You are on page 1of 30

CHƯƠNG VI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA,

ĐẠO ĐỨC VÀ CON NGƯỜI MỚI

Mục tiêu cần đạt được.

1. TRÌNH BÀY được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hoá và xây dựng con người.

2. VẬN DỤNG những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh sinh hoạt, học tập, công tác.

3. PHÂN TÍCH được vai trò của đạo đức; sự khác biệt trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Nho giáo.

Tài liệu tham khảo.

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đạo đức học, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.

2. Thành Duy (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996

NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

a. Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam

Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ, Khóa họp 24 Đại Hội đồng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn

hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) từ ngày 20/10 đến 20/11/1987, đã ra Nghị quyết 24C/18.6.5 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí

Minh với tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

b. Quan niệm Hồ Chí Minh về văn hóa

- Khái niệm văn hóa (Culture) từ tiếng Latinh: Cultur: trồng trọt, Cultur argi: trồng trọt cây cối; cultur animi: trồng trọt tâm hồn con

người. Ở phương Đông, văn hóa: “văn”: vẻ đẹp, giá trị; “hóa”: trở thành. Văn hóa: trở thành giá trị, trở thành vẻ đẹp.

Trên thế giới đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, song vẫn còn có khá nhiều những điểm chưa thống nhất giữa những ý

kiến. Có thể khái quát một số cách định nghĩa về văn hóa: đồng nhất văn hóa với học vấn; đồng nhất văn hóa với hoạt động văn hóa nghệ thuật bình

thường; đồng nhất văn hóa với những di tích lịch sử văn hóa; đồng nhất văn hóa với những sáng tạo kiệt tác về lĩnh vực tinh thần.

- Theo Unesco, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất

cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống của nhân dân.

Đặc trưng của văn hóa là những giá trị do con người tạo ra, mang tính lịch sử. Nói đến văn hóa là nói đến trình độ người.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được Người sử dụng khá linh hoạt:

Theo nghĩa rộng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra. Theo nghĩa hẹp: Văn hóa là những giá

trị tinh thần, thuộc kiến trúc thượng tầng (Báo Cứu quốc, tháng 5 năm 1945). Theo nghĩa rất hẹp: văn hóa đơn thuần chỉ trình độ học vấn của con

người được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông...

Định nghĩa khái quát nhất của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và

phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở

và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng

với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. (Tháng 8/1943, Người viết

định nghĩa này khi đang trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch)

Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm tương đồng với quan niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo cách khía cạnh

sau: phức thể, tổng thể nhiều mặt; nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và vật chất, khắc họa nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và các

quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, cách ứng xử và giao tiếp.

c. Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

- Nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò của các thành tố trong hình thái kinh tế xã hội, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố kinh

tế

- Hồ Chí Minh khẳng định vai trò ngang nhau của các thành tố nhưng có xu hướng nhấn mạnh văn hóa.

Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hoá đã được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc tính về kiến trúc thượng

tầng của xã hội. Văn hoá được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành

bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội.

- Hồ Chí Minh khẳng định một nền chính trị, kinh tế, một xã hội có văn hóa. Hồ Chí Minh trong kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa có vai

trò dẫn đường. Người mong ước, xây dựng một nền kinh tế có văn hóa cao, một nền chính trị có văn hóa cao, một xã hội có văn hóa cao.

+ Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm

vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Hồ Chí Minh cho rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động

lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người viết: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc

1. HCM, toàn tập (12 tập), t.3, tr.431.


khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (t.8, tr.281-282.)

+ Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát

triển kinh tế theo tinh thần “văn hóa cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Văn hóa không thể đứng ngoài mà

phải ở trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa (tính chính nghĩa của kháng

chiến và chiến tranh vệ quốc). Chính điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

+ Văn hóa phải xã ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa

hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn

văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của cách mạng, của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa

a. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng

- Mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với

chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.

- Văn hóa là mục tiêu thể hiện ở chỗ văn hóa là quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưa cầu hạnh phúc và thụ hưởng các

giá trị văn hóa; là khát vọng về các giá trị chân - thiện - mỹ của nhân dân; là một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; một xã hội đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân luôn được quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.

- Văn hóa là động lực được Hồ Chí Minh lý giải rất cụ thể:

+ Văn hóa là một động lực cho sự phát triển của đất nước, các thiết chế văn hóa góp phần xây dựng và phát triển đất nước, con người

Việt Nam.

