You are on page 1of 42

James Geoghegan, O.C.D.

ĐÔI BẠN THÁNH


LOUIS VÀ ZÉLIE
MARTIN
Song thân thánh nữ Têrêxa thành Lisieux

Lm Trăng Thập Tự chuyển dịch

1
TIỂU SỬ
ÔNG BÀ LOUIS VÀ ZÉLIE
MARTIN
Song thân thánh nữ Têrêxa thành Lisieux

Cùng anh chị em Cát Minh giữa đời,


Tôi đã phác thảo mấy đề tài liên quan
đến chị thánh Têrêxa để giúp anh chị em suy
nghĩ về nếp sống giữa đời theo linh hạnh Cát
Minh. Thế nhưng cha Bonaventura, chủ
nhiệm khóa hội thảo, lại xin tôi nói về song
thân chị thánh Têrêxa. Quả là một ý tưởng
hết sức khôn ngoan, bởi lẽ như thế anh chị
em có được mẫu gương sống động của hai
con người vừa gắn liền với Dòng Cát Minh
vừa có cuộc sống hoàn toàn trần thế giống
hệt anh chị em.
Đôi khi chúng ta dễ hình dung người
cha của chị thánh Têrêxa như một kẻ mơ
mộng, một ông già chẳng có việc gì làm
2
ngoài chuyện đọc sách, câu cá và viếng các
nhà thờ, nhà nguyện. Chúng ta quên rằng
ông từng là một người kinh doanh thành
công và mãi gần sáu mươi tuổi mới về hưu.
Khi chị thánh Têrêxa vào Dòng, ông đã 65
tuổi.
Chúng ta cũng thường nghĩ về người
mẹ của chị thánh tương tự như thế. Chúng ta
chỉ biết về bà qua Chuyện Một Tâm Hồn với
vài kỷ niệm chị thánh có được hồi thơ ấu.
Với bài này, tôi mong nêu lên được lai
lịch của hai vị và phát hiện những đìều ta có
thể biết được về họ, với tư cách riêng của họ
chứ không chỉ như song thân của chị thánh
Têrêxa.
Một gốc gác nhà binh
Một trong những khía cạnh quan trọng
nhất nơi lai lịch của ông Louis và bà Zélie
Martin là cả hai đều xuất thân từ gia đình
binh sĩ. Nội tổ của ông Louis, ông Jean
Nicholas Boureau, đã từng theo đại quân của
3
Napoléon tham chiến tại Mascơva; một năm
sau ông đã bị bắt trong chiến dịch Silesian.
Cậu con trai mười hai tuổi rưỡi của ông cũng
bị ở tù với ông. Cậu thiếu niên này, chết
trong tù, là cậu của oâng Louis. Cả hai gia
đình đều chia sẻ cả những vinh quang và
những thất bại của Napoléon. Họ gợi lại
những ngày khải hoàn và giúp lưu truyền
huyền thoại về những ngày huy hoàng rực
rỡ. Chả thế mà sau này ông Louis vẫn thích
gọi cô gái út của ông là “con bé mồ côi
Berezina”1 và “Hoàng hậu xứ Pháp và xứ
Navarre”2.
Cái truyền thống nhà binh ấy kéo theo
một truyền thống tiêu biểu của người
Normand là trung thành với đức tin. Một câu
chuyện còn truyền tụng trong gia đình kể về
một người cậu của bà Zélie, cha William
Marin-Guérin, một linh mục thời Cách mạng
1
Beezina là nơi Napoléon thất trận cuối năm 1812 (ND)
2
Tên gọi của vương quốc dòng họ Bourbon từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế
kỷ 18 (ND)
4
Pháp. Đảng Jacobins lùng giết ngài và gia
đình giúp ngài ẩn trốn. Một hôm ngài đang
mang Minh Thánh Chúa thì mấy tay ác ôn
bắt gặp ngài. Ngài rút Minh Thánh Chúa từ
túi áo ra đặt lên một tảng đá và nói: “Chúa
Giêsu ơi, bây giờ thì xin Chúa tự liệu lấy, và
để cho con lo phần con”. Rồi ngài xắn tay
lên hạ gục bọn côn đồ, xô chúng xuống một
cái ao. Cái di sản của gia đình Martin là thế:
Trung thành với quê hương và với đức tin:
Một đức tin mạnh mẽ, giản dị nhưng chẳng
khác nào vàng đã thử lửa.
Năm 1823, thân phụ ông Louis mang
quân hàm đại úy, phục vụ trong Sư đoàn 19
bộ binh, đóng ở Bordeaux. Do ở Tây Ban
Nha bất ổn, ông được phái xuống đó làm
chiến dịch, để lại người vợ ở nhà đang mang
thai. Trong lúc ông vắng nhà, cậu bé Louis
đã chào đời. Rời Tây Ban Nha về, ông lại
phải thuyên chuyển về Avignon rồi
Strasbourg, đem cả gia đình đi theo. Cậu bé
sống ở đó tới khoảng bảy tuổi. Một trong
5
những điều khiến cậu ngây ngất là chiếc
đồng hồ thời danh của Nhà thờ Chánh tòa
trong thị trấn. Chiếc đồng hồ này là một
trong những kiệt tác của ngành thủ công
châu Âu. Nhờ theo đoàn quân di chuyển đó
đây, Louis có năng khiếu thám hiểm và một
nhãn quan rộng rãi. Được nhìn thấy thiên
nhiên hùng vĩ khắp nơi và được lớn lên trong
thời Lãng mạn Pháp, cậu còn phát triển
nhiều về lòng yêu thiên nhiên.
Ơn gọi
Thế rồi thân phụ của Louis giải ngũ,
quay về vùng Normandie, định cư tại thị trấn
Alençon. Ở đó, Louis đi học cho đến năm
hai mươi tuổi thì quyết theo nghề làm đông
hồ. Anh quay lại Strasbourg để học nghề.
Trong thời gian học ở đây, anh đã hành
hương kính viếng Đan viện Thánh Bênađô.
Có một tình tiết lý thú là anh đã hái một
bông hoa trắng đem về làm kỷ niệm. Sau khi
Louis qua đời, người ta còn tìm thấy bông
6
hoa này giữa đám đồ dùng của anh. Louis
học nghề đồng hồ rất chăm chỉ. Cũng trong
thời gian này, anh bắt đầu cảm thấy như
mình được gọi làm linh mục. Một lần nữa,
anh lên đường, leo núi Alpes hành hương
Đan viện Thánh Bênađô. Anh tìm tới đó vì
anh vốn rất có đức mến, rất yêu thích thiên
nhiên và là một tâm hồn thực sự chiêm niệm.
Đức mến, thiên nhiên và chiêm niệm tóm kết
ý nghĩa cảnh nhà tĩnh tâm của những đan sĩ
