You are on page 1of 91

Sở giáo dục và đạo tạo Hà Nội

Trường đại học Mỹ Thuật Công Nghệp

Môn : lịch sử thời trang

LỊCH SỬ THỜI TRANG TRUNG QUỐC

Giảng viên : Bùi Trinh


Nhóm 8:
Nguyễn Thị Hoa
Đặng Khánh Huyền
Nguyễn Phương Anh
Vũ Thị Nhung

Hà nội 7-6-2022

1
Mở Đầu
Lời nói đầu :
** **
Trung Quốc là một đất nước có nền văn hóa lâu đời, được coi là một trong những cái nôi
văn minh của nhân loại với lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm qua các triều
đại khác nhau. Khi tìm hiểu về văn hóa Trung Quốc, ngoài ẩm thực ra thì trang phục của
người Trung Quốc cũng là một chủ đề khá thú vị để chúng ta tìm hiểu. Trang phục của
mỗi triều đại đều có nét đặc sắc riêng. Hiện nay các bộ phim cổ trang lấy bối cảnh lịch sử
cũng phần nào tái hiện được đặc trưng trang phục của Trung Quốc qua các thời đại

Mục lục:
Mở đầu:
Nội dung:
1.Giới thiệu tổng quan về Trung Quốc
1.2 Vị trí địa lý
1.3 đặc trưng kính tế - chính trị
1.3.1 kính tế
1.3.2 chính trị
1.4 văn hóa
1.4.1 văn hóa Hán tự
1.4.2 văn hoc ẩm thực
1.4.3 nghệ thuật kinh kịch
1.4.4 Kiến trúc
1.5n đặc điểm thời trang Trung Quốc ngày nay
1.5.1 phong cách và tiêu chuẩn sắc đẹp
1.5.2 phòng các thời trang ở Trung Quốc
1.5.3 chủ nghĩa dân tộc lên ngôi

2
2. thời trang Trung Quốc qua từng thời kì
2.1. Trang phục nhà Hạ (2070 TCN – 1600 TCN)
2.2. Trang phục nhà Thương (1600 TCN – 1046 TCN)
2.3: Trang phục nhà Chu 
2.4:Trang phục nhà Tần (221 – 207 TCN) 
2.6. Trang phục nhà Đường (618 – 907) 
2.5:. Trang phục nhà Hán (202 TCN – 220) 
2.6 trang phục thời Đường
2.7 Trang phục đời Tống
2.8 Trang phục thời nhà Minh(1368-1664)
2.9 Triều Thanh
2.10 Thời Mãn Thanh
2.11 Trang Phục thời Trung Hoa Dân Quốc
3. Ảnh huỏng đến thời trang hiện đại
Kết luận

*****

Nội Dung

Phần 1: Giới thiệu tổng quan về Trung Quốc


1.2. Vị trí địa lý
Trung Quốc ,quốc hiệu là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một quốc gia có chủ
quyền nằm ở khu vực Đông Á. Đây là quốc gia đông dân nhất trên thế giới với dân số
ước tính đạt khoảng 1,405 tỷ người.
3
Với diện tích 9.596.961 km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ 4 trên
thế giới và là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ 3 hoặc thứ 4 tùy theo phương pháp đo
lường. 
1.3. Đặc trưng kinh tế - chính trị
1.3.1. Kinh tế
Giai đoạn sau khi thành lập, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lần lượt trải qua các công
cuộc đại cải cách kinh tế - văn hoá - xã hội bằng những "Phong trào", "Chiến dịch" cùng
"Kế hoạch 5 năm"Các kế hoạch này thất bại dẫn đến hậu quả là nạn đói, xã hội bất ổn,
kinh tế tụt hậu, nhiều di sản văn hoá bị phá hủy và mối quan hệ giữa các giai cấp trở nên
căng thẳng, bạo lực. Kể từ sau khi tiến hành cải cách kinh tế theo hướng mở cửa vào năm
1978, nền kinh kế Trung Quốc với quy mô dân số khổng lồ đã có tốc độ tăng trưởng
nhanh chóng.
1.3.2. Chính trị
Trung Quốc là quốc gia đơn đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, chính phủ
trung ương đặt tại thủ đô Bắc Kinh. Trung Quốc là một cường quốc và một số học giả
nhận định đây là một trong những siêu cường tiềm năng trên thế giới. Trung Quốc đang
có mục tiêu trở thành một siêu cường có thể cạnh tranh với Hoa Kỳ trên mọi mặt: kinh tế,
chính trị, quân sự, văn hóa; thậm chí đặt tham vọng sẽ thay thế Hoa Kỳ để trở thành siêu
cường số 1 thế giới trong tương la
1.4. Đặc trưng văn hóa
Văn hóa Trung Quốc là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất và phức tạp nhất trên
thế giới. Các vùng mà văn hóa Trung Quốc thống trị trải dài trên một khu vực địa lý rộng
lớn ở miền Đông châu Á với các phong tục và truyền thống rất nhiều điểm khác nhau
giữa các thị trấn, thành phố và tỉnh. Văn hóa Trung Quốc đã lan truyền và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các dân tộc, quốc gia lân cận như Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.
Có thể nói văn hoá nghệ thuật của Trung Quốc là một đề tài bất tận cho bất kỳ ai muốn
nghiên cứu về văn hoá Trung Quốc. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực như thơ ca, văn học, ca
kịch cho đến kiến trúc, mỹ thuật…
1.4.1. Văn hóa Hán tự
Chữ Hán do nhân dân lao động cùng nhau tạo ra trong quá trình sản xuất lâu dài của
họ.Ban đầu chữ Hán là những hình vẽ thô sơ biểu ý, sau đó dần dần được hoàn thiện.

4
Chữ Hán là văn tự cổ xưa nhất hiên nay còn tồn tại trên thế giới. Từ khi xuất hiện cho
đến nay nó đã ảnh hưởng rất lớn đến các dân tộc khác trên thế giới như VIệt Nam, Triều
TIên, Nhật Bản,..
1.4.2. Văn hóa ẩm thực
Mỗi một đất nước đều có phong tục tập quán ăn uống riêng biệt và Trung Quốc cũng vậy.
Theo quan niệm của người Trung Quốc “thuốc bổ không bằng ăn bổ” có ý nghĩa khi tẩm
bổ dưỡng sinh nên chú ý ăn uống. Tuy rằng điều kiện kinh tế của mỗi người khác nhau
nhưng họ vẫn luôn chú trọng đến lượng dinh dưỡng có trong món ăn của mình. Dần dần
việc ăn uống đã đi sâu vào các mặt trong đời sống của người dân, vì vậy đã xuất hiện
những nghi lễ ăn uống trong xã giao, tập tục ăn uống trong những ngày lễ tết, tập tục ăn
uống theo tín ngưỡng, tập tục ăn uống trong hôn lễ và mai táng, trong ngày sinh nhật…
1.4.3. Nghệ thuật Kinh Kịch
Đây là một loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện hợp nhất giữa “Ca, nói, biểu hiện, đấu
võ, vũ đạo” để thuật lại cốt truyện, khắc hoạ nhân vật trong lịch sử, truyền thuyết. Các
nhân vật trong kinh kịch chủ yếu được chia làm bốn vai lớn: Sinh (vai nam), Đán (vai
nữ), Tịnh (vai tà), Sửu (vai hề), ngoài ra còn có một số vai phụ.
1.4.4. Kiến Trúc
Nổi tiếng trên khắp thế giới bởi những công trình kiến trúc Trung Hoa hoành tráng, xa
hoa, trong đó kết hợp hài hoà giữa các yếu tố địa lý, khí hậu, tôn giáo và cả phong tục tập
quán chỉ trong một công trình duy nhất. Các vật liệu chủ yếu để xây dựng các công trình
kiến trúc độc đáo này là gỗ, đá, gạch, ngói, đất bùn và kim loại trong đó, người Hoa chủ
yếu dùng gỗ để xây dựng nhà ở. Sở hữu kỹ thuật thiết kế ấn tượng và xử lý các kết cấu gỗ
tài tình của người Trung Hoa đã khiến cả thế giới phải kinh ngạc và nể phục.

5
1.5. Đặc điểm thời trang Trung Quốc ngày nay
1.5.1. Phong cách và tiêu chuẩn sắc đẹp:

6
Tiêu chuẩn sắc đẹp thịnh hành ở Trung Quốc ngày nay là làn da trắng không tì vết. Với
phụ nữ thì cần có mắt 2 mí rõ ràng, gương mặt nhỏ và cằm nhọn , cùng với than hình
thon gọn mảnh khảnh. Với đàn ông quan trong chiều cao
1.5.2. Phong cách thời trang Trung Quốc
Hiện nay, những con phố đông đúc của xứ sở tỉ dân như Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng
Khánh… đang tràn ngập những phong cách đường phố phong phú của cả nam và nữ. Bên
cạnh những phong cách cá tính, năng động đó là những bộ street style dịu dàng, quyến rũ.

Set dạ Tweed nữ tính và thanh lịch 


Đây là item thời trang đường phố Trung Quốc mà các cô nàng “bánh bèo” luôn có trong
tủ đồ của mình. đó. Mẫu trang phục set dạ tweed hầu như không kén người mặc bởi có sự
linh hoạt cả về thiết kế và màu sắc.
Ngoài ra còn có thể kết hợp với các phụ kiện dễ dàng. Ví dụ, set có thể kết hợp với 1
chiếc áo body: áo 2 dây, áo len cao cổ, áo sơ mi,… Cùng giày cao gót hoặc boots cao cổ
sẽ tạo nên vẻ bắt mắt.

7
Những chiếc Blazer cách điệu thu hút mọi ánh nhìn
Blazer được xem là phiên bản cách điệu, có phần thoải mái hơn các mẫu áo vest nghiêm
túc truyền thống khác. Ngoài những tone trầm, bảng màu của blazer cũng đa dạng hơn
với các tone màu tươi sáng giúp tạo nên cảm giác trẻ trung tươi mới.

Về vấn đề phối trang phục thời trang đường phố Trung Quốc, một chiếc blazer có thể dễ
dàng kết hợp với bất cứ một item khác như quần âu, quần jeans, váy công sở, váy dài,
hoặc chỉ là một chiếc váy body. Với những set đồ phối cùng blazer như vậy, bạn có thể
thoải mái đi làm, đi chơi, đi hẹn hò,…
Sự kết hợp giữa quần/váy jeans cùng sơ mi cách điệu và gile len

8
Quần jeans nữ hiện nay được giới trẻ Trung Quốc thiết kế cách điệu với nhiều form dáng
và chất liệu khác nhau. Ví dụ như bạn có thể kết hợp với quần ống ôm (skinny), quần ống
loe, hay quần xước/rách,…. Có thể nói đây là phong cách không quá kén dáng người
mặc.

Quần áo oversize:
Nói đến trang phục oversize của thời trang đường phố Trung Quốc, chúng ta sẽ nghĩ ngay
đến hình ảnh những cô nàng và những chàng trai có cá tính mạnh mẽ và. Từ áo sơ mi, áo
phông, hay quần dài đều có form dáng khá rộng.

9
Áo thun unisex cũng là lựa chọn của rất nhiều bạn trẻ. Đặc biệt là các loại áo thun mềm
mại, mịn màng và thoáng mát. Sự khác biệt ở đây chính là form áo cực kì rộng rãi, tạo sự
thông thoáng, thoải mái cho người mặc.

1.5.3. Chủ nghĩa dân tộc lên


ngôi
Sự lên ngôi của chủ nghĩa tiêu dùng dân tộc tại Trung Quốc góp phần đưa ngành thời
trang nội địa phát triển mạnh mẽ. Điều này khiến nhiều thương hiệu quốc tế đang kiếm
tiền tại thị trường tỉ dân 'đau đầu' tìm cách cạnh tranh.

10
Ngành thời trang nội địa Trung Quốc từng bước vượt mặt các thương hiệu ngoại trên 'sân
nhà'

Thời trang nội địa bùng nổ


Theo Nikkei Asia, chủ nghĩa tiêu dùng dân tộc đang ngày càng trở nên phổ biến tại Trung
Quốc đã thúc đẩy sự phát triển của ngành thời trang nước này đồng thời gây áp lực không
nhỏ lên các thương hiệu thời trang đến từ phương Tây.
Sự thay đổi sở thích mua sắm đã làm nảy sinh xu hướng guochao (được dịch là: China
chic) với các thiết kế mang đậm yếu tố Trung Quốc. Từ những sáng tạo phảng phất văn
hóa truyền thống đến những biểu tượng công nghệ cao gắn liền với đất nước này hay các
sự kiện đáng tự hào đã được các thương hiệu nội địa sử dụng thường xuyên.
Phần 2: Thời trang Trung Quốc qua từng thời kỳ
2.1. Trang phục nhà Hạ (2070 TCN – 1600 TCN)
Nhà Hạ là nhà nước phong kiến sớm nhất của lịch sử Trung Hoa. Trang phục thời này
chủ yếu là màu đen. Trang phục nhà Hạ với hai phần chính là áo trên và quần dưới. Phần
áo trên tượng trưng cho trời, thường dùng màu đen để dệt. Phần dưới tượng trưng cho đất
nên lấy màu vàng làm chủ đạo. Cả bộ trên đen, dưới vàng tượng trưng trời và đất rất đơn
giản. 

11
Tr
ang phục Trung Quốc nhà Hạ
2.2. Trang phục nhà Thương (1600 TCN – 1046 TCN)
Thời nhà Thương chỉ có một loại trang phục. Trang phục không phân biệt địa vị, tầng lớp
giàu nghèo cũng không phân biệt giới tính. Tất cả người dân đều mặc trang phục giống
nhau. Cũng được chia làm hai phần như trang phục thời nhà Hạ, tuy nhiên áo và quần đã
có chút cải tiến. Phần áo gồm hai loại. Một loại dài đến thắt lưng và loại dài hơn đến đầu
gối. Phần tay áo được may nhỏ. Bên dưới là quần/váy được giấu trong áo. 