+ Văn hóa chính trị soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo toàn dân thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường; văn hóa văn nghệ góp phần nâng

cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin thắng lợi của cách mạng;

+ Văn hóa giáo dục góp phần nâng cao dân trí, mở rộng vốn hiểu biết cho nhân dân, thực hiện sứ mạng trồng người, đào tạo con người

mới, nguồn nhân lực cho cách mạng;

+ Văn hóa đạo đức góp phần nâng cao phẩm giá con người Việt Nam; văn hóa pháp luật đảm bảo dân chủ, trật tự kỷ cương, phép nước.
b. Văn hóa phục vụ quần chúng

Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ, là chất liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ

sáng tác. Văn nghệ sĩ phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của sinh hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ

các giá trị tinh thần đó. Văn hoá văn nghệ thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải:

+ Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân dân. Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.

+ Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí... phải thể hiện tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn

vậy thì trong hoạt động văn hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi sau về: đối tượng, mục đích và phương pháp.

Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân thì phải đánh giá cho đúng quần chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân

dân như sau:

+ Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật chất, mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò,

vè” là “những hòn ngọc quý” mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của mình.

+ Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó -

nhân dân cũng sẽ quên anh ta”2.

+ Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn hoá một cách trung thực, chính xác nhất.

+ Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.

Hồ Chí Minh cho rằng phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho

chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự

nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác phẩm đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân yêu thích. Theo Hồ Chí

Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ nhưng sản phẩm “loại hai”, những món ăn

tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật cao, tinh tế, có giá trị nhân văn cao.

c. Văn hóa là một mặt trận

Văn hóa là một mặt trận được hiểu văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa rất

phong phú, bao gồm các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận.

Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh văn hóa, văn nghệ sĩ là những chiến sĩ, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật là những vũ khí

chiến đấu. Để là tròn nhiệm vụ, chiến sĩ trên mặt trận này phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò

2. Hồ Chí Minh: Văn hoá, văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1981, tr.516
chính trừ tà”; phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, nghiêm khắc phê bình những thói hư tật

xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu…Vì văn hóa là mặt trận, văn nghệ sĩ là những chiến sĩ nên các chiến sĩ văn, hóa văn nghệ phải có

những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.

3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới

a. Quan điểm tổng quát

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bên cạnh đưa ra định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng

cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lí: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng luân lí: biết hi sinh mình, lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”.

Trong kháng chiến chống Pháp, trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), Hồ Chí Minh xác định xây dựng nền văn hóa mới mang tính

dân tộc, khoa học và đại chúng.

Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh xác định nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và có tính dân tộc.

Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đế văn hóa, thấy rõ vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt

nghĩa vì sao ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi

lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa và chiến lược phát triển đất nước.

b. Tính chất của nền văn hóa

- Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là phải xây dựng một nền văn hoá mới, nền

văn hoá dân chủ mới, đồng thời là nền văn hoá kháng chiến. Đến thời kỳ miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hoá

mới được xây dựng là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.

- Về tính chất của nền văn hoá mới được Hồ Chi Minh xác định có ba tính chất: cơ bản là tính dân tộc, tính khoa khoa học và tính đại

chúng. Tính chất dân tộc của nền văn hoá còn được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng những khái niệm khác nhau như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc,

để nhấn mạnh hơn nữa đến cái tinh tuý bên trong rất đặc trưng của văn hoá dân tộc.

- Kế thừa tư tưởng Hồ Chí minh về tính chất của văn hóa, Đại hội III của Đảng cho rằng: Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung

xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Từ Đại hội VII đến nay, tính chất của nền văn hoá được xác định là một nền “văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc”. Hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là

tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

c. Chức năng của nền văn hóa


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, có thể thấy văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:

- Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ; phải sửa đổi được tham những, lười biếng, phù

hoa, xa xỉ, ...

+ Văn hoá có chức năng bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

+ Văn hoá phải đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân

- thiện - mỹ, yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung; ghét những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất; căm thù mọi thứ giặc nội xâm.

- Nâng cao dân trí

Bàn về văn hóa là bàn về dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của nhân dân. Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí phải bắt đầu

từ chỗ biết độc, biết viết để hiểu biết các vấn đề của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế

giới... Vấn đề nâng cao dân trí trước kia cũng đã được nhiều nhà yêu nước đặt ra. Phan Chu Trinh đã đề ra chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí,

hậu dân sinh” ngay dưới chế độ thực dân phong kiến, nhưng đã không thể thực hiện được. Dòng văn hoá cách mạng xuất hiện trong những thời kỳ

trước Cách mạng tháng Tám chỉ làm chuyển biến được dân trí phần nào. Nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện được khi chính trị đã được giải

phóng, chính quyền đã về tay nhân dân.

Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có hể có những điểm chung và riêng. Ngay sau khi Cách mạng

tháng Tám 1945 thắng lợi, đất nước độc lập, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “một trong những công việc cấp tốc phải thực hiện lúc này là nâng cao dân

trí”. Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết mọi quyền lợi của mình, phải có kiến thức

mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nói: “chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc”. Và

đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong thời kỳ đổi mới.

- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới Chân -Thiện - Mỹ

để không ngừng hoàn thiện bản thân mình

+ Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Văn hóa

giúp con người nhận biết và phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người và dân tộc

tiến lên phía trước.

Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: văn hóa phải sửa đổi những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Đó là
nhưng phẩm chất đạo đức cách mạng, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: văn hóa phải

làm cho văn hoá vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hoá phải sữa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.

+ Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và

thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.

Chức năng cao quý ấy phải được tiến hành thường xuyên, phải làm thế nào cho văn hoá đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng những

tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung, đấu tranh

loại trừ những thói hư tật xấu, những thoái hoá, biến chất.

Tính cảm lớn theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét

những thói hư tật xấu. Tính cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ với gia đình, quê hương, với bạn bè, anh em, đồng chí… Thông qua các

mối quan hệ tốt đẹp, văn hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân và tiền đồ của cách

mạng.

+ Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một con người, một Đảng, một dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý

tưởng độc lập dân tộc, gắn với chủ nghĩa xã hội. Do đó, theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ hàng đầu của văn hóa là phải làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự

chủ, độc lập, tự do; phải làm cho ai ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức

a. Đạo đức là gốc, là nền tảng là nhân tố chủ chốt của người cách mạng

- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận không thể thiếu của ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Nó có khả

năng tác động trở lại và cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn.

- Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đó là nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức

mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” (T6, tr.320), “đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới,

đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. (T5, tr.252).

- Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của người cách mạng.

Người nói: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.

Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loại người là công việc to tát, nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ mà

tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì không còn làm việc gì nổi.

Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,

đảng viên, nhân dân. Ngay chương đầu của Đường Kách mệnh, Người đã nêu 23 điều về tư cách người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ đối

với mình, đối với người, đối với công việc. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1947, Người viết “Sửa đổi lối làm việc” và liên tiếp trong 2

năm 1957, 1958 Người viết hai tác phẩm cùng mang một tên gọi “Đạo đức cách mạng” cùng hàng loạt bài ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách

mạng. Một trong những bài viết cuối cùng của Hồ Chí Minh, năm 1969, bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách

mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung

thành của nhân dân ...Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây

dựng chủ nghĩa xã hội vừa “’hồng” vừa “chuyên”.

- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người. Người thường nhấn mạnh, “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau,

người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người là cao thượng”.

Đạo đức tốt là điều kiện dẫn đến những hành động tốt, sự nghiệp cách mạng càng cao cả thì đòi hỏi phải có những phẩm chất cao cả.

Đạo đức cách mạng liên quan đến sự thành hay bại của cách mạng, nếu quan tâm đến bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thì cách

mạng đi đến thành công, nếu xem nhẹ vấn đề này, không tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức thì cách mạng sẽ gặp khó khăn, thất bại. Do đó,

Hồ Chí Minh cho rằng trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng đều phải ra sức rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên.

Người dạy rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng

nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng

làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”3.

- Đạo đức còn là động lực giúp chúng ta vượt lên khi khó khăn cũng như lúc thuận lợi trong quá trình đấu tranh cách mạng. Trong công

việc có lúc chúng ta gặp khó khăn, nếu chúng ta giữ được đạo đức cách mạng thì không sợ sệt, không bi quan chán nản và khi công việc thuận lợi sẽ

không rơi vào kiêu căng, công thần, địa vị, tự mãn.

Đạo đức giúp cho mỗi người giữ vững được nhân cách, bản lĩnh bản lĩnh làm người trước thời cuộc, “giàu sang không quyến rũ, nghèo

khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”3.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, (12 tập) t.11, tr.601.


- Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp người cách mạng tự

hoàn thiện mình và không ngừng phát triển đi lên.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận

lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, thực sự trở thành người biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”...,

không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

- Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ chốt” của người

cách mạng.

Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.

Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải

phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”

(T5, tr.252), “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không” và “tuy năng lực và công việc mỗi

người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng” (T5, tr.148).

b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội

- Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự

do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở những phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành

động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực…

2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng. Tuỳ vào nhiệm vụ của thực tiễn

cách mạng đề ra mà Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác. Trên cơ sở những chuẩn mực chung cho tất cả mọi người, Hồ Chí Minh

đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.

a. Trung với nước, hiếu với dân

- Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng

nhất và chi phối các phẩm chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng. Lòng trung, hiếu rộng lớn ấy thể hiện ở ý

chí và quyết tâm phấn đấu cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được

học hành.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đạo đức phương Đông, Trung và Hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong

đời sống tinh thần cá nhân, nó mang một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người con trong mối quan hệ với dân tộc và gia đình. Theo

quan niệm truyền thống (quan niệm cũ), Trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành với vua là trung thành với nước. Ở đây vua với

nước là một. Hiếu có nghĩa là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người

đã đưa thêm vào nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ mà “trung với

nước, hiếu với dân”.

