You are on page 1of 36

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG


-------------------------

TIỂU LUẬN XÂY DỰNG ĐẢNG

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG KIỂU MỚI


CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO THỰC
TIỄN XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Sinh viên: Nguyễn Hà My


Mã số sinh viên: 1952010024
Lớp: NGÔN NGỮ ANH K39

Hà nội, tháng 05 năm 2021


1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 6
Chương 1. Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân 6
1.1. Điều kiện lịch sử mới xuất hiện quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng Đảng 6
1.2. Hệ thống nguyên tắc về xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin 6
Chương 2. Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam 27
Chương 3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh 32

KẾT LUẬN 34

TÀI LIỆU THAM KHẢO 35


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
V.I Lênin sinh năm 1870, năm 1894 khi mới 24 tuổi Lênin đã tham gia nhập
Đảng Xã hội dân chủ Nga, gần 54 tuổi đời với 30 năm hoạt động cách mạng, V.I
Lênin đã có những cống hiến và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vô sản
thế giới, đấu tranh vì hoà bình, độc lập, tự do của các dân tộc, vì hạnh phúc của con
người. V.I Lênin trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức trên Thế giới trong đó có Việt Nam.Với những di sản tư tưởng và quan điểm,
lý luận vô cùng tiến bộ và đổi mới cho nhân loại, V.I. Lênin là nhà tư tưởng vĩ đại,
là nhà lý luận lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới.
Kế tục sự nghiệp của Mac- Ăngghen, Lênin đã đấu tranh kiên quyết để bảo
vệ sự trong sáng của Chủ nghĩ Mác, giải quyết đúng đắn các vấn đề lý luận và thực
tiễn cho cuộc cách mạng vô sản trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa lũng đoạn toàn
Thế giới. Trong di sản vĩ đại mà V.I. Lênin để lại, tư tưởng của Người về Đảng
Cộng sản và xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền thật trong sạch, vững mạnh có
một vị trí nổi bật và tầm quan trọng đặc biệt, ý nghĩa sâu rộng, phổ biến trong sự
nghiệp cách mạng của các Đảng Cộng sản, các dân tộc trên thế giới, vì thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng đó, là một trong những giá
trị bền vững của chủ nghĩa Lênin, vào lúc này càng có tính thời sự đối với Đảng ta,
trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thật trong sạch để thật
vững mạnh, xứng đáng với niềm tin cậy và tự hào của Nhân dân, để lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Để kế thừa tư tưởng cha ông, sinh viên cần phải hiểu xây dựng Đảng Cộng
sản Việt nam trong sạch vững mạnh, sinh viên cần nắm rõ các vấn đề cơ bản nhất
và một số vấn đề chung về xây dựng Đảng, cụ thể hơn là quan điểm của V.I.Lênin
3

về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và liên hệ thực tiễn tới công
cuộc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xuất phát từ tinh thần trên, bài tiểu luận được viết với đề tài “Quan điểm của
V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và sự vận dụng vào
thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tính tất yếu khách quan về sự ra đời của Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân; những nguyên tắc cơ bản về xây dựng đảng kiểu mới của Lênin; sự vận
dụng, phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản về xây dựng đảng cộng sản của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Đưa ra nhận thức được hệ thống nguyên tắc về xây dựng Đảng kiểu mới của
V.I.Lênin, thấy được sự ảnh hưởng của V.I.Lênin trong việc phát triển sáng tạo
những nguyên lý để sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó mà vận dụng những
quan điểm của Người trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
Bài tiểu luận có đối tượng nghiên cứu riêng, đó là nghiên cứu hệ thống
nguyên tác của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân;
những vấn đề phổ biến, có tính quy luật, hoạt động vận dụng quan điểm xây dựng
đảng kiểu mới của V.I.Lênin và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh,
trong sạch.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, xuất phát từ quan điểm đảng kiểu mới cửa
V.I.Lênin để vận dụng và Đảng Cộng sản Việt Nam, những nội dung phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị;
về nội dung và phương thức xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển từ tư
tưởng của V.I.Lênin. Bài luận “Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân và sự vận dụng vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam” đi sâu phân tích đối tượng nghiên cứu là những quy luật, nguyên tắc của
4

hệ thống nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin và vận dựng thực hiện
quy luật, nguyên tắc đó trong hoạt động xây dựng nội bộ Đảng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; nghiên cứu tổng kết những kinh nghiệm xây dựng Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
b. Phạm vị nghiên cứu:
Bài tiểu luận “Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân và sự vận dụng vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam”
đi sâu nghiên cứu trong phạm vi những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu
về quan điểm đảng kiểu mới của V.I.Lênin cùng với những tài liệu, văn bản về
nguyên tắc, kinh nghiệm của Đảng lãnh đạo các tổ chức hệ thống chính trị...
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu mới- Chính đảng cách
mạng của giai cấp công nhân. Kế thừa những tư tưởng sâu sắc của Mác, Ăngghen
về tính tất yếu ra đời đảng cộng sản khi có sự kết hợp giữa lý luận của CNXH khoa
học với phong trào công nhân, như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã nêu: “ Vậy
là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các
đảng công nhân ở các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về
mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. Tư tưởng của Lênin
về xây dựng một chính đảng kiểu mới được thể hiện tập trung trong các tác phẩm
“Làm gì?” (3/1902 )và tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” (1904), chỉ rõ
những nguyên lý cơ bản để xây dựng chính đảng kiểu mới, cũng là những căn cứ,
nguyên tắc để phân biệt một đảng cách mạng, chính đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân với các tổ chức chính trị, đảng phái khác.
b. Phương pháp nghiên cứu
Một là, phương pháp phân tích - tổng hợp
5

Trong nghiên cứu quan điểm đảng kiểu mới của V.I.Lênin, phương pháp phân tích
được sử dụng để nghiên cứu các nguyên tắc, điều kiện và quá trính hình thành hệ
thống nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới cũng như quá trình kết thừa và phát triển
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên quan điểm V.I.ênin, các văn bản, tài liệu có liên
quan. Phân tích nhằm phát hiện ra những xu hướng phát triển của sự vận dụng, từ
đó chọn lọc tổng hợp những thông tin cần thiết để khái quát thành các nội dung
luận điểm, quan điểm.
Hai là, phương pháp logic - lịch sử
Phương pháp lôgíc là phương pháp tìm ra các mối liên hệ bản chất, tính tất yếu,
quy luật tổ chức và hoạt động của Đảng trong quá trình vận dụng quan điểm xây
dựng đảng kiểu mới của V.I.Lênin. Phương pháp lịch sử là phương pháp phản ánh
quá trình lịch sử, các sự kiện cụ thể, yếu tố khách quan tác động đến quan điểm
của Lênin và vận dụng và Đảng ta.
Ba là, phương pháp tổng kết thực tiễn và điển hình tiên tiến
Phương pháp này là phương pháp đặc thù trong bài luận “Quan điểm của V.I.Lênin
về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và sự vận dụng vào thực tiễn
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam” nói riêng và môn học xây dựng đảng nói
chung. Bằng cách thông qua thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm ở xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam và vận dụng từ quan điểm đảng kiểu mới của V.I.Lênin.
5. Kết cấu của tiểu luận
Cấu tạo nội dung bài tiểu luận gồm hai phần chính
- Chương 1. Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân
- Chương 2. Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
- Chương 3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh
6

NỘI DUNG

Chương 1: Quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân
1.1. Điều kiện lịch sử mới xuất hiện quan điểm của V.I.Lênin về xây
dựng Đảng
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa, vai trò của Đảng Cộng sản được đề cao. Trong thời kỳ mới, đặt
trước giai cấp vô sản nhiệm vụ mới: Một là, tổ chức lại toàn bộ công tác đảng theo
một phương thức mới, cách mạng. Hai là, giáo dục công nhân theo tinh thần đấu
tranh cách mạng để giành chính quyền. Ba là, chuẩn bị và tập trung những lực
lượng dự trữ, liên minh với những người vô sản các nước, thiết lập những mối liên
hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Do đó,
V.I.Lênin một mặt bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử
mới. Người cho rằng cần phải có Đảng kiểu mới, Đảng thực sự cách mạng của giai
cấp công nhân.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính
đảng độc lập cùa giai cấp công nhân, sau khi khái quát một cách khoa học và phân
tích toàn bộ kinh nghiệm đã tích lũy được của phong trào công nhân Nga, với
những điều kiện lịch sử mới trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản.
V.I.Lênin đã xây dựng nên học thuyết về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân,
một Đảng khác hẳn về chất so với các Đảng cơ hội chủ nghĩa trong Quổc tế II.