dòng Thánh Âu Tinh ở đó. Năm ấy anh được
23 tuổi.
Đối với chúng ta, quả là lãng mạn, suýt
nữa anh đã lên đường để sống tại vùng Hồ
Tahoe. Vùng này của núi Alpes cao cách mặt
biển 1800m, mùa đông nhiệt độ trung bình
xuống đến 20 độ dưới không. Nhiều đan sĩ
chỉ sống ở đó được vài năm rồi phải xuống
những vùng ấm hơn để tránh đau ốm. Trước
kia, thi sĩ Dante cũng từng xin vào đan viện
này, bây giờ đến lượt Louis. Thế nhưng
Louis chưa biết tiếng Latin. Đức viện phụ
7
bảo anh: “Xin lỗi, bạn phải về học tiếng
Latin trước đã!”
Louis thất vọng, quay về Alençon học
tiếng Latinh. Anh là một người tỉ mỉ, thu chi
cái gì đều ghi vào một quyển sổ. Trong đó ta
thấy ghi tiền mua sách, tiền học phí hằng
tuần. Rồi thình lình ta đọc thấy: “Tiền bán
quyển từ điển Pháp-Latin của tôi”. Thế là
anh đã bỏ cuộc. Dù lý do nào đi nữa, anh đã
thấy mình không có ơn gọi làm linh mục.
Thợ đồng hồ tại Alençon
Anh đã ổn định cuộc sống trong sự an
phận với đời độc thân và tiếp tục việc học
nghề làm đồng hồ. Anh về Paris hai hoặc ba
năm hơn để nâng cao tay nghề.
Nếu đã có lúc ta hình dung Louis về
già như một kẻ lười lĩnh, thích nhàn nhã, thì
ta nên nhớ lại rằng ông đã miệt mài suốt năm
năm trời để trau giồi một công việc rất khó
khăn đòi phải tập trung cao độ và thao tác tỉ
mỉ. Tại Paris ông đã trở thành một thợ chính
8
trong nghề làm đồng hồ. Ông về lại Alençon,
mua một ngôi nhà, lập một tiệm làm đồng hồ
và sửa đồng hồ. Công việc thành công nên
về sau ông mở thêm một tiệm kim hoàn. Ông
thích đọc sách, bơi lội, cầu nguyện, chơi bi-
da, câu cá và thả bộ trên đồng quê. Ông mua
một thửa đất có ngôi nhà nhỏ để có thể làm
việc và giải trí dễ hơn. Tại đây ông tự tạo
cho mình không gian riêng cho đời độc thân,
để sống một cuộc sống lý tưởng, tĩnh lặng và
an bình.
Thế nhưng mẹ ông lại có ý tưởng khác.
Trong một lớp học làm đăng ten, bà Martin
gặp một thiếu nữ tên là Zélie Guérin. Bà đã
sắp xếp cho con trai bà gặp Zélie. Họ gặp
nhau và rồi đã làm lễ cưới vào nửa đêm 13
tháng Bảy 1858, tại Nhà thờ Đức Mẹ Ban
Ơn.
Zélie
Thân phụ cô Zélie sau khi phục vụ mấy
chiến dịch trong quân đội đã giải ngũ quay
9
về Normandie. Ông làm thợ thủ công đóng
đồ gỗ mỹ thuật, còn vợ ông mở một quán cà
phê nhỏ. Chẳng may quán cà phê thất bại.
Họ đưa gia đình về Alençon để hai cô con
gái có thể theo học trường Công Giáo do các
nữ tu dòng Thánh Tâm quản trị.
Zélie khá nổi bật. Thi làm luận tiếng
Pháp mười một lần, cô chiếm giải nhất đến
mười lần. Cô có một đức tin sâu xa. Hình
như cô có một tuổi thơ không mấy hạnh
phúc và khó hòa hợp với mẹ. Về sau, trong
thư viết cho người em trai là Isidore, Zélie
có nói: “mẹ thật khắt khe với chị nhưng lại
cưng chiều em”. Cô hay tranh cãi với em
nhưng lại thương em thật sâu xa. Về sau ta
thấy cô cố gắng chăm sóc em tận tình như
một người mẹ. Khi em lên Paris học, Zélie
đã bắt em hứa mỗi ngày phải đến nhà thờ
Đức Bà Chiến Thắng đọc một kinh Kính
Mừng. Cô bảo em: “Đức Mẹ đã chẳng bao
giờ để chị phải thất vọng. Chẳng bao giờ
chúng ta phải trông cậy vào Ngài cách uổng
10
công”. Khi Isidore ra trường, cô bảo em rằng
cô vui mừng biết bao khi thấy em về, và mặc
dầu hai chị em vẫn tiếp tục cãi nhau, cô rất
thích được có em ở bên cạnh.
Cô thợ làm đăng ten
Alençon là một trung tâm làm đăng ten
ở Pháp. Zélie đã thành một chuyên gia xuất
sắc trong công việc đòi phải chính xác tận
từng tiểu tiết này. Cô quy tụ một nhóm phụ
nữ. Cô vẽ mẫu và mua chỉ, sợi. Mỗi Thứ
Năm, chị em trong nhóm đến nhà cô, cô chia
công việc cho từng người để họ đưa về nhà
làm. Ngày Thứ Năm tiếp đó, họ đưa các mẩu
thành phẩm đến cho Zélie. Cô kết các mẩu
lại, nối những sợi bị đứt, rồi lại chia việc mới
cho họ làm trong tuần tiếp đó. Cô rất thành
công trong việc làm ăn này. Cô dùng tầng
trệt của nhà cô ở đường Sainte Blaise làm
văn phòng và phòng làm việc. Ý thức mình
không có ơn gọi đi tu, cô quyết định sẽ lập
gia đình. Chính trong bối cảnh đó, cô đã gặp
11
anh chàng độc thân Louis Martin. Khi họ lấy
nhau, nàng 27 tuổi còn chàng 35.
Có một điều lý thú là khi lấy chồng, cô
Zélie chẳng có ý tưởng gì về điều người hay
gọi là “chuyện đời”. Đến hôm cưới mới biết
những chuyện ấy, cô chạy đến với người chị
(lúc này đã là nữ tu Marie-Dosithée thuộc
Dòng Đức Mẹ Đi Viếng ở Le Mans) khóc
lóc bày tỏ nỗi lòng với chị. Trong một lá thư
về sau, Zélie viết: “Tôi không bao giờ hối
tiếc vì đã lập gia đình.” Louis là một kẻ lý
tưởng, hơn nữa còn có thể nói là một người
lãng mạn. Chàng đã thuyết phục nàng rằng
họ có thể chung sống với nhau hoàn toàn chỉ
như anh em thôi. Thế nhưng sau mười tháng,
họ hiểu rằng đó không phải thật là điều
Thiên Chúa muốn, nhất là khi Zélie rất muốn
có con cái. Thế nên qua năm sau Marie đã ra
đời, rồi những năm tiếp đó là Pauline, rồi
Léonie.

