You are on page 1of 10

CHỦ ĐỀ 7: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN

HÓA VÀO XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái niệm văn hóa
Hiện không có khái niệm chính xác giải thích văn hoá là gì. Tuy nhiên, có nhiều
ý kiến giải thích như sau:
• Theo UNESCO
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc.
• Theo Wiki
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa
bao gồm cả hai khía cạnh: Khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương
tiện…
• Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa
Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo xuất bản năm 1998
Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch
sử.
Như vậy, có thể thấy, văn hoá được coi là toàn bộ các khía cạnh của cuộc sống
xã hội như ngôn ngữ, tiếng nói, tôn giáo, tư tưởng, di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh… của dân tộc, đất nước. Nó mang đến giá trị về mặt tinh thần nhằm
phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của cộng đồng người dân.
II. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận về văn hoá:
1) Tiếp cận theo nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người
• Tháng 8-1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Người
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Điều
thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh có rất nhiều điểm gần giống với văn
hoá hiện đại.
• Văn hoá có nội hàm rất rộng: Văn hoá không chỉ bao gồm những giá trị
vật chất ( công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở,...) mà còn bao gồm
toàn bộ những giá trị tinh thần (ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, tôn giáo,
văn học,..) Tất cả những điều đó hợp thành văn hoá.
• Chủ thế sáng tạo ra văn hóa là con người: Văn hoá là những giá trị mà
loài người đã sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại của mình. Văn hoá ra
đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Hay nói cách khác văn hoá chính là sản phẩm của con người.
• Vai trò của văn hoá: Giúp con người tồn tại và phát triển. Con người sáng
tạo ra văn hoá để nhằm thích ứng những nhu cầu của cuộc sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn.
2) Tiếp cận theo nghĩa hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc
thượng tầng;
3) Tiếp cận theo nghĩa hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa
nạn mù chữ, biết đọc, biết viết (thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào
miền núi);
4) Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ của văn hóa với các lĩnh vực
khác (chính trị, kinh tế, xã hội)
a. Quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính
trị phải có hàm lượng văn hóa.
b. Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế

Văn hóa cũng không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn
hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở
lại kinh tế.

c. Quan hệ giữa văn hóa với xã hội


Giải phóng về chính trị thì văn hóa mới có điều kiện phát triển. Xã hội thế nào
văn hóa thế ấy. Phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về
tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt
Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
d. Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc VN; là thành quả của quá trình lao động sản xuất, sản xuất, chiến đấu và
giao lưu của con người VN.

Bản sắc văn hóa dân tộc VN được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ: Về nội
dung, đó là lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân
tộc,.. Về hình thức, cốt cách văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục,
tập quán, lễ hội truyền thống, cách cảm và nghĩ,..
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc
tính dân tộc. Nó là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mác – Lênin. Chăm lo cốt
cách dân tộc, đồng thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng
nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn trọng phong tục, tập quán, văn hóa của các
dân tộc ít người.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tiếp biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông
phương và Tây phương trung đức lại… Tây phương hay Đông phương có gì
tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm
tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt nam thật có tinh
thần thuần túy Việt Nam để kết hợp với tinh thần dân chủ”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn
hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa VN hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung
tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây , kim, cổ, tất cả các mặt, các khía
cạnh. Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ
giữa giữ gìn cốt cách dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa
dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
IV. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
a. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là mục tiêu: nhìn một cách tổng quát, văn hóa là quyền sống,
quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của
nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân là chủ và dân làm
chủ, công bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một
xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn luôn được quan tâm
và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Văn hóa là động lực, động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu
sau:
• Văn hóa chính trị, là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.
• Văn hóa văn nghệ, góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm
cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối
cùng của cách mạng.
• Văn hóa giáo dục, diệt giặc dốt, xóa mù chữ, với sứ mệnh “trồng người”,
văn hóa giáo dục đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất
lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
• Văn hóa đạo đức, nâng cao phẩm giá, hướng con người tới các giá trị chân,
thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người
cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần
đạo đức cách mạng hay là không. Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo
đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
• Văn hóa pháp luật, bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
b. Văn hóa là một mặt trận
Văn hóa là một mặt trận là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc
lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính
chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa, là cuộc đấu tranh trên lĩnh
vực văn hóa - tư tưởng.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng
vững vàng; ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”.
Phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để phê bình
nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, và
ca tụng chân thật những người tốt việc tốt để làm gương mẫu cho chúng ta
ngày nay và giáo dục con cháu đời sau. Đó chính là “chất thép” của văn
nghệ theo tinh thần “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư
tưởng văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân, “từ trong
quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. Trên cơ sở đó để định hướng giá
trị cho quần chúng. Nhân dân là những người thẩm định khách quan, trung
thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ và là những người được hưởng thụ
các giá trị văn hóa.

V. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
- Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm
nội dung:
1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường.

2) Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân.

4) Xây dựng chính trị: dân quyền.


5) Xây dựng kinh tế.

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp


Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, Hồ Chí
Minh khẳng định lại quan điểm của Đảng ta từ năm 1943, đó là một nền văn
hóa có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
- Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc.

=> Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Việt Nam, đó là là một nền văn hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn
hóa dân tộc, bảo đảm tính khoa học, tiến bộ và nhân văn.
VI. Vận dụng tư tưởng HCM về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa hiện
nay

1. Thực trạng

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân
dân ta đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta chủ trương “xây dựng nền Văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị Quyết TW5, khoá VIII,
năm 1998). Nền văn hoá đó được xây dựng trên cơ sở kiên định Chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần chủ đạo là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam; nhấn mạnh vai trò, chức năng quan trọng của văn hoá đối với sự tồn
tại và phát triển xã hội ngày nay; văn hoá vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Phải nhận thức rõ nền văn hoá
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam, cho nên cần phát huy và bảo tồn từng bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc.
Phải thấm nhuần quan điểm xây dựng văn hoá là sự nghiệp của toàn dân trong
đó đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo có vai trò quan trọng. Văn hoá là một mặt
trận, xây dựng văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần phải có ý chí cách
mạng đồng thời phải kiên định và thận trọng, kết hợp giữa xây với chống và lấy
xây làm chính

Trên cơ sở thực trạng văn hoá nước ta mà Hội nghị TW5 (khoá VIII) đã đánh
giá, Hội nghị TW10 (khoá IX) tiếp tục khẳng định: Văn hoá đã gắn kết chặt
chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã góp phần quan trọng vào việc
giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành tựu về kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất nước. Đã có sự tham gia tích cực, tự giác
của nhân dân vào các hoạt động văn hoá, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống VH” đã tạo được chuyển biến bước đầu và tiền đề
rất quan trọng để văn hoá nước nhà tiếp tục phát triển đúng hướng và vững chắc.
Để đạt được kết quả bước đầu đó, chính là nhờ toàn Đảng, toàn dân ta đã không
ngừng học tập, thấm nhuần tư tưởng và những căn dặn trong Di chúc thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.

2. Thành tựu

Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn mười năm
đổi mới, cùng với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt
Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát
triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Giao lưu hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét trong
chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước được hình thành. Các tài
năng văn hóa nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa được giữ gìn
và tôn tạo.Hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa thật sự khởi sắc, góp
phần làm cho vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Văn hóa, con
người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu rõ hơn. Dân trí được nâng lên
cùng với văn hóa phát triển đã góp phần xây dựng tính chủ động sáng tạo của
nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội.

Truyền thống văn hóa được giữ gìn và phát huy: truyền thống yêu nước, đoàn
kết, lòng thương yêu con người bao dung, truyền thống tôn sư trọng đạo, uống
nước nhớ nguồn,… Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách
mạng và kháng chiến, nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn
hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công với đất nước, lá lành đùm lá
rách....trở thành phong trào quần chúng. Phong tục tập quán tốt đẹp được kế
thừa:Phong tục lễ tết( tết nguyên đán, tết trung thu…), tục ăn trầu, phong tục thờ
cúng tổ tiên…Những lễ hội có ý nghĩa vẫn được kế thừa( lễ hội đền Hùng, hội
Gióng, hội Đống Đa…).

Tôn giáo: phật giáo, đạo giáo, công giáo,... Mọi công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền
tự do ấy.
Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển
mới.Văn học: văn học dân gian và văn học viết Sân khấu dân gian Việt Nam:
múa rối, hát chèo, hát tuồng… Sân khấu hiện đại: kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật…
Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát huy và nhiều bộ môn
nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước bạn bè trên thế
giới.

Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những
văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở vật chất
phục vụ cho các hoạt động văn hóa được nâng cao, xây dựng thêm nhiều nhà
văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải
trí…và đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu quả.
3. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn tồn tại
nhiều yếu kém.

Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của người
dân, ngay cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên.Trước những biến động chính trị
phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội
chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ
nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phủ nhận lịch sử cách mạng
hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Nhiều
người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình
nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp. Hoạt động buôn
lậu và nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia
tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến, gây nhiều hậu quả xấu cho nhân dân.
Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới xin, tang lễ, lễ hội…

Nhiều phong tục tập quán của dân tộc bị mai một. Bên cạnh những phong tục
tập quán tốt đẹp, nước ta vẫn còn những phong tục tập quán lạc hậu như: tục ma
chay, cưới xin còn rườm rà, nhiều hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan vẫn chưa được
xóa bỏ, bài trừ…

Một số lễ hội tốt đẹp cũng bị quên lãng, không được duy trì.