1.2. Hệ thống nguyên tắc về xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin
1.2.1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng
7

Trong phong trào công nhân quốc tế những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng, nhiều học thuyết khác nhau như: chủ nghĩa
Lát-xan, chủ nghĩa Cauxky, chủ nghĩa Bécxtanh, chủ nghĩa Kinh tế v.v...
Tuy nhiên, các học thuyết trên hoặc quá tả hoặc quá hữu và đều phản bội lợi ích
giai cấp công nhân, phản bội và kìm hãm sự phát triển của phong trào công nhân.
V.l.Lênin đã kiên quyết chọn chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tường, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là một hệ thống lý luận thống nhất được hình
thành từ 3 bộ phận: Triết học Mác xít, Kinh tế chính trị học Mác xít và Chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Triết học Mác xít là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nó đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp
luận đúng đắn dể nhận thức và cải tạo thế giới.
Kinh tế chính trị Mác xít: để chỉ cho giai cấp vô sản hiểu rõ họ đã bị nhà tư
bản bóc lột như thế nào, những quy luật kinh tế chủ yếu đưa Chủ nghĩa tư bản tới
chỗ diệt vong, những tiền đề và yếu tố của xã hội mới dược chuẩn bị trong lòng xã
hội cũ ra sao.
Chủ nghĩa xã hội khoa học: nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội
Tư bản chủ nghĩa thành xã hội Xã hội chủ nghĩa. Lực lượng xã hội thực hiện sự
chuyển biến đó là giai cấp vô sản và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác là học thuyết cách mạng và khoa học.
Chủ nghĩa Mác gắn chặt với thực tiễn phong trào cách mạng, với sự phát
triển của khoa học, kỹ thuật, với cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hết sức gay gắt và
quyết liệt. Sức sống của chủ nghĩa Mác chính là sức sống của những quy luật vận
động khách quan mà nó khám phá.
Lý luận của Mác luôn xuất phát từ thực tế cuộc sống, thông qua thực tế cuộc
sống mà khái quát nên thành lý luận. Nó bám sát với sự phát triển của khoa học kỹ
8

thuật để đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính
giai cấp; tìm ra những quy luật vận động khách quan của đời sống xã hội tự nhiên
và tuân thủ nghiêm ngặt sự vận động của các quy luật khách quan đó. Những nội
dung chủ yếu thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác:
Một là, học thuyết Mác là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu và con
đường, lực lượng, phương thức đạt được mục tiêu là giải phóng xã hội, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
Hai là, Tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác thể hiện trong toàn
bộ các nguyên lý cấu thành học thuyết, trước hết là các nguyên lý trụ cột.
Ba là, Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận là một
nguyên tắc quan trọng trong chủ nghĩa Mác.
Bốn là, chủ nghĩa Mác không phải là một học thuyết đóng kín, cứng nhắc,
nằm ngoài con đường phát triển của nhân loại, mà là học thuyết “mở” có khả năng
tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại để phát triển và hoàn thiện. Bản thân
C.Mác và Ph.Ăngghen là những tấm gương không ngừng sáng tạo, không ngừng
hoàn thiện lý luận của mình dưới ánh sáng của thực tiễn mới nhất, tư duy khoa học
mới nhất.
Còn nhiều điều C.Mác, Ph.Ăngghen chưa có điều kiện nghiên cứu; một số
luận điểm các ông đã điều chỉnh trước thực tiễn mới. Có những điều mới mẻ trong
thực tiễn sau này mà các ông chưa dự kiến được, đó là trách nhiệm của các thế hệ
kế tiếp, của những người mácxít, lêninnít chân chính. Toàn bộ học thuyết Mác có
giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt
lõi của nó. Những tinh hoa trí tuệ của các thế hệ kế tục sẽ làm cho chủ nghĩa Mác
ngày càng phát triển và hoàn thiện.
Sau những năm tháng chuẩn bị chu đáo, đấu tranh quyết liệt với biết bao
nhiêu lực cản, Đảng kiểu mới của V.I.Lênin đã được khẳng định tại Đại hội II của
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga. Đại hội này đã kết thúc quá trình thống nhất
các tổ chức cách mạng mác xít ở Nga trên nguyên tắc tư tưởng chính trị và tổ chức
9

do V.I. Lênin khởi xướng. Một đảng kiểu mới – Đảng mà giai cấp công nhân cầm
quyền đã bước lên vũ đài lịch sử. Đảng kiểu mới cùa V.I. Lênin ra đời và đã thông
qua cương lĩnh cách mạng, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế.

1.2.1. Đảng là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức và là hình thức tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân
Đảng là tổ chức chính trị, là bộ phận của giai cấp nhưng phải phân biệt Đảng
với toàn bộ giai cấp, sự phân biệt đó thể hiện trước hết ở chỗ, Đảng là đội tiên
phong của giai cấp. Về mặt số lượng, Đảng ít hơn nhiều lần so với giai cấp. về mặt
chất lượng, Đảng chỉ bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp, có giác ngộ
nhất, có ý thức tổ chức kỳ luật cao nhất.
Theo V.I.Lênin, Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp, là người đưa yếu
tố tự giác vào phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao động, là người
giáo dục và tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Do vậy, không được lẫn
lộn Đảng tức là đội tiên phong với toàn bộ giai cấp. Đảng tiên phong trên 3 phương
diện:
Thứ nhất, Đảng tiên phong trên phương diện lý luận.
Khi đề cập đến các quan điểm về Đảng và xây dựng Đảng kiểu mới, Lênin
luôn đề cao vai trò của lý luận. Theo V.I.Lênin “Chỉ đảng nào được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên
phong"'. Và muốn có lý luận tiên phong đúng, phải có thế giới quan và phương
pháp luận cách mạng và khoa học. Theo Lênin, chủ nghĩa Mác là cơ sở khoa học để
Đảng lãnh đạo trong công tác xây dựng Đảng, là ngọn cờ đoàn kết những người vô
sản, là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành động, chiến lược và sách lược cách mạng,
là nguồn gốc đi đến thắng lợi. Lênin khẳng định: "cơ sở lỷ luận vững chắc như đá
hoa cương", "là sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu
xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học và CNXH khoa học". Lênin còn
khuyên không nên áp dụng chủ nghĩa Mác một cách cứng nhắc, giáo điều, đó
10

không phải là một công thức sẵn có, hoàn thiện mà phải biết vận dụng và phát triển
nó. Người chỉ rõ: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì xong
xuôi hẳn hoặc bất khả xâm phạm. Trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống". Đảng
không những tiên phong về lý luận, mà phải biết vận dụng sáng tạo lý luận đó vào
việc lý giải các hiện tượng chính trị, xã hội hiện tại, tình hình quốc gia và quốc tế
đương thời để vạch ra những chiến lược, sách lược cách mạng, cương lĩnh cách
mạng để dẫn dắt hành động cách mạng của giai cấp vô sản. Mặt khác, Đảng phải
giáo dục, tuyên truyền đưa cương lĩnh, đường lối cách mạng thấm sâu vào quần
chúng nhân dân, tạo nên lực lượng cách mạng to lớn. Lênin nhấn mạnh: "Bất cứ
một chính Đảng nào có trọng trách đối với tương lai cũng đều có nhiệm vụ đầu tiên
là thuyết phục đa số nhân dân về sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của
mình
Có lý luận cách mạng và khoa học, Đảng mới có cơ sở để xác định nhiệm vụ
chính trị đúng đắn cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, do đó Đảng
mới định đường lối, chủ trương, chính sách đúng. Có lý luận cách mạng và khoa
học mới giúp Đảng nâng cao được trình độ trí tuệ, có khả năng nhìn xa trông rộng
các vấn đề trong nước và quốc tế đã và đang đặt ra, có thể phân tích, dánh giá đúng
tình hình và đưa ra được dự báo chính xác.
Có lý luận cách mạng và khoa học, Đảng mới nắm bắt, nhận thức được quy
luật khách quan của xã hội, từ đó giúp cho Đảng tránh và hạn chế được những sai
lầm trong việc xây dựng đường lối, chính sách và trong tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách đó.
Để giữ vững được vai trò tiên phong, Đảng phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng
và lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng
11