12
Trang phục nữ dân gian có thêm một chiếc tạp dề nhỏ dài không quá đầu gối. Đây là
điểm khác biệt duy nhất giữa trang phục nam và nữ thời nhà Thương. 
2.3: Trang phục nhà Chu 
 
Trang phục nhà Chu (1046 TCN – 256 TCN) 
Có hai loại chính là ống tay to và ống tay nhỏ. Phần nếp phía cổ áo được gập sang bên
trái, không đính khuy hay cài cúc. Cách cố định áo là dùng đai lưng thắt ở phần eo. Đai
lưng cũng có thể đeo thêm ngọc bội như trang sức cho trang phục. 
 
Phần áo thời nhà Chu được cải tiến hơn. Có hai loại chính là ống tay to và ống tay nhỏ.
Phần nếp phía cổ áo được gập sang bên trái, không đính khuy hay cài cúc. Cách cố định
áo là dùng đai lưng thắt ở phần eo. Đai lưng cũng có thể đeo thêm ngọc bội như trang sức
cho trang phục. Độ dài ống quần hay vạt váy không quá khắt khe. Có vạt dài đến đầu gối
nhưng có vạt dài chấm đất.  
 

13
 
 
Trang phục nam- nữ thời nhà Chu. 
 
2.4:Trang phục nhà Tần (221 – 207 TCN) 
Được coi là triều đại phong kiến đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Trung Quốc, giai
đoạn chuyển từ nô lệ sang phong kiến nên trang phục nhà Tần cũng có nhiều thay đổi.
Thời nhà Tần bắt đầu có quy định trang phục cho các tầng lớp khác nhau. Vua phải mặc
long bào, đội mũ ngọc. Màu sắc quần áo cũng được quy định rõ ràng. Màu đen và vàng
dùng cho tầng lớp quý tộc, tôn quý. Còn dân thường chỉ được mặc màu trắng. 
Nhà Tần rất nổi tiếng với vị vua bạo chúa Tần Thủy Hoàng, người đã thống nhất 6 nhất
nước rời rạc thành một đế quốc hùng mạnh lúc bấy giờ, do là thời nhà Tần vẫn còn ảnh
hưởng khá nhiều về văn hóa lẫn trang phục của các triều đại trước nên khi Doanh Chính
lên ngôi cũng không thay đổi mấy. Chúng ta thấy trang phục giữa thời Tần và Tam Quốc
khá giống nhau, tuy nhiên ở nhà Tần, trang phục màu đen được ưa chuộng rất nhiều.
Ngoài ra, ở Tần Quốc thì màu đỏ chính là một trong những màu chủ đạo trong trang phục
của các công tôn quý tộc, trang phục của nữ thì màu sắc có phần nhẹ nhàng hơn. 

14
 
 
 
 

Tr
ang phục nhà Tần Trung Quốc 

15
 
 
2.5:. Trang phục nhà Hán (202 TCN – 220) 
Thời nhà Hán vào giai đoạn năm 206 Tr.CN kéo dài đến năm 220 S.CN được cho là thời
đại phát triển trong lịch sử Trung Hoa. Kỹ thuật, kinh tế đều có sự tiến bộ vượt bậc. Khán
giả xem phim Đại Hán hiền hậu Vệ Tử Phu do Lâm Phong và Vương Lạc Đan đóng có
thể thấy được sự xa hoa trong từng trang phục hoàng triều. 

 
Trang phục thời Hán cũng khá giống trang phục thời nhà Tần tuy nhiên có phần đổi mới
về màu sắc lẫn các kiểu tóc, nếu ở nhà Tần các màu sắc tối được cho là “cao cao tại
thượng” thì ở nhà Hán màu sẽ sáng hơn đôi chút. Trang sức thời nhà Hán cũng lung linh
nhưng không đồ sộ bằng các triều đại sau như nhà Đường, nhà Minh, nhà Thanh… 
 
Trang phục nhà Hán so với nhà Tần không quá khác biệt. Tuy nhiên màu sắc trang phục
có phần phong phú và tươi sáng hơn.  

16
Trang phục nhà Hán không quá khác biệt 
 
Mũ và kiểu tóc . 
 
Mũ (dành cho nam giới) hoặc miếng tóc (đối với phụ nữ) có thể được đeo. Người ta
thường có thể nói cho nghề nghiệp hoặc xếp hạng xã hội của một ai đó bởi những gì họ
mặc trên đầu của họ. Các loại điển hình của mũ nón Nam được gọi là Cân cho mũ mềm,
Mạo cho mũ cứng và quan. Quan chức và học giả có một bộ riêng biệt của mũ, điển hình
là phốc đầu, các ô sa mão .Một sợi tóc điển hình cho phụ nữ là kê (笄) nhưng có những
miếng tóc phức tạp hơn. 
 
2.6. Trang phục nhà Đường (618 – 907) 
Nhà Đường được coi là thời kỳ hùng mạnh, hưng thịnh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Vì
kinh tế rất phát triển nên xu hướng trang phục cũng có nhiều đổi thay “táo bạo” hơn.
Trang phục phụ nữ không còn kiểu kín cổng cao tường nữa. Thay vào đó là những chỗ hở
phóng khoáng khoe da khoe thịt hơn. Tầng lớp càng quý tộc sẽ được phép hở cổ càng
bạo. Đến thường dân, phụ nữ không được phép mặc các trang phục hở như vậy. 
Giai đoạn nhà Đường được coi là kỷ nguyên vàng của thời phong kiến Trung Hoa. Trang
phục của nhà Đường có bước ngoặt thay đổi khá lớn về kiểu cách, nếu như ở các triều đại
trước và sau đều theo quan niệm kín đáo thì ở thời Đường sẽ càng “khoe da hở thịt”, phải

17
nói là quyến rũ nhất Trung Quốc. Hơn thế nữa là thay vì các triều đại trước lấy tông vải
màu đen, đỏ và trắng để làm màu chủ đạo cho trang phục thì sang triều đại nhà Đường sẽ
khác hoàn toàn… Màu sắc tươi sáng vô cùng, màu chủ đạo của vua là màu vàng kim,
hoàng hậu cũng vậy. Bên cạnh đó những chi tiết trên trang phục rất công phu. Trang sức
cho các tiểu thư, cung nữ, phi tần cũng rất bắt mắt 

Trang phục nam: Áo dài, cổ tròn và khăn vấn đầu 

Khăn vấn đầu là loại khăn bông dùng cây ngô đồng, sợi gai, da thuộc chế tạo thành. Nó
có tác dụng như một búi tóc giả, bảo đảm tạo hình bên ngoài cố định. Khăn vấn đầu có
hai chân, giống như hai cái đai, từ sau đầu tự nhiên thẳng xuống, đến gáy hoặc quá vai,
hoặc mềm hoặc cứng, hoặc tròn hoặc rộng, có thể thay đổi linh hoạt. Áo dài cổ tròn, còn
có tên gọi “cổ đoàn viên” là trang phục chính của đàn ông thời Tùy - Đường. 
Áo này thông thường là cổ tròn, phía dưới áo choàng, vạt trước bên phải có thiết kế một
đường ngang, là trang phục dùng trong các trường hợp long trọng. Thông thường đa số
người ta mặc áo choàng cổ tròn, khăn vấn phối với giày đen, vừa thoải mái, phóng
khoáng, lại không mất đi khí chất uy vũ anh hùng. 

18
Trong các bức họa cổ như “Bộ Liên đồ”, “Du kị đồ quyến”, “Hàn Hi tải dạ yên đồ”, “Phu
nhân nước Quắc du xuân đồ”, chúng ta có thể thấy nam nữ thời đó đều thịnh hành các
mẫu trang phục như vậy. Áo dài của quan viên thời Đường cũng dùng nhiều mẫu này,
chủ yếu lấy màu sắc để phân biệt đẳng cấp. 
Áo dài màu vàng đương nhiên được coi là sắc phục dành cho Hoàng đế. Màu vàng của
hoàng phục bắt đầu sử dụng từ triều Đường cho đến triều nhà Thanh, trước sau kéo dài
hơn 1300 năm. Thông thường màu tím quy định là trang phục của quan viên tam phẩm
trở lên. Màu đỏ rực là trang phục của quan ngũ phẩm trở lên. Màu xanh lục là trang phục
của quan lục phẩm thất phẩm, còn bát phẩm, cửu phẩm là màu xanh lam. 
Trang phục quân sự 2

 
 
19
Xét về tổng thể, phụ nữ thời Đường theo đuổi ba xu hướng làm đẹp: Về hình thức:
Chuyển từ kín đáo sang hở hang. Về trang sức: Chuyển từ đơn giản sang phức tạp. Về
phong cách trang phục: Chuyển từ giản dị sang xa hoa. Về hình thể: Chuyển từ thanh
mảnh sang đẫy đà.  
 
Trang điểm và kiểu tóc : 
Kiểu cách thời trang của phụ nữ Đường triều thể hiện qua 5 phương diện: kiểu tóc, dáng
lông mày, môi, ngực và y phục. Vào thời kỳ này, phụ nữ thường để tóc theo 3 kiểu
chính: Tóc xõa cho các thiếu nữ chưa chồng, tóc búi cao sát đầu cho người đã có chồng,
và tóc búi cầu kỳ dành cho giới quý tộc. Lúc bấy giờ, những người phụ nữ có địa vị trong
xã hội rất ưa chuộng các kiểu búi cao và lớn như: búi đôi, búi mây, búi hình hoa… Thậm
chí, để tăng thêm độ "kỳ quái" cho mái tóc của mình, họ còn sử dụng thêm nhiều trang
sức được chế tác vô cùng tinh xảo. 
Về cách trang điểm cho lông mày, phụ nữ thời này thịnh hành hai kiểu vẽ: vẽ lông mày
mảnh và dài, hoặc kẻ khuôn lông mày rộng, nhưng ngắn. Điểm chung của họ là đều tô
lông mày nhạt. Bởi vậy, khi miêu tả về "nét xuân sơn" của nữ nhân Đường triều, cổ nhân
thường hay dùng cụm từ "đạm tảo nga mi" (lông mày tô nhạt). 
Đường triều cũng là thời đại đánh dấu sự ra đời của son môi tại Trung Hoa. Lúc bấy giờ,
son được chế tạo từ một chút đất sét đỏ, khoáng và mỡ động vật, có tên gọi là "ô
cao". Khi mới ra đời tại Trung Quốc, son môi chủ yếu được đựng trong những hũ nhỏ với
nhiều hình dạng khác nhau, rất tiện lợi và có thể mang theo người. 

Tống(960-1279)
Trang phục nhà Tống được đánh giá là khá sang trọng, ngay cả trang phục của thường
dân. Trang phục nữ thời Tống thường là bên trên mặc áo ngắn, ống tay bó, bên dưới mặc
váy dài và thường khoác bên ngoài áo khác dài có hai vạt đối xứng 
 

20
2.7 Trang phục đời Tống
(Nguồn ảnh: https://vozforum.org/threads/quoc-su-quan-voz.63936/page-74)

Trang phục chính thức của nhà Tống được chia thành quần áo tế lễ, quần áo cung đình,
quần áo thời vụ, quân phục, đồ tang
Trang phục của triều đại nhà Tống cũng không hề bảo thủ, trang phục của triều đại nhà
Tống tiếp nối thời nhà Đường, chủ yếu là hở một nửa bầu ngực.

21
Tác phẩm "Di chuyển thị trường cờ bạc Minh Nguyên" của họa sĩ thời Nam Tống
Liu Songnian, một người phụ nữ đi mua trà với chiếc váy trẻ em của mình
Trước đây, có người đặc biệt xác minh rằng vị trí của đỉnh ống ở thời Tống là thấp. Quần
áo Trung Quốc dường như đã có xu hướng trang phục nữ tính từ cuối thời Đông Hán, và
thời trang địa phương đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Ngô và nhà Chu. Từ quan điểm của
toàn bộ triều đại, tỷ lệ lộ ngực của phụ nữ thời Tống đạt đến đỉnh điểm.

22
Trong tác phẩm "Dệt tằm" của Liang Kai, một họa sĩ thời Nam Tống, những người phụ
nữ trong đó cũng mặc áo ống và áo khoác, phần ngực lộ ra ngoài.
Quần áo dân sự cổ đại và quần áo quý tộc khác nhau rất nhiều về chất liệu và kích cỡ,
nhưng hình dáng của quần áo phụ nữ thì tương tự nhau. Tiêu chuẩn sắp xếp trang phục
dân sự trong triều đại nhà Tống là áo ống và áo khoác ngoài.

Người giúp việc của đại gia đình


Bà già tội nghiệp trong Bánh xe quay của Wang Juzheng

Nữ công dân triều Tống

Các tác phẩm chạm khắc trên đá thời nhà Tống ở Dazu, Trùng Khánh

23
Phụ nữ chăn gà ở nông thôn thời Tống cũng mặc loại váy xẻ tà này. Hầu hết những thứ
cô mặc không phải váy mà là tạp dề, đây là phong cách thường thấy của phụ nữ làm việc
thời nhà Tống, khi đi làm, họ sợ bẩn quần áo nên đã đeo tạp dề. của đầu bếp, có hai kiểu
là hoàn tác tạp dề và không hoàn tác tạp dề.

"Đầu bếp khắc gạch"


Quần áo thời nhà Tống
Trang phục của nhà Tống nhìn chung tuân theo hệ thống cũ của nhà Tùy và nhà Đường,
tuy nhiên, do triều đại nhà Tống đang trong thời gian dài nội ngoại rối ren, cộng với ảnh
hưởng của các yếu tố như tư tưởng giam cầm của Triết lý của Cheng Zhu, trang phục thời
kỳ này chủ trương đơn giản, chặt chẽ và tinh tế. 
Chiếc mũ futou dành cho bàn chân mềm của Tang giờ đã phát triển thành một chiếc mũ
futou lót bằng xương gỗ và phủ một lớp băng gạc sơn mài. 
Hoàng đế và chức sắc đeo khăn choàng kín chân, gia nhân và người hầu đeo khăn choàng
không chân, học giả đội khăn trùm đầu. 
Trang phục nam giới thời Tống vẫn chủ yếu là áo choàng cổ tròn.
Kiểu tóc của phụ nữ đắt nhất là kiểu búi cao thịnh hành vào cuối thời nhà Đường. Hoa cài
trong cặp tóc đã trở thành chuẩn mực, váy của phụ nữ hẹp hơn váy thời nhà Đường và có
nếp gấp "nhiều như lông mày cau";

24
Quần áo thời nhà Tống Quần áo nam giới thời Tống nhìn chung theo kiểu nhà Đường,
người thường mặc áo choàng có cổ chéo hoặc cổ tròn.