Vấn đề tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm. Hiện nay nước ta còn gặp phải một
số vấn đề về tôn giáo như vụ giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội.

Ngôn ngữ Việt Nam vẫn chưa được phát triển lành mạnh với sự hòa hợp
quốc tế. Giới trẻ sử dụng ngôn ngữ lai căng làm mất đi sự trong sáng của tiếng
việt. Ví dụ: nhiều biển quảng cáo với dòng chữ nước ngoài rất to nhưng chữ
Việt Nam lại rất nhỏ, khó có thể nhìn thấy.Chúng ta là nước nào mà lại sử dụng
ngôn ngữ nước ngoài để quảng cáo mà không phải là tiếng Việt?

Văn học ngày nay cũng có nhiều vấn đề bất cập. Bên cạnh những tác phẩm
văn học mang tính nhân văn, thẩm mỹ cao thì cũng không ít tác phẩm sáng tác
theo thị hiếu của người đọc với những nội dung không lành mạnh.Vd: truyện
tranh cho thiếu nhi nhưng nội dung , hình ảnh cũng như từ ngữ lại mang tính
chất bạo lực. nhiều tác phẩm văn học mang nội dung đồi trụy.

Về lĩnh vực nghệ thuật: nghệ thuật dân gian chưa được duy trì và phát triển
mạnh. Những thể loại nghệ thuật dân gian không được phổ biến sâu rộng. Giới
trẻ ít quan tâm, thậm chí tỏ ra thờ ơ với các loại hình văn học dân gian. Nhiều
tác phẩm điện ảnh còn kém chất lượng về nội dung và không phù hợp.

4. Biện pháp

Trước những yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm
sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nhằm xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu khách quan.
Chúng ta cần triển khai thực hiện những biện pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển những
giá trị xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh ngày nay, cần có sự thống nhất cao về
nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội về tầm quan trọng của
văn hóa cả về lĩnh vực lý luận, thực tiễn và công tác chỉ đạo xây dựng phát triển
văn hóa. Xây dựng và phát triển văn hóa liên quan và tác động chặt chẽ với các
lĩnh vực khác, cùng nhằm đảm bảo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác
xã hội hóa trong xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề bảo đảm về chính trị, tư tưởng để xây
dựng nền văn hóa trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đi đúng
quỹ đạo và mục tiêu xác định. Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực, những khía
cạnh không hoặc ít có khả năng xã hội hóa. Xã hội hóa xây dựng, phát triển văn
hóa trước hết ở việc huy động các nguồn lực đóng góp vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa. Có những chính sách mang lại quyền lợi thiết thân cho
chính người dân, thì đó chính là "đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân".
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng
và phát triển văn hóa, xã hội. Thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa, đòi hỏi việc xác định mỗi chính sách kinh tế đều nhằm thực hiện mục
tiêu văn hóa. Mặt khác, mỗi chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước đều
phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù hợp với thực lực kinh
tế của đất nước. Đường lối phát triển văn hóa - xã hội đúng đắn thì sẽ tạo ra
động lực đối với sự phát triển của đất nước.
Bốn là, xây dựng văn hóa phải bắt đầu với tư cách là chủ thể của văn hóa.
Con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời là
sản phẩm của môi trường văn hóa. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Văn hóa phải tham gia tích cực vào việc phát triển nguồn nhân lực, đào luyện
nhân tài cho đất nước.
Năm là, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao
lưu hội nhập quốc tế. Trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa của thế giới hiện
nay, không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới.
VII. Liên hệ sinh viên