nước ta, để xây dựng và bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách,
bảo đảm đúng đắn và phù hợp với từng thời kỳ cách mạng.
V.I.Lênin khẳng định: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có
phong trào cách mạng”. Để nâng cao trình độ lý luận, Đảng cần: tăng cường tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; đổi mới việc giáo dục lý luận chính trị, đưa học
tập lý luận chính trị thành chế độ bắt buộc; phát hiện và xử lý kịp thời những vấn
đề mới nảy sinh trong thực tiễn, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, Đảng tiên phong trên phương diện tổ chức.
Muốn làm tròn vai trò tiên phong thì Đảng phải được tổ chức hết sức chặt
chẽ, khoa học. Đảng là hiện thân của tính tổ chức, tính kỷ luật chặt chẽ và nghiêm
minh. Chỉ có như vậy, mới đảm bảo được sự thống nhất về ý chí và hành động của
toàn Đảng.
Tổ chức biến quyền uy về mặt tư tưởng thành quyền uy về mặt tổ chức. Thông qua
tổ chức đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng biến thành hành động cách
mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động. Tổ chức là cốt vật
chất để đảm bảo cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của Đảng. Tổ chức làm
cho sức mạnh của Đảng nhân lên gấp bội. Lênin nói: "Hãy cho chúng tôi một tổ
chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược cả nước Nga lên. Theo
Người: “Tính tự giác của đội tiên phong, còn biểu hiện ở chỗ là nó biết tự tổ chức -
mà sau khi đã được tổ chức, nó có một ý chí thống nhất, và ý chí thống nhất ấy của
một nghìn, một trăm nghìn, một triệu người tiên tiến sẽ trở thành ý chí của giai cấp
”.
Thứ ba, Đảng tiên phong trên phương diện hành động.
Tiên phong trên phương diện hành động là nhằm biến các mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng thành hiện thực của cuộc sống. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng
viên của Đảng phải gương mẫu đi đầu trong cuộc đâu tranh chống lại mọi tập tục
lạc hậu, những thói quen xấu đang cản trở quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
mà Đảng đặt ra. V.I.Lênin khẳng định: tính Đảng không chỉ thể hiện trên lời nói mà
12

còn thể hiện ở việc làm. Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không cũng
không lấy. Lênin cũng chỉ ra rằng: một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công
nhân hay không, diều dó không chi phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm ít, nhiều
công nhân mà còn phụ thuộc cơ bản vào chỗ ai lãnh đạo; nội dung, hành động và
sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa.

1.2.3. Đảng là hạt nhân lãnh đạo của chuyên chính vô sản
Khi đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện những
nhiệm vụ mới, trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới. Trong mối quan hệ giữa
Đảng với Nhà nước, Lênin chỉ rõ: "Khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền
thì nhiệm vụ quản lý trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm". Đảng không thể
thoái thác trách nhiệm quản lý với nghĩa đầy đủ của từ này; nghĩa là "tổ chức trong
lĩnh vực thực tiễn". Đảng viên và các tổ chức đảng phải học quản lý. Dĩ nhiên,
Đảng phải quản lý theo phương pháp của Đảng và không thể làm thay việc quản lý
của nhà nước được. Lênin giải thích: "...Cần phân biệt một cách rõ ràng hơn nữa
những nhiệm vụ của Đảng (và của Ban Chấp hành Trung ương) với nhiệm vụ của
chính quyền Xô viết; tăng thêm trách nhiệm và tình chủ động cho các cán bộ Xô
viết và các cơ quan Xô viết, đồng thời giành cho Đảng quyền lãnh đạo chung công
tác của tất cả các cơ quan Nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách
quá thường xuyên, không hợp lệ và thường là nhỏ nhặt, như hiện nay". Người còn
viết: "... Nhiệm vụ của chúng ta chỉ là định những đường lối nguyên tắc và nêu ra
khẩu hiệu. Đảng ta là một Đảng cầm quyền và những quyết định do Đại hội của
Đảng thông qua là những điều mà toàn nước Cộng hoà phải tuân theo", "Chính trị
chủ yếu cùa chúng ta lúc này là xây dựng nhà nước về mặt kỉnh tế". Theo Người:
"Chuyên chính vô sản... không chỉ là bạo lực cách mạng đối với bọn bóc lột và
cũng không phải chủ yếu bằng bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó,
cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được
và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản".
13

Nhưng chức năng xây dựng kinh tế không phải là công việc dễ dàng của nhà nước
vô sản: "Chức năng tổ chức xây dựng kinh tế trở thành trọng tâm và cực kỳ phức
tạp của nhà nước ta... Tuyệt nhiên không thể giải quyết nhiệm vụ đó bằng một hành
động anh hùng nhất thời. Nhiệm vụ đó đòi hòi phải có tinh thần dũng cảm lâu dài
nhất, bền bỉ nhất, khó khăn nhất cùa công tác quần chúng hàng ngày".
Đề cập đến nhà nước quan liêu và cách làm cho nhà nước không quan liêu,
trong tác phẩm: "Dự án cương lĩnh của Đảng Cộng sản (B) Nga", Lênin viết: "...
muốn tiếp tục công cuộc kiến thiết xã hội chủ nghĩa thì cần thiết và cấp bách phải
tiếp tục đấu tranh chống bọn quan liêu... trước hết: phải nhằm làm cho mỗi uỷ viên
trong Xô viết nhất thiết phải gánh vác một công tác nào đó trong lĩnh vực quản lý
nhà nước; hai là: làm cho những công tác đó sẽ được thay đổi liên tiếp sao cho mỗi
uỳ viên đều nắm được tất cả các ngành của công tác quản lý đó. Ba là: song song
với các biện pháp tiến hành dần dần từng bước và có suy nghĩ thận trọng nhưng
kiên quyết, thì phải hoàn toàn lôi kéo dược toàn thể nhân dân lao động góp phần
riêng của họ vào công việc quản lý nhà nước". Trong tác phẩm: Báo cáo về Cương
lĩnh của Đảng tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản (B) Nga. Lênin viết:
"Chỉ khi nào toàn thê nhân dân đều tham gia quản lý nhà nước, thì khi ấy mới có
thể đả phá chủ nghĩa quan liêu đến cùng, đả phá đến thắng lợi hoàn toàn được".
Khi có chính quyền, chuyên chính vô sản được thiết lập thì Đảng là hạt nhân lãnh
đạo của chuyên chính vô sản. Đó là một tất yếu khách quan, không phải do ý chí
chủ quan áp đặt của những người cộng sản. V.I. Lênin nhấn mạnh, về nguyên tắc
Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì
nữa. Bời vì: Đảng là lực lượng duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín
để lãnh đạo xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một xã hội mới, đủ sức làm thầy,
làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người
bị bóc lột - để giúp họ tổ chức đời sống xã hội mới.
Đảng phải thống nhất lãnh đạo mọi mặt, phối hợp hành động và hướng hoạt
động của nhà nước và các tổ chức khác vào mục tiêu chung theo đường lối, chính
14

sách của Đảng. V.I.Lênin khẳng định: Đảng là đội tiên phong cầm quyền trực tiếp
của giai cấp vô sản, Đảng là người lãnh dạo. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên
quyết bảo đảm công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội thành công. Buông lỏng sự
lãnh đạo của Đảng là sai lầm về mặt nguyên tắc, là thủ tiên sức mạnh của Nhà
nước, của hệ thống chuyên chính vô sản.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo toàn xã hội, nhưng Đảng không đứng
trên Nhà nước và xã hội, mà Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
Pháp luật. Đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật. Đảng không bao biện làm thay hay lạm
dụng quyền lực, nhưng Đảng không buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với hệ
thống chuyên chính vô sản.