25
Thời đó, các quan về hưu và các quan văn-học thường mặc một loại áo dài hai tà gọi là
áo dài hai thân, có ống tay rộng, viền đen ở cổ tay, viền cổ và góc áo, đội mũ hình thùng
vuông. trên đầu, gọi là "Dongdong". Khăn dốc ".
Trang phục của phụ nữ thời nhà Tống là áo ngắn ở trên và váy dài ở dưới, thường mặc áo
choàng dài tay nhỏ có đôi phía trước bên ngoài áo bào. tương tự như áo vest ngày nay, cổ
áo và mặt trước của áo choàng được thêu ren rất đẹp.

26
Vào thời nhà Tống, áo đơn được gọi là áo sơ mi, cổ tay áo không được tháo ra (nghĩa là
còng). Có áo sơ mi ngắn làm đồ lót và áo sơ mi dài làm áo khoác ngoài. Áo sơ mi có gài
kẻ ngang ở viền là đồng phục của nam giới.
Áo khoác và quần áo bằng vải bông được gọi là Ru và Ao, Ru Ao là trang phục thường
thấy của thường dân. Vào thời Tống, người ta còn phổ biến thêm một chiếc áo khoác
rộng không có viền ngang ở bên ngoài quần áo, loại có cổ chéo và viền gọi là thân thẳng,
loại có cổ thẳng và phía. 
Áo khoác ngoài của phụ nữ chủ yếu bao gồm áo và váy ru, phần trên có xu hướng ngắn
và hẹp, phần dưới phổ biến là váy xếp li. Đồ lót bao gồm áo ống và áo ôm bụng, quần tây
không được lộ ra ngoài và chỉ những người kém cỏi mới mặc quần tây một mình. Trước
đó, biên tập viên đã giới thiệu loại áo khoác ngắn tay "nửa cánh tay" phổ biến vào thời

27
nhà Đường, trong khi áo khoác phổ biến vào thời nhà Tống được gọi là Beizi. Beizi có
thể dài hoặc ngắn, có tay dài và tay ngắn, và đặc điểm của nó là đường xẻ hai bên để hở
hết nách.

Người phụ nữ mặc lưng trong "Yaotai Stepping to the Moon" 

Beizi
Beizi, còn được gọi là Beizi, Chuozi, được thêu vào thời nhà Tống. Nó là một loại trang
phục truyền thống của dân tộc Hán. Phong cách của nó chủ yếu là cổ áo thẳng và phía
trước, với phần hông hở dưới nách, buộc bằng dây thắt lưng lụa ở eo và dài dưới đầu gối.

28
Bài ca củ

a một nghệ sĩ vô danh thời Nam Tống


Beizi tay rộng, chỉ trên placket, được trang trí bằng ren, và cổ áo kéo dài đến viền. Nếu
tay áo hẹp, cổ tay áo và cổ áo được trang trí bằng ren, ren của cổ áo chỉ dài đến ngực.
Bị ảnh hưởng bởi triết lý của Cheng Zhu vào thời nhà Tống, thẩm mỹ của người dân theo
đuổi sự đơn giản. Áo choàng nữ được khoác bên ngoài và trở thành kiểu đồng phục đặc
trưng.

Ca kỹ Zaju ở Beizi

29
Thời Nam Tống (tiểu sử) Zhou Wenju, "Palace Maid, Tuan Fan"

Song Wang Juzheng, "Bài thơ khắc trên lá đỏ", mực và màu trên lụa

Váy
Có 6, 8 và 12 váy vào thời nhà Tống. Có rất nhiều nếp gấp. Một chiếc váy xếp ly được
khai quật từ lăng mộ của Hoàng Thành thời Nam Tống ở Phúc Châu. Ngoại trừ hai chiếc
ở hai bên không có nếp gấp, bốn chiếc còn lại mỗi chiếc có 15 nếp gấp, tổng cộng là 60
chiếc. nếp gấp. Vào thời nhà Tống, cũng có kiểu váy có lỗ hở phía trước và phía sau, gọi
là váy xoay. Trang trí của váy hoặc được sơn, nhuộm, hoặc thêu bằng vàng, hoặc trang trí
bằng ngọc trai. Màu sắc là màu vàng được nhuộm bởi rễ hoa tulip, và màu đỏ được tô
điểm bởi âm nhạc Kabuki. Váy xanh lam chủ yếu được mặc bởi phụ nữ lớn tuổi hoặc phụ
nữ nông thôn.
Váy Ru
Nhà Tống kế thừa váy Ru từ thời nhà Đường và sử dụng nó làm trang phục chính cho
phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày. Do ảnh hưởng của trang phục dân tộc thiểu số, vạt áo
của váy Ru ở thời Tống có thể sang trái hoặc sang phải; thường có trang trí vòng ngọc -
"Ruy băng vòng ngọc" treo trên dây chuyền ở giữa váy, đó là được sử dụng để nhấn
chiều rộng của váy và làm cho Khi cơ thể di chuyển, váy sẽ không bị mất đi sự thanh lịch
và trang trọng bởi bay trong gió.

30
Một người phụ nữ với một cái kẹp tóc, một chiếc váy và một tấm vải lụa

Phụ nữ nông thôn mặc váy ru

Cung nữ mặc áo sơ mi hẹp và ngắn

31
Cung nữ mặc váy Ru và lụa (Tác phẩm điêu khắc trong phòng thờ Đức Mẹ Jinci, Thái
Nguyên, Sơn Tây)
Futou
Futou rất phổ biến vào thời nhà Tống, lúc này Futou được lót bằng xương gỗ và phủ bằng
sợi sơn mài, phẳng và đẹp. Dạng đầu bàn chân đa phần là dạng bàn chân thẳng, tức là
dạng bàn chân duỗi thẳng ra ngoài. Ngoài ra, còn có futou chéo chân và futou chân
Chaotian Bàn chân bắt chéo là futou có hai bàn chân nâng lên sau nắp và bắt chéo vào
nhau;

Vị hoàng đế với bàn chân và đầu thẳng ("Tượng các vị hoàng đế của các triều đại trong
quá khứ" ở Nanxun Hall)

32
Hoàng đế đội vương miện, mặc áo nịt và một vị quan mặc áo bào (Một phần trong "Nghe
lời Tần" của Triệu Khiết)

Quần dài
Do sự phát triển của đồ nội thất vào thời nhà Tống và việc sử dụng ghế Taishi, ghế đẩu,
ghế đẩu, bàn trang điểm, v.v., mọi người đã phát triển từ ngồi trên ghế và trường kỷ sang
ngồi đặt chân xuống, và khi họ đi ra ngoài, chúng đã phát triển. từ ngựa và ghế sedan đến
xe bò, xe một bánh, xe ngựa., xe taiping, ô tô phẳng, ô tô sedan cũng đã phát triển từ ô tô
lớn đến ô tô nhỏ không có rèm cửa. Nhịp sống nhanh hơn trước và sự phản chiếu trong
phong cách quần áo là sự thay đổi hình dạng của quần tây. Quần dài thời xưa không có
đũng mà quần đùi có đũng, theo đạo đức thời phong kiến, phụ nữ không được mặc hai

33
loại quần này và phơi ra bên ngoài. Phụ nữ trong tầng lớp thượng lưu của triều đại nhà
Tống mặc quần dài phủ váy dài. Chiếc quần dài hở mép không có đường khâu ở bên
ngoài quần được khai quật từ Lăng mộ Hoàng Thành vào thời Nam Tống ở Phúc Châu là
loại quần mặc bên trong váy dài. Các cô gái điếm mặc áo sơ mi và quần đũng thay vì váy,
đây là một cải tiến lớn về chức năng.

34
(Nguồn ảnh Yueyinchi Culture and Internet)

2.8 Thời Minh( 1368-1644)


Quần áo thời nhà Minh đề cập đến quần áo của triều đại. Trang phục của nhà Minh kế
thừa phong cách của nhà Tống và nhà Nguyên, nhưng chúng cũng có một mức độ khác
biệt và tiến hóa nhất định, ví dụ, những chiếc kéo phổ biến trong thời nhà Minh được kế
thừa từ áo khoác thắt lưng của người Mông Cổ thời Nguyên. Triều đại. Vào thời kỳ giữa
và cuối, những hình dạng và phong cách chưa từng thấy ở thế hệ trước, chẳng hạn như cổ
áo đứng , và một số lượng lớn các nút kim loại đã được sử dụng ở phần dễ thấy của quần
áo. Nó dần dần bị cấm trong thời nhà Thanh, nhưng vẫn còn một số phong cách và tính
năng tồn tại cho đến ngày nay. Trang phục dân tộc (Hanbok, Ryukyu, Yuefu) của
người Triều Tiên , Ryukyu và Jing từ thời cận đại đến cận đại cũng chịu ảnh hưởng sâu
sắc của trang phục thời nhà Minh.
2.8 .1Quần áo hoàng gia và quý tộc
2.8.2Trang phục hoàng đế triều Minh

Quần áo và quy định của Hoàng đế Vương triều Minh Trang phục hoàng đế của triều đại
nhà Minh bao gồm Mianfu, Bianfu da, Wu Bianfu, Quần áo vương miện Tongtian,
Changfu và Yan Bianfu. 
Vào năm Hongwu thứ mười sáu (1383), chính quyền nhà Minh thiết lập hệ thống vương
miện. Mặt trước đội mão hình tròn, mặt sau hình tròn, bàn Xuân ở giữa, mặt trước và mặt
sau có mười hai chiếc, bộ đồ Công, Tiết độ sứ màu vàng thêu mười hai chương. Che đầu
gối bằng màu quần áo. Tất vàng, muỗng vàng với đồ trang trí bằng vàng. Năm thứ hai
mươi sáu (1393), có mười hai chương về mão Công, Công, áo và váy đen, La hán che
đầu gối, tất đỏ, cạp đỏ. Nó được sử dụng khi cúng tế trời đất, đền thờ tổ tiên, xã hội và
ngũ cốc, Tây An, thờ sách, Zhengdan, đông chí, lễ hội thánh và các hoạt động khác. 
Cùng năm, áo khoác da đã được thông qua. Da làm bằng gạc đen, mặt trước và mặt sau
có mười hai đường khâu, mỗi đường khâu mười hai đường chỉ màu sắc để trang trí, mặc
áo bằng gạc màu đỏ, che đầu gối theo màu y phục, bạch ngọc đeo thắt lưng da. , tất trắng
và muỗng đen. Trong trường hợp có người xem triều đại, xuống chiếu chỉ của triều đình,
giáng hương, nhập canh, tỏ lòng thành kính với bốn rợ, các cuộc hành hương của các
quan ngoại và các chiến lược gia truyền lại. Vào đầu thời nhà Minh, quân phục màu đỏ,
có các cạnh sắc nét và mười hai đường nối, được trang trí bằng ngọc bích nhiều màu sắc,
rơi xuống như một ngôi sao. Áo cà sa, áo cà sa đều có màu đỏ, còn muỗng là màu của y
phục. Những người được gửi đến sẽ được phục vụ khi họ được gửi. Trong năm đầu tiên
của Hongwu, anh ấy sẽ có thể đội vương miện Tongtian, vương miện Tongtian và núi
Jinbo, có gắn mười hai con ve sầu, và Zhucui là người đầu tiên. Jiang Sha áo choàng, hệ
thống quần áo sâu. Băng gạc màu đỏ thẫm bao phủ đầu gối, hình trái tim vuông và cổ áo
cong, tất trắng và muỗng đỏ. Tất cả các đền thờ ngoại thành, các lễ tế trong tỉnh, các thái
tử phi và thái tử phi sẽ mặc khi kết hôn và ban lệnh. Hongwu ba năm (1370) hệ thống
dịch vụ thường xuyên. Còn được gọi là Vương miện Yishan sau sắc phục, sợi màu đen
35
được gấp trên khăn, cổ áo, ống tay hẹp, áo choàng màu vàng, mặt trước và mặt sau và vai
đều được dệt bằng một con rồng cuộn vàng, và ủng bằng da. thắt lưng bằng ngọc. Vào
năm Hongwu thứ hai mươi tư (1391), hoàng đế bắt đầu đội khăn lưới. Vào năm Gia Kinh
thứ bảy (1528), Hoàng đế Shizong của nhà Minh tuyên bố rằng "mặc dù Yan sống, nó
phù hợp để phân biệt quyền lực ngang nhau", vì hệ thống cổ xưa, ông quyết định quần áo
của Yan "hai cánh hoa", mỗi được ép bằng chỉ vàng, phía trước trang trí một đám mây
nhiều màu, phía sau có bốn ngọn núi, viền xanh đen, hai vai thêu mặt trời và mặt trăng,
mặt trước có một rồng tròn, sau lưng có hai rồng vuông, các ký tự rồng. hai bên. Tám
mươi mốt con, đầu đội và tay áo dùng chung năm hoặc chín con rồng, xà nhà dùng con
rồng bốn mươi chín con. Áo lót bằng quần áo tối màu, trơn bằng Zhuli, và thắt lưng được
trang trí bằng chín miếng rồng ngọc.