12
Công việc làm đăng ten của bà Zélie
phát triển đến nỗi ông Louis bán luôn cửa
hiệu làm đồng hồ và tiệm kim hoàn cho
người cháu để về lo điều hành công việc và
bán hàng cho vợ. Họ dời về ở tại ngôi nhà
trên đường Sainte Blaise mà bà Zélie đang
dùng làm văn phòng. Ông Louis đi khắp nơi
để nhận đơn đặt hàng cho thương hiệu Point
d'Alençon. Ông cũng vẽ mẫu cho hàng đăng
ten, như một nghệ nhân thành thạo. Ông
thường vắng nhà để lo công việc. Đọc lại các
thư của bà Zélie, ta thấy nhan nhản: "Ba
đang đi vắng". Khi chị thánh Têrêxa chào
đời ông cũng đang vắng nhà.
Cả hai vợ chồng đều làm việc cật lực
và có lương tâm. Họ rất nhạy cảm về trách
nhiệm xã hội và quan tâm đến người nghèo
cách thiết thực. Ông Louis nhấn mạnh rằng
khi thợ đăng ten làm xong phần việc của họ
thì phải trả tiền cho họ ngay, và ông quan
tâm chăm sóc họ, nhất là khi họ đau ốm.
Trong năm đầu sau ngày cưới, Zélie và
13
Louis chăm lo cho một cậu bé mất mẹ. Cậu
bé là một trong đám mười một anh chị em và
nhà Martin đón tiếp cậu như là con ruột của
họ. Bất cứ ai cần đến đều được họ giúp đỡ.
Cả hai đều làm việc rất chuyên cần, chuyên
cần đến độ Louis phải lo ngại cho sức khỏe
của Zélie. Từ Paris, ông viết cho bà: “Này,
anh đã từng bảo em cần nghỉ ngơi. Em đang
làm việc quá sức, đang tự khiến mình bị mệt
mỏi. Chúng ta cứ làm việc chuyên cần là đủ,
mọi sự khác Chúa sẽ lo. Chúng ta sẽ tạo một
doanh nghiệp nho nhỏ và phát đạt nhưng
đừng vì thế mà em tự giết chết em.”
Chỗ khác, ông viết: “Này em yêu dấu
nhất đời anh, anh nhắc lại, em đừng có âu lo
quá đáng. Có Chúa giúp, rồi ta sẽ tạo được
một doanh nghiệp nho nhỏ thật tốt.”
“Trong khi chờ niềm vui được gặp lại
em, anh ôm hôn em với tất cả lòng anh. Anh
mong rằng cả Marie và Pauline đều thật
mạnh giỏi.”
14
“Chồng em và là người bạn chân tình
yêu em mãi mãi”, vv..
Theo một nghĩa nào đó, chàng siêu
thoát hơn nàng. Zélie là một phụ nữ hết sức
năng động, có bao nhiêu năng lực đều tập
trung hết vào những việc đang làm. Bà vừa
điều hành một doanh nghiệp vừa gầy dựng
một gia đình lớn. Mẹ chồng qua đời, bà đưa
bố chồng về nhà chăm sóc. Bù bận rộn, bà
luôn trung thành với việc cầu nguyện và dự
lễ mỗi ngày cũng như việc giúp con cái cầu
nguyện. Những thư từ bà để lại cho thấy bà
quan tâm tới mọi thực tế của cuộc sống và
của thế giới quanh bà, đồng thời làm cho thế
giới ấy thấm đầy tinh thần đức tin. Đọc lại
những lá thư bà viết cho người chị ở Le
Mans, hoặc cho Isidore ở Paris, hoặc cho hai
cô con gái lớn đi học xa nhà, ta sẽ thấy. Hiện
chúng ta còn giữ được của bà hơn 200 lá thư.
Hạnh phúc trong Hôn nhân

15
Những thư ấy kể lại đủ chuyện ngớ
ngẩn của mấy đứa con bà. Chẳng hạn,
“Pauline nó bảo Marie rằng bõ đỡ đầu của
em đẹp trai hơn bõ của chị, vì bõ của em có
tóc, bõ của chị sói nhẵn.” Hoặc trong một
thư kể về Têrêxa: “Nó tíu tít nói đớt từ sáng
tới chiều. Nó hát cho cả nhà nghe những bài
hát nhỏ, nhưng phải quen lắm mới hiểu nó
muốn nói gì” “Nó đọc kinh như một thiên
thần”. Thư từ của bà kể đủ những chuyện vặt
hằng ngày, đọc vào ta có ngay cái ấn tượng
bà là một người mẹ hạnh phúc trong cuộc
sống hôn nhân. Các thư của bà cũng nhắc
nhiều đến những chuyện đau ốm của đám
trẻ, hầu hết là những bệnh thông thường của
trẻ con. Ta có thể đọc thấy ở đó là bà rất lo
lắng về những chuyện ấy. Bà có một phán
đoán lạ thường và khách quan về con cái:
“Têrêxa là đứa sáng dạ nhất mà cũng lì lợm
nhất, nhưng má nghĩ rồi nó sẽ tốt. Nó có
thiện chí, và không muốn làm buồn lòng ai.