1.2.4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bân trong xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng
Tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng
sản, vì nó bắt nguồn từ bản chất và nhiệm vụ của Đảng. Tập trung dân chủ là điều
kiện tăng cường sức chiến đấu của Đảng và phát huy tính chủ động sáng tạo của
các tổ chức đảng và từng đảng viên. Đây là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan
điểm của C.Mác, Ph.Ángghen trong “Liên đoàn những người cộng sàn” — một tổ
chức tiền thân của Đảng Cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen mới chỉ nêu ra những
khái niệm “trên”, “dưới”; “trung ương” và “địa phương’; “thiểu số”; “đa số”,... chứ
chưa có khái niệm “tập trung”, “dân chủ”. Sau này V.I.Lênin đã khái quát thành
khái niệm cơ bản là “tập trung dân chủ”. Đây là nguyên tắc mang tính chỉ đạo trong
xây dựng và tổ chức hoạt động của Đảng. Chỉ có tuân theo nguyên tắc này, Đảng
mới có cơ sở để thực hiện vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân. Trong “Những luận
cương trình bày tại Đại hội II - Quốc tế cộng sản”, khi nói về kết nạp thành viên
của Quốc tế cộng sản, V.I. Lênin nhấn mạnh: “Các Đảng gia nhập Quốc tế cộng
sản phải xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong thời kỳ nội chiến gay
15

gắt hiện nay đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu được
đảng tổ chức một cách tập trung nhất; nếu trong Đảng có một kỷ luật sắt giống như
kỷ luật quân sự và nếu trong Trung ương Đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ
có quyền lực rộng rãi được toàn đảng viên tin cậy” '.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai nhân tố:
tập trung và dân chủ.
Tập trung là nhằm tạo sự thống nhất cao về mục tiêu, lý tưởng, về quan
điểm, đường lối của Đảng trong toàn thể cán bộ, đảng viên; làm cho Đảng thống
nhất về tư tưởng và hành động; tạo sự thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, có sự
phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các tố chức đảng và đảng viên.
Nội dung của tập trung trong Đảng được hiểu như sau: Đảng chỉ có một
cương lĩnh chính trị chung nhất được tất cả các đảng viên, tổ chức đảng thừa nhận
và hành dộng theo cương lĩnh đó. Đảng chỉ có một điều lệ thống nhất, trong đó quy
định rõ nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng và đảng viên. Đảng
chỉ có một cơ quan lãnh đạo duy nhất. Đảng chỉ có một kỷ luật tự giác nhưng là kỷ
luật sắt áp dụng cho mọi đảng viên và tổ chức đảng.
Tóm lại, tập trung trong Đảng là thể hiện ý chí của đa số, là quyền lực của
tập thể trao cho. Tập trung đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.
Dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và sáng tạo của các cấp bộ đảng và của
đảng viên. Mọi quyết định của các cấp bộ đảng phải được hình thành và tổ chức
thực hiện thông qua dân chủ để quyết định đó được đúng đắn, phù hợp với quy luật
và ý chí của con người.
Nội dung của dân chủ trong Đảng được hiểu như sau: Đảng viên có quyền
được thông tin và thảo luận các vấn đề về cương lĩnh chính trị, diều lệ Đảng, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; được tham gia quản lý và biểu quyết các
công việc của Đảng, phê bình chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên
ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức đảng và yêu cầu được trả lời; được quyền bảo lưu
ý kiến đến cơ quan lãnh đạo cao nhất cùa Dàng là Dại hội Đàng toàn quốc. Cơ quan
16

lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, đảng viên được ứng cử, đề cử và bầu
cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định.
Mối quan hệ tập trung và dân chủ:
Tập trung trên cơ sở dân chủ. Tập trung là tiền đề, là điều kiện quy định và
mở rộng dân chủ chân chính. Tập trung không trên cơ sở dân chủ thì vừa làm mất
dân chủ, xa thực tế, vừa làm cho tập trung trở thành quan liêu, độc đoán và từ đó
dẫn đến phá vỡ tập trung chân chính.
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng được quyền ra nghị quyết, chỉ thị buộc
cấp dưới phải chấp hành; kiểm tra, đôn đốc cấp dưới về việc chấp hành nghị quyết,
chỉ thị đó. Những cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do bầu cử dân chủ lập ra,
chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp dưới và đảng viên về các hoạt động của mình.
Khi các cơ quan lãnh đạo tỏ ra không còn xứng đáng thì đảng viên có quyền đòi xử
lý kỷ luật, thậm chí đề nghị bãi miễn chức vụ của các đảng viên trong cơ quan lãnh
đạo.
Nghị quyết, chỉ thị của cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành, khi nó không
trái với cương lĩnh, Điều lệ Đảng và nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của
Đảng.
Dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung, làm cho dân chủ có mục đích, có
định hướng. Mở rộng dân chủ mà không hướng tới tập trung là dân chủ vô tổ chức,
vô kỷ luật, dân chủ phường hội chứ không phải là dân chủ theo nguyên tắc Đảng.
Dân chủ mở rộng quyền cho đảng viên nhưng mọi lời nói, việc làm của đảng viên
phải trong khuôn khổ tổ chức đảng. Đảng viên không được giải thích đường lối,
chính sách của Đảng theo quan điểm riêng, trái với quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và nghị quyết của chi bộ... Khi vấn đề thảo luận đã thành nghị quyết
thì đảng viên và tồ chức đảng phải chấp hành vô điều kiện.
Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề
cơ bản có tính quy luật để tạo nên sức mạnh thống nhất của Đảng. Lênin nói: "Sức
17

mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không có tổ chức quần chúng thì giai
cấp vô sản không là cái gì hết. Được tổ chức giai cấp vô sản là tất cả. Tính tổ chức
là sự thống nhất hành động, sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn".
Thực hiện nguyên tắc này giúp cho Đảng nâng cao trinh độ trí tuệ đủ sức
lãnh đạo giai cấp hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó. Vì vậy, tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác. Phủ nhận nguyên tắc này là
phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất.

1.2.5. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động; tự phê bình và phê
bình là quy luật phát triển Đảng
Thống nhất và tầm quan trọng của sự thống nhất trong Đảng đã được Lênin
lý giải một cách khoa học và sâu sắc trong nhiều tác phẩm: “Làm gì”, “Một bước
tiến hai bước lùi”, “Bệnh ấu trĩ “tả” khuynh trong phong trào cộng sản”,... và ngoài
ra còn một số tác phẩm khác nữa.
V.I.Lênin khẳng định, sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, cũng như sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa đều đòi hòi phải có sự thống nhất Ý
chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối, điều tiết được công việc chung của hàng trăm, hàng
nghìn và hàng vạn người. Người cho rằng: "Sự thống nhất của giai cấp vô sản dân
chủ - xã hội, đó là điều kiện cần thiết cho thắng lợi của nó. Sự thống nhất của giai
cấp vô sản dân chủ- xã hội không thể có được nếu không có sự thống nhất của đảng
của nó là Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga Vì vậy, trong quá trình hoạt động
lý luận và hoạt động thực tiễn, Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất của
Đảng. Ông đã kiên trì xây dựng và đấu tranh không mệt mỏi cho sự đoàn kết vững
chắc của Đàng Bônsêvích Nga.
Kinh nghiệm của các Đảng cầm quyền đều đã chứng minh, đoàn kết thống
nhất của Đảng là nguồn sức mạnh vô địch, là nhân tố cơ bản để đảm bảo thắng lợi
18

của cách mạng, là nhân tố quyết định sự vững mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa
và sự vững mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản trờ thành đảng cầm quyền, nhất là ở những
nước mà giai cấp nông dân chiếm phần đông, giai cấp công nhân chiếm một phần
nhỏ trong dân cư thì sự đoàn kết thống nhất lại càng quan trọng hơn.
Sự thống nhất của Đảng trước hết phải là sự thống nhất về tư tưởng trên cơ sở hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân, vì “Chúng ta không được quên rằng nếu không có
cái tư tưởng chung thì không thể có vấn đề thống nhất ”.
Nhưng sự thống nhất về tư tưởng phải được củng cố bằng sự thống nhất về
tổ chức, thống nhất hành động và kỷ luật phải nghiêm minh, bắt buộc đối với mọi
đảng viên, không có ngoại lệ. Sự thống nhất của Đảng còn được bảo đảm bằng việc
kiên quyết loại trừ mọi phe nhóm, bè phái dù là nhỏ nhất ra khỏi Đảng. Chia rẽ bè
phái là tội ác đối với Đảng, với nhân dân.
Đoàn kết, thống nhất gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân, nguồn sức
mạnh vô tận của Đàng - một thuộc tính căn bản cùa Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghcn đã chi ra rằng: Để hoàn thảnh sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản, nhất định giai cấp vô sản phải có một chính đảng lãnh đạo, đó
là điều tất yếu. Song, chính đảng chỉ có thể ra đời trên cơ sở khối đoàn kết ngày
càng được mở rộng, mọi thành công của giai cấp vô sản do Đảng lãnh dạo chỉ có
thể trên cơ sở của khối đoàn kết thống nhất. Vì thế, hai ông mới đưa ra khẩu hiệu
nổi tiếng trong lịch sử: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Kế thừa tư tường này,
V.I. Lên in đã phát triển sáng tạo trong thời kỳ của ông - thời kỳ đế quốc chủ nghĩa
- không những chỉ có giai cấp vô sản các nước đoàn kết mà vấn đề đoàn kết phải
mở rộng với tất cả các dân tộc đang bị áp bức trên toàn thế giới. Người chỉ ra rằng
đoàn kết thống nhất là cội nguồn của mọi thắng lợi và luôn đấu tranh kiên quyết,
không khoan nhượng cho những hành dộng dù nhỏ nhặt hòng chia rẽ nội bộ Đảng.
Người căn dặn khi Đảng cầm quyền rằng: "Bất cứ một sự bất đồng nào, ngay cả
một sự bất đồng không đảng kế, cũng có thế trở thành nguy hiếm về mặt chính trị,
19