Vương miện Wusha Wusha thời nhà Minh (bản sao)

Vương miện Wusha Wusha thời nhà Minh (bản sao)

36
Vương miện Wusha Wusha thời nhà Minh (bản sao)

Các hoàng hậu, phi tần và phi tần của nhà Minh
Trang phục vương miện của hoàng hậu, phi tần và phi tần và trang phục hoàng hậu đặt
làm riêng của nhà Minh bao gồm váy, lễ phục, v.v. Vào năm Hongwu thứ ba (1370),
vương miện của hoàng hậu được sửa lại, và nó đã được thay đổi một chút vào đầu Vĩnh
Lạc. Chiếc váy là một chiếc vương miện tròn bằng ngọc lục bảo, được trang trí bằng chín
con rồng xanh, bốn con phượng hoàng vàng, mỗi cây có mười hai cây với những bông
hoa hạt lớn và nhỏ, ba ngôi đền bo và mười hai hộp thiếc. Yiyi, màu xanh đậm sơn đỏ
Zhai, năm màu và mười hai lớp, với những bông hoa tròn nhỏ ở giữa. Che đầu gối theo
màu quần áo, tất xanh, muôi xanh, vàng trang trí. Khi nhận sách, viếng chùa, gặp triều
đình, hoàng hậu phải mặc lễ phục.
 Trang phục của hoàng hậu được đặt làm riêng theo ba năm Hongwu, với đôi phượng
hoàng và vương miện rồng, vàng ngọc, trang sức và ngọc làm trang sức và vòng tay. Áo
nhóm màu sắc đa dạng, vàng thêu rồng phượng, thắt lưng vàng ngọc. Trong bốn năm
(1371), nó sẽ được thay đổi một lần nữa, với ngọc rồng và phượng hoàng và vương miện
bằng ngọc, quần áo dài tay màu đỏ thực sự, Xia Pi, váy dài Hongluo và áo choàng
đỏ. Vương miện được trang trí bằng hình rồng và phượng, quần áo được dệt bằng vàng
và chữ khắc rồng và phượng. Vào năm Vĩnh Hưng thứ ba (1405), vương miện làm bằng
xà phòng, gắn trên núi Cuibo, trang trí bằng một con rồng vàng và một viên ngọc trai. Áo
sơ mi màu vàng, màu xanh lam đậm, dòng chữ rồng Yunxia bằng vàng dệt, trang trí mặt
dây chuyền bằng ngọc trai và ngọc bích, chạm khắc hình rồng. Beizi, Shenqing, Jinxiu
Tuan Longwen. Juyi màu đỏ, có dòng chữ Yunlong bằng vàng dệt ở mặt trước và mặt
sau, trang trí bằng hạt cườm. Thắt lưng to bản dựa vào sợi chỉ đỏ, mệnh kim. Váy có tua
rua, viền đỏ, xanh lục, có dệt chữ Yunlong màu vàng. Ngoài ra còn có đai và ruy băng
bằng ngọc bích.

37
Dệt cành vàng rối trang điểm hoa sen và sợi hoa Áo khoác nam "Tianlu Wanshou" có cổ
vuông (bản sao)
Các phi tần, phi tần và phi tần phải đội mão của Hongwu trong 3 năm. Vương miện được
trang trí với chín cây, bốn con phượng hoàng và kẹp tóc, và số lượng hoa nhỏ cũng nhiều
không kém. Quần áo Zhai màu xanh lá cây, gạc màu xanh da trời đơn, thắt lưng da ngọc
bích, tất và muôi màu xanh lá cây, mặc chậm. Trang phục thường dùng là vương miện
phượng hoàng, trang sức và vòng tay bằng vàng, ngọc, trang sức và ngọc lục bảo. Áo
màu sắc đa dạng, thêu phượng hoàng vàng, không vàng. Vàng, ngọc, thắt lưng tê
giác. Người ta cũng xác định được cây thông núi có búi tóc đặc biệt, miếu giả bằng thiếc
hoa hoặc cài tóc hoa và đội mão phượng, áo lam thật lớn màu đỏ, áo the, váy đỏ và áo cà
sa màu đỏ, y phục. được làm bằng vàng dệt và thêu chữ phượng. Cửu phi phục triều
phục, mười năm đầu của Gia Kinh (1531) dùng Cửu Trại làm vương miện, là phượng
hoàng của phi tần thứ hai. Dashan và Juyi giống như thê thiếp của hoàng thượng. Chiếc
váy vương miện của phụ nữ hoàng gia được đặt làm riêng vào năm Hongwu thứ năm
(1372), với kẹp tóc hoa và quần áo Zhai từ lớp ba trở lên, búi tóc thông núi đặc biệt của
lớp bốn và lớp năm, và chiếc áo sơ mi lớn như một lễ phục. Các nhà quý tộc coi ba hạng,
với vương miện của thê thiếp Yanju, áo sơ mi lớn, và Xia Pi là y phục, vương miện bằng
ngọc trai và xanh lục, váy Juyi, Beizi và Yuanjiao là quần áo thông thường.
Các quan chức dân sự và quân sự thời nhà Minh
Nghi thức đội vương miện của các quan chức dân sự và quân sự Trang phục đội vương
miện của các quan chức dân sự và quân sự thời nhà Minh bao gồm quần áo cung đình,
quần áo tế lễ, quần áo công cộng và quần áo thường ngày. Y phục triều đình: lấy bối cảnh
vào năm Hongwu thứ hai mươi sáu (1393), mão công và tám chùm, cộng với lồng
Diaochan, bút đứng, ve sầu bằng ngọc phía trước và phía sau; vương miện Hou Qiliang,
lồng Diaochan, bút đứng, phía trước và phía sau Jinchan; Botong Hou, phía trước và phía
sau mai rùa Ve sầu đều có đuôi trĩ; thê thiếp và ngựa giống như hoàng tử, nhưng đuôi trĩ
không cắm vào. Trang phục bằng áo choàng màu đỏ, ở giữa có gạc màu trắng, màu xanh
lam. vòng cổ, váy đỏ, váy xanh, váy đỏ và thắt lưng da., tất trắng và giày đen. Vào thời
nhà Minh, các quan chức từ lớp một đến lớp chín kém hơn về số lượng chùm trên
mão. Vương miện bảy chùm cấp một, không có khăn lồng Diaochan, thắt lưng bằng da
ngọc và mặt dây chuyền bằng ngọc, thắt lưng được dệt bằng gấm hoa bốn màu, và vòng
38
ngọc bằng lụa màu xanh lam; vương miện chùm sáu chùm cấp hai; thứ ba vương miện
cấp năm chùm; vương miện chùm cấp bốn, vương miện ba chùm cấp năm; vương miện
chùm thứ sáu, bảy, hai chùm; vương miện một chùm thứ tám, chín, một chùm. Sự khác
biệt khác nằm ở các hoa văn của vàng tê giác, hoa cúc bạc, bạc, sừng đen và ruy băng
được sử dụng cho thắt lưng da, và sự khác biệt về bốn màu, ba màu, hai màu và chất
lượng của bảng wat được giữ. Các quan chức mặc trang phục của triều đình trong tất cả
các buổi lễ lớn, Thanh Thành, Chính Nguyên, đông chí, lễ thánh, và khi các sắc lệnh
được đọc, vào trong đồng hồ và truyền lại. Vào năm Gia Kinh thứ bảy (1528), hệ thống
đã được sửa đổi, nhưng không có lãi hay lỗ lớn, đại khái là tương tự như trước đó. Trang
phục tế lễ: Vào năm Hongwu thứ hai mươi sáu (1393), quần áo tế lễ của các quan chức từ
hạng nhất đến hạng chín được chỉ định là Qingluo Yi, ở giữa có gạc trắng và tất cả đều là
xà phòng. Luoshang đỏ, mép xà phòng. Chí Luo che đầu gối. Cổ tim vuông. Mũ mão và
thắt lưng là y phục của triều đình giống nhau, các quan dân quân khi cúng tế đều mặc lễ
phục. Nếu mặc đồ tế lễ ở nhà thì phải đi hình vuông và bẻ cổ áo nếu ở trên bậc ba, đeo
thắt lưng nếu dưới bậc thứ tư. Vào năm Gia Kinh thứ tám (1529), nó lại được thay đổi,
nhìn chung y phục của triều đình vẫn giống y phục của triều đình, ngoại trừ quân phục
chính thức của Jinyiweitang là quần áo trăn đỏ, quần áo cá bay, mũ gạc đen và thắt
lưng. Các quan chức dân sự và quân đội mặc trang phục giản dị màu đỏ tươi khi dâng lễ
tại đền Taimiao và Sheji. Quân phục: Các quan chức dân sự và quân sự thời nhà Minh
mặc áo choàng trong quân phục. Theo phong tục của Hongwu vào năm thứ 26, trang
phục là một chiếc áo choàng có cổ cuộn và chiều rộng tay áo là 3 feet. Chất liệu là lụa tơ
tằm hoặc lụa leno. Các lớp đầu tiên đến lớp 4 là áo choàng màu đỏ, lớp 5 đến lớp 7 là áo
choàng màu xanh lá cây; lớp 8 và lớp 9 là áo choàng màu xanh lá cây; Mẫu áo dài được
phân loại theo độ lớn của đường kính hoa, ví dụ sản phẩm thứ nhất sử dụng hoa công
tước lớn có đường kính năm tấc; kích thước đường kính hoa giảm dần theo thứ tự, không
có hoa văn bên dưới. sản phẩm thứ tám. Đầu đeo bằng vải futou, sợi sơn mài, và các góc
của lớp thứ hai dài 1 foot và 2 inch. Thắt lưng loại một bằng ngọc hoa hoặc bằng ngọc
trơn; con tê giác hạng hai; chất liệu vàng loại ba lớp bốn; sừng đen hạng năm trở
xuống. Anh ta mặc đồ da màu xanh lá cây, với cái đuôi vẫn cụp xuống và đi đôi ủng xà
phòng. Mỗi buổi sáng và buổi tối, nó được phục vụ tại thời điểm cống nạp cho triều đình,
phục vụ lớp học, cảm ơn và từ biệt. Sau đó, nó được sử dụng khi triều đại hội đồng được
thay đổi. Đối với phần còn lại của triều đại, trang phục bình thường được sử dụng, và
trang phục của công tước, hầu tước, thê thiếp và chú bác cũng giống như Yipin. Thường
phục: Các quan chức triều Minh thường mặc thường phục khi làm nhiệm vụ (tức là xử lý
công việc quan chức trong văn phòng của thư viện). Hongwu ba năm (1370) phong tục,
chính thức Thành viên Fan thường đội một chiếc mũ gạc đen và áo sơ mi cổ trụ có quai
của cấp trung đoàn. Đai ngọc bích hạng nhất; linh thạch hoa hạng hai; kim ngân hoa hạng
ba; vàng trơn hạng bốn; bạc sóc hoa hạng năm; bạc trơn hạng sáu và bạc hạng bảy; bạc
đồng hạng tám. - sừng đen lớp 9 và lớp 9; giống nhau. Vào năm Hongwu thứ 24 (1391),
nó đã được tùy chỉnh và các loại thuốc bổ thường được sử dụng ở các hạng khác nhau:
Gong, Hou, Bo, Consort thêu Qilin và Bai Ze. Hạng nhất dùng chim hạc, hạng hai dùng
chim trĩ vàng, hạng ba dùng chim công, hạng tư dùng ngỗng mây, hạng năm dùng gà lôi
trắng, hạng sáu dùng chim ưng, hạng bảy dùng chim cú, hạng thứ tám sử dụng chim vàng
anh và hạng chín sử dụng chim cút. Các quan chức khác sử dụng chim ác là, các quan
chức Fengxian (tức là các quan tòa) sử dụng chim zhe; các sĩ quan quân đội sử dụng sư
tử cho hạng nhất và thứ hai, hổ và báo cho hạng ba và thứ tư cấp bậc, gấu đứng hạng
năm, hổ đứng hạng sáu và bảy, và hạng 8. Tê giác, cá ngựa hạng chín. Vì các chúa
thường dùng y phục cho các quan của mình nên người thời nhà Minh nói: "Sắc phục của
39
triều đình phân biệt bổ khuyết" ("Ngũ linh chi tử" tập 12 của Xie Zhaozhe), có thể thấy
rằng việc sử dụng. hoa văn bổ để thể hiện đẳng cấp là một phần quan trọng của trang
phục chính thức của triều đại nhà Minh.

Nhà Minh có những quy định nghiêm ngặt về kiểu dáng và kích cỡ trang phục của các
quan chức dân sự và quân sự, chất liệu quần áo, áo mũ, họa tiết thêu, màu sắc, và thậm
chí cả giày. Nói tóm lại, trang phục của các quan chức dân sự và quân sự vào thời nhà
Minh bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các hệ thống và quy định, và lý thuyết về văn hóa
trang phục của họ được xây dựng trên khuôn khổ của đạo đức truyền thống Trung
Quốc. Chính thông qua màu sắc, đường nét, hoa văn và họa tiết khác nhau của các trang
phục quan lại, các nhà cầm quyền nhà Minh không chỉ thể hiện tính ưu việt của trật tự
quan chức mà còn làm cho chế độ phong kiến trở nên hợp pháp hơn trong tâm trí của
những người bị trị. , Bí ẩn hơn và có tác dụng răn đe.
2.8.1 Quần áo nam thường dân thời nhà Minh

Trong những năm đầu của Hongwu, những người bình thường được yêu cầu kết hôn và
họ được phép mặc quần áo đội vương miện chín kim. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1370), chính
quyền nhà Minh “chép lại khăn Sifang Pingding và ban hành”, đổi khăn tứ thân thành
khăn Sifang Pingding, cổ áo loang lổ, màu vàng không được phép. Sau đó, chiếc mũ
Guala sáu cánh (tức là "mũ guapi" của các thế hệ sau) được lấy làm tượng trưng cho "sự
đoàn kết sáu trong một" và được người dân thường đội, nhưng không được phép sử dụng
phần đầu. . Sau đó, Mười ba vị Ủy viên và Đặc phái viên được cấp “Khăn quấn khăn
lưới”. Dù dân thường là dân làng, phó làng vẫn không được đội mão, chỉ có người già
mới được đội khăn. Nghiêm cấm việc thêu vàng, gấm, lụa, tơ tằm trong y phục của nam
và nữ, chỉ được dùng lụa, tơ tằm và sợi trơn, không được phép trang trí hoa văn, chỉ
vàng. nông dân chỉ được phép mặc lụa và sợi, lụa, vải. Nếu người nông dân có thể đội
một chiếc nón tre hoặc một chiếc nón lá để ra vào chợ thì trang phục của người nông dân
cũ phải quá khổ. 25 năm sau (1392), có lệnh cấm dân thường không được đi ủng.