- Trung với nước, hiếu với dân là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ cái cốt lõi nhất trong Nho giáo là lòng trung

thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức

với kẻ thống trị mình.

“Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và

đi lên của đất nước. Nước ở đây là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác định “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu

quyền hạn đều của dân”4, Đảng và Chính phủ là “đầy tớ của nhân dân” chứ không phải là “quan nhân dân để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.

Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một sự đảo lộn mang tính cách mạng trong quan

niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã lật ngược lại học thuyết của Nho giáo như Mác đã làm với học thuyết Hêghen. Người viết: “Đạo đức

cũ như người đầu ngược xuống đất, chân ngửng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”5. Như vậy,

quan niệm về nước và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa

so phía trước.

Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ

quốc; vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành

động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ trước đến

nay mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng: điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với

nhân dân”, là “trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung

thành của nhân dân.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.698.


5. Sđd, t.6, tr.320-321.
Tư tưởng hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà còn phải hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính

trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan

tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.

Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải nắm vững và thực hành đạo đức trung với nước, hiếu với dân thì sẽ được dân tin yêu, quý

mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn và đưa cách mạng đến thành công.

b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

- Phẩm chất này lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh. Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên

vì nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cả khi thuận lợi và lúc khó khăn. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên

nhắc đến phẩm chất này, từ tác phẩm Đường Cách mệnh cho đến Bản Di chúc cuối cùng.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí

Minh giữ lại những yếu tố tốt đẹp, cải biến nội dung, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất

đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt

nhân dân ta phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân

theo để lợi cho nước cho dân” ( Toàn tập, t.6, tr.321)

- Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” năm 1949, Hồ Chí Minh giải thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau:

+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, khai thác hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và

hiệu quả thực tế, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng

liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta” (t.12, tr.564)

Cần gắn liền với “chuyên” (chuyên tâm), nhưng chuyên tâm không phải một, hai ngày mà phải chuyên tâm phải suốt đời, liên tục, bền

bỉ, dẻo dai.

Trong khi nói đến Cần, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, kẻ thù của cần là lười biếng. Người lười biếng là có tội với nhân dân, với Tổ quốc.

Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy cũng làm được. Siêng học tập thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng làm

nhất định thành công”. Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải cần, cả nước đều phải cần. “Người siêng

năng thì hay tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh”.

+ Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của của dân, của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to

đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” (Toàn tập, t.5, tr.636), không phô trương hình thức.
Kiệm không phải bủn xỉn, keo kiệt, nhưng cũng không xa xỉ. Theo Hồ Chí Minh, nếu có lợi cho dân bao nhiêu tiền cũng phải bỏ ra, nếu

có hại cho dân thì một đồng cũng không bỏ, đó là chi tiêu hợp lý. Hoang phí là có tội với nhân dân, với Tổ quốc. Người thường xuyên kêu gọi mọi

người, nhân dân cả nước phải thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà không Kiệm thì như thùng không đáy, Kiệm mà không Cần thì

không tăng thêm, không phát triển.

+ Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; phải “trong sạch, không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham

tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”, (t.5, tr.252). Theo

Hồ Chí Minh, Liêm là thước đo bản chất con người. Có Kiệm mới có Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam, tham tiền của, tham địa vị, tham ăn

ngon... đều là những hành động bất liêm. Người dạy: “ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.

Đối lập với Liêm là bất liêm. Mọi người từ cán bộ đến nhân dân phải biết thực hành Liêm. Cán bộ phải gương mẫu liêm khiết trước nhân

dân, dân phải hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ và cùng cán bộ thực hành Liêm.

+ Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Điều gì không đứng đắn, không thẳng thắn tức là Tà “làm việc chính là người thiện,

làm việc tà là người ác”.

Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là những đức tính không thể thiếu được của mỗi con người cũng như trời có bốn

mùa, đất có bốn phương - đó là quy luật tất yếu.

Theo Hồ Chí Minh trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp nào cũng cần phải giữ mối quan hệ: Đối với mình: không tự cao, tự

đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót

người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên

trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì giải quyết cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện

thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.

+ Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính nhưng nó cũng có nội hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham

làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Đó là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Người chí

công vô tư thì lòng dạ thảnh thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được chủ nghĩa tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân.

Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt được đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá nhân, Người chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa cá

nhân nhưng không bao giờ chủ trương xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Người nói: “Chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày

xéo lên lợi ích cá nhân con người” (Toàn tập, t.9, tr.291)
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống” 6, “là một thứ vi trùng

rất độc” đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể,

xem khinh quần chúng, độc đoán, quan liêu, mệnh lệnh,.... Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi chúng ta. Nó

chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của kẻ địch khác.

Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở

ngại rất lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ

nghĩa cá nhân”7. Người cho rằng: chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân tộc. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày

hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong

sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”8.

Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà

phải nghỉ đến đồng bào, đến toàn dân”9, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết

với nhau; có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của con người:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người”10.

- Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực

hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh những đức tính tốt ấy gồm có năm điều: “Nhân, Nghĩa, Trí,

Dũng, Liêm”.

6. Sđd, t.9, tr.284.


7. Sđd, t9, tr.291.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.557-558.
9. Sđd, t.9, tr.192.
10. Sđd, t.5, tr.631.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể

quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”11.

c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa

- Phẩm chất yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của Hồ Chí Minh. Ở Người, lòng yêu thương

con người trước hết dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người lao động, những người nô lệ, chứ không phải con người nói chung chung

mà là mỗi người cụ thể.

- Phẩm chất yêu thương con người của Hồ Chí Minh được thể hiện trong mối quan hệ “gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn”, “đồng bào

cả nước” và “cả loài người”. Nó đòi hỏi mỗi con người phải luôn luôn nghiêm khắc với mình, độ lượng, tôn trọng, tìm cách nâng cao con người

theo tầm vóc của nó, chứ không hạ thấp, càng không phải vùi dập. Người tìm cách đánh thức những gì tốt đẹp mà Người tin rằng ở mọi người đều

có, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ và đó cũng là những ước mơ ngàn đời của cả loài người.

Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận

rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với kẻ thù đã bị thương, bị bắt, hoặc đã quy

hàng.

Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”12, sống với nhau phải “có lý có tình”. Đây chính

là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất này. Đây là tình yêu thương dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một

cách chân thành, nghiêm túc, giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ “dĩ hoà vi

quý”, bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu ghét, chủ quan, cảm tính, các hiện tượng bè cánh, phường hội có thể đưa đến

những tổn thất to lớn cho Đảng, cho cách mạng.

d. Tinh thần quốc tế trong sáng

- Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vi đề cập mang tính rộng lớn nhất trong hành vi ứng xử của con

người.Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng, cao thượng gồm những nội dung sau:

+ Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề: “Bốn phương vô sản đều là anh em”13.

+ Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trên thế giới.

+ Tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.

11. Sđd, t.6, tr.184.


12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.498.
13. Sđd, t.10, tr.195.
+ Tinh thần quốc tế trong sáng hướng đến những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và

hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản hay chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công

nhân.

- Hồ Chí Minh luôn luôn cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính,

chủ nghĩa quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá

quyền. Những quan niệm sai lệch này có thể dẫn tới chỗ phá vỡ sự ổn định và thống nhất của các quốc gia, phá vỡ tình đoàn kết trong cuộc đấu

tranh chung, thậm chí có thể dẫn tới tình trạng đối đầu, đối địch.

- Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia

dân tộc. Trong hoạt động thực tiễn cần phải tăng cường giáo dục tinh thần quốc tế vô sản trong sáng trên cơ sở những định hướng của đường lối

chính trị của Đảng và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước và việc rèn luyện của cá nhân về tinh thần quốc tế.

Như vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra những phẩm chất đạo đức chung, cơ bản nhất đối với tất cả mọi người, đó là những nhân tố định

hướng đạo đức cách mạng. Từ đó, Người cụ thể hoá thành các tiêu chuẩn đạo đức cho các đối tượng khác nhau như: Thanh, thiếu niên, nhi đồng,

Công an, Bộ đội, Phụ nữ, đội ngũ tri thức, giai cấp công nhân...

3. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng

a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức

- Đây không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà còn là cơ sở phân biệt giữa đạo đức cách mạng và những cái khác nó.

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi nói về tư cách một người cách mệnh Hồ Chí Minh viết: “Nói thì phải làm”; “có lòng bày vẽ cho

người”. Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước,

làng nước theo sau”. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và

gương mẫu hơn ai hết. Chúng ta còn thấy ở Người “ít nói nhưng làm nhiều”.

-Trong lĩnh vực đạo đức, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mỗi người và có tác dụng

đối với người khác.

Đảng ta có hơn hai triệu đảng viên, nếu tất cả đảng viên thực hiện được nguyên tắc “Lời nói đi đôi với việc làm”, thì công việc dù khó

mấy cũng làm được. Nếu “nói nhiều mà làm ít” hoặc “nói mà không làm”, hơn nữa “nói một đằng làm một nẻo” thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác

dụng. Thói đạo đức giả là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột, nó hoàn toàn khác biệt với đạo đức cách mạng. Xây dựng đạo đức cách mạng,
chúng ta phải đấu tranh để làm sao trong xã hội mới không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ

người khác về đạo đức.