Mỗi sinh viên là mầm non tương lai của đất nước, gánh vác trên vai sứ mệnh
dựng xây và phát triển đất nước. Để đất nước ấy phát triển vững mạnh và toàn
diện thì xây dựng văn hóa cũng là một điều thiết yếu không thể bỏ qua.
Một là, sinh viên cần nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, giữ gìn văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Thế giới hiện nay đã bước sang cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều
đó đặt nước ta trước thách thức mới về văn hóa: Việt Nam vừa phải cố gắng
phát triển mọi mặt để theo kịp sự phát triển của các nước tiên tiến, mặt khác vừa
phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trước những khó khăn, thử
thách đó tất cả các cấp, các ngành ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có
kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Qua đó, giúp sinh viên tự đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí
thức tương lai của đất nước, mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần đưa đất
nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn
luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng
và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng
bản lĩnh văn hóa, tìm hiểu, tiếp thu về những phong tục, truyền thống quý báu
của dân tộc, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không
lành mạnh.
Hai là, sinh viên cần tham gia vào các chương trình, hoạt động ngoại khóa để
phát triển vai trò của bản thân trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện
nay.
Tiếp tục đẩy mạnh việc bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa góp phần giữ
gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam:
Đó là truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, cần cù sáng tạo trong lao
động sản xuất, “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo”, “lá lành đùm lá
rách”…Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phát triển nhân cách và tài
năng: môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc, yêu thương giúp đỡ nhau; môi
trường nhà trường đoàn kết, an toàn, nhiều cơ hội phát triển tri thức; môi trường
xã hội ổn định, an toàn, tạo niềm tin
Ba là, sinh viên cần tham gia vào các cuộc hội thảo, tọa đàm về văn hóa.
Tham gia vào các cuộc thi, các chương trình giao lưu về văn hóa nghệ thuật
cho sinh viên ở phạm vi trong nước và quốc tế. Qua đó nâng cao tinh thần yêu
nước, truyền thống cách mạng của dân tộc, đồng thời có thể học hỏi lẫn nhau
những bài học quý giá, cũng như những tri thức mới tốt đẹp, trở thành hành
trang quý giá cho mỗi sinh viên nói riêng và của cả dân tộc nói chung trong quá
trình hội nhập và phát triển.
Bốn là, sinh viên cần phát huy tính tích cực và chủ động của bản thân mỗi
người.
Tích cực tham gia các cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền
thống văn hóa của đất nước, của quê hương. Từ đó nhận thấy trách nhiệm của
công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc là phải tiếp thu những truyền thống quý
báu của dân tộc, quảng bá vẻ đẹp về đất nước, con người Việt Nam với Thế giới.
Tích cực trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Không những giúp
sinh viên hiểu được trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc. Bên
cạnh đó, mỗi sinh viên phải có trách nhiệm xây dựng và phát triển đất nước
trong quá trình CNH, HĐH đất nước, để đất nước Việt Nam sánh vai kịp với các
cường quốc trên thế giới. Để có được điều đó, sinh viên cần trang bị cho mình
những tri thức mới của thời đại, phải chủ động, tích cực trong quá trình giao lưu,
hội nhập tiếp thu tinh hoa, văn hóa của thế giới.
Năm là, sinh viên cần xây dựng tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh chống
lại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng và văn
hóa.
Sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang là mục
tiêu phá hoại của các thế lực thù địch. Thực hiện âm mưu này, chúng chủ trương
tiến hành nhiều hoạt động nhằm làm tha hóa chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ,
trong đó có sinh viên. Chúng muốn biến thanh niên, sinh viên thành những kẻ
ích kỷ, thực dụng, chạy theo những lợi ích vật chất tầm thường, phai nhạt dần lý
tưởng cách mạng, quay lưng với truyền thống, mất gốc, lai căng... Vì vậy, mỗi
sinh viên cần phải quan tâm đến công tác tư tưởng, văn hóa, tạo môi trường xã
hội lành mạnh, trong đó việc xây dựng lối sống mới, con người mới cho các thế
hệ sinh viên mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, sinh viên cần tin
tưởng vào Đảng và Nhà nước, tuân thủ theo Luật Pháp đã được ban hành tại
Hiến pháp Việt Nam, luôn quan tâm đến tình hình chính trị của đất nước, thực
hiện chính sách mà Nhà nước ban hành, áp dụng vào đời sống thực tế để xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, giữ gìn nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Sáu là, sinh viên cần đấu tranh để loại bỏ, bài trừ các tư tưởng văn hóa lạc
hậu, các hủ tục trong đời sống văn hóa.
Lên án, đào thải các hủ tục, quan niệm lạc hậu như trọng nam khinh nữ, mê
tín dị đoan, đặc biệt là hủ tục tảo hôn, kết hôn cận huyết ở vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số,... đảm bảo nhận thức của họ chuyển biến tích cực, thực hiện
nếp sống văn hóa mới giúp đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng được
nâng cao.
Bảy là, sinh viên cần tiếp thu nền văn hóa nhân loại, đưa nền văn hóa Việt
Nam vươn xa với bạn bè quốc tế.
Tiếp cận với nền văn hóa thế giới song sinh viên cần thực hiện văn hóa ấy phù
hợp với điều kiện văn hóa của Việt Nam, giới thiệu nền văn hóa Việt đến bạn bè
quốc tế trên các phương tiện truyền thông khác nhau. Tiếp thu văn hóa bên
ngoài để xây dựng nền văn hóa mới và đưa nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản
sắc dân tộc vươn xa là nhiệm vụ quan trọng mà thế hệ trẻ Việt Nam cần thực
hiện và hoàn thành tốt.
VIII. Tóm tắt nội dung
- Quan điểm HCM về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, đó là một nền văn
hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc, bảo đảm tính khoa học,
tiến bộ và nhân văn.
- Trong tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, cần đặc biệt coi trọng việc tiếp thu
và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam.
- Người nói “ Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”
- Để văn hoá tăng thêm sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì
mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và kiên quyết xóa bỏ những hủ tục, tàn dư, những sản
phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài.

You might also like