16
Céline thì vui vẻ hơn nhiều, vâng lời và tử tế
hơn nhiều.”
Qua các thư của bà Zélie ta biết được
một tiểu tiết trong cuộc chiến Pháp-Phổ.
Năm 1870 quân Phổ xâm chiếm nước Pháp.
Họ trú quân trong nhà dân ở Alençon. Đó
quả là một sự sỉ nhục khủng khiếp đối với
con cháu của những người lính Napoléon.
Trong một lá thư, bà Zélie viết: "Bọn Phổ
phá hết trật tự của nhà tôi chỉ trong một nháy
mắt. Cả thị trấn thành tiêu điều. Ngoại trừ
nhà chúng tôi, còn thì ai cũng khóc.” Vào lúc
đó đã xảy ra một chuyện làm lộ rõ cá tính
của ông Louis. Có chín người lính trú trong
nhà. Một trong bọn họ ăn trộm của ông một
cái đồng hồ. Ông Louis bắt gặp, nắm ngay
gáy tống cổ ra ngoài. Hôm sau ông viết đơn
khiếu nại đem nộp. Thế nhưng rồi hôm sau
nữa ông nghe nói có lệnh bắn bỏ những kẻ
cướp bóc và rằng có một người lính Đức sắp
bị đem bắn. Lập tức, ông Louis quay tìm
viên chỉ huy xin rút lại đơn khiếu nại, và xin
17
đừng bắn kẻ đã ăn cắp chiếc đồng hồ. Dường
như sự kiện đủ cho thấy tính tình ông vốn
bén nhạy, có thể bùng phát thành nóng giận,
có thể do những thôi thúc bất ngờ mà đi tới
chỗ hành động quyết liệt. Về sau các con
ông không hiểu nhờ đâu ông đã học được
cách kiềm chế tính nóng nảy hấp tấp. Cái
tính chất hiếu hòa điềm đạm mà về sau ta
thấy được nơi ông hẳn ông đã phải đấu tranh
biết bao trong tâm hồn mình mới có được.
Những thánh giá trong gia đình
Cái tai họa do sự chiếm đóng của quân
Đức không phải là nỗi buồn duy nhất trong
cuộc sống gia đình. Ngay trong nội bộ gia
đình, thánh giá đã đổ xuống dồn dập. Năm
1865 thân phụ ông Louis qua đời. Bà Zélie
viết: “Tôi chẳng bao giờ tin được làm sao cái
chết của cụ lại ảnh hưởng trên tôi đến thế.
Tôi tiều tụy đi”. Rồi đến lượt cha ruột của bà
chết năm 1868. Vào thời điểm ấy bà viết:
“Tôi hy vọng, đúng hơn, tôi tin chắc rằng ba
18
tôi đã được Thiên Chúa nhân lành đón nhận.
Tôi chỉ mong sao khi chết tôi cũng được như
ba. Tôi đã xin nhiều lễ cầu nguyện cho ba và
chúng tôi sẽ xin thêm nhiều nữa. Mộ của ba
nằm gần mộ hai bé Joseph của tôi”. Câu chót
trong đoạn thư nói về hai đứa con trai của
bà, Joseph, chết năm 1867 khi mới được một
tuổi, và Joseph-Jean-Baptiste, cũng mới một
tuổi đã chết, năm 1868. Năm 1870 cô con
gái nhỏ của bà là Hélène, chết khi mới được
năm tuổi rưỡi. Cũng năm 1870 bà còn mất
bé Mélanie mới chưa được hai tháng. Trong
năm năm, bà Zélie phải ra nghĩa trang sáu
lần. Qua những biến cố đau thương dồn dập
ấy, ta thấy bà đầy lòng yêu thương, hết sức
đau khổ mà cũng thấm nhuần tinh thần dũng
cảm của đức tin.
Nói về cái chết của các con, bà viết:
“Khi tôi vuốt mắt những đứa con yêu dấu
của tôi và lo chôn cất chúng, quả tình tôi bấn
loạn trong đau thương, nhưng tạ ơn Thiên
Chúa, tôi vẫn luôn sẵn sàng đón nhận ý
19
Ngài. Tôi không hối tiếc gì về những đau
đớn và hy sinh tôi đã phải chịu vì chúng.”
Thậm chí bà còn viết bà “không hiểu nổi tại
sao có những người lại bảo nếu tôi không
phải chịu tất cả những nông nỗi ấy thì tốt
hơn”. Và bà thêm: “Bây giờ các cháu đang
vui hưởng thiên đàng. Hơn nữa, tôi đâu có
mất chúng mãi. Cuộc đời vắn vỏi, và chẳng
bao lâu tôi sẽ gặp lại những đứa con bé bỏng
của tôi trên thiên đàng."
Têrêxa chào đời
Khi Têrêxa chào đời năm 1873, bà
Zélie biết đó là đứa con cuối cùng bà có thể
có được. Vừa sinh ra, Têrêxa đã hết sức ốm
yếu. Sau bao lần quá quen với chết chóc, bà
Zélie cứ sợ rằng Têrêxa khó sống nổi. Sau ba
đứa con đầu, bà Zélie không còn thể cho con
bú và phải tìm vú em cho con bú. Bà mô tả
cơn bệnh của Têrêxa như sau:
“Nếu không quá khuya thì đêm ấy tôi
đã ra đi tìm một người vú em. Đêm ấy mới
20
dài làm sao! Têrêxa chẳng có được một chút
dưỡng chất tối thiểu nào, và, suốt đêm ấy, tất
cả những dấu hiệu đã từng đi trước những
cái chết mấy thiên thần nhỏ kia của tôi đều
lộ rõ. Tôi hết sức buồn vì chẳng giúp được
chút gì cho đứa con út này trong cái phận
yếu ớt mỏng manh của nó”.
Vừa hừng sáng, bà vội đi ngay, và trên
đường bà gặp hai người đàn ông trông có vẻ
thô bạo tiến về phía bà ngay ở một khúc
đường vắng. Bà tự nhủ: “Mình đã mang sẵn
nỗi phiền muộn đến chết trong lòng thế này,
thì họ có giết mình đi nữa cũng chẳng sao!”
Cuối cùng, bà đã tới được làng Semallè và
nhờ chị Rose Taillè đến giúp Têrêxa. Rose
đã từng lo bú mớm cho mấy đứa nhỏ khác
của nhà Martin. Bà nhờ chị Rose đến
Alençon và ở lại đó giúp. Thế nhưng chị
Rose cũng đang phải nuôi con thơ, không thể
đi được. Cả hai người mẹ đều phải lo cho
những đứa bé họ đã sinh ra trên đời. sau
cùng, chị Rose đồng ý đi ẵm Têrêxa về
21
Semallè chăm sóc. Về đến Alençon, chị
Rose nhìn thấy Têrêxa thì thốt lên: "Muộn
quá rồi!" Bà Zélie chạy vội lên lầu đến trước
tượng Thánh Giuse xin Thánh Cả thương
giúp đứa bé. Khi bà xuống lại thì Têrêxa
đang bú say sưa.
Ở trang trại, Têrêxa lớn lên mạnh khỏe.
Bà Zélie được yên lòng yên trí, “biết rằng
đứa bé của tôi đang yên lành và được chăm
sóc kỹ lưỡng”. Ta thấy là bà Zélie không thể
cho Têrêxa bú. Hồi còn con gái, bà bị té gục
xuống bàn và bị chấn thương ngực. Tới năm
1865 trong một lá thư gửi cho em trai, bà
cho biết là thấy đau. Thế nhưng bà đã chẳng
chữa chạy gì, có lẽ vì hy vọng rồi sớm muộn
cũng khỏi. Về sau nó biến chứng thành bướu
trong ngực, đau đớn, không thể cho con bú
được. Cuối cùng, đau quá, bà mới hiểu ra
mình bị ung thư thì đã quá muộn. Các bác sĩ
bảo đã đến giai đoạn chót. Bà Zélie đưa
Marie, Pauline và Léonie đi Lộ Đức hành
hương, cuộc hành trình chỉ gây thêm mỏi
22
mệt và đau đớn. Mấy cô gái thất vọng thấy
Đức Mẹ không chịu chữa cho mẹ họ, thế
nhưng bà Zélie bảo: “Đức Mẹ đã bảo mẹ
như bảo Bernadette: ‘Ta sẽ làm cho con
được hạnh phúc, chẳng phải ở đời này nhưng
ở đời sau!” Nếu nhớ rằng lúc ấy Bernadette
còn sống, ta sẽ thấy quả quyết này đáng cảm
kích biết bao!
Cái chết của bà Zélie
Trong thủ bản, chị thánh Têrêxa viết
một trang thật đẹp và tinh tế mô tả thân mẫu
của chị trên giường chết: “Những nghi thức
Xức Dầu Cuối Cùng in sâu vào trí tưởng
tượng của con. Con còn nhớ rõ chỗ con quỳ
bên cạnh Céline. Cả năm chị em chúng con
đều có mặt, theo thứ tự lớn nhỏ, cả bố dấu
yêu khốn khổ cũng quỳ đó, nức nở”. Trong
bút ký viết về thân phụ, chị Céline ghi nhận
chị chỉ thấy bố khóc hai lần, lần ấy là một.
Bà Zélie qua đời ngày 28 tháng Tám, 1877,