40
Mẫu áo dài Bailuo ánh sáng và đám mây đen do Bảo tàng Sơn Đông sưu tầm
Các nhà cai trị của nhà Minh đã có những quy định rất nghiêm ngặt về trang phục của
dân thường. Ngoài ranh giới giữa cán bộ và nhân dân, còn có sự phân biệt giữa tốt và
xấu. Nhà Minh coi thương nhân là thấp kém, điều này cũng được phản ánh trong hệ
thống quần áo. Các gia đình nông dân được phép mặc lụa, gạc và tơ tằm, nhưng các
thương gia chỉ được phép mặc lụa chứ không phải lụa hay sợi. Và quy định rõ ràng, chặt
chẽ, chẳng hạn như gia đình nông dân làm nghề buôn bán thì gia đình không được mặc
lụa tơ tằm. Một ví dụ khác là hệ thống quần áo vào thời Trịnh Đức, hệ thống này liệt các
thương nhân, người hầu và gái điếm là hạng nhất. Theo ghi chép của người đời Minh,
đây cũng chính là ý nghĩa của “nước còn là hiện thân của ý nghĩa nhấn mạnh căn cơ, trấn
áp tận cùng”. (Tập "Hồ sơ tổng hợp" của He Mengchun. 153)
Quần áo nữ thường dân thời nhà Minh
Quần áo phụ nữ nói chung và mũ đội đầu Trang phục của phụ nữ chủ yếu bao gồm áo sơ
mi, áo khoác, áo choàng, lưng, bijia và váy. Hầu hết các kiểu trang phục cơ bản đều được
bắt chước từ các triều đại nhà Đường và nhà Tống, và nhìn chung có hình dáng phù hợp,
điều này khôi phục lại phong tục và truyền thống trang phục cổ xưa và lâu đời của dân
tộc Hán. Trang phục bình thường của phụ nữ ban đầu chỉ có thể mặc vải thô màu tím (gọi
là "絁"), không được phép thêu vàng. Áo cà sa chỉ được làm bằng các màu nhạt như tím,
lục, hồng,… không được lớn màu đỏ, xanh lam và vàng, đai lưng bằng vải lụa xanh. Việc
sử dụng Beizi rộng rãi hơn, và hình thức cơ bản của nó gần giống như ở thời nhà
Tống. Trang phục thường ngày của phụ nữ có cổ thẳng, xẻ tà trước, tay áo nhỏ. Cái gọi là
quần áo của phụ nữ "Bijia" là một chiếc áo ghi lê không tay, không cổ, dài hơn những
chiếc áo vest sau này. Theo truyền thuyết, nó có nguồn gốc từ thời nhà Nguyên và ban
đầu được mặc bởi hoàng đế, sau đó được truyền bá sang người dân và biến thành trang
phục của phụ nữ bình thường. Đến cuối thời nhà Minh, hầu hết phụ nữ trẻ đều mặc đồng
phục và nó đã trở thành mốt. Phụ nữ thời nhà Minh đều mặc váy, hiếm có người mặc
quần dài. Màu sắc của váy thoạt nhìn nhẹ nhàng, cho dù có trang trí cũng không rõ ràng
lắm. Vào những năm đầu của Chongzhen, váy chủ yếu là màu trắng trơn. Sáu chiếc váy
đầu tiên được sử dụng để tuân theo nghi lễ cổ xưa, cái gọi là "sáu chiếc váy kéo nước
sông Tương Giang" đề cập đến điều này. Tuy nhiên, đến cuối thời nhà Minh, chiều rộng
váy bắt đầu có 8 chiếc, và có hàng chục nếp gấp nhỏ ở eo, và chuyển động như đường
nước. Các hoa văn trên váy của phụ nữ khá trang nhã. Người ta nói rằng có một loại váy
màu sáng được gọi là "Yuehua Skirt", tổng cộng có 10 chiếc váy, và mỗi nếp gấp ở eo
được kết hợp với một màu sắc trên thế giới. Ngoài ra, "váy phượng", "váy xếp ly" cũng
được ưa chuộng. "Váy đuôi phượng" được cắt từ sa tanh thành những dải có kích thước
đều nhau, mỗi dải thêu hình hoa lá, chim muông, hai mặt còn lại được dát bằng chỉ vàng
kết hợp với nhau. "Váy xếp ly" chủ yếu được làm bằng sa tanh toàn bộ được gấp lại và
làm bằng chỉ mịn. Các nhà cai trị thời nhà Minh cũng có những quy định nghiêm ngặt về
trang phục của người hầu, người giúp việc, diễn viên và gái điếm. Ví dụ, nữ hầu lớn chỉ
được mặc áo khoác dài và váy dài với cổ áo hẹp bằng vải lụa; nữ hầu nhỏ chỉ được mặc
quần đùi dài tay và váy dài. Đối với các diễn viên, gái mại dâm, họ chỉ được đeo khăn
xanh với hàm ý xúc phạm. Còn gái điếm thì chỉ đeo sừng, đội mão, không được để vợ
chung. Điều này cho thấy trang phục của phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong thời nhà Minh
cũng có sự phân loại và quy định nghiêm ngặt. Ngoài kiểu dáng và đặc điểm của thời đại,
phong tục đi giày của phụ nữ thời nhà Minh về cơ bản vẫn theo phong tục cũ của thế hệ
trước. Ví dụ, theo phong tục truyền thống của dân tộc Hán, hầu hết phụ nữ đều bó chân,
và đôi giày họ mang được gọi là "giày cung", với gỗ long não làm đáy cao. Gỗ bên ngoài
41
thì gọi là “Đáy cao ngoài”, còn có các tên như “Lá mơ”, “Hạt sen”, “Liên hoa”, vân
vân. Đáy gỗ được gọi chung là "đáy cao", còn được gọi là "mão đạo". Phụ nữ càng lớn
càng đi giày bệt theo thói quen gọi là “trên dưới thơm”.

Sơ đồ trang phục của phụ nữ thời nhà Minh

Sơ đồ áo choàng của phụ nữ thời nhà Minh


Kiểu tóc của phụ nữ thời nhà Minh
Mặc dù kiểu tóc của phụ nữ thời nhà Minh không phong phú và đa dạng như thời nhà
Tống nhưng sau thời Gia Kinh, chúng đã thay đổi rất nhiều. Một số phụ nữ chải đầu búi
tóc thành hình khối, và trang trí phần trên cùng của búi tóc bằng những bông hoa làm
bằng đá quý làm đồ trang trí, được gọi là "búi tóc trái tim đào". Sau đó, ông chải búi tóc
cao và buộc lại bằng những sợi chỉ vàng và bạc, nhìn từ xa trông giống như một người
đàn ông đang đội một chiếc mũ gạc có đính hạt ngọc lục bảo trên đỉnh. Kể từ đó, ngày
càng có nhiều kiểu tóc búi, hoa văn được đổi mới liên tục, kiểu dáng cũng thay đổi từ
thuôn dài sang thuôn dài nên còn có những tên gọi như "búi tóc quả đào", "búi tóc trái
tim ngỗng". . Ngoài ra còn có sự trở lại của Pu Sigu, người đã bắt chước kiểu "búi tóc
ngã ngựa" trong thời nhà Hán, khi chải tóc, tóc được cuộn lại và kéo thành một búi lớn,
42
buông thõng xuống phía sau đầu. Kiểu búi tóc này có thể được nhìn thấy trong các bức
tranh vẽ các cung nữ của các họa sĩ thời nhà Minh. Về vấn đề này, có nhiều phản ánh
trong các bức tranh minh họa của các tiểu thuyết in khối được xuất bản vào thời Vạn Lịch
của nhà Minh. Ví dụ, các hình minh họa trong các cuốn sách như "Ten Yi Ji" và "Nanxi
Xiang Ji" trong bản khắc của Fuchuntang Tang, và "Hongfu Ji" trong bản khắc của gia
tộc Chen của Jizhizhai, mô tả nhiều phụ nữ thời nhà Minh và các kiểu tóc khác
nhau. Trong giới trẻ, có mốt đeo băng đô. Hệ thống băng đô phát triển từ "baotou" ban
đầu, ban đầu được làm bằng dây quấn và được tạo thành lưới để bao phủ tóc. Với sự phát
triển và tiến bộ của thời đại, những chiếc băng đô bằng sợi và những chiếc băng đô nấu
chín đã xuất hiện trở lại. Dạng băng đô lúc đầu rộng, sau lại thu hẹp, ngay cả mùa hè vẫn
được mọi người đeo. Nó cho thấy rằng chức năng của nó không chỉ giới hạn ở tóc, mà đã
trở thành vật trang trí. Theo ghi chép của văn học thời nhà Minh: chiếc băng đô quấn
quanh trán mùa đông làm bằng lụa đen để tránh lạnh, mùa hè dùng sợi đen mỏng hơn,
mỗi chiếc rộng khoảng hai hoặc ba inch và bốn đến sáu inch. dài; rộng đến ba inch, từ
trước ra sau, quấn quanh trán, rồi sao hai bản về phía trước để tạo thành một nút hình
vuông. Vào cuối thời nhà Minh, Epadu đã sử dụng hai mảnh, mỗi mảnh khoảng một foot
vuông, gấp lại theo đường chéo và rộng hơn một inch, một miếng dán vào bên trong, một
miếng đắp bên ngoài, và một nút vuông được thêm vào phía trước. của mảnh bên
ngoài. Rắc rối hơn khi mặc và cởi ra mỗi ngày, vì vậy phụ nữ cắt nó theo kích thước của
tóc và trán của họ, và lót bằng lụa dày hơn, thường làm bằng nhung đen, lụa đen, sợi đen,
v.v ... Nó được gọi là "Udo ". Khi sử dụng có thể đeo ngay khi đeo vô cùng tiện
lợi. Trong các bài thơ của Thần Shitian đời nhà Minh, "trẻ em kéo rơm trong mưa, và chị
dâu đội mũ đen" trong mưa, có đề cập đến điều này. Phụ nữ từ các gia đình giàu có,
quyền lực và quyền lực thường trang trí băng đô và túi đen của họ bằng vàng, ngọc bích,
đồ trang sức và ngọc bích làm đồ trang sức chói lọi. Chẳng hạn, trong tài sản của gia đình
Diêm Vương mượn quyền cưỡng đoạt, có "bảy chiếc băng đô trang sức ở Jinxiang" và
"hai chiếc băng đô trang sức ở Jinxiang" . "Jin Ping Mei" cũng đã nhiều lần đề cập đến
việc phụ nữ đeo những chiếc băng đô như vậy. Trong chương 77, người ta mô tả rằng
doanh nhân giàu có Tây Môn Khánh đã móc nối với chị dâu thứ tư của Ben. " và vòng
vàng. "Li Dou của triều đại nhà Thanh đã đề cập đến trong" Ghi chép về thuyền sơn
Dương Châu ". Những cái đầu như" Chồn che trán "và" Ngư Po Lezi " Đồ trang trí đều
được phát triển từ điều này. Ngoài những thứ trên, những đồ trang trí trên cặp tóc của phụ
nữ trong thời nhà Minh bao gồm "Golden Jade Blossom", "Golden Twisted Wire Lantern
Hair Lantin", "Passiflora Tip Hairpin", "Tê giác ngọc bích kẹp tóc" và "Chấm bi màu
xanh lá cây" . Khối lượng hoa sen "," chuỗi hạt và đền thờ màu xanh lá cây "và" lụa vàng
khảm đầu và mặt cây dừa cạn bằng ngọc ruby xanh "và các màu sắc nổi tiếng khác. Hơn
nữa, nhiều phụ kiện tóc khác nhau thường được sử dụng cùng nhau, có thể thấy những
phụ kiện tóc bị tịch thu của nhiều tên tuổi khác nhau từ tài sản của gia đình Yan
Song. Theo "Tian Shui Bingshan Lu", có 23 cặp trang sức bằng vàng (dát) ngọc trai và
ngọc bích, tổng cộng 284 chiếc; 159 cặp trang sức bằng vàng (dát), tổng cộng 1803
chiếc. Tên các món trang sức của nó bao gồm một cặp trang sức Jinxiang Yubaoshou
Fulu, một cặp trang sức đỉnh ngọc phượng hoàng Jinxiang, một cặp trang sức hoa mẫu
đơn chim công bằng ngọc Jinxiang, một cặp trang sức chùa Jinxiang Yulesi, một cặp
trang sức Jindazhu Baxian, một cặp hộp vàng gấp đèn lồng lụa trang sức hạt voi sư tử,
một cặp trang sức Jinxiang Toad Palace Gui Rabbit, một cặp trang sức Jinxiang Sangu
Caolu, một cặp trang sức san hô Jinxiang Zhang Qiancheng Cha, một cặp trang sức lá sen
cua ngọc bích Jinxiang, v.v. Chờ đã. Từ đó có thể thấy rằng:

43
①Mỗi cặp bao gồm nhiều phần, nên được coi là ước tính của thói quen sử dụng một bộ
phụ kiện tóc hoàn chỉnh;
② Vật liệu trang sức rất quý, chẳng hạn như bảo vật lớn, đá quý lớn, san hô, ... đều là
những thứ quý hiếm;
③ Nghề thủ công trang sức tinh xảo, bởi vì việc sản xuất đồ trang sức dát vàng, lụa
vàng, v.v. không thể được tạo ra nếu không có kỹ năng xuất sắc;
④ Có rất nhiều tên trang sức và chủ đề đa dạng. Trong phụ kiện tóc, những câu chuyện
lịch sử như hoa, cây cỏ, chim muông, động vật, nhân vật, gian hàng, chùa chiền và những
ngôi nhà tranh kiểu Sangu đều tập trung trong đó, điều chưa từng có.
Ngoài ra, búi tóc giả hay còn gọi là "búi tóc ngang lưng", cũng là một phụ kiện tóc
thường được phụ nữ thời nhà Minh sử dụng. "Three Gangs" có nội dung: Khi Yu Wei
còn sống, anh nhìn thấy một người phụ nữ chải tóc cao ba mươi inch và gọi nó là
'tươi'. Qua nhiều năm, nó đã phát triển đến sáu hoặc bảy inch, mềm và mịn, được gọi là
'đầu hoa mẫu đơn'. Tất cả đều sử dụng miếng đệm tóc giả, và ngọc treo của nó không thể
nâng lên được. "Loại búi tóc giả này chủ yếu được trang trí bằng đồ trang trí cổ, vì vậy
Yu Danqiu đã nói trong" Jianye Customs "rằng đó là cách" dệt "được gọi trong" Zhou Li
". Nó được làm thành một trang trí cố định, được gọi là" trống " . Trống có lẽ cao hơn
nhiều so với búi tóc ban đầu, khi đeo lên người ta trùm lên búi tóc để giữ tóc bằng kẹp
tóc, đến cuối thời nhà Minh, loại phụ kiện tóc này Các kiểu trang sức lại nhiều hơn.
phong phú và đa dạng, chẳng hạn như "Arhat Wat", "Lazy Comb", "Shuangfeiyan",
"Pillow Pine" và các tên gọi khác. Đến triều đại, những kiểu tóc và phụ kiện này vẫn
được phụ nữ ưa chuộng và đeo.
2.9 thời Thanh 
2.10.Triều Mãn Thanh
Người Mãn Thanh còn được gọi là Người Kỳ nên trang phục của người Thanh còn được
gọi là kỳ bào. Người Mãn Thanh sau khi lật đổ được nhà Minh đã tiến hành xây dựng nền
văn hóa của riêng mình bao gồm cả bộ trang phục. Người Mãn bắt người Hán phải mặc
trang phục của họ ban đầu nhiều người Hán còn tích cực phản đối nhưng về sau dần tự
nguyện mặc trang phục. Đặc trưng chung của trang phục người Mãn Thanh là những bộ
trang phục ôm sát, thích dùng quần hơn so với váy, là những bộ trang phục thuận tiện cho
việc cưỡi ngựa hay vận động nhiều như tay áo ngắn và hẹp, thân áo thường hình chữ nhật
và khá thanh mảnh, cổ áo hình yên ngựa, không có thắt lưng, nút được đặt trên mặt trước,
bên phải là trang trí bởi bản chất người Mãn Thanh vốn xuất thân trên yên ngựa.

Trang phục nhà Thanh được chia làm ba loại chính là triều phục, cát phục và thường
phục.
2.10.1Triều phục

44
Triều phục là trang phục dành cho các dịp cực kỳ trọng đại, như lễ sắc phong hoặc đại lễ.
Quy định bộ triều phục của một hậu phi thời nhà Thanh là tương đối phức tạp, với ít nhất
là 10 yếu tố tạo thành, bao gồm:
Triều quan (朝冠): mũ
Kim ước (金约): dây đeo trán để giữ triều quan
Nhị (珥): hoa tai
45
Lãnh ước (领约): kiềng trên cổ
Triều châu (领约): bộ dây ngọc khoác bên ngoài
Thải thuế (彩帨): dây rũ bằng vải trước ngực
Triều quái (朝褂): áo khoác mặc ngoài triều bào
Triều bào (朝袍): áo chính
Triều váy (朝裙): Có 2 loại, có áo hoặc không dựa theo hiện vật thật.
Triều ủng (朝靴): giày

Để chi tiết hơn thì từ ngoài vào trong sẽ gồm 3 lớp là Triều quái, Triều bào và Triều váy.
Trong đó, Triều phục của Hoàng thái hậu và Hoàng hậu là đồng dạng. Các mệnh phụ cấp
cao (phu nhân của đại công thần trong triều) thì có Triều phục giống nữ nhân mang tước
vị Tần. Và cũng phải từ tước Tần trở lên mới được phép có Triều quái, Triều bào và
Triều quan thôi.

trang phục thời thanh


Cát phục
Đây có lẽ là thứ phục sức đặc biệt nhất, bởi trong tất cả các triều đại, chỉ có nhà Thanh là
hình thành quy định chính thức mà thôi. Khác với Triều phục chỉ được mặc trong các dịp
rất trọng đại, thì vào các dịp lễ ít trang trọng hơn, các hậu phi sẽ mặc Cát phục. Về cơ

bản, loại trang phục này cũng giống như Thường phục, nhưng có thêm hoa văn và trang
sức mỹ lệ hơn, nên còn được gọi là Thải phục (彩服) hay Hoa y (花衣).

46
Một bộ cát phục bao gồm:
– Long quái(龙褂): áo mặc ngoài, có xẻ vạt, thân áo dài, ống tay tương đối dài, đều có
màu xanh đen (tức là Thạch Lam sắc). Long quái của Hậu phi chỉ xẻ đằng sau, trong khi
của Đế vương là xẻ cả trước sau.
– Long bào (龙袍): mặc bên trong, cũng là áo chính của bộ Cát phục. Áo cổ tròn, ống tay
áo dạng Mã đề tụ, xẻ vạt trái phải, thân áo dài, viền cổ áo có hoa văn. Có thể chỉ cần mặc
Long bào, không cần khoác Long quái.
Thông thường chúng ta thường nghĩ rằng “Long bào” là để chỉ trang phục của hoàng
thượng và ít ai biết đến cái tên long bào cũng được gọi cho áo chính của bộ cát phục.
Thời nhà Thanh có sự phân biệt rất lớn về địa vị, giàu nghèo và sự phân biệt đó được thể
hiện qua cả trang phục thông qua màu sắc phải khác nhau tùy theo địa vị. Thái hậu,
Hoàng hậu và Hoàng quý phi có Long bào màu Minh hoàng. Kế đến tước Quý phi và Phi
dùng màu Kim hoàng, còn Tần thì dùng màu Hương (màu có tone nâu đất, trầm ấm).
Với Long quái, tùy vào địa vị mà hoa văn sẽ có khác biệt. Long quái có thêu rồng vàng 5
móng (Ngũ trảo kim long) được dành cho Hoàng hậu, Hoàng quý phi, quý phi và phi.
Riêng tước Tần, phần vạt áo phải theo Quỳ ong – hình rồng lượn trong 1 hình tròn nhưng
không quay chính diện.

47
trang phục thời thanh

Thường phục
Thường phục là bộ trang phục mặc thường ngày nên không có nhiều quy định như cát
phục hay triều phục. Một bộ trang phục hoàn chỉnh thường bao gồm 2 lớp hay nhiều hơn
tùy theo thời tiết và hoàn cảnh. Với trang phục 2 mảnh, nó có thể bao gồm 1 cái áo kiểu
Hán hoặc 1 áo Mãn Châu. Mảnh bên dưới có thế là 1 cái váy hoặc 1 cái quần ku.

48
Lớp trang phục lót: có 2 loại phổ biến nhất là 2 mảnh và 1 mảnh.
Lớp chính: có một số kiểu thịnh hành sau:
– Shān qún (tên tiếng Trung: 衫裙): 1 cái áo ngắn đi kèm với váy dài
– Rú qún (tên tiếng Trung:襦裙): 1 cái áo đi kèm với váy hoặc quần
– Kù zhě ( tên tiếng Trung: 褲褶): 1 cái áo ngắn đi kèm với quần
– Zhíduō/zhí shēn (tên tiếng Trung: 直裰/直身): 1 bộ trang phục thời Minh
– Dàopáo/fú shā (tên tiếng Trung: 道袍/彿裟): 1 bộ trang phục dành cho các học giả
– Chángshān (tên tiếng Trung: 長衫): áo dài kiểu Mãn Châu, thường được mặc với áo
cưỡi ngựa.
49
Ngoài ra trang phục của người Mãn Thanh còn có rất nhiều trang sức đi kèm ví dụ như
bông tai, hộ giáp, hài, …. 

Nhà Thanh (1644-1912) là triều đại thống nhất do nhà Mãn Châu thành lập trong lịch sử
Trung Quốc, đồng thời đây cũng là triều đại phong kiến cuối cùng ở Trung Quốc.
Quần áo của hoàng đế trong triều đại nhà Thanh bao gồm quần áo cung đình, quần áo tốt
lành, quần áo thông thường và quần áo du lịch. Trang phục và vương miện của hoàng đế
được chia thành hai kiểu mùa đông và mùa hè. Sự khác biệt giữa trang phục triều đình

mùa đông và mùa hè chủ yếu nằm ở mép quần áo, vào mùa xuân và mùa hè thì dùng sa
tanh, mùa thu và đông thì dùng lông thú quý làm mép. Màu sắc của trang phục chủ yếu là
màu vàng, đắt nhất là màu vàng tươi, chỉ dùng màu lam để cúng trời, buổi sáng dùng màu
đỏ, buổi tối dùng màu trắng. Hoa văn của các bộ triều phục chủ yếu là hoa văn rồng và
hoa văn mười hai chương. Nói chung, một con rồng chính được thêu ở mặt trước, mặt sau
và hai cánh tay; rèm thắt lưng thêu năm nếp của rồng treo (ở nếp gấp) và chín con rồng
được thêu ở mặt trước và mặt sau; hai; một thêu rồng trên tay áo. Hoa văn của mười hai
chương là mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi non, rồng, côn trùng Trung Hoa, lụa và tơ
tằm.
50
Áo dài rồng của hoàng đế thuộc loại y phục tốt lành, hơi kém so với lễ phục như y phục
cung đình và y phục súng ống, và thường được mặc nhiều hơn. Khi mặc áo rồng, bạn
phải mặc trang phục tốt lành với vương miện, thắt lưng quần áo tốt lành và chuỗi hạt
treo. Áo dài rồng chủ yếu có màu vàng tươi, ngoài ra có thể sử dụng các màu khác như
vàng mai. Thời cổ đại xưng là hoàng đế, cửu ngũ chí tôn. Con số chín và năm thường
tượng trưng cho sự cao quý, được phản ánh trong kiến trúc hoàng gia và đồ dùng sinh
hoạt. Y phục rồng của các hoàng đế nhà Thanh, theo tài liệu ghi chép, cũng được thêu
hình chín con rồng. Theo quan điểm vật lý, chỉ có tám con rồng trước và sau, điều này
không phù hợp với sử liệu và thiếu một con rồng. Có người cho rằng còn có một con
rồng chính là hoàng đế. Trên thực tế, con rồng này tồn tại một cách khách quan, nhưng
nó được thêu ở mặt trong của quần áo, nên nhìn chung không dễ nhìn. Theo cách này,
mỗi chiếc áo choàng rồng thực sự là chín con rồng, và khi nhìn từ phía trước hoặc phía
sau, tất cả những gì bạn thấy là năm con rồng, khớp chính xác với số chín và năm. Ngoài
ra, viền áo rồng có nhiều đường nét cong, gọi là chân nước. Phía trên chân nước có nhiều
sóng nước xô đẩy, phía trên sóng nước có núi đá báu, dân gian thường gọi là “sông nước
biển”, ý nghĩa “Thịnh vượng cho muôn đời”.

Búi tóc của phụ nữ thời nhà Thanh

Một từ, đôi cánh lớn

51
Búi cờ đề cập đến bánh đầu Mãn Châu như "hai đầu" và "cánh kéo lớn". Cách chải hai
đầu trước tiên là chải ngược phần tóc dài ra sau, chia làm hai lọn, rủ xuống sau gáy, sau
đó gập hai lọn tóc lên trên, phần tóc còn lại thì gập lên, gộp lại thành Một bộ đồ, lặp lại
cho đến đỉnh trước, tiếp theo dùng dây buộc đầu (dây lụa đỏ hoặc sợi bông) quấn quanh
gốc tóc để thắt nút cố định, nhét hình vuông phẳng lên trên và quấn phần tóc còn lại xung
quanh cho phẳng. hình vuông sao cho hình vuông phẳng và Hình dạng cột của chân tóc
được ghép lại thành hình chữ T. Mặt trước đeo hoa lớn và thắt nút cườm, hai bên là tua
rua. Về sau, búi cờ tăng dần, các góc hai bên tiếp tục mở rộng, trên đỉnh có đặt một chiếc
vương miện hình “cái quạt”, nhìn chung được làm bằng vải sa tanh xanh và nhung xanh.
“Một đôi cánh to”.

Người phụ nữ Mãn Châu búi tóc


Trang sức các nương nương, cách cách thời nhà Thanh

52
Lưu tô
"Lưu tô" là tên gọi của những loại trang sức dạng móc treo dài, có thể dùng để gắn lên
búi tóc của các phi tần hoặc đeo trên trang phục. Trong phim Hoàn Châu Cách Cách, nó
là một đoạn dây tua rua màu đỏ, được gắn trên chiếc mũ lớn đội đầu của các phụ nữ trong
hậu cung. Còn trong Chân Hoàn Truyện, nó lại được làm bằng các chuỗi ngọc trai kết lại
với nhau.

53
Món trang sức này được tạo ra với mục đích khi người phụ nữ bước đi, sợi dây cũng nhẹ

nhàng đung đưa theo. Nó mang lại cảm giác "yểu điệu thục nữ" - một hình tượng mà các
nữ nhân trong xã hội cổ đại đều hướng đến.

54
3. Mũ đội đầu
Đây là một loại phụ kiện cho tóc nổi bật của phi tần và cung nữ thường thấy trong cung
đình nhà Thanh. Theo nhiều thông tin cho biết, ban đầu, các phụ nữ trong cung thường
búi tóc lên cao và tạo kiểu về phía 2 bên đầu, sau đó gắn các loại trâm cài lên. Tuy nhiên,
đến thời vua Đạo Quang, Hiếu Toàn Thành Hoàng Hậu đã đổi mới loại tóc này thành một
chiếc mũ lớn gắn trang sức để đội lên đầu.

Những chiếc mũ đội đầu nặng nề mà phụ nữ trong cung nhà Thanh thường dùng.