nếu có khả năng biến thành một sự chia rẽ thuộc loại có thế lay chuyển và phá vỡ
toàn bộ lâu đài chính trị ". Một điều rõ ràng là trong một nước đang thực hiện
chuyên chính vô sản thì một sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản, không phải chi
là nguy hiểm mà còn cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó giai cấp vô sản
chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân chúng. Toàn Đảng cũng như mỗi đảng viên phải
gắn bó với quần chúng nhân dân, coi đó như một tiêu chuẩn cơ bản không thể thiếu
được của Đảng. Mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân là một tất yếu khách quan để
cách mạng giành thắng lợi. Bản thân Đảng cũng phải có liên hệ thực tế thường
xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo những quần chúng đó. Người cho rằng: một
trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất đối với Đảng Cộng sản là lúc nào
đó, ở đâu đó, một đảng viên nào hoặc là một tổ chức nào tự cắt đứt mối liên hệ với
quần chúng. Muốn không bị mắc vào những sai lầm đó, theo Người việc được quần
chúng tin tường và ủng hộ thì việc gì cũng thành công, sức mạnh của Đảng chính là
chỗ đó. Lênin viết: "Đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của mình một khi
nó biết không lìa xa quần chúng mà nó lãnh đạo, một khi nó biết thực sự làm cho
toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người không phải là
đảng viên cộng sản trên các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau thì không thề nói
tới một thành công nào về xảy dựng chủ nghĩa cộng sản cả". Chỗ khác, trong mối
liên hệ giữa Đảng với nhân dân, Người nhấn mạnh: "Muốn chiến thắng được chủ
nghĩa tư bản, phải có những mối quan hệ đúng đắn giữa Đàng Cộng sản lãnh đạo
giai cấp cách mạng tức giai cấp vô sản với quần chúng, tức là với toàn thế những
người lao động và bị bóc lột" . Người còn khẳng định: "Quần chúng lao động ủng
hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn gốc khiến cho chủ nghĩa cộng
sản thế giới trở thành vô địch cũng là ở đó. Làm sao cho số người lao động mới,
xuất thân trong quần chúng gia nhập Đàng được ngày càng nhiều hơn để chính bản
thân họ tham gia xây dựng cuộc sống mới. Đó là phương pháp đấu tranh của chúng
ta để khắc phục tất cả mọi khó khăn, đó là con đường đi đến thắng lợi của chúng
ta".
20

Để Đảng cầm quyền có mối quan hệ tốt với nhân dân, để cho dân mến yêu,
tin theo Đảng thì Đảng phải luôn quan tâm chăm lo đến chất lượng của đội ngũ
đảng viên. Theo Lênin: Đảng là một tổ chức đặc biệt, Đảng cần phải có những
người giác ngộ, sẵn sàng hi sinh tính mạng. Đảng phạm sai lầm thì Đảng phải sửa
chữa. Đảng lãnh đạo và lựa chọn những người biết rõ con đường mà chúng ta sẽ đi,
biết rõ khó khăn mà chúng ta sẽ gặp" . Quan tâm đến chất lượng đảng viên, Lênin
chỉ rõ: "Cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đàng viên cộng sản
đã quan liêu hoá không trung thực nhu nhược...". Chỗ khác Người lại viết: "Những
đảng viên hữu danh vô thực thì cho không chúng ta cũng không cần. Đảng độc nhất
nắm chính quyền trên thể giới quan tâm dến việc nâng cao chất lượng dàng viên,
đến việc thanh trừ bọn "luồn lọt vào đảng" ra khỏi hàng ngũ mình chứ không phải
làm tăng thêm số lượng đảng viên... ”.
Như vậy, đoàn kết thống nhất, gắn bó với quần chúng là sức mạnh vô tận của
Đảng, của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đây là một thuộc tính căn bản
của Đảng chân chính của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh: Tự phê bình là cần thiết không thể thiếu
được đối với bất kỳ một đảng chân chính và đầy sức sống nào.Ông cho rằng tự cao,
tự đại không thấy những thiếu sót và sai lầm của mình, mưu toan che giấu những
cái ấy trước quần chúng là hiểm họa lớn nhất đối với một đảng cách mạng vô sản.
Theo Lênin một trong những nguồn sức mạnh vô địch của Đảng là việc công khai
làm rõ những sai lầm và kịp thời sửa chữa.
Tại Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản (B) Nga, V.I.Lênin khẳng định: Tất cả
các đảng cách mạng mà cho đến nay đã bị diệt vong vì tự cao tự đại, không biết tìm
thấy sức mạnh cùa mình ở đâu và nói về những nhược điểm của mình, còn chúng ta
thì sẽ không bị diệt vong, vì rằng chúng ta không sợ nói về những nhược điểm của
mình và chúng ta học cách vượt qua những nhược điểm.
Có thái độ phê phán đối với những sai lầm và thiếu sót của bản thân mình là
một trong những tiêu chuẩn của sự trưởng thành về chính trị của một chính đảng.
21

V.l.Lênin chỉ rõ: "Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xét xem đảng ấy có
nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ đối với giai cấp mình và đối với
quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai
lầm, phân tích hoàn cảnh đã để ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để
sửa chữa sai lầm ấy - đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm
tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần
chúng."
Yêu cầu tự phê bình và phê bình: không chỉ vạch ra sai lầm, thiếu sót mà còn
phải chỉ ra con đường, biện pháp khắc phục. Những điều quan trọng hơn là phát
hiện ra những thành tích, ưu điểm của tổ chức và cá nhân để biểu dương khích lệ tư
tưởng tiến bộ và hành động tiên phong. Tự phê bình và phê bình phải có tính Đảng,
tính giáo dục và tính nguyên tắc cao. Nghiêm cấm việc lợi dụng tự phê bình và phê
bình để bôi nhọ, lăng mạ, làm mất danh dự của nhau. Tự phê bình và phê bình phải
đảm bảo tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường mối liên hệ Đảng
với quần chúng.Tự phê bình và phê bình là nội dung thường xuyên của sinh hoạt
Đảng vì nó là quy luật phát triển của Đảng.
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải kiên quyết ngăn chặn những hiện
tượng đàn áp, trù dập người phê bình, hoặc nể nang, thành tích chủ nghĩa, che giấu
khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình chỉ có hiệu quả trên cơ sở phát huy dân chủ,
công khai và có tình thương yêu đồng chí.
Đảng là một khối thống nhất như một cơ thể sống, luôn vận động không
ngừng nghỉ. Quá trình vận động đó luôn nảy sinh mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa
cái cũ và cái mới, cái đúng và cái sai, cái tiến bộ và cái lạc hậu... và đó là sự đòi hỏi
cùa cách mạng với năng lực của từng cán bộ đảng viên. Muốn giải phóng hàng loạt
những mâu thuẫn ấy phải thông qua và nhất định phải thông qua tự phê bình và phê
bình. V.I.Lênin là hiện thân của tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình một
cách nghiêm túc nhất nhât, thẳng thắn nhất. Người luôn luôn coi tự phê bình và phê
22