23
mới 46 tuổi, sau 19 năm sống đời hôn nhân.
Con gái út của bà, Têrêxa, mới hơn bốn tuổi.
Ông Louis hết sức lo lắng cho đám con
gái mồ côi mẹ. Để các con có được ảnh
hưởng tốt của một người phụ nữ, ông dời
nhà về Lisieux, nơi ông Isidore cùng với vợ
là Céline sống với hai người con gái là
Jeanne và Marie. Trong khi lưu lại ít lâu ở
Alençon để thanh lý ít đồ đạc, ông viết cho
các con, đã dọn về Lisieux trước: "Các con
nên biết ba phải mất mát nhiều khi ra đi,
nhưng ba phải đi vì các con… Cậu mợ bảo
làm gì, các con hãy làm theo. Hãy học nơi
cậu mợ!" Vì con cái, ông phải rời bỏ
Alençon, nơi ông có nhiều bạn hữu, nơi mẹ
ông vẫn còn sống ở đó, và là nơi có mộ của
người vợ thân yêu. Ra đi, ông phải bỏ lại
biết bao bạn bè thân thuộc. Ông vốn là một
người ưa giao thiệp, lại là thành viên của các
câu lạc bộ xã hội Công Giáo và các câu lạc
bộ dân ca và dân vũ. Ông thích ăn mặc theo
phong tục Brittany, hát những bài ca và múa
24
những điệu vũ miền này. Ông thích hát với
cái giọng trầm ấm của ông. Thật nát lòng khi
phải rời Alençon, nhưng ông đã nhất quyết
ra đi chỉ vì lợi ích của con cai. Góa vợ năm
54 tuổi, ông mua nhà đất và đầu tư vào một
vài việc an toàn rồi về Lisieux dưỡng già.
Tại Lisieux ông có nhiều giờ rảnh rỗi.
Ông đọc nhiều sách: lịch sử, thơ ca và sách
thiêng liêng. Ông thả bộ trên đồng quê và
đưa con cái đi câu. Chị thánh Têrêxa có mô
tả những buổi dã ngoại này, khi chị được
ngồi nghe bản nhạc của những người lính
diễu hành ở đàng xa. Ông cũng bỏ ít giờ
chăm sóc khu vườn, tiếp tục làm đồng hồ
như một cái thú riêng, vui vẻ ngồi chế tạo đồ
dùng cho con cái, và tìm sinh lợi trong vài
việc làm ăn nho nhỏ. Trên hết, ông cầu
nguyện nhiều, viếng các nhà thờ và nhà
nguyện ở Lisieux. Đôi khi ông đưa cả nhà đi
nghỉ mát ở bãi biển Deauville và Trouville,
cũng có lần ông đưa Têrêxa và Céline đi dự
Hội Chợ Đấu Xảo ở Le Havre.
25
Pauline và Marie vào Dòng Cát
Minh
Việc Pauline và Marie nhập Dòng Cát
Minh là một hy sinh lớn lao. Ông vẫn canh
cánh nỗi âu lo của một người cha, phải nuôi
dạy năm cô con gái thiếu vắng sự giúp đỡ
của một người mẹ. Sức khỏe của “hữ hòang
bé nhỏ”, Têrêxa, cũng chẳng phải là chuyện
nhỏ. Năm 1883, khi Têrêxa được chữa lành
cách nhiệm lạ, ông viết cho một người bạn ở
Brittany: “Têrêxa, nữ hòang bé bỏng của tôi
– tôi vẫn quen gọi cháu bằng tên gọi ấy – là
một thiếu nữ dễ mến. Tôi bảo đảm với anh
như thế. Bây giờ cháu đã hoàn toàn bình
phục rồi. Bao nhiêu kinh nguyện đã được gió
bão cuốn lên trời, và Thiên Chúa, hết sức tốt
lành, đã thương nhượng bộ."
Chúng ta có được vài lá thư của ông
Louis gửi cho con cái. Như bao nhiêu đàn
ông khác, ông ít khi chịu viết thư. Vợ ông đã
viết thư thay ông. Chúng ta còn giữ được
26
nhiều thư của bà nhưng của ông thì chẳng
mấy lá. Trong các thư của ông Louis, ta tìm
thấy một số kiểu nói ẩn chứa tình âu yếm.
“May mắn là ba đã xong mọi việc và đang
háo hức về với các con. Bây giờ tạm chào
đã. Nhắn hộ ông bà Guérin ngàn lời chúc tốt
lành và gửi đến năm đứa chúng con một ôm
hôn rõ chặt đấy.”
Có lần ông theo một linh mục đi thăm
Constantinople, Athens và Rôma, và trên
chuyến đi này ông viết thư về nhà. Ông kết
thúc các thư với những kiểu nói: "Hôn các
con của ba một ngàn cái. Người cha lúc nào
cũng thương các con", hoặc “Người luôn
thương các con và luôn mang các con trong
tim”, hoặc "Ba ôm hôn các con với tất cả cõi
lòng." Ông còn có chuyến hành hương thời
danh sang Rôma với Têrêxa và một vài cuộc
hành hương ngắn ngày khác, nhưng hầu hết
thời giờ ông sống ở nhà với con cái.