55
Chiếc mũ này được tạo ra thành hình lục giác bằng một miếng gỗ dẹt và dây kẽm, sau đó

để lên đầu và dùng tóc cố định lại. Vì loại mũ đội đầu mới chắc chắn hơn, lại có thể gắn
được nhiều loại trang sức hơn so với kiểu tóc trước, nên nó được các phi tần ưa chuộng
và dần được sử dụng rộng rãi.
4. Móng tay giả
Loại móng tay giả này còn được gọi là "hộ giáp". Một loại trang sức xuất hiện từ thời
Chiến quốc. Người Trung Quốc xưa quan niệm rằng tóc, móng tay là của cha mẹ sinh ra,
vì vậy tránh cắt đi mà cứ để chúng mọc dài tự nhiên.
Tuy nhiên, không như tóc, móng tay quá dài sẽ dễ gãy hoặc bật móng. Vì vậy, "hộ giáp"
ra đời với mục bảo vệ cho những bộ móng này. Nhưng về sau, do móng tay dài gây quá
nhiều bất tiện trong công việc, nên dần dần, chỉ có tầng lớp quý tộc mới có thể nuôi móng
tay dài và dùng hộ giáp.
Đến thời nhà Thanh, các loại hộ giáp đã trở thành món trang sức không thể thiếu của
những phi tần trong hậu cung. Không chỉ bảo vệ móng tay, nó còn mang ý nghĩa là một

56
loại dấu hiệu phân cấp địa vị, quyền lực. Cấp bậc càng cao thì chất liệu hộ giáp cũng sẽ
càng quý.

Là người phụ nữ quyền lực nhất những năm cuối cùng của Thanh triều; hộ giáp của Từ
Hi Thái hậu cũng dài, sắc nhọn và chạm trổ tinh tế để xứng với địa vị của bà.

Một số mẫu hộ giáp thời nhà Thanh.

Kiểu tóc nam thời nhà Thanh

Nam giới thời kỳ này từ hoàng đến tới dân thường chỉ có một kiểu tóc duy nhất là cạo
nửa đầu tết đuôi sam
Mũ nam giới thời Thanh
Mũ có trang trí hình tượng Phật chính là một trong những minh chứng cho thấy sự kính
ngưỡng đối với Thần Phật của người xưa. Ví như hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát trong
Phật giáo thường đội một chiếc mũ miện có hình Phật Tổ, hay như việc tăng nhân thường
đội một chiếc mũ được thêu trên đó những hình tượng Phật để bày tỏ ý kính Phật. 

57
Hình ảnh một vị tăng nhân thời nhà Thanh đội Ngũ Phật quan (ảnh: Sina).
Các Hoàng đế nhà Thanh không chỉ đội triều quan có hình tượng Phật ở các dịp lễ quan
trọng mà ngay cả trong các ngày lên triều bình thường cũng đều phải đội.
Người đầu tiên đội mũ có hình tượng Phật phải kể đến Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích,
người xây dựng nền móng cho nhà Thanh. “Kiến châu kỷ trình đồ ký”, một tài liệu cổ
chép rằng: “Mũ làm từ da chồn, hai bên mũ có lớp lông dài để che tai, trên đỉnh có một
tòa sen nhỏ, bên trên có một hình người”. Có thể thấy hình người ngồi trên đài hoa sen ấy
chính là hình tượng Phật hoặc Bồ Tát vậy. 

Sau khi nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên, làm chủ giang sơn, các Hoàng đế đã có quy
định rõ ràng về triều quan: “Trên đỉnh đính chu vĩ (phần lông mềm và bông xù màu
đỏ), phía trước xuyết tượng kim Phật, điểm xuyết mười lăm viên đông châu” (đông châu
là một loại trân châu chỉ có tại vùng nước ngọt tại Đông Bắc).  

58
Hạ triều quan (triều quan dùng trong mùa hè) của Thanh Cao Tông Càn Long (ảnh: Bảo
tàng Cố Cung). 

Các đời vua nhà Thanh có quy định về thể thức triều quan rất nghiêm khắc và chi tiết.
Trong mỗi một dịp lễ khác nhau, Hoàng đế sẽ đội một loại mũ khác nhau. Có bốn loại mũ
chủ yếu: Triều quan (mũ đội khi mặc triều phục, dùng để thiết triều hằng ngày cũng
những đại điển quan trọng bậc nhất như tế bái, lễ đăng cơ, ngày đại hôn,…), Cát phục
quan (mũ đội khi mặc cát phục, tham dự các ngày quan trọng như mừng thọ), Thường
phục quan và Hành phục quan (mũ đội khi mặc hành phục, các dịp như săn bắn, cưỡi
ngựa). 
Triều quan chia làm hai loại là Đông triều quan và Hạ triều quan. Đông triều quan là loại
mũ dùng trong mùa đông đi kèm với triều phục mùa đông, được chế từ da Hải Long hoặc
chồn đen, bên ngoài phủ một lớp nhung tơ màu đỏ. Còn Hạ triều quan có hình thức như
chiếc nón, bên trong là lớp nhung, được chế từ ngọc thảo, cây mây và trúc. Trên đỉnh mũ
đặt quan đỉnh, đồ trang trí khảm đá quý, có ba tầng, mỗi tầng có bốn con kim long trong
miệng ngậm một hạt đông châu, trên đỉnh đặt một viên đông châu to. Phía trước triều
quan đặt một bức tượng Phật nhỏ, xung quanh là 15 viên đông châu. 

59
Bức tượng kim Phật trên hạ triều quan của Thanh Cao Tông Càn Long (ảnh: Bảo tàng Cố
Cung).
Bức tượng kim Phật thường được cho là tượng Phật A Di Đà, cũng có người nói là Phật
Thích Ca Mâu Ni hoặc Đại Nhật Như Lai. Dù là vị tôn Phật nào thì việc đặt tượng Phật
lên trên đầu mũ miện của các Hoàng đế cũng là một minh chứng rõ ràng cho tín ngưỡng
kính Trời, kính Phật của cổ nhân. Dẫu là quân vương đứng đầu thiên hạ, người xưa cũng
không bao giờ quên “trên đầu ba thước có thần linh”. Khi người đứng đầu đã tôn kính
thiên mệnh như vậy thì cả xã hội cũng sẽ làm theo, cũng sẽ được đặt trong một trạng thái
đạo đức cao, có được thịnh vượng và hoà bình. 

Hoa Linh
Hoa Linh thực chất là lông đuôi của chim khổng tước, gồm 3 loại: Hoa Linh đơn nhãn,
song nhãn và tam nhãn. "Nhãn" ở đây chính là những họa tiết hình tròn giống như những
đôi mắt được trang trí dọc theo Hoa Linh. Những họa tiết này càng xuất hiện nhiều trên
Hoa Linh của những chiếc mũ quan thì càng chứng tỏ địa vị của người đội nó.

Từ trái qua phải: Hoa Linh gồm 3 cấp bậc từ cao đến thấp: tam nhãn, song nhãn, đơn
nhãn. (Ảnh: Baidu)

2.11quần áo của Trung Hoa Dân Quốc

60
Trang phục của thời kỳ dân quốc được đánh giá là có sự ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây. Những bộ trang phục thời kỳ này có phần hơi hướng “mở” hơn. Nếu như các thời kỳ
trước, trang phục gần như sẽ là những trang phục kín, ít có sự hở hang, là điển hình cho
phong cách Á Đông thì đến thời kỳ này, các trang phục có phần hở hang hơn một chút.
Bản chất của sự thay đổi này là do ảnh hưởng từ phong cách phóng khoáng, cởi mở của
người phương Tây. Điển hình nhất là ở sườn xám của người phụ nữ đã có sự xẻ tà ở phần
đùi tạo cảm giác quyến rũ, lộ rõ những đường nét cho người mặc. Tuy nhiên, dù có sự
thay đổi nhưng trang phục thời kỳ này vẫn giữ được bản sắc của văn hóa Trung Quốc khi
vẫn thiết kế dạng áo dài ở bên ngoài giống như thời phong kiến chỉ cách điệu ở phần cổ
đi một chút. Đến nay, trang phục Trung Quốc thời kỳ dân quốc vẫn luôn được mọi người
ưa chuộng, bởi nó mang trong mình hơi thở của hiện đại nhưng vẫn mang nét truyền
thống, đồng thời cũng giúp tôn lên dáng vẻ cho người phụ nữ, vừa quyến rũ, vừa sang
trọng. 

61
Trong "In the Mood for Love", bộ sườn xám chói lọi khiến Trương Mạn Ngọc đôi khi u
uất, đôi khi duyên dáng, đôi khi buồn bã và đôi khi phóng khoáng, khiến bầu không khí u
uất, chán nản và độc đoán của Thượng Hải xưa lên đến cực điểm. Bộ sườn xám do nữ
thần trình diễn mang đậm khí chất Trung Hoa Dân Quốc.

Kiểu tóc của phụ nữ Trung Hoa Dân Quốc

62
Dây dọc (ảnh truyền lại)
Kiểu tóc của phụ nữ luôn thay đổi theo thời trang. Các kiểu bánh từng là mốt bao gồm
búi xoắn ốc, búi bầu trời, búi rỗng, búi tết, búi ngựa rơi, búi phượng múa, búi bướm,
v.v. Ngoài chải búi, một số thiếu nữ còn để một lọn tóc trên trán, thường được gọi là "tóc
mái phía trước". Kiểu tóc mái phía trước thường che giữa lông mày và một số che mắt,
tóc được cắt thành các góc tròn và chải thành hình dải lụa dọc; hoặc tóc trán được chia
thành hai lọn và tỉa thành các góc nhọn. Chẳng hạn như đuôi chim én, khi được gọi là
"đuôi én". Vào những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc, mốt tóc ngắn mái thưa thịnh
hành hơn, dường như không còn xa lạ, được gọi là “tóc mái xéo”. Sau khi phụ nữ cắt tóc,
họ thường dùng ruy băng để buộc tóc, và họ cũng dùng ngọc trai và ngọc lục bảo để làm
nhiều loại băng đô trên tóc. Vào khoảng những năm 1930, thuốc nhuộm đã lan sang
Trung Quốc. Thời đó, phụ nữ ở các thành phố lớn hầu hết bắt chước kiểu tóc phương
Tây, một số còn nhuộm tóc nhiều màu như đỏ, vàng, nâu, nâu cho hợp mốt.

63
Phụ nữ uốn tóc (ảnh lưu truyền)

Phụ kiện tóc những năm 1930

Trang phục Nam


Trang phục truyền thống của Trung Quốc thời kỳ này dành cho nam giới được gọi là
trường bào hoặc mã quái. Là một dạng áo khoác, thiết kế cổ tròn, hẹp ở ống tay áo. Trang
phục này đã có thời Mãn Thanh. Trường Bào với Mã Quái đều được thiết kế giống nhau
chỉ khác ở chỗ là nếu như Mã quái là xẻ ở giữa, cài nút thắt, ống tay áo thiết kế dạng hình
chữ U còn Trường bào thì lại xẻ ở bên cạnh.  Trải qua nhiều giai đoạn thời gian, trang
phục Trường bào của Trung Quốc tuy có sự thay đổi về kiểu cách may mặc (trang trí,
64
chất liệu vải) để phù hợp với thời đại, nhưng về hình thức vẫn y như cũ, vẫn bảo tồn kiểu
dáng có từ thời Thanh và thời Dân quốc. 

Quần áo hiện đại


Những năm 1950: Dụng cụ đơn giản và đơn giản trở thành xu hướng chủ đạo

Vào những năm 1950, khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa mới được thành lập,

nguyên vật liệu còn thiếu thốn và mọi thứ đang chờ được thực hiện.

Ngay khi lương của nhiều người được trả, đầu tiên họ mua củi, gạo, dầu và muối của cả

gia đình, sau đó không còn lại bao nhiêu.

Vào thời điểm đó, hầu hết các bà nội trợ đều làm việc để giúp đỡ gia đình, vì vậy trang

phục đơn giản và giản dị đã trở thành xu hướng chủ đạo, và "quần áo của Lenin" là trang

phục thời trang nhất của phụ nữ lúc bấy giờ.

65
Liang Jun, nữ tài xế máy kéo đầu tiên của Trung Quốc, mặc bộ đồ Lenin tại nơi làm việc

Nó đi kèm với một cổ áo rộng mở theo phong cách phương Tây, các nút hai bên ngực,

một túi xéo ở mỗi bên và về cơ bản là màu đen, xanh lam và xám.

Mặc dù "bộ đồ Lenin" rất trung tính, nhiều phụ nữ lao động mặc bộ đồ Lenin có thắt lưng

để làm nổi bật đường cong cơ thể của họ. Họ thông minh và năng động.

66
Ngay khi phụ nữ trên khắp đất nước đang mặc đồng phục, một chiếc váy có tên "Braghi"

lặng lẽ du nhập vào Trung Quốc, nó dần phá vỡ xu hướng trang phục đơn điệu này.

67
Blagi đến từ Liên Xô, và phong cách rất đơn giản: áo tay phồng ngắn, cổ tròn đơn giản,

váy xếp ly và chủ yếu là hoa hoặc kẻ sọc.

Các cô gái thời đó hạnh phúc nhất khi mặc thử Bragi

Trong một biển quần áo bảo hộ lao động rập khuôn, Bragi bộc lộ khí chất sôi nổi của

những cô gái trẻ, tô điểm thêm vẻ đẹp cho gu ăn mặc của phụ nữ nên được phụ nữ trẻ và

trung niên thời bấy giờ vô cùng yêu thích.

Cho đến những năm 1960, kiểu quần áo phổ biến một thời của Liên Xô bắt đầu biến mất,

và quân phục bắt đầu trở thành mốt cao cấp nhất.

68
Mang hai "bút lông nhỏ", đội mũ lưỡi trai, bộ quân phục cũ màu xanh lá cây cỏ tiêu

chuẩn, đai vũ trang màu nâu buộc quanh eo, một chiếc túi vải màu xanh lá cây rơm đeo

chéo, và băng tay thêu vàng hoặc vàng trên nền đỏ.