bình là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải phóng những
mâu thuẫn trong Đảng; nâng cao mối quan hệ chặt chẽ giữa Đàng với quần chúng;
đảm bảo và nâng cao mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng; đảm bảo và
nâng cao mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng; đảm bảo và nâng cao
vinh dự trách nhiệm của người đảng viên cộng sản. Lênin yêu cầu trong sinh hoạt
đảng phải thường xuyên lấy tự phê bình nhàm “bảo vệ vững chắc tính kiên định,
tính trong sạch của Đảng ta. Chúng ta phải làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng
viên ngày càng cao hơn lên mãi”. Người luôn đấu tranh một cách nghiêm khắc với
những phần tử cá nhân chủ nghĩa, không dám đấu tranh nhằm mưu cầu kiếm chác
đặc thù đặc lợi, những kẻ ấy đáng khinh bỉ, đó là những kẻ có tội với Đảng với dân.
Người chỉ rõ: “Giấu giếm một cái gì đó, lơ lửng dở dang một vấn đề gì đó, che đậy
một cái gì đỏ, lẩn tránh một cái gì đó... tiếp tục quanh co, thủ đoạn, mảnh lới, im
lặng v.v... Thái độ đó là vô ích và đáng khinh bỉ mà còn còn hoàn toàn là tội lỗi”.
Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc quan trọng. Nó gắn liền
với nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc này thường xuyên và thực
chất sẽ giúp uốn nắn kịp thời những sai lầm trong thực hiện tập trung dân chủ.
Nhưng quan trọng là phải không sợ phê bình, không che đậy sai lầm khuyết điểm.
1.2.6. Đảng phải luôn luôn giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
kiên quyết đấu tranh dể ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần
chúng
Đảng ra đời từ nhu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp và để tổ chức, lãnh dạo
giai cấp đấu tranh nhằm giải phóng họ khỏi áp bức bóc lột. Quần chúng cần có
Đảng lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy (với tư cách là người dẫn đường, người
tổ chức và lãnh đạo họ đau tranh). Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
chỉ trở thành hiện thực khi được sự ủng hộ của quần chúng.
Như vậy, sức mạnh của Đảng không chì ở bản thân Đảng mà chính là và chủ
yếu là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Điều đó hoàn toàn đúng vì theo quan
điểm duy vật lịch sử thì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Và trong xây
23

dựng chủ nghĩa xã hội, một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ, vô cùng khó khăn, phức
tạp, nhất thiết phải là sự nghiệp sáng tạo của quần chúng.
V.I.Lênin khẳng định: Người cộng sản chỉ như giọt nước trong đại dương
nhân dân mênh mông. Chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì không thể
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo, sinh động của quần chúng,
đó là nhân tổ cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của
những sắc lệnh từ trên xuống. Tính chất máy móc, hành chính quan liêu không
dung hợp được với tinh thần của Chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội sinh động,
sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân.
Khi Đảng Bônsêvích Nga đã có chính quyền, V.I.Lênin nhấn mạnh sức mạnh
của Đảng bẳt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng tình và ủng
hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó không những không thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền.
Vì vậy, Đảng không có mục đích tự thân. Mục đích của Đảng là lãnh đạo
quần chúng đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc. Nhiệm vụ của Đảng là phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng không
có lợi ích nào khác. Đảng tồn tại trong xã hội, xây dựng và trưởng thành trong nhân
dân. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức, bóc lột và lại được nhân dân
che chờ, bao bọc.
Để gắn bó được với quần chúng, Đảng phải tăng cường mối quan hệ với
quần chúng. Muốn làm được điều đó thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải
phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của quần chúng lao động, ý Đảng phải hợp
lòng dân. Chỉ có như vậy Đảng mới huy động được sức mạnh to lớn của quần
chúng vào thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng mà Đảng đã đề ra. Đảng phải
tích cực làm việc trong các tổ chức và các đoàn thể của người lao động, quan tâm
đến nhu cầu, tâm trạng của họ, nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của họ
để có điều chỉnh chủ trương, chính sách, và giải pháp tháo gỡ để lãnh đạo, tổ chức
họ trong cuộc đấu tranh giai cấp. Đảng phải kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và
24

khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng bằng biện pháp, tăng cường công tác
kiểm tra Đảng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với mọi
hoạt động của cán bộ, đảng viên bằng một cơ chế được quy định chặt chẽ.
Đảng phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, khắc phục sửa chữa kịp thời
những điều bất cập về cơ chế, chính sách, và xừ lý kiên quyết những sai phạm của
cán bộ, đảng viên trong quan hệ với quần chúng.

1.2.7. Đảng được tăng cường do tích cực phát triển đảng và thường
xuyên đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng
Một là, tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động vào Đảng.
Kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vào Đảng là để tiếp thêm sinh lực mới, cải thiện thành phần, nâng cao chất lượng
của Đảng, là điều kiện quan trọng để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng.
Theo V.I.Lênin điều kiện Người vào Đảng phài là: Thừa nhận cương lĩnh
của Đảng và suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Gắn bó chặt chẽ với
Đảng, tự nguyện tham gia và hoạt động trong một tổ chức của Đảng, chịu sự quản
lý của tổ chức đảng đó. Gương mẫu trong hành động cách mạng, là người đi đầu và
có năng lực lôi cuốn quần chúng trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của giai cấp và cả
dân tộc. Gương mẫu trong học tập và rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ lý
luận, năng lực thực tiễn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Hai là, thường xuyên đưa những người không còn đù tiêu chuẩn đàng viên
và những phần từ cơ hội ra khỏi Đảng.
Ở mỗi thời kỳ cách mạng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số người,
do trình độ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn hạn chế; do không kiên định về
chính trị, thiếu tính tổ chức kỷ luật, thoái hóa, biến chất, trở thành những kẻ quan
liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, có những
25

phần tử cơ hội tìm cách chui vào Đảng, mưu đồ đặc quyền, đặc lợi phá hoại sự
thống nhất đội ngũ của Đảng, làm niềm tin của quần chúng đối với Đãng bị giảm
sút.
Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, Đảng chỉ có thể làm
tròn vai trò tiên phong khi Đảng chỉ bao gồm những chiến sĩ tiên phong. Do đó,
một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng là: phải thường xuyên đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn
đảng viên ra khỏi Đảng, phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, cơ hội, không
trung thực và nhu nhược.
Kinh nghiệm lịch sử phong trào cộng sản quốc tế đã chỉ ra rằng: Khi đội ngũ
của Đảng có nhiều đảng viên không còn giữ được vai trò tiên phong và có nhiều
phần tử cơ hội, thì lúc gặp biến cố lịch sử - Đảng khó giữ vững dược vai trò lãnh
dạo của mình. Do vậy, chất lượng chứ không phải số lượng đảng viên là yếu tố cơ
bản quyết định sức mạnh của Đảng.

1.2.8. Tính chất quốc tế của Đảng Cộng sản


Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nét đặc trưng nổi bật của Đảng
kiểu mới do V.I.Lênin sáng lập.
Trung thành với nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản - một trong những vấn
đề cơ bản của học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và chính
đảng của nó. Cũng theo quan điểm đó, V.I.Lênin coi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi là
kẻ thù sống còn của đấu tranh cách mạng, của giai cấp công nhân, vì những kẻ theo
chủ nghĩa dân tộc đủ mọi màu sắc, dùng đến cả sách lược chia rẽ và phân tán
phong trào công nhân và chính đảng của nó.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản là bản chất của Đảng Cộng sản. Bản chất đó bắt
nguồn từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ yêu cầu của cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản.
26

Vì vậy, chủ nghĩa quốc tế của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết đảm
bảo cho giai cấp vô sản giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chổng giai cấp tư sản,
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ Tư bản chủ nghĩa và xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi: Thứ nhất, lợi ích của giai cấp vô sản trong
một nước phải phục tùng lợi ích giai cấp vô sản quốc tế. Thứ hai, các dân tộc đang
chiến thắng giai cấp tư sản phải có khả năng và sằn sàng chịu đựng những hi sinh
to lớn cúa dân tộc mình để lật đổ Tư bàn quốc tế.
Chủ nghĩa quốc tể vô sản được thể hiện. Đảng tổ chức và hoạt động theo
những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin. Mọi đường lối, chiến lược, sách
lược, đối nội, đối ngoại của Đảng luôn quán triệt tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Đảng luôn quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa quốc
tế vô sản. Đảng luôn cổ vũ, động viên, khích lệ cuộc đấu tranh của các dân tộc và
nhân dân đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, chống áp bức bóc lột của
Chủ nghĩa tư bản.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng ta kiên quyết chống mọi khuynh hướng
sô vanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
27