27
Năm 1887, ông Louis bị đột quỵ nhẹ
trên đường đi lễ. Chị Céline cho rằng nguyên
nhân là do ông bị con gì chích sau tai trong
một lần đi câu. Ông bị sưng nhưng chẳng
quan tâm cho đến khi nó sưng tấy và đau
nhiều. Mãi lúc ấy ông mới đi bác sĩ. Céline
nhớ đã thấy ông bước lên bước xuống trong
vườn, đưa hai tay lên đầu gọi con cái: “Cầu
nguyện cho ba, cầu nguyện cho ba!” Ít lâu
sau lần đột quỵ, ông đang ngồi trong vườn,
sau khi đi đọc kinh chiều ở Nhà thờ Chánh
Tòa về. Têrêxa đi ra. Thấy têrêxa, ông đứng
dậy. Hai cha con đi lên đi xuống rồi ông ôm
lấy Têrêxa, siết chặt con vào lòng. Thấy
Têrêxa khóc, ông hỏi: “Cưng có chuyện gì
không ổn vậy?” Lúc ấy Têrêxa mới xin ông
cho phép nhập Dòng Cát Minh Lisieux. Ông
bảo con gái rằng cô còn bé quá, mới 14 tuổi!
Têrêxa thuyết phục ông và ông bảo nếu quả
đó là điều Chúa muốn thì ông sẽ cho phép và
sẽ chúc lành. Ông ngắt một bông trắng nhỏ