- Vấn đề nêu gương đạo đức cũng hết sức quan trọng và đặc biệt cần thiết: Nêu gương trong gia đình; trong nhà trường; trong tổ chức tập

thể, Đảng, Nhà nước... Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống - điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây

dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều mà chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương sáng

ngời về đạo đức cách mạng.

Tấm gương sáng ngời về đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau.

Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của những người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những

tấm gương “người tốt việc tốt” đều có ở mọi lúc, mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường, nó có ý nghĩa rất to lớn thúc đẩy cho quá trình phát

triển của đất nước ngày càng đi lên.

b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi

- Muốn xây dựng đạo đức mới thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện

sai trái xấu xa.

Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục tiêu xây. Cũng chính vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải

kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ

luật”14.

- Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới; bằng

việc nêu gương người tốt, việc tốt, những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong cuộc sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành

mạnh, để mỗi người tự giác với trách nhiệm đạo đức của mình.

- Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng chủ nghĩa tập thể.

Vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ bệnh cực kỳ nguy hiểm, do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, lãng phí, xa

rời quần chúng, xa rời thực tế; cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm hại đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân, Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù

khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã

chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội “việt gian, mật thám”.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.449.


Do vậy, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.

- Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi

Các phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; mở cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng

cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” 15. Có phong trào cho toàn Đảng, có phong trào cho từng

ngành, từng giới, từng địa phương... qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh đầy cam go, để từ đó thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để

mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của mình do Hồ Chí Minh và Đảng ta phát động đã thực sự mang lại

những hiệu quả tích cực

c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng

- Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức, đó là công việc phải làm suốt đời, không được chủ quan

tự mãn, sao nhãng rèn luyện.

Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.

Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng

đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”16. Vì vậy, Người đòi hỏi: “Gian nan rèn luyện mới thành công”, “Hiền giữ

đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”, “Kiên trì và nhẫn nại, không nao núng tinh thần”.

- Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng.

Người cách mạng phải ý thức cho được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người vào đạo đức của những con người được giải

phóng. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi những sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tu dưỡng

đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Như vậy, mới phân biệt được với cách tu dưỡng đạo đức của các nhà

Nho. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ

dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh

sôi, nảy nở rất dễ”17. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”18.

Tóm lại, các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức mới luôn luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Đó là nguyên tắc chỉ

đạo cho mỗi người phấn đấu trở thành người có đức, có tài để phục vụ tốt cho việc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.

15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.572.


16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.293.
17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.448.
18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.448.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI

1. Quan niệm Hồ Chí Minh về con người

a. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể

- Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn hướng đến

cái chân - thiện -mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. ồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các quan hệ xã hội

(quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào,…); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng (“cũng như năm ngon tay dài,

ngắn khau nhau, nhưng đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay”, “mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều là nòi giống Lạc

Hồng”); đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống và làm việc,…

- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện - ác, hay - dở, hiền - dữ… bao gồm cả tính người (mặt

xã hội) và tính bản năng (mặt sinh học) của con người. Theo Người, con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có

tình”19.

b. Hồ Chí Minh thường nói tới con người cụ thể, lịch sử

- Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng hẹp khác nhau. Nghĩa hẹp: con người trong phạm vi gia đình: anh em, họ

hàng, bè bạn... Nghĩa rộng: đồng bào cả nước. Mở rộng tối đa: con người trên phạm vi thế giới, là cả loài người.

Theo nghĩa rộng, Bác thường dùng trong một số trường hợp nói về “phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con

người”, “ai ai”,… nhưng thường đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung.

- Phổ biến nhất, Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ cụ thể hiện thực, khách quan, chứ không phải kiểu con người

chung chung trừu tượng. Con người được đặt trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trong

khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản,

nhân loại yêu chuộng hòa bình,…).

- Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội

Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất, con người xác lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ

giữa người với người. Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến

rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loại người.

2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người

19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.60.


- Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng

Hồ Chí Minh cho rằng trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân.

Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đầu thế cả”20. Người khẳng định việc dễ mấy không có nhân dân

cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong vì dân ta tốt lắm, họ là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Người chỉ ra phẩm chất tốt

đẹp của dân ta là lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh, biết nhường cơm sẻ áo, che chở, đùm

bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.

Hồ Chí Minh còn khẳng định dân ta rất tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy

đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”21, đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của nhân dân để thực hiện con đường

cách mạng. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. Người kết luận: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực

lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”22.

- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng

+ Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng

Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội.