Chương 2: Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

* Vận dụng tư tưởng V.I. Lênin về xây dựng Đảng vào công cuộc xây
dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh hiện nay
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 90 năm xây
dựng và trưởng thành, đã lãnh đạo nhân dân ta giành độc lập dân tộc từ chế độ thực
dân, phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt hàng thế kỷ phong kiến, thực dân áp bức,
bóc lột; tiếp tục đánh đuổi đế quốc, thực dân làm nên những kỳ tích Điện Biên Phủ
và mùa xuân 1975 trấn động địa cầu, để thống nhất non sông. Và, cũng từ công
cuộc đổi mới của Đảng, sau 35 năm đã đưa Việt Nam đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử như ngày nay. Có được những thành quả đó, trước hết là vì,
Việt Nam có một chính đảng kiểu mới, một đảng cách mạng, do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Lênin về xây
dựng đảng kiểu mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Từ thực tiễn bối cảnh thế giới và trong nước trước và sau chiến tranh thế giới
thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tìm ra con đường giải phóng đất nước, giải
phóng dân tộc, “ con đường cách mạng vô sản”, thành lập nên Đảng Lao động Việt
Nam, sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy Chủ nghĩa Mác- Lênin làm cốt:”
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa Lênin”[12]. Điểm
sáng tạo cần nhấn mạnh ở đây, trước hết là, tìm ra được con đường đúng đắn trong
bối cảnh đó, Hồ Chí Minh không lặp lại sai lầm của những nhà nho yêu nước trước
đó, không máy móc giáo điều trong điều kiện Việt Nam là nước thuộc địa nửa
phong kiến, kinh tế tiểu nông là chính, chưa có phong trào công nhân, giai cấp công
nhân quá nhỏ bé. Người tập hợp được những cán bộ ưu tú yêu nước, giác ngộ Chủ
28

nghĩa Mác-Lênin để thành lập một chính đảng cách mạng kiểu mới, chính đảng vô
sản- mang bản chất của giai cấp công nhân, lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Điều này thể hiện sự nhận thức sâu sắc, kế thừa và phát triển lý luận về một chính
đảng kiểu mới, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, để lãnh đạo cách
mạng thành công.
Trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Lê nin về xây dựng chính đảng
kiểu mới, nhờ đó Đảng không ngừng lớn mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Từ khi thành lập, đến năm 1945 lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, Đảng ta lúc
đó có 5 nghìn đảng viên, đến nay khoảng hơn 5 triệu đảng viên; uy tín và ảnh
hưởng của Đảng ở trong nước và trên trường quốc tế không ngừng được mở rộng.
Có thể nói rằng, cho đến hiện nay, ở Việt Nam không một tổ chức chính trị nào có
thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo đất nước phát triển. Những tư
tưởng sâu sắc của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu mới luôn luôn được Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện Việt
Nam. Điều đặc biệt hơn, minh chứng cho tính đúng đắn của những tư tưởng này, là
sự ổn định,vững vàng và phát triển của Việt Nam và một số nước, và cả những
thăng trầm của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, những Đảng Cộng sản ở
một số nước XHCN, đã xa rời tư tưởng của Lênin, dẫn tới đổ vỡ, thất bại. Những tư
tưởng của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu mới không chỉ được ghi vào Cương
lĩnh, điều lệ, các văn kiện quan trọng của Đảng, mà còn được cụ thể hóa trên thực
tiễn, qua các giai đoạn cách mạng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được tiến
hành thường xuyên, trở thành nề nếp, thành quy luật phát triển đảng.
Tính sáng tạo trọng vận dụng và phát triển tư tưởng của Lênin về xây dựng
chính đảng kiểu mới còn ở chỗ, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng công tác tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng đảng trong điều kiện mới, không dập
khuôn, máy móc, giáo điều.Thế giới ngày nay có nhiều đặc điểm khác xa với thời
của Mác, Lênin; đặc điểm của mỗi quốc gia, dân tộc cũng khác nhau, vì vậy làm rõ
29

những giá trị cốt lõi của các nguyên lý, bổ sung và phát triển lý luận, đặc biệt là sự
vận dụng, tổ chức thực hiện trong điều kiện từng nước có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Nhìn lại thực tiễn cách mạng Việt Nam, qua các gia đoạn lịch sử, công tác
xây dựng, chỉnh đốn đảng được tiến hành thường xuyên, liên tục. Bên cạnh những
nguyên lý của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu mới, được coi là những nguyên
tắc bắt buộc trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Trong điều kiện và bối cảnh hiện nay, vận dụng tư tưởng V.I. Lênin về xây
dựng Đảng vào xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh cần vận dụng những gì?
Và vận dụng như thế nào? Đó chính là thấm nhuần nội dung và phương pháp xây
dựng Đảng mà V.I. Lênin đã nêu ra, gắn liền lý luận với thực tiễn, thấm nhuần
quan điểm thực tiễn, quan điểm phát triển rất đặc sắc của V.I. Lênin cũng như tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thể hiện đậm nét tư duy sáng tạo, đổi
mới, hội nhập của Hồ Chí Minh, phép biện chứng thực hành của Hồ Chí Minh giữa
chính trị với khoa học, với đạo đức và văn hóa để giải quyết có hiệu quả những
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII)
của Đảng.
Từ hơn mười lăm năm nay, Đảng đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là giải pháp chiến lược,
lâu dài làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh. Chủ trương, giải pháp này đã
thể hiện Đảng ta thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng V.I. Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng. Cụ thể hóa vấn đề này, cần nhấn mạnh
vào những điểm chủ yếu mà tinh thần chủ đạo là thống nhất lý luận với thực tiễn,
chú trọng thực hành, thực hiện nói đi đôi với làm. Đây là điểm trùng hợp đặc sắc về
phong cách giữa V.I. Lênin và Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, phải tạo ra sự chuyển biến sâu rộng trong Đảng, kể cả trong dư
luận xã hội về nhận thức. Đó là coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận trong tình
hình mới, nhất là sự quan tâm lãnh đạo của Trung ương và các cấp ủy địa phương
đối với công tác lý luận, đấu tranh tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
30

Đảng. V.I. Lênin đã phê phán thói kiêu ngạo cộng sản. Hồ Chí Minh phê phán
nghiêm khắc những cán bộ đảng viên, kể cả lãnh đạo mắc phải chứng bệnh nguy
hiểm “coi khinh lý luận” và “coi khinh dân vận”.
Không sửa chữa triệt để khuyết điểm này, làm sao Đảng có thể đi tiên phong
về lý luận, có lý luận tiên phong dẫn đường để làm tròn sứ mệnh tiên phong. Ra
sức thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Bộ Chính trị về “trách
nhiệm nêu gương”, về nghiêm chỉnh học tập, nghiên cứu và thực hành lý luận.
Lười biếng học tập, ngại học lý luận chính trị, hoặc học một cách chiếu lệ, hình
thức, với động cơ lệch lạc, học không phải vì hiểu biết, nâng cao trình độ, làm tốt
nhiệm vụ được giao mà học để “thăng quan tiến chức”, vì danh vì lợi,… phải coi là
suy thoái như Đảng ta đã nêu ra. Yếu kém, lạc hậu về lý luận không thể bảo vệ
được nền tảng tư tưởng của Đảng, không thể “giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa”, không thể có đột phá để phát triển, cũng không thể ngang tầm nhiệm vụ.
Tóm lại, phải chú trọng tới lý luận, công tác tư tưởng lý luận của Đảng trong nội
dung xây dựng Đảng hiện nay.
Thứ hai, đề cao chỉnh đốn gắn liền với xây dựng Đảng và đổi mới Đảng (đổi mới
nội dung, phương thức, phong cách lãnh đạo, cầm quyền). Quán triệt phương châm
“thà ít mà tốt”, “đông phải đi liền với mạnh”, “muốn vững mạnh trước hết phải
trong sạch”, “muốn trong sạch phải tẩy sạch quan liêu, tham nhũng”, cắt bỏ những
ung nhọt, khối u làm suy yếu cơ thể Đảng. Nói như Hồ Chí Minh “dù phải giết đi
một vài con sâu để cứu cả cánh rừng xanh tốt vẫn phải làm” và như thế là nhân đạo,
bởi bảo vệ dân là bảo vệ cái thiện lớn nhất, vì thế phải kiên quyết diệt trừ cái xấu,
cái ác.
Phải kiên quyết loại bỏ ra khỏi đội ngũ, cơ quan lãnh đạo, nhất là ở cấp chiến
lược những kẻ thoái hóa, biến chất, cơ hội, bè phái, tham nhũng, tham danh vọng
địa vị, chạy chức, chạy quyền, nhất là trong bối cảnh Đại hội XIII của Đảng đang
tới gần. Đội ngũ Đảng ta hiện nay đông tới năm triệu người mà Đảng vẫn không
mạnh, vẫn chưa thật sự trong sạch bởi còn không ít đảng viên tầm thường, không
31