28
trên tường trao cho Têrêxa. Bông hoa ấy sẽ
thành biểu tượng cho cuộc đời của chị.
. . . . Và rồi Têrêxa
Ông Louis đã thành chỗ dựa, giúp
Têrêxa đạt được sự đồng thuận của người
cậu là ông Isidore, của Đức Giám Mục và cả
của Đức Giáo Hoàng. Từ Rôma về, sau khi
nhận được phép lành của Đức Giáo Hoàng
Lêô XIII trong một nghi thức đầy cảm động,
ông bắt đầu chuẩn bị cho Têrêxa lên đường.
Chị rời biệt thự Les Buissonnets và cha già
ngày 9 tháng Tư, 1888. Đêm ấy, một người
bạn nói với ông Louis: “Anh còn ngon hơn
cả Abraham nữa đấy!” Ông đáp: “Vâng, nếu
tôi ở vào trường hợp Abraham, tôi cũng hiến
dâng như vậy, nhưng đồng thời tôi phải cầu
nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện. Tôi đã
đưa con dao lên thật là khủng khiếp, chậm
một cách khủng khiếp và xin Chúa sớm gởi
cho tôi cả thiên thần và con cừu mắc sừng
trong bụi gai.” Hôm sau ông viết cho một
29
người bạn là ông Breton: “Hôm qua, Têrêxa,
nữ hòang bé bỏng của tôi, đã vào Dòng Cát
Minh. Chỉ có Thiên Chúa mới đòi phải hy
sinh đến thế nhưng Ngài cũng đã giúp tôi hết
sức để dù dàn dụa nước mắt lòng tôi vẫn tràn
ngập niềm vui. (Ký tên) Một người rất yêu
thương anh, Louis Martin.”
Ông Louis lâm bệnh lần cuối
Từ sau ngày Têrêxa vào Dòng, ông bắt
đầu bị đột quỵ nhiều hơn. Ông bắt đầu mất
trí. Ông ra khỏi nhà, đi lang thang và lạc
mất, ba bốn ngày sau người ta mới tìm thấy
ở Le Havre hoặc một chỗ nào khác. Ông
không còn thể nào đến Dòng Cát Minh để
thăm Marie, Pauline và Têrêxa. Vì ông
không thể vào thăm các con, Pauline đã xin
một vị linh mục có đang công việc phải giúp
nhà Dòng, chụp cho Têrêxa hai tấm ảnh mặc
tu phục Dòng Cát Minh. Đó là hai tấm ảnh
thật đẹp của cô tập sinh Têrêxa đứng dưới
chân thập giá. Một trong hai tấm, Têrêxa
30
mặc áo choàng trắng. Sau lưng mấy tấm ảnh
này, Pauline viết: “Xin đừng để ai thấy kẻo
dân chúng lại xì xèo nữ tu mà còn chụp
hình!” Vì việc ông Louis đi lạc ngày càng
thường xảy ra, Léonie và Céline không còn
thể nào chăm sóc ông. Tháng Hai 1889, họ
phải đưa ông gửi vào dưỡng trí viện ở Caen.
Đây cũng là năm mà ông Van Gogh3 vào nhà
thương điên ở San Remy. Những họa phẩm
của Van Gogh vào thời này giúp chúng ta
cảm nhận phần nào khung cảnh thiên nhiên
của dưỡng đường nơi ông Louis đã ở. Khi
ông tới đó, người y tá bảo ông: “Ở đây ông
có thể làm một việc tông đồ tuyệt vời.” Ông
đáp: “Tôi biết, nhưng tôi thích làm việc ấy ở
bất cứ đâu khác. Vâng, cả đời tôi lúc nào tôi
cũng điều khiển và ra lệnh, cho nên có lẽ
Thiên Chúa đang thanh tẩy tôi – bắt tôi tập
tuân lệnh để tôi bớt tự hào và hống hách."
Suốt ba năm, mỗi tuần Léonie và Céline đáp
xe lửa đi Caen để thăm thân phụ một lần.
3
Vincent Willem van Gogh danh họa người Hòa Lan (1853-1890) (ND)
31
Sau ba năm, ông bị đột quỵ trầm trọng và bị
bại liệt. Vì ông không còn thể đi lạc nữa, họ
đã có thể đưa ông về nhà ở Lisieux. Thoạt
đầu họ ở chung với gia đình Guérins. Về sau
họ thuê một ngôi nhà gần đó. Thỉnh thoảng,
họ về nghỉ tại “La Musse”, ngôi nhà đẹp ở
miền quê mà gia đình Guérins được thừa kế.
Vào những lúc tỉnh táo, ông Louis xin con
cái cầu nguyện cho ông. Suốt thời gian chịu
đau khổ, ông luôn kiên nhẫn, đặt hết tin cậy
phó thác nơi Thiên Chúa. Ngày 29 tháng
Bảy, 1894, sau một cơn nhồi máu cơ tim,
ông chết bình an tại biệt thự La Musse. Ông
được an táng tại Lisieux.
Đức tin và sự tín thác
Chúng ta đã thấy câu chuyện cuộc đời
và hoàn cảnh sống của ông bà Louis và Zélie
Martin. Chúng ta đã thấy những khổ đau, vui
mừng cũng như đức tin và niềm tín thác của
họ nơi Thiên Chúa. Có lần bà Zélie viết:
"Tôi vẫn luôn đặt hết sự tín thác nơi Thiên
32
Chúa tốt lành và phó hết mọi công việc của
tôi cho tay Ngài chăm sóc, cho nên khi tôi
nghĩ đến những gì Thiên Chúa tốt lành ấy đã
làm cho tôi và cho chồng tôi, tôi không thể
nghi ngờ chút nào rằng Sự Quan Phòng của
Ngài luôn đoái nhìn các con cái Ngài với
một sự chăm sóc đặc biệt.” Mặc dù ông
Louis có tinh thần chiêm niệm hơn, suy tư
hơn, nên thơ hơn và có chiều sâu hơn bà
Zélie, lá thư này của bà dường như có thể
tóm tắt cái cốt lõi nơi đời sống tâm linh của
cả hai người. Đôi bạn chân phước này có
nhiều điểm rất gần với anh chị em ngày nay.
Con đường tâm linh của họ đặt nền móng
trên thánh ý và tinh yêu của Thiên Chúa mà
họ vẫn khám phá ra trong cuộc sống hằng
ngày. Họ tìm gặp sự thánh thiện ngay giữa
cuộc đời trần thế. Liệu anh chị em có thể dấn
thân vào trần thế hơn kẻ điều hành một
doanh nghiệp đăng ten và một tiệm kim
hoàn? Nơi tình yêu họ dành cho nhau, nơi
nâng cao cuộc sống một gia đình lớn với tất
33
cả những âu lo và trách nhiệm đi kèm, và
trong tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, lộ rõ
khi họ được tôi luyện trong lò đau khổ, trong
mối bận tâm lo cho người nghèo – trong tất
cả những điều ấy họ đáng là mẫu mực cho
bất cứ người nam và người nữ nào đang sống
đời hôn nhân hôm nay. Họ cũng đang nói
với chúng ta, một cách vừa cương nghị vừa
âu yếm, về một số trong những vấn đề đáng
buồn nhất mà cũng nổi cộm nhất hôm nay:
cái bi kịch của một người mẹ trẻ chết vì ung
thư và để lại một gia đình lớn; cảnh não lòng
khi một người thân phải vào dưỡng trí viện;
rồi việc chăm sóc cho những người thân tật
bệnh hay già cả. Câu chuyện của đôi bạn
Louis và Zélie Martin đang nói nhiều với
chúng ta ngày nay vì họ đang dạy chúng ta
biết phải tìm thấy tình yêu Thiên Chúa cách
nào và ở đâu, và làm sao để đáp lại tình yêu
ấy bằng tình yêu của riêng ta.
Thật thích hợp khi hài cốt của ông bà
Louis và Zélie được cải táng và chôn cạnh
34
nhau gần hậu tẩm Vương cung Thánh đường
Lisieux, mang tên người con của họ là chị
thánh Têrêxa. Trên mộ hai vị, ta thấy ghi
những lời của chị thánh: “Thiên Chúa đã cho
tôi một người mẹ và một người cha xứng với
thiên đàng hơn là với trần gian.” Cũng thật
thích hợp khi, vào năm 1956, trong dịp mừng
Kim khánh khấn dòng của nữ tu Céline, Đức
Giám Mục chủ lễ thông báo: “Tôi có một tin
mừng cho Chị. Tôi xin thông báo là hồ sơ
phong chân phước cho song thân của Chị đã
được tiến hành”.
James Geoghegan, O.C.D.