Khi mất nước, thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền về tay nhân dân, thì mục

tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Người luận giải rằng: nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc

lập cũng không có nghĩa lý gì. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân

được học hành.

Khẳng định con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một điều quan trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,

Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người.

+ Con người là động lực của sự nghiệp cách mạng

Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân

và nông dân. Người cho rằng sự nghiệp cách mạng là do chính lực lượng bản thân của con người tạo dựng nên.

20. Sđd, t.5, tr.241.


21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.295.
22. Sđd, t.6, tr.281.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không phải mọi con người đều trở thành động lực của sự nghiệp cách mạng, mà phải là những con người được

thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử

văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.

Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ

nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Qua các phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.

Giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa con người mục tiêu và con người động lực, Hồ Chí Minh cho rằng: càng chăm lo cho con người

mục tiêu tốt bao nhiêu thì phát huy con người động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh

chóng đạt được mục tiêu cách mạng.

3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người

a. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng

Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa quan trọng của chiến lược xây dựng con người mới. Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo,

rèn luyện con người. Người đề cập tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ

bản lâu dài nhưng cũng rất cấp bách. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế

- xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ

nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã

hội chủ nghĩa.Quan điểm này về mặt lôgic không hề mâu thuẫn, cần hiểu là phải đặt ra ngay từ đầu nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm

chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện,

nâng cao và phụ thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.

Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định:

“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có nhiều biện pháp

nhưng theo Hồ Chí Minh giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Người luận giải: giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi

sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ. Bác rất đề cao vai trò của giáo dục: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu;

dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.

b. Nội dung và phương pháp xây dựng con người


Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội

chủ nghĩa lên hàng đầu. Trong việc đào tạo và sử dụng con người, Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả tài năng và đạo đức. Hai mặt Đức và Tài luôn luôn

thống nhất với nhau, không tách rời nhau, tạo điều kiện cho nhau, giúp cho con người hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng của mình. Trong hai

mặt ấy “Đức” giữ địa vị là nền tảng. Trong việc “trồng người”, Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức, Người thường xuyên bồi đắp

cái nền tảng ấy cho con người. Người yêu cầu tất cả mọi người không trừ một ai, không trừ cấp nào đều phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách

mạng.

Hồ Chí Minh coi sự nghiệp “trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội một sớm một chiều, không tuỳ tiện, sao nhãng

sự nghiệp giáo dục. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải theo tinh thần của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”, của Lênin: “Học!

Học nữa! Học mãi”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

IV. XÂY DỰNG VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc (7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất mà đa dạng trong cộng

đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan

trọng; văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận

trọng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định phải xây dựng nền

văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ,

tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan

trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá

nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và

thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê

phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công

dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự

phát triển bền vững đất nước. Mỗi bước đi lên của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa. Do đó cần phải phát triển văn hóa toàn diện,

thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời

sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Trong đó, tập trung xây dựng văn hóa chính trị

và các lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa ứng xử, văn hóa phê bình…Bên cạnh đó, cần phải phát huy và trọng dụng nhân tố con người với tư cách

là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Muốn vậy, phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, trọng dụng

trí thức và nhân tài, thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người, tạp động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân

dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con

người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung

thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với

lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu

biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “con người là trung

tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của

dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 Khóa IX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (01/2016) của Đảng nêu phương

hướng: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,

dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền

vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”23.

Đại hội XII của Đảng nêu lên các nhiệm vụ cụ thể: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con

người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.

2. Xây dựng đạo đức cách mạng

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.126.
a. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân

Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị của con người. Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực,

quy tắc, quan niệm về các giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, nhân phẩm, công bằng... được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan

hệ giữa con người với con người, con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng tới chân thiện mỹ. Để vươn tới

sự hoàn thiện đó, trước hết con người phải tự tu dưỡng, hoàn thiện mình về đạo đức.

Hồ Chí Minh cho rằng, việc tu dưỡng đạo đức cá nhân của mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu

dưỡng này còn quan trọng hơn. Vì thế hệ trẻ là “người chủ tương lai của nước nhà” 24; là cái cầu nối giữa các thế hệ - “người tiếp sức cho thế hệ

thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”3. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo việc rèn luyện đạo

đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm.

Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng

cao giá trị của chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp mỗi cá nhân vượt qua khó khăn thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi

gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất

phác, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không

hủ hoá”25.

- Tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh

Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với hoc sinh, sinh viên và thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh sớm xác

định những phẩm chất đạo đức cần thiết. Những phẩmchất đó được Người đề cập đến trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứhai

(07/05/1958), Người tómtắt “sáu cái yêu”:

+ Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động,

tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.

+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui

buồn những công tác nặng nhọc với nhân dân.

+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình

mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm.

24. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.185.