Đó là niềm mơ ước của bao cô gái thời bấy giờ, dù không có đủ bộ thì bán thân cũng

được, già cũng được, càng già thì thâm niên cũng được.

Những năm 1970: Đại dương xanh-xanh-xám-đen dần bị phá vỡ

Vào đầu những năm 1970, quần áo phụ nữ vẫn là trang phục thường ngày của quân đội.

Thanh niên có học thời đó đã cống hiến xương máu và tuổi thanh xuân của mình cho đất

đai, và họ dường như không quan tâm lắm đến chuyện ăn mặc, nên trang phục của phụ

nữ thời kỳ đó về cơ bản đã ở giai đoạn trì trệ.

69
Nhưng cũng có rất nhiều cô gái theo đuổi vẻ đẹp trong đại dương của quân phục và công

cụ, và váy trắng là lựa chọn hàng đầu của họ để tôn lên vẻ đẹp giản dị.

70
Mặc dù váy trắng đơn giản và không có hoa văn hay trang trí gì đặc biệt, nhưng váy trắng

như thần tiên đẹp hơn nhiều so với đồ dùng bằng vải ở nhà.

Cuối những năm 1970, đời sống vật chất của người dân tiếp tục được cải thiện, đầu óc

cũng dần cởi mở, mọi người cởi bỏ quân phục, quân phục, quần áo thường ngày, tuy

nhiên màu xanh lam, xanh lục, xám, đen vẫn là chủ đạo của người Hoa. quần áo.

Vào thời điểm đó, một số cô gái là những người đầu tiên cởi bỏ chiếc áo khoác màu xám

xanh và khoác lên mình những bộ quần áo đầy màu sắc và tiên phong, đồng thời bắt đầu

theo đuổi những xu hướng quần áo mới.

Dần dần, trang phục bảo hộ lao động màu trung tính và buồn tẻ bị mọi người bỏ rơi, áo

sơ mi hoa, quần bút chì,… trở nên phổ biến và trang phục của phụ nữ thực sự có một diện

mạo mới.

71
Năm 1979, thời trang Pháp do nhà thiết kế thời trang nổi tiếng người Pháp Pierre Cardin

dẫn đầu đã đến Trung Quốc trình diễn.

Những năm 1980: Thời kỳ nổi lên của Hipster

Những năm 1980 là một xu hướng khó quên ở Trung Quốc.

Đầu những năm 1980, bộ phim truyền hình "Người đàn ông đến từ đáy Đại Tây Dương"

du nhập vào nước này và dẫn đầu một xu hướng mới: một là chiếc gương cóc lớn phóng

đại;

Vì Mike Harris, nhân vật chính trong "Người đàn ông đến từ đáy Đại Tây Dương",

thường đeo một cặp kính râm to trong vở, trông rất ngầu, nên chiếc gương con cóc đã trở

thành một món đồ cần phải có của mọi người khi đi mua sắm và chụp ảnh tại thời điểm

đó.

72
Vào những năm 1980, những người phụ nữ sành điệu đeo gương con cóc và cười tươi

như hoa

Mặc dù các bộ phim truyền hình nước ngoài đã gây ra một làn sóng về xu hướng thời

trang, nhưng nền điện ảnh và truyền hình trong nước của chúng ta vẫn không chịu thua.

Trong hai bộ phim "Cô gái mặc áo đỏ" và "Váy đỏ trên phố", phụ nữ bắt đầu có can đảm

để thử những điều mới, và nhiều phụ nữ trẻ ăn mặc rực rỡ xuất hiện trên đường phố.

73
Vào thời điểm đó, một bộ phim ca múa nhạc gây chấn động thanh thiếu niên Trung Quốc

là phim "Break Dance" được giới thiệu, gây náo loạn không ít giới trẻ.

"Spacewalk" được coi là điệu nhảy phổ biến nhất và thú vị nhất vào thời điểm đó, và nó

bắt đầu càn quét đất liền. Một số thanh niên thậm chí còn nhảy múa trên đường phố, thu

hút rất đông khán giả.

74
Tất nhiên, cũng có rất nhiều cô gái xinh đẹp xuất hiện trên đường phố trong trang phục áo

thể thao truyền thống hơn + quần đùi hoặc váy ngắn, trẻ trung, sôi nổi và xinh xắn chẳng

khác gì các nữ vận động viên bóng chuyền đi ngoài thực tế.

Những năm 1980 là một kỷ nguyên đầy màu sắc và rực rỡ.
75
Có thể nói những năm 1980 đã hoàn toàn mở ra một nền thời trang thuộc về lịch sử

Trung Quốc, quần áo của phụ nữ ngày càng trở nên thông thoáng và nhiều màu sắc hơn.

Những năm 1990: Những bản hit theo phong cách Hồng Kông

Vào những năm 1990, thời trang bắt đầu xuất hiện trên mọi con phố. Với sự cải cách và

mở cửa của đất nước, nền kinh tế bắt đầu khởi sắc, đại lục và Hong Kong trở nên gần gũi

hơn. Nhiều bộ phim truyền hình Hong Kong bắt đầu thu hút sự chú ý của khán giả đại

lục, dẫn đầu xu hướng thời trang kiểu Hong Kong.

Ảnh nhóm của các nữ diễn viên chính của phim truyền hình Hồng Kông "Thời đại thịnh

suy"

Đặc biệt trong các bộ phim truyền hình thương mại ở Hồng Kông, cô gái văn phòng trong

vở, mặc một bộ vest đoan trang và đôi giày cao gót, toát lên khí chất mạnh mẽ, đã trở

thành niềm mơ ước của bao cô gái trẻ.

76
Vào những năm 1990, phụ nữ ăn mặc chuyên nghiệp trên đường phố Thượng Hải

Bên cạnh sự thịnh hành của phong cách chuyên nghiệp, gu ăn mặc hàng ngày của làn

sóng các mỹ nhân Hong Kong xinh đẹp cũng là một cố vấn thời trang cho các cô gái.

Áo len bó của Wen Bixia

Áo sơ mi denim của Wang Zuxian

77
Áo hoodie của Zhu Yin

Những bộ trang phục đậm chất Hong Kong với đủ mọi chiêu trò, mọi hình dáng đã trở

thành khai sáng thời trang của hàng nghìn cô gái.

Kể từ đó, mọi người bắt đầu theo đuổi nhiều kiểu quần áo khác nhau và ăn mặc theo ý

thích.

78
Dù ở thành thị hay nông thôn, ai cũng có cơ hội chạy theo xu hướng, ngay cả một chiếc

váy hoa đơn giản + giày cao gót, cũng có thể trở thành tâm điểm trên phố.

Không phải chiếc váy hoa của năm là phong cách mục vụ của ngày hôm nay sao?

Đồng thời, khi đất nước ngày càng mở cửa và nền kinh tế ngày càng thịnh vượng, các

thương hiệu thời trang như Yuxi và LV cũng định cư tại Trung Quốc vào những năm

1990, và chúng tôi liên tục được cung cấp thông tin về các màu sắc và mốt thịnh hành

bằng các sàn giao dịch cởi mở. .

79
Vào cuối những năm 1990,  phong cách sexy của phụ nữ thành thị, và tính cách phát

triển từ tính cách truyền thống hướng nội sang hướng ngoại.

Hình ảnh Củng Lợi khi cô tham gia Liên hoan phim Cannes 1993

Bây giờ: làm nổi bật tính cá nhân và vươn ra quốc tế

Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, trang phục theo

đuổi của chúng ta ngày càng trở nên sặc sỡ.

Có thể nhiều người không e ngại về độ nổi bật của chiếc váy này nhưng điều họ ngại nhất

là "đụng hàng áo" trên phố.

80
Từ những năm 1900 đến những năm 1910, những năm 90 là những năm đầu tiên của

những người thiết lập xu hướng ở Trung Quốc, và vào thời điểm đó họ đang trong

quá trình hình thành ý thức thẩm mỹ cá nhân.

81
Trong những năm đó, "Huanzhugege", "Meteor Garden", ... là những kỷ niệm tuổi trẻ

quan trọng của chúng tôi, và trang phục của các thần tượng cũng là sách giáo khoa thời

trang của nhiều người

Bộ ảnh lịch thời trang năm 2000 do dàn diễn viên "Han Zhu Gege" thực hiện

Trong suốt những năm 2000, nhiều thần tượng ngôi sao nổi tiếng đã ra đời và sự kết hợp

đa dạng của họ đã trở thành đặc điểm của toàn bộ trang phục của những năm 00.

82
Áp phích SHE

Khoảng giữa đến cuối những năm 2000, chúng ta có thêm nhiều hiện tượng "không chính

thống", chẳng hạn như không gian QQ, văn bản trên sao Hỏa, dán ảnh ...

Sau đó, làng giải trí trong nước phát triển mạnh mẽ nhờ những màn trình diễn tài năng,

thời trang Trung Quốc cũng bắt đầu hình thành, những phong cách không chủ đạo “ngoại

lai” đó đã ảnh hưởng đến thẩm mỹ của cả một thế hệ.

2005 "Super Girl"

"Thập kỷ tiếp theo của sự độc đáo"

Ngoài các chủng loại quần áo nhiều hơn, chu kỳ thời trang của quần áo cũng ngắn hơn,

có thể được gọi là kỷ nguyên bùng nổ của quần áo.


83
Hôm trước là váy suông phóng túng, hôm qua là váy chữ A mỏng manh, hôm nay là sơ

mi trắng chuyên nghiệp ...

Thậm chí theo thời gian, những món đồ cổ điển của thế kỷ trước được biến tấu và cải tiến

đôi chút vẫn được giới trẻ săn đón nhiệt tình.

"Quần dành cho mẹ" phổ biến

84
Mẫu quần áo do các nhà thiết kế trong nước thiết kế cho APEC 2014

85
Phong cách thời trang Trung Quốc trên sân khấu quốc tế không chỉ chứa đựng di sản văn

hóa truyền thống Trung Quốc mà còn tràn đầy sức sống quốc tế, thể hiện hoàn hảo sự

kiềm chế và hiện đại của trang phục kiểu Trung Quốc.

86
Tuần lễ thời trang cao cấp Paris Xuân / Hè 2015, buổi trình diễn thời trang của nhà thiết

kế thời trang Trung Quốc Lawrence Xu với chủ đề "Đôn Hoàng"

Cũng có rất nhiều thương hiệu quần áo Trung Quốc đổ xô ra thế giới, tỏa sáng quốc tế và

dẫn đầu xu hướng.

Li Ning của Trung Quốc tại buổi trình diễn thời trang New York

3: Ảnh hưởng đến thời trang hiện đại

Thời trang truyền thống Trung Quốc vào các thiết kế hiện đại. Ngày càng có nhiều nhà
thiết kế Trung Quốc sử dụng nó như một nguồn cảm hứng, trong khi người tiêu dùng
Trung Quốc đang đòi hỏi nó. Như một bài báo gần đây của The Business of Fashion đã
nêu: 'Các chất liệu và sản phẩm truyền thống đang được đổi mới để người tiêu dùng xa xỉ
Trung Quốc bớt mê mẩn các thương hiệu cao cấp của châu Âu.' Ngay cả các thương hiệu
toàn cầu như Hermès cũng đang nhảy vào thị hiếu thay đổi này ở Trung Quốc với sự phát
triển của thương hiệu phụ Shang Xia cụ thể của Trung Quốc.
Có một sự chiếm đoạt lại đang diễn ra theo kiểu Trung Quốc, khác với chủ nghĩa kỳ lạ
mà Ma mô tả, và không bị các hệ tư tưởng phương Tây sai khiến. Đó là một viễn cảnh
thú vị cho thế giới thời trang, cung cấp những lựa chọn thay thế cho sự độc quyền mà
phương Tây đã nắm giữ trong thời trang quá lâu.
Các nhà thiết kế Trung Quốc đã bắt đầu tìm lại bản sắc của họ và tạo ra một nền tảng độc
đáo của riêng họ. Trọng tâm mới này mang đến cơ hội tạo ra một ngành công nghiệp thời
trang thực sự tiêu biểu.

87
Nhà thiết kế: Ji Cheng
ẢNH: WU JUN / IMAGINECHINA

88
Thương hiệu: Mukzin
ẢNH: WU JUN / IMAGINECHINA

** **

KẾT LUẬN

Trung Quốc với phong phú lịch sử cũng như văn hóa trang phục rất đa dạng , làm tiền đề,

nguồn cảm hứng lớn cho thời trang Trung Quốc ngày nay...

Nguồn
https://zhuanlan.zhihu.com/p/54015428
https://web.archive.org/web/20150716213334/http://www.diybuyi.com/2080.html
https://new.qq.com/omn/20191025/20191025A0LTHE00.html?pc
89
http://wap.art.ifeng.com/?
app=system&controller=artmobile&action=content&contentid=3499569
https://web.archive.org/web/20150714081315/http://www.diybuyi.com/3103.html
https://web.archive.org/web/20150716194920/http://www.diybuyi.com/3109.html
https://web.archive.org/web/20150716223642/http://www.diybuyi.com/2048.html
https://www.sohu.com/a/119576711_120078003
https://fashionstatement.asia/style-explorer-chinese-fashion-design-reclaims-heritage
https://www.topchinatravel.com/china-guide/history-of-chinese-clothing.htm 
https://fashion-history.lovetoknow.com/clothing-around-world/china-history-dress
https://nncn.edu.vn/nhung-net-dac-sac-cua-van-hoa-trung-quoc.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Trung_Qu%E1%BB%91c#H
%E1%BB%99i_h%E1%BB%8Da,_%C4%91i%C3%AAu_kh%E1%BA%AFc,_ki
%E1%BA%BFn_tr%C3%BAc
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Qu%E1%BB%91c
https://thanhnien.vn/chu-nghia-tieu-dung-dan-toc-len-ngoi-nganh-thoi-trang-trung-quoc-
troi-day-manh-me-post1106755.html
https://baoduyenbabyhouse.com/thoi-trang-duong-pho-trung-quoc/

90
91

You might also like