35
Ông bà Louis và Zélie Martin sẽ
được phong chân phước tại Lisieux ngày
19 tháng Mười, 2008

RÔMA, Chúa Nhật 13 tháng Bảy


2008 (ZENIT.org) – Ông bà Louis và Zélie
Martin sẽ được phong chân phước tại
Lisieux ngày 19 tháng Mười 2008, trong
ngày thế giới Truyền Giáo: Tin này đã được
Đức Hồng y José Saraiva Martins, chủ tịch
Thánh Bộ Phong Thánh chính thức thông
báo tại Alençon, hôm Thứ Bảy 12 tháng
Bảy.

Song thân chị thánh Têrêxa đã làm lễ


cưới tại Nhà thờ Đức Bà Alençon cách nay
36
150 năm, vào ngày 13 tháng Bảy, lúc nửa
đêm. Lễ kỷ niệm năm nay được đánh dấu
bằng sự hiện diện của Đức Hồng y Saraiva
tại Alençon và Lisieux trong hai ngày 12 và
13 tháng Bảy này.

Đức Hồng y Saraiva Martins đã loan


tin vào cuối bài nói chuyện về sự thánh
thiện của ông bà Martin, ở Alençon, tại
sảnh đường aux Toiles, trước khoảng hai
trăm người.

Ngài cũng đã thông báo như thế cho


những tín hữu đông nghẹt và hân hoan
tham dự thánh lễ được cử hành trong nhà
thờ Đức Bà, trước sự hiện diện của Đức
Cha Jean-Claude Boulanger, Giám mục
37
giáo phận Séez, Đức Cha Pierre Pican,
Giám mục giáo phận Bayeux et Lisieux, và
Đức Cha Bernard Lagoutte, giám đốc trung
tâm hành hương Thánh Têrêxa và là chánh
sở Vương Cung Thánh Đường Thánh
Têrêxa.

Ông Louis (1823-1894) và bà Zélie


(1831-1877) Martin được công bố là những
bậc đáng kính vào năm 1994. Thi hài của
họ trước đây nằm trong phần mộ dưới chân
Vương cung Thánh đường Lisieux, đã được
cải táng hôm thứ hai 26 tháng Năm vừa qua
để tháng Chín sẽ đưa vào Vương cung
Thánh đường.

38
Cậu bé người Ý, Pietro, được ơn chữa
lành nhờ lời chuyển cầu của ông bà Martin
nay được 6 tuổi cũng đã có mặt trong nghi
thức hôm ấy.

Đàng khác tại Ý, ở Vérone, người ta


đang làm chiếc khám đựng thánh tích của
đôi bạn Martin.

Ngày 03 tháng Bảy vừa qua, Đức


Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã ký sắc lệnh
thừa nhận một phép lạ nhờ sự bầu cử của
song thân chị thánh Têrêxa thành Lisieux.

Sự thừa nhận ấy mở lối cho ông bà


được phong chân phước cùng với nhau, như
đôi bạn Luigi Beltrame Quattrocchi và

39
Maria Corsini, đã được Đức Gioan Phaolô
II phong chân phước ngày 21 tháng Mười
năm 2001, cũng vào dịp ngày thế giới
truyền giáo.

Việc chọn ngày thế giới truyền giáo


chắc hẳn muốn nhấn mạnh vai trò truyền
giáo của gia đình Kitô giáo và tầm quan
trọng của chứng từ gia đình Kitô giáo về
tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với tha
nhân trong Giáo Hội và trong Xã Hội.

Phép lạ do đôi bạn Martin chuyển cầu


là vụ chữa lành một em bé ở Monza, gần
Milan, tên là Pietro Schiliro. Em sinh ra với
bộ phổi dị tật sẽ không sống được. Một linh
mục Cát Minh người Ý là cha Antonio
40
Sangalli đề nghị cha mẹ em nên làm một
tuần cửu nhật kính song thân chị thánh
Têrêxa, là những vị đã mất bốn người con
còn rất thơ ấu, để được sức mạnh gánh chịu
nỗi đau khổ. Thế nhưng người mẹ tuyên bố
bà sẽ làm tuần cửu nhật (và rồi hai tuần nếu
cần) để xin cho con bà được chữa lành.
Ngày nay Pietro, hoàn toàn khỏe mạnh, đã
có thể theo cha mẹ đến Lisieux tạ ơn ông bà
Louis và Zélie Martin.

Chúng ta còn nhớ cũng chính trong


ngày thế giới truyền giáo, cũng nhằm 19
tháng Mười nhưng là năm 1997, chị thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan,
đồng bổn mạng của các xứ Truyền Giáo, đã

41
được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công
bố là Tiến sĩ Hội Thánh vì “khoa học tình
yêu”của Chị.

Anita S. Bourdin

42

You might also like