quan tâm thiết tha với lý tưởng, không gương mẫu làm tròn trách nhiệm đảng viên,
thậm chí bỏ sinh hoạt, coi thường tổ chức. Trên thực tế, họ chỉ còn danh nghĩa đảng
viên chứ không còn phẩm chất cộng sản nữa.
Chúng ta chưa thực sự coi trọng chỉnh đốn Đảng, đó là một thiếu sót, phải
kiên quyết khắc phục, trong toàn Đảng, từ cơ sở là chi bộ đến cơ quan đầu não ở
cấp cao. Phát triển Đảng phải đặc biệt chú trọng tư cách đảng viên. Sinh thời, Hồ
Chí Minh nói rất nhiều, rất kỹ về sáu tiêu chuẩn đảng viên, vào lúc này phải ra sức
thực hiện. Đảng ta đã nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về ba tư
cách đảng viên: “Người lao động giỏi, người công dân gương mẫu, người chiến sĩ
tiên phong trong đổi mới”. Phải thấm nhuần quan điểm đó của Đảng để giáo dục,
rèn luyện cán bộ đảng viên.
Thứ ba, phải ra sức thực hành dân chủ trong Đảng, tạo ra dân chủ thực chất
chứ không hình thức từ trong Đảng đến trong dân. Đây là cơ sở để đoàn kết và
đồng thuận trong Đảng, trong xã hội. Biết phát huy dân chủ thì sẽ thu hút được trí
tuệ, tài năng, tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân vào công cuộc xây dựng Đảng,
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập. Có thực hành dân chủ rộng rãi và thực
chất mới có sức mạnh chống quan liêu, tham nhũng.
Thứ tư, phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền,
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền trong điều
kiện xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền, lại hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện
nay. Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức chưa đủ.
Phải chú trọng xây dựng Đảng về lý luận và xây dựng Đảng về văn hóa, nhất là văn
hóa chính trị của Đảng cầm quyền. Phải thường xuyên giáo dục đạo đức, danh dự,
lương tâm và liêm sỉ của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên lãnh đạo.
Thứ năm, toàn Đảng, tất cả cán bộ, đảng viên và công chức nhà nước phải
thường xuyên làm công tác dân vận, tận tâm và “thật thà nhúng tay vào việc” như
Bác Hồ dạy để củng cố mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với Dân. Đó là cơ sở xã hội
làm cho Đảng vững mạnh theo chỉ dẫn của V.I. Lênin và Hồ Chí Minh.
32

Chương 3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh
Cha ông thế hệ trước trải qua lịch sử hơn 90 năm xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam, lãnh đạo nhân dân giành độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
công hoà. Để kế thừa công lao to lớn, vĩ đại của cha ông ta, sinh viên- chủ nhân
tương tai của đất nước cần ý thức và có những đóng góp, cống hiến xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh, đưa đất nước ta phát triển sánh vai với
thế giới, đạt nhiều thành tựu lớn.
Kế thừa và phát triển một chặng đường lịch sử vẻ vang và đầy quang vinh
của Đảng, sinh viên phải không ngừng cống hiến, không ngừng nỗ lực vươn lên
trong học tập và rèn luyện; luôn khắc ghi sự hi sinh và công lao cao cả của các thế
hệ đi trước cũng như xác định được vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ hôm nay trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ngày nay, dưới tác
động của cuộc cách mạng 4.0, từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có
những ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức chính trị của một bộ phận thanh niên.
Quán triệt và nhận thức sâu sắc tinh thần của Nghị quyết Trung ương IV (khóa
XII), với vai trò và vị trí của mình là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên,
trong những năm qua, sinh viên cần phải không ngừng nỗ lực tăng cường bồi
dưỡng nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch của các thế lực thù địch. Tiếp tục đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi
tầng lớp thanh niên với mục tiêu xây dựng lớp thanh niên “vừa hồng”, “vừa
chuyên”, có ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên lập thân, lập nghiệp, cùng phấn
đấu góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Tiếp tục sinh viên cần đẩy mạnh và nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức về
trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta. Sinh viên tiếp tục nâng cao lý tưởng cách mạng và tự nhận diện, tự xác định
được trách nhiệm của mình trong việc trau dồi, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập
33

trường tư tưởng và hành động để tăng cường sức đề kháng cũng như chủ động đấu
tranh trước các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cho Đảng. Ngoài ra,
mỗi sinh viên cần hăng hái và nhiệt tình kết nạp và tham gia các hoạt động công tác
Đoàn, trở thành những đoàn viên ưu tú, không ngừng nỗ lực xây dựng tổ chức
Đoàn thực sự vững mạnh, bởi xây dựng Đoàn luôn được coi coi như là xây dựng
Đảng trước một bước. Để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, mỗi
đoàn viên, thanh niên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, “rèn đức, luyện tài”, sẵn
sàng đảm nhận những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, thể hiện tinh thần xung kích
của thanh niên với phương châm “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh
niên”; nghiêm túc triển khai thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu
thanh niên Việt Nam thời kỳ mới”. Gắn việc xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh là việc làm tự thân, thường xuyên của mỗi cá nhân, mỗi đoàn viên, thanh
niên thế hệ mới.
Lớp lớp thế hệ thanh niên hiện nay luôn tự hào khi được sinh ra lớn lên và kết
thừa những thành quả cách mạng lớn lao của lịch sử để mỗi đoàn viên, thanh niên
có cơ hội được học tập, rèn luyện và cống hiến trúi tuệ, tuổi thanh xuân cho quê
hương, đất nước. Trước sự kỳ vọng lớn lao của Đảng, sinh nói chung và mỗi đoàn
viên thanh niên nói riêng cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình để từ đó
không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, đổi mới, sáng tạo trở thành
lực lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng
vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, qua đó góp phần xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh.
34

KẾT LUẬN
V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển sáng tạo di sản tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, sáng tạo học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn phát triển của chủ nghĩa đế
quốc. Chính những điều kiện lịch sử đó đòi hỏi cấp bách tổ chức và xây dựng chính
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân
cũng như toàn bộ học thuyết Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay vẫn còn nguyên giá
trị. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có những bước phát triển rất mạnh
mẽ ở thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX và tạm thời lâm vào thoái trào ờ những năm cuối
thế kỷ XX. Mặc dù vậy, toàn bộ học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng
của giai cấp công nhân, một học thuyết mang tính cách mạng triệt để và tính khoa
học sâu sắc vẫn còn nguyên giá trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam sở dĩ trưởng thành, lãnh đạo cách mạng thành
công chính là nhờ đã vận dụng học thuyết Mác - Lênin về Đảng vào xây dựng
chính đảng cách mạng ở Việt Nam với một sự trung thành vô hạn và tinh thần sáng
tao rất cao.
Hiện nay, trên thế giới các chính trị gia tư sản đang nhân cơ hội Chủ nghĩa
xã hội lâm vào khủng hoảng, chúng tìm mọi cách xuyên tạc, nhằm phủ nhận giá trị
học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng. Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm vững thực
chất các nguyên lý về xây dựng Đảng càng có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta có cơ
sở lý luận quán triệt xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên
phong cùa giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Bài tiểu luận được lập ra từ đúc kết các kiến thức mà sinh viên được học
trong môn Xây dựng Đảng đại cương, tuy bài luận vẫn còn nhiều thiếu sót và
không thể tổng hợp đầy đủ tất cả các thông tin, nhưng đã phần nào giải quyết
35

những vấn đề cơ bản về quan điểm V.I. Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới và sự
vận dựng thực tiễn vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO

C.Mac và Angghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002,t4, tr614-615.
Khoa xây dựng Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Giáo trình “Xây dựng
Đảng đại cương”.
PGS, TS. Nguyễn Chí Hiếu, (2020), “Đảng Cộng sản Việt kiên định vận dụng sáng
tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản.
V.I. Lênin: “Vấn đề thanh Đảng” (20-9-1921). Toàn tập, T. 33, NXB Sự thật, H
1970, tr 45.
V.I.Lênin: Đại hội X của Đảng Cộng sản (B) Nga 3/1921. Toàn tập, T. 32, NXB Sự
thật, H. 1970.
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M,1977-1978.
***
Một số tác giả và các bài báo trực tiếp, nguồn: Internet.

You might also like