25. Sđd, t.9, tr.284.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động chỉ là nói

suông.

+ Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật”26.

Theo Người, để có được những phẩm chất đó, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: trung thành, tận tuỵ, thật thà và

chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình, đã làm gì cho nước nhà?

Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”27.

Trong học tập, rèn luyện phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân,

chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay.

Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”28.

Người chỉ rõ nhiệm vụ của học sinh sinh viên phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai.? Phải xác định rõ thế nào là

tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?”... Người dẫn giải: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm

điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, đồng bào là

bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là thù... Điều gì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, phải hết

sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”29.

b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động. Chính nhờ nền đạo đức đó, trong từng giai

đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tích to lớn, góp phần vào tiến trình chung của lịch sử nước nhà.

Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập thế giới, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành với công

cuộc đổi mới của Đảng. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình vẹn

tròn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ

được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng

26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t .9, tr 173-174.


27. Sđd, t.7, tr.455.
28. Sđd, t.7, tr.455.
29. Sđd, t.7, tr.454.
động, linh hoạt, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó máu thịt với

nhân dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Bên cạnh đó, do tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập thế giới, do sự bùng phát của lối sống thực dụng, hưởng thụ,

chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là:

+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

+ Tình trạng nhũng nhiễu, của quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức.

+ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương

mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ.

+ Biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động trong nước và quốc tế

nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”... đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn

đấu của sinh viên, thanh niên trí thức.

* Hậu quả: Một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy

theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút xách; thiếu trung thực,

gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đây là những biểu hiện suy đồi đạo đức cần được khắc phục.

- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản kiên

trung, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một con người chân chính, bình dị, gần gũi, ai cũng có thể theo học, làm theo, để trở thành

những người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy được thể hiện trong các điểm sau:

Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời

hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi

khó khăn, thách thức, thực hiện bằng mục tiêu đó.

Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cuộc đời cách

mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua biết bao khó khăn, Người kiên trì mục tiêu của cuộc sống,

bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Người tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp

lớn, tinh thần phải càng cao”.


Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha,

khoan dung và nhân hậu với con người. Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân: dựa vào dân, lấy

dân làm gốc, nguyện làm “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân, đồng bào ra mặt trận”.

Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc

sống. Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người dành tình thương yêu cho tất cả, Người chia sẻ những nỗi đau với

mỗi người. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng biệt và gộp những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại

thì thành nỗi đau khổ của tôi”

Năm là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm

tốn phi thường. Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức sang trọng. Suốt đời Người

sống trong sạch, vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và

tự mình noi gương thực hiện.

Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song

“khó ai có thể vượt hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi, mà mọi người đều có thể noi

theo.

* Đối với thanh niên, học sinh, sinh viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục qua

đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là những vừa “hồng” vừa “chuyên”, những chủ nhân tương lai của đất nước. Học tập và làm theo tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh gồm những nội dung cơ bản sau:

- Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu

nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ

nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “dù phải đốt cháy cả

dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”,

để nước ta “sánh vai với cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:

Mỗi thanh niên cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc

lập, tự do, thốn nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của
mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại

diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của

dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước

phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được

mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên

quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân,

chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân

chính.

Trung với nước, hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm

phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham

học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các

sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ

vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ

giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho

nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao

trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân...

- Hai là, thực hiện “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. “Cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát

triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về

“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn

hiện nay là:


Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao

động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà

nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

Thực hiện chí công vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Đối với thanh niên phải loại bỏ lối sống thực dụng,

vị kỷ, giành giật lợi ích cho mình, vun vén cho cá nhân... Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ

người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm...

Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với

làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì

“hăng hái”, tranh thủ kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạo. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt

vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm,

bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

- Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó, hoà mình với nhân dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn

trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân.

Học tập và làm theo Người, thanh niên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương, tất cả

vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải chia sẻ và đồng cam, cộng khổ với

nhân dân.

Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ

khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết

điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính

mình”. Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành

mạnh, trong sáng, có lý, có tình.

- Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong

sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại

vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết

hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết

quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách

mạng thế giới.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một

nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa

dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển.

Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở

rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép

lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thanh niên cần phải nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự

cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa

tư bản.Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt

đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào

hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn,

tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông

cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống

trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát

triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo

đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về khái niệm, vai trò, tính chất, chức năng của văn hóa.

Câu 2: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức, các nguyên tắc rèn luyện đạo đức cách mạng. Liên hệ với việc rèn luyện đạo

đức của sinh viên hiện nay.

Câu 3: Phân tích các phẩm chất đạo đức của người cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí MInh

Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Câu 5: Thuyết trình sự khác biệt về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tư tưởng đạo đức Nho giáo.

You might also like