Professional Documents
Culture Documents
Cho đến năm 1961, vẫn không có dấu hiệu nào chứng tỏ
lý lẽ sai lầm này đã biến mất. Không chỉ những người lãnh
đạo công đoàn mà cả các nhân viên chính phủ cũng tuyên bố
rằng “tự động hóa” là nguyên nhân chính của sự thất nghiệp.
Họ nói về tự động hóa như thể nó là một thứ mới xuất hiện
trên thế giới. Thực ra, nó chỉ là một cái tên mới cho sự phát
triển khoa học kỹ thuật và các tiến bộ khác trong các trang
thiết bị nhằm tiết kiệm sức lao động của con người.
* *
*
Song thậm chí cả ngày nay, không chỉ những người
không biết gì về kinh tế học mới phản đối việc sử dụng các
máy móc giúp tiết kiệm sức lao động. Vào năm 1970, có một
cuốn sách được viết bởi một tác giả nổi tiếng, người sau đó
đã được nhận giải Nobel trong kinh tế học. Trong cuốn sách
của mình, ông phản đối việc sử dụng máy móc thiết bị tiết
kiệm sức lao động ở những nước kém phát triển bởi chúng sẽ
1
“làm giảm nhu cầu về lao động”. Theo logic này, ta có thể
nói rằng cách để tăng tối đa lượng việc làm là giảm tối đa
năng suất và hiệu suất lao động. Nó ám chỉ rằng những
người tham gia vào cuộc bạo loạn vào đầu thế kỷ 19 ở Anh
đã đúng khi họ phá hoại máy dệt, khung cửi chạy bằng động
cơ hơi nước và máy xén lông cừu.
Chúng ta có thể đưa ra hàng núi dữ liệu để chứng tỏ rằng
những người phản đối việc sử dụng máy móc trong quá khứ
đã sai lầm như thế nào. Song điều đó sẽ là vô ích cho đến
chừng nào chúng ta hiểu được một cách rõ ràng tại sao họ
sai, vì rằng số liệu thống kê hay lịch sử đều là vô ích trong
kinh tế học trừ khi chúng được gắn kết bởi một lý thuyết
được tạo dựng bằng cách diễn dịch – có nghĩa là trong
trường hợp này, ta phải hiểu được tại sao những hậu quả
trong quá khứ của việc sử dụng máy móc và các trang thiết
bị tiết kiệm sức lao động khác nhất thiết phải diễn ra như
vậy. Nếu không, những người phản đối việc sử dụng máy
móc sẽ khẳng định rằng (như họ trên thực tế đã khẳng định
khi chúng ta chỉ cho họ thấy điều dự đoán của những bậc
tiền bối của họ đều không trở thành sự thực): “Những điều
đó có thể đã đúng trước đây, song hiện giờ tình hình đã trở
nên rất khác biệt, và chúng ta không thể nào cứ tiếp tục sản
xuất các máy móc tiết kiệm sức lao động được nữa”. Bà
Eleanor Roosevelt, trong một bài báo được xuất bản vào
ngày 19 tháng chín năm 1945, đã viết: “Chúng ta đã tới thời
điểm mà tại đó, các thiết bị tiết kiệm sức lao động chỉ có giá
trị khi chúng không khiến người lao động mất việc làm”.
Nếu thực sự việc sử dụng các máy móc tiết kiệm sức lao
động là nguyên nhân gây ra nạn thất nghiệp gia tăng, kết
luận logic rút ra từ điều này sẽ mang tính đột phá không chỉ
trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật hay kinh tế mà trong toàn
bộ tư tưởng hệ của chúng ta về nền văn minh nhân loại.
Chúng ta sẽ phải coi tất cả các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
trong tương lai cũng như trong quá khứ, là các thảm họa.
Hàng ngày, mỗi chúng ta đều cố gắng giảm bớt lượng công
sức phải bỏ ra để đạt được một kết quả nào đó; mỗi chúng
ta đều cố gắng tiết kiệm sức lao động và các phương tiện
cần thiết để đạt được một mục đích nào đó. Mọi chủ doanh
nghiệp, dù lớn hay nhỏ, đều luôn cố gắng để thu được những
thành quả mong muốn một cách tiết kiệm và hiệu quả hơn,
nghĩa là thông qua việc tiết kiệm lao động. Mỗi người lao
động biết tư duy đều cố gắng giảm thiểu lượng công sức cần
thiết để hoàn thành công việc được giao. Những người nhiều
tham vọng nhất trong chúng ta nỗ lực không mệt mỏi nhằm
tăng lượng thành quả công việc trong cùng một lượng thời
gian. Những người phản đối việc sử dụng máy móc, nếu tuân
theo logic của chính họ, sẽ phải coi tất cả những tiến bộ và
sáng tạo này là vô nghĩa, hay thậm chí là tai hại. Tại sao ta
phải chuyên chở hàng hóa từ Chicago đến New York bằng xe
lửa nếu ta có thể tạo việc làm cho một lượng lao động lớn
hơn bằng cách thuê họ vác đồ từ Chicago đến New York?
