt cái cốt lõi nơi đời sống tâm linh của
cả hai người. Đôi bạn chân phước này có
nhiều điểm rất gần với anh chị em ngày nay.
Con đường tâm linh của họ đặt nền móng
trên thánh ý và tinh yêu của Thiên Chúa mà
họ vẫn khám phá ra trong cuộc sống hằng
ngày. Họ tìm gặp sự thánh thiện ngay giữa
cuộc đời trần thế. Liệu anh chị em có thể dấn
thân vào trần thế hơn kẻ điều hành một
doanh nghiệp đăng ten và một tiệm kim
hoàn? Nơi tình yêu họ dành cho nhau, nơi
nâng cao cuộc sống một gia đình lớn với tất
33
cả những âu lo và trách nhiệm đi kèm, và
trong tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, lộ rõ
khi họ được tôi luyện trong lò đau khổ, trong
mối bận tâm lo cho người nghèo – trong tất
cả những điều ấy họ đáng là mẫu mực cho
bất cứ người nam và người nữ nào đang sống
đời hôn nhân hôm nay. Họ cũng đang nói
với chúng ta, một cách vừa cương nghị vừa
âu yếm, về một số trong những vấn đề đáng
buồn nhất mà cũng nổi cộm nhất hôm nay:
cái bi kịch của một người mẹ trẻ chết vì ung
thư và để lại một gia đình lớn; cảnh não lòng
khi một người thân phải vào dưỡng trí viện;
rồi việc chăm sóc cho những người thân tật
bệnh hay già cả. Câu chuyện của đôi bạn
Louis và Zélie Martin đang nói nhiều với
chúng ta ngày nay vì họ đang dạy chúng ta
biết phải tìm thấy tình yêu Thiên Chúa cách
nào và ở đâu, và làm sao để đáp lại tình yêu
ấy bằng tình yêu của riêng ta.
Thật thích hợp khi hài cốt của ông bà
Louis và Zélie được cải táng và chôn cạnh
34
nhau gần hậu tẩm Vương cung Thánh đường
Lisieux, mang tên người con của họ là chị
thánh Têrêxa. Trên mộ hai vị, ta thấy ghi
những lời của chị thánh: “Thiên Chúa đã cho
tôi một người mẹ và một người cha xứng với
thiên đàng hơn là với trần gian.” Cũng thật
thích hợp khi, vào năm 1956, trong dịp mừng
Kim khánh khấn dòng của nữ tu Céline, Đức
Giám Mục chủ lễ thông báo: “Tôi có một tin
mừng cho Chị. Tôi xin thông báo là hồ sơ
phong chân phước cho song thân của Chị đã
được tiến hành”.
James Geoghegan, O.C.D.
35
Ông bà Louis và Zélie Martin sẽ
được phong chân phước tại Lisieux ngày
19 tháng Mười, 2008
38
Cậu bé người Ý, Pietro, được ơn chữa
lành nhờ lời chuyển cầu của ông bà Martin
nay được 6 tuổi cũng đã có mặt trong nghi
thức hôm ấy.
39
Maria Corsini, đã được Đức Gioan Phaolô
II phong chân phước ngày 21 tháng Mười
năm 2001, cũng vào dịp ngày thế giới
truyền giáo.
41
được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công
bố là Tiến sĩ Hội Thánh vì “khoa học tình
yêu”của Chị.
Anita S. Bourdin
42