Các lý thuyết sai lầm kiểu này luôn thiếu tính logic, song
chúng sẽ tiếp tục gây nhiều tổn hại chừng nào còn có người
tin vào chúng. Vì vậy, ta phải tìm hiểu rõ ràng điều gì sẽ xảy
ra khi các tiến bộ kỹ thuật và máy móc tiết kiệm sức lao
động được áp dụng. Các chi tiết cụ thể sẽ thay đổi trong
từng trường hợp, tùy thuộc vào điều kiện của từng ngành
sản xuất tại từng thời điểm, song ví dụ minh họa ta đưa ra
sau đây sẽ bao gồm các khả năng chính.
Giả sử một người sản xuất đồ may mặc nghe nói về một
chiếc máy sản xuất áo khoác nam và nữ chỉ yêu cầu một nửa
số lao động như trước đây. Ông ta quyết định lắp đặt chiếc
máy và sa thải một nửa số lao động của mình.
Mặc dù nhiều lao động hơn được thuê, mỗi lao động sẽ
làm việc ít giờ hơn, và vì thế không có sự gia tăng trong tổng
số giờ làm việc và chắc sẽ không có một sự tăng đáng kể
nào trong sản xuất. Tổng lương và “sức mua” sẽ không lớn
hơn. Tất cả những gì sẽ xảy ra, dưới những giả định thuận lợi
nhất mà hiếm khi xảy ra trong thực tế, là những lao động
được thuê từ trước sẽ bao cấp cho những lao động mới được
thuê, bởi để cho những lao động mới được nhận 3/4 mức
lương mà những lao động cũ được nhận trước đây, những lao
động cũ giờ sẽ chỉ được nhận 3/4 mức lương cũ của họ. Đúng
là những lao động cũ giờ đây phải làm việc ít giờ hơn, song
những thời giờ rảnh rỗi này được trả bằng một cái giá cao
mà thường không phải điều những lao động cũ muốn; đó là
một sự hy sinh nhằm cung cấp việc làm cho những người
khác.
Những người lãnh đạo công đoàn yêu cầu tuần làm việc
ngắn hơn để “chia sẻ việc làm” thường nhận ra điều này, và
chính vì thế, họ thường đưa ra đề xuất dưới một dạng khác
nhằm giúp những người lao động được lợi cả đôi đường. Họ
sẽ yêu cầu giảm tuần làm việc từ 40 xuống 30 giờ để cung
cấp thêm việc làm và bù đắp lại cho tuần làm việc ngắn hơn
bằng cách tăng mức lương tính theo giờ lên 33.33%. Những
lao động trước đây được nhận $226 một tuần để làm việc 40
giờ; để lương tính theo tuần của họ không thay đổi khi làm
việc 30 giờ một tuần, mức lương tính theo giờ của họ phải
được tăng lên khoảng hơn $7,53.
Hậu quả của việc này là gì? Điều đầu tiên và hiển nhiên
nhất là tăng chi phí sản xuất. Nếu trước đây những người lao
động, khi làm việc 40 giờ một tuần, được trả mức lương thấp
hơn mức lương mà họ có thể được trả khi xét đến chi phí sản
xuất, giá sản phẩm và lợi nhuận của chủ doanh nghiệp, họ
có thể được tăng mức lương tính theo giờ và không phải
giảm số giờ làm việc trong tuần. Nói cách khác, họ có thể
làm việc cùng số giờ một tuần và được tăng lương tính theo
tuần lên một phần ba, thay vì vẫn nhận lương như cũ khi làm
việc theo chế độ tuần 30 giờ. Nhưng nếu dưới chế độ 40 giờ
một tuần, các lao động đã được trả mức lương cao nhất có
thể khi xét đến chi phí sản xuất và giá sản phẩm (và hiện
tượng thất nghiệp mà mọi người đang cố gắng xử lý có thể là
một dấu hiệu cho thấy rằng người lao động đang được nhận
lương cao hơn mức này), thì mức tăng lương thêm 33,33%
sẽ khiến cho chí phí sản xuất tăng vượt quá mức chịu đựng.
Vì vậy, việc tăng lương này sẽ khiến tỷ lệ thất nghiệp
tăng cao hơn trước. Các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ phải
đóng cửa và những người lao động năng suất thấp sẽ mất
việc làm. Sản xuất sẽ bị giảm trong mọi ngành nghề. Chi phí
sản xuất cao hơn và các nguồn cung bị thu hẹp thường làm
tăng giá cả, khiến cho người lao động mua được ít hàng hóa
hơn với cùng một lượng tiền. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp
tăng sẽ làm giảm cầu trên thị trường và điều này sẽ làm
giảm giá. Điều gì sẽ thực sự xảy ra với giá hàng hóa sẽ phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ được áp dụng. Song nếu chính
sách đánh tụt giá trị của tiền tệ được áp dụng nhằm nâng
cao mức giá để có thể trả được mức lương mới đã được tăng,
điều này sẽ là một cách trá hình nhằm giảm mức lương thật
để nó sẽ quay trở lại với đúng mức trước đây nếu tính theo
lượng hàng hóa có thể mua. Do đó, kết quả trên thực tế sẽ
giống như trường hợp khi tuần làm việc được rút ngắn hơn
và không có sự tăng lương tính theo giờ, như những gì chúng
ta đã thảo luận ở phần trên.
Nói tóm lại, các kế hoạch nhằm chia sẻ việc làm đều dựa
trên cùng một loại ảo tưởng mà chúng ta đã xem xét ở trên.
Những người ủng hộ chúng thường chỉ nghĩ đến những việc
làm họ có thể cung cấp cho những cá thể hay nhóm cá thể
nhất định mà không xem xét tác động của việc họ làm trên
tất cả mọi người và toàn bộ nền kinh tế.
Các kế hoạch này cũng dựa trên suy nghĩ sai lầm rằng
lượng công việc trên thế giới là cố định. Không có luận điểm
nào sai lầm hơn điều này. Chừng nào vẫn có những nhu cầu
hay mong muốn chưa được thỏa mãn mà có thể được thỏa
mãn bởi công việc, lượng công việc trên thế giới này sẽ
không có giới hạn. Trong nền kinh tế trao đổi hiện đại, lượng
công việc trên thế giới sẽ nhiều nhất khi tương quan giữa các
mức giá, các mức lương và các mức chi phí sản xuất ở trong
tình trạng tối ưu. Song các mối tương quan này là gì? Đây là
điều chúng ta sẽ xem xét trong các chương sau.
Chương IX: Giải trừ quân đội và đội ngũ công chức
nhà nước
Sau mỗi cuộc chiến lớn, khi có đề xuất phải giải trừ quân
đội, nhiều người luôn sợ rằng sẽ không có đủ việc làm cho
những người này và kết cục là quân nhân sẽ bị thất nghiệp.
Đúng là khi bất thình lình hàng triệu người được giải ngũ, các
ngành sản xuất trong khu vực tư nhân sẽ phải mất một thời
gian mới nhận hết họ vào làm việc – dù là trong quá khứ,
điều này thường diễn ra nhanh hơn mức chúng ta hình dung.
Nỗi lo sợ thất nghiệp xuất hiện bởi nguời ta chỉ nhìn vào một
phía của vấn đề.
Họ nhìn thấy những người lính bị dư thừa trên thị trường
lao động. Ta sẽ lấy đâu ra lượng “sức mua” cần thiết để có
thể tạo việc làm cho hết những người này? Trong trường hợp
công quỹ của nhà nước đang ở tình trạng cân bằng, câu trả
lời rất đơn giản. Chính phủ sẽ ngừng trả lương cho quân đội.
Những người nộp thuế sẽ được giữ lại khoản tiền mà trước
đây bị thu để trả lương cho quân đội trong thời chiến. Khi đó,
họ sẽ có thêm tiền để mua hàng hóa. Nhu cầu dân sự sẽ
tăng và tạo ra việc làm cho những người lính đã giải ngũ.
Trường hợp này sẽ khác đi nếu những người lính trước
đây được trả lương bằng một công quỹ không cân bằng,
nghĩa là thông qua những khoản nợ của chính phủ và các
hình thức vay bù chi khác của các cơ quan chính phủ. Nhưng
điều này sẽ dẫn đến một câu hỏi khác; chúng ta sẽ xem xét
các tác động của các khoản vay bù chi của chính phủ trong
một chương sau. Tại đây, chúng ta chỉ cần khẳng định một
điều: các khoản vay bù chi của chính phủ không liên quan gì
đến kết luận chúng ta vừa đưa ra, vì nếu cho rằng sự thiếu
hụt ngân sách có đem lại ích lợi gì đó, chúng ta có thể duy trì
sự thiếu hụt ngân sách trong thời bình đơn giản bằng cách
giảm thuế tương đương với lượng tiền được dùng để chi trả
cho quân đội trong thời chiến.
Nhưng việc giải trừ quân đội sẽ thay đổi tình hình kinh tế
của chúng ta. Những người lính trước đây được trả lương bởi
những khoản đóng góp của người dân sẽ còn là những người
tiếp tục được nhận lương từ những người dân thường khác.
Họ sẽ phải tự kiếm sống để nuôi bản thân mình. Nếu chúng
ta giả định rằng những người đáng lẽ đã được giữ lại trong
quân ngũ giờ không còn cần thiết đối với công tác quốc
phòng nữa, thì việc giữ họ lại sẽ không có lợi ích gì. Những
người đóng thuế sẽ không nhận được gì nếu tiếp tục trả
lương cho họ. Nhưng hiện giờ, những người đóng thuế dành
phần tiền này của họ để trao cho những người dân thường
khác nhằm đổi lấy những hàng hóa và dịch vụ có giá trị
tương đương. Tổng sản phẩm quốc dân, hay mức tài sản của
mọi người, vì vậy sẽ cao hơn.
* *
*
Điều này cũng đúng đối với những viên chức của nhà
nước khi đội ngũ của họ quá đông đảo và họ không thực hiện
các chức năng có giá trị tương đương với lượng tiền họ được
trả. Thế nhưng bất kỳ khi nào có người cố gắng giảm bớt
những vị trí dư thừa này, sẽ có rất nhiều ý kiến phản đối cho
rằng hành động đó sẽ dẫn đến “giảm phát”: Bạn muốn lấy đi
“sức mua” của những viên chức này à? Bạn muốn gây tổn
hại cho những doanh nghiệp và người cho thuê nhà đang
kinh doanh dựa trên lượng sức mua đó ư? Bạn đang làm
giảm thu nhập quốc dân và gây ra, hoặc làm trầm trọng hơn,
khủng hoảng kinh tế.
Một lần nữa, một nguỵ biện lại xuất hiện do việc chỉ xem
xét tác động của hành động đối với những viên chức nhà
nước bị cho nghỉ việc và những doanh nghiệp phụ thuộc vào
họ. Một lần nữa, lập luận này lại quên mất rằng nếu những
viên chức đó ngừng làm việc, những người nộp thuế sẽ được
giữ lại khoản tiền mà trước đây bị thu để trả lương cho viên
chức. Một lần nữa, người ta lại quên mất rằng thu nhập và
sức mua của những người nộp thuế sẽ tăng ít nhất bằng
lượng giảm trong thu nhập và sức mua của những công chức
bị nghỉ việc. Những doanh nghiệp khác sẽ được tăng thêm ít
nhất một lượng hoạt động kinh doanh tương đương với
những gì những doanh nghiệp phụ thuộc vào các công chức
bị mất đi. Washington sẽ bớt giàu có hơn và sẽ có ít cửa
hàng hơn, song những thành phố khác sẽ có nhiều hơn.
Một lần nữa, vấn đề không dừng ở đây. Khi những viên
chức dư thừa được cho nghỉ việc, quốc gia không chỉ không
nghèo đi mà còn trở nên giàu có hơn, bởi những viên chức đó
giờ đây sẽ phải kiếm các công việc tư nhân hoặc bắt đầu
công việc kinh doanh riêng của mình. Sức mua được tăng
thêm của những người nộp thuế, giống như trường hợp
những nguời lính giải ngũ, sẽ thúc đẩy điều này. Những viên
chức nhà nước chỉ có thể làm các công việc tư nhân khi họ có
thể cung cấp những dịch vụ tương xứng với những gì họ
được nhận từ người thuê họ, hoặc chính xác hơn là từ khách
hàng của những người thuê họ. Họ không còn là một lực
lượng ăn bám như trước đây nữa; họ trở thành những người
đóng góp cho xã hội.
Tôi phải nhắc lại rằng trong phần này, tôi hoàn toàn
không nói đến những viên chức nhà nước cung cấp những
dịch vụ thực sự cần thiết. Những viên chức như công an, lính
cứu hỏa, nhân viên môi trường đô thị, nhân viên y tế, thẩm
phán, những người làm luật, những người thực thi công vụ,
v.v… cung cấp những dịch vụ cũng quan trọng đối với xã hội
như bất kỳ một doanh nghiệp tư nhân nào khác. Họ giúp cho
khu vực kinh tế tư nhân có thể hoạt động trong một môi
trường có luật pháp, trật tự, tự do và ổn định. Nhưng điều
khiến sự tồn tại của họ trở nên cần thiết là tính ích lợi của
các dịch vụ mà họ cung cấp, chứ không phải do “sức mua”
mà họ có được thông qua khoản lương được nhận từ công
quỹ.
Nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy lý lẽ về “sức mua” này thật
vui tai. Nó có thể được áp dụng thậm chí đối với cả một kẻ
trộm hay một tên ma cô cướp tiền của bạn. Sau khi cướp
được tiền, hắn sẽ có thêm “sức mua” mà hắn sẽ dùng để hỗ
trợ hoạt động kinh doanh của các quán bar, các nhà hàng,
các hộp đêm, thợ may quần áo, và có thể cả người sản xuất
xe hơi nữa. Thế nhưng, mỗi việc làm được tạo ra thông qua
những khoản chi của hắn cũng là một việc làm bị mất đi
thông qua khoản chi bị giảm của bạn. Cũng tương tự như
vậy, với mỗi việc làm được tạo ra bởi tiền của các viên chức
nhà nước, một việc làm sẽ bị mất đi thông qua khoản chi bị
giảm của những người nộp thuế. Khi tiền của bạn bị một tên
trộm lấy mất, bạn chẳng nhận lại được gì. Khi tiền của bạn bị
thu thông qua thuế để trả lương cho những viên chức vô
dụng, bạn cũng sẽ chẳng nhận lại được gì. Thực ra, chúng ta
vẫn còn may nếu những viên chức ấy chỉ là những kẻ ăn
bám lười biếng, bởi ngày nay, nhiều người trong số họ lại là
những nhà cải tổ đầy nhiệt huyết luôn bận rộn với việc gây
cản trở và tạo khó khăn cho các hoạt động kinh tế.
Nếu lý do duy nhất để giữ một nhóm cán bộ nhà nước
trong vị trí của họ là để không mất đi sức mua của họ, đó là
dấu hiệu cho thấy đã đến lúc chúng ta phải cho họ nghỉ việc.
Chương X: “Mọi người đều phải có việc làm”
Mục tiêu kinh tế của bất kỳ một quốc gia hay cá nhân
nào đều là nhằm đạt được những kết quả lớn nhất với một
nỗ lực nhỏ nhất. Tiến bộ về kinh tế của nhân loại chính là sự
tăng sản lượng với cùng một lượng lao động. Chính vì lý do
này, con người bắt đầu dùng lừa thay vì đôi vai của chính
mình để gánh đồ và tiến đến việc chế tạo ra bánh xe và xe
kéo, đường sắt và xe tải. Chính vì lý do này, con người đã
dùng sự khôn ngoan của mình để tạo ra hàng trăm ngàn
sáng chế nhằm tiết kiệm sức lao động.
Tất cả những điều này đều hết sức sơ đẳng đến mức
chắc ta phải đỏ mặt vì xấu hổ khi phải nhắc lại chúng, nếu
như chúng không thường xuyên bị lãng quên bởi những
người chuyên tạo ra và phổ biến các khẩu hiệu kinh tế cho
xã hội. Khi nhìn từ phương diện quốc gia, nguyên tắc đầu
tiên này có nghĩa là mục tiêu thực sự của chúng ta là tối đa
hóa sản xuất. Khi ta nhằm vào điều đó, việc tuyển dụng toàn
bộ lực lượng lao động – nghĩa là không có người thất nghiệp
không tự nguyện - sẽ trở thành một hệ quả tất yếu. Nhưng
sản xuất mới là mục đích; sự tuyển dụng chỉ là phương tiện.
Chúng ta không thể duy trì sản xuất ở tình trạng tối ưu nếu
không tuyển dụng được toàn bộ lực lượng lao động. Điều
ngược lại không đúng: chúng ta có thể dễ dàng đạt được việc
tuyển dụng toàn bộ lực lượng lao động mà không đạt được
sản xuất tối ưu.
Những bộ lạc nguyên thủy không có quần áo và luôn
thiếu thốn đồ ăn và chỗ ẩn náu, song họ không biết đến tình
trạng thất nghiệp. Trung Quốc và Ấn Độ nghèo hơn chúng ta
rất nhiều, song vấn đề chính của họ là các phương pháp sản
xuất cổ xưa và thô sơ (điều này là nguyên nhân và hậu quả
của tình trạng thiếu vốn sản xuất) chứ không phải là nạn
thất nghiệp. Không có gì dễ đạt được hơn là việc tuyển dụng
toàn bộ lực lượng lao động nếu nó được xem xét như một
mục tiêu riêng lẻ chứ không trong mối tổng hòa với mục tiêu
tối ưu hóa sản xuất. Hitler đã tuyển dụng toàn bộ lực lượng
lao động với chương trình sản xuất quân trang khổng lồ của
mình. Thế Chiến II đã tạo ra tình trạng tuyển dụng toàn bộ
lao động trong mọi quốc gia có liên quan. Những người bị
cưỡng bức lao động ở Đức cũng được huy động toàn bộ. Các
nhà tù và băng nhóm được huy động toàn bộ. Sự cưỡng bức
luôn có thể khiến mọi lao động được tuyển dụng.
Thế nhưng tại quốc hội, các nhà làm luật của chúng ta
trình ra các điều luật về Tuyển dụng toàn bộ chứ không phải
về Sản xuất tối ưu. Ngay cả các ủy ban của các doanh nhân
cũng đề nghị thành lập “một ban đặc nhiệm của Tổng thống
về Tuyển dụng toàn bộ” chứ không phải về Sản xuất tối ưu
hay về Tuyển dụng toàn bộ và Sản xuất tối ưu. Ở đâu ta
cũng thấy cái thực sự là phương tiện bị biến thành mục tiêu,
trong khi cái đích thực là mục tiêu lại bị bỏ quên.
Nhiều người thảo luận về lương và sự tuyển dụng như
thể chúng không có liên quan gì đến năng suất và sản lượng.
Với quan điểm cho rằng lượng công việc cần được làm là cố
định, họ kết luận rằng tuần làm việc 30 giờ sẽ tạo ra nhiều
việc làm hơn và vì thế tốt hơn so với tuần làm việc 40 giờ.
Hàng trăm biện pháp của các công đoàn nhằm tạo việc làm
một cách không hợp lý vẫn được mọi người chấp nhận. Khi
Petrillo đe dọa sẽ đóng cửa một đài phát thanh trừ phi đài
phát thánh đó chịu tuyển gấp đôi số nhạc sĩ cần thiết, ông ta
được nhiều người trong công chúng ủng hộ bởi họ cho rằng
ông ta cũng chỉ đang nhằm mục đích tạo thêm việc làm. Khi
chúng ta tạo ra chương trình WPA [Work Projects
Administration: Chương trình nhằm tạo việc làm cho những
người có kỹ năng chuyên môn song bị thất nghiệp trong thời
kỳ Đại khủng hoảng, được đưa ra vào năm 1935 – ND],
trong đó các nhà quản lý tạo ra các dự án tuyển dụng lượng
lao động nhiều nhất có thể cho một công việc nhất định (có
nghĩa là giảm tối đa tính năng suất của mỗi lao động), nhiều
người đã cho rằng đây là một sáng kiến tuyệt vời.
Nếu ta được chọn - điều không xảy ra trong thực tế - thì
việc đạt được sản xuất tối ưu với một phần dân cư không có
việc làm và được hưởng trợ cấp xã hội sẽ tốt hơn nhiều so
với việc cố gắng tuyển dụng toàn bộ lực lượng lao động
thông qua những chương trình tạo việc làm được trá hình,
khiến cho sản xuất bị rối loạn bởi các chương trình này. Sự
tiến bộ của văn minh nhân loại luôn đồng nghĩa với việc giảm
bớt chứ không phải tăng thêm lao động. Chính vì chúng ta
đã trở nên một quốc gia ngày càng giàu có mà chúng ta đã
có thể xóa bỏ lao động trẻ em, giúp người già cũng như hàng
triệu phụ nữ không cần phải làm việc để kiếm sống. Chỉ một
bộ phận nhỏ trong dân số Mỹ, nhỏ hơn nhiều so với tại Trung
Quốc và Nga, cần phải lao động. Câu hỏi quan trọng là trong
vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ sản xuất được bao nhiêu và
kết quả là mức sống của chúng ta sẽ như thế nào, chứ không
phải là chúng ta sẽ tạo ra được bao nhiêu triệu việc làm ở
Mỹ. Vấn đề phân phối, điều đang được nhiều người quan tâm
ngày nay, rốt cuộc sẽ được giải quyết dễ dàng hơn khi ta có
nhiều thứ hơn để phân phối.
Chúng ta có thể tư duy một cách rõ ràng hơn nếu chúng
ta biết tập trung vào điều quan trọng: những chính sách sẽ
giúp tối ưu hóa nền sản xuất.
Chương XI: Ai được thuế quan “bảo hộ”?
Chỉ việc nêu ra các chính sách kinh tế của các chính phủ
trên thế giới cũng đủ làm bất kỳ một sinh viên nghiêm túc
nào trong ngành kinh tế học phải giơ tay đầu hàng vì chán
nản, và hỏi rằng liệu có ích gì khi thảo luận về những cải
cách và tiến bộ trong lý thuyết về kinh tế học trong khi suy
nghĩ của công chúng và chính sách của các chính phủ, đặc
biệt trong khía cạnh liên quan đến quan hệ kinh tế quốc tế,
đều thậm chí chưa theo được tư duy của Adam Smith. Ngày
nay, thuế quan và các chính sách thương mại không chỉ tồi
tệ như thế kỷ 17 - 18, mà còn tồi hơn rất nhiều lần. Những
lý do thực sự dẫn đến hàng rào thuế quan và thương mại
ngày nay vẫn như vậy, và những lý do được đưa ra để biện
minh cho chúng cũng không có gì thay đổi.
Từ khi tác phẩm The Wealth of Nations ra đời hơn hai thế
kỷ trước đây, đã có hàng ngàn quan điểm ủng hộ tự do
thương mại, song có lẽ không luận điểm nào lại có có được
sự đơn giản và sức mạnh như quan điểm của Adam Smith
trong cuốn sách này. Một cách tổng quan, Smith đưa ra quan
điểm của mình dựa trên một định đề mang tính nền tảng:
“Trong mọi quốc gia, việc được mua bất kỳ thứ gì người ta
muốn từ bất kỳ ai bán những thứ đó rẻ nhất luôn đem lại lợi
ích lớn nhất cho đại bộ phận dân chúng”. Theo Smith, “định
đề này rõ ràng đến mức sẽ thật nực cười nếu phải cố gắng
chứng minh nó. Không ai nghĩ đến chuyện chất vấn tính
đúng đắn của nó, trừ phi những nguỵ biện phục vụ cho lợi
ích cá nhân của thương nhân hay nhà sản xuất làm lung lạc
đi lẽ thật hiển nhiên này của nhân loại.”
Nhìn theo một cách khác, tự do thương mại đã được xem
như một khía cạnh của việc chuyên môn hóa lao động:
Châm ngôn nằm lòng của mọi người chủ gia đình
khôn ngoan là không bao giờ cố gắng tự sản xuất tại nhà
mình những gì mà tự sản xuất sẽ tốn kém hơn đi mua.
Người thợ may không tự đóng giày mà mua giày từ người
thợ đóng giày. Người thợ đóng giày không tự mình may
quần áo mà thuê người thợ may để may quần áo cho
mình. Người nông dân không cố gắng tự may quần áo
hay đóng giày mà mua những gì cần dùng từ hai người
thợ trên. Tất cả mọi người trong số họ đều thấy rằng
mình sẽ có lợi khi sử dụng tay nghề của mình theo cách
khiến mình có lợi thế hơn so với những người khác, và sử
dụng một phần thu nhập từ ngành nghề của mình để
mua bất kỳ thứ gì họ cần từ người khác với giá chỉ bằng
một phần phí tổn họ sẽ phải bỏ ra nếu tự sản xuất cùng
thứ đó. Điều được coi là khôn ngoan cho mỗi gia đình
không thể trở thành điều ngớ ngẩn cho một quốc gia to
lớn.
Nhưng điều gì đã khiến nhiều người cho rằng điều được
coi là khôn ngoan cho mỗi gia đình có thể trở thành ngớ
ngẩn khi áp dụng cho một quốc gia to lớn? Nó là cả một hệ
thống những nguỵ biện mà loài người vẫn chưa thoát ra
được. Trong đó, nguỵ biện chủ đạo là thứ lý lẽ mà cuốn sách
này muốn đề cập đến: chỉ xem xét những tác động tức thời
của thuế quan lên những nhóm cá thể nhất định mà bỏ qua
tác động lâu dài của nó trên toàn bộ xã hội.
* *
*
Một nhà sản xuất áo len Mỹ đến quốc hội hoặc Bộ Ngoại
giao và trình bày với ủy ban hoặc các đại biểu ở đó rằng việc
họ giảm hay miễn thuế đối với mặt hàng áo len của Anh sẽ là
một thảm họa quốc gia. Hiện giờ ông ta đang bán áo len với
giá $30 một chiếc, nhưng các nhà sản xuất người Anh có thể
bán những sản phẩm có cùng chất lượng với giá $25. Vì vậy,
cần phải có một mức thuế suất $5 để ông ta có thể tiếp tục
công việc kinh doanh. Ông ta không chỉ nghĩ về bản thân
mình, mà còn là về hàng ngàn lao động mà ông ta đang thuê
và những người khác đang có được việc làm nhờ các khoản
chi tiêu từ thu nhập của những lao động này. Nếu khiến họ
mất việc, ta sẽ tạo ra nạn thất nghiệp và làm giảm sức mua,
và những điều này sẽ lan đến những ngành khác trong nền
kinh tế. Nếu ông ta có thể thực sự chứng tỏ rằng ông ta sẽ
buộc phải ngừng kinh doanh nếu thuế quan bị bãi bỏ hoặc
giảm, quốc hội sẽ chấp nhận lý lẽ của ông ta.
Sai lầm ở đây được thể hiện ở chỗ quốc hội chỉ quan tâm
đến nhà sản xuất áo len và các lao động của ông ta và chỉ
quan tâm đến ngành sản xuất áo len của Mỹ. Nó được thể
hiện ở chỗ họ chỉ quan tâm đến những tác động tức thời và
bỏ qua những tác động không hiện diện vì chúng đã bị ngăn
cản, không cho hình thành.
Những người ủng hộ việc bảo hộ thông qua thuế quan
luôn đưa ra những lý lẽ không chính xác. Nhưng chúng ta
hãy cứ giả định rằng trong trường hợp này, nhà sản xuất áo
len đã trình bày các dữ kiện một cách chính xác. Hãy cùng
cho rằng mức thuế quan $5 trên mỗi chiếc áo len là cần thiết
để nhà sản xuất này có thể tiếp tục kinh doanh và cung cấp
việc làm cho các lao động của mình.
Chúng ta đã cố tình chọn một trường hợp khó nhất để
ủng hộ việc bãi bỏ thuế quan. Chúng ta đã không chọn
trường hợp áp dụng một loại thuế mới để tạo ra một ngành
nghề mới; chúng ta đang nói về trường hợp giữ một loại thuế
đã giúp cho một ngành sản xuất được
duy trì và vì thế không thể bị bãi bỏ do sẽ làm tổn hại
đến lợi ích của một số người nhất định.
Thuế quan đó bị bãi bỏ. Nhà sản xuất án len phải ngừng
kinh doanh. 1.000 lao động bị mất việc làm. Những doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ và hàng hóa cho họ bị mất một
phần doanh thu. Đây là tác động tức thời của việc bãi bỏ loại
thuế quan này. Nhưng có những tác động khác cũng mang
tính tức thời xảy ra trong thực tế, mặc dù chúng khó nhận ra
hơn. Bây giờ, những chiếc áo len trước đây giá $30 có thể
được mua với giá $25. Người tiêu dùng có thể mua những
chiếc áo len cùng chất lượng với giá rẻ hơn, hoặc chất lượng
cao hơn với cùng một mức giá. Nếu họ mua những chiếc áo
cùng chất lượng, họ không chỉ có được chiếc áo mà cũng có
dư thêm $5 nữa để mua một thứ khác, khoản tiền mà trước
đây khi mua áo len họ không có được. Với $25 mà họ trả để
mua chiếc áo len nhập, họ tạo ra việc làm cho ngành sản
xuất áo len của Anh – đúng như điều nhà sản xuất áo len
người Mỹ chỉ ra. Với khoản $5 còn lại, họ sẽ tạo ra việc làm
trong nhiều ngành nghề khác nhau tại Mỹ.
Nhưng các tác động chưa dừng lại ở đây. Bằng việc mua
áo len của Anh, họ cung cấp cho người Anh lượng đôla mà
sau đó người Anh có thể dùng để mua hàng hóa Mỹ. Nếu tôi
có thể tạm thời bỏ qua những yếu tố khác như tỷ giá hối đoái
thay đổi, các khoản vay nợ, tín dụng, v.v…, thì đây là cách
duy nhất người Anh có thể sử dụng lượng đôla họ thu được.
Bởi chúng ta đã khiến họ bán nhiều hơn cho chúng ta, giờ
đây họ có thể mua nhiều hơn từ chúng ta. Trên thực tế, họ
sẽ buộc phải mua hàng hóa từ chúng ta nếu họ không muốn
bỏ phí lượng đôla đó. Kết quả của việc tăng nhập khẩu từ
Anh, vì vậy, sẽ là việc tăng xuất khẩu sang Anh. Dù số lao
động được tuyển trong ngành sản xuất áo len tại Mỹ có giảm
đi, số người được huy động để làm những công việc có hiệu
suất cao hơn trong những ngành khác, ví dụ như ngành sản
xuất máy bay hay máy giặt, sẽ tăng lên. Xét trên tổng quan,
lượng việc làm trên thị trường Mỹ không bị giảm đi, đồng
thời sản xuất của Mỹ và Anh đều tăng lên. Lao động tại cả
hai thị trường sẽ được tuyển dụng nhiều hơn vào trong các
ngành sản xuất là thế mạnh của mình thay vì những ngành
kém năng suất và kém hiệu quả hơn so với các nước khác.
Người tiêu dùng ở cả hai nước sẽ giàu có hơn. Họ có thể mua
được những gì họ muốn từ nơi cung cấp mặt hàng đó rẻ
nhất. Người tiêu dùng ở Mỹ được lợi hơn khi mua áo len, và
người tiêu dùng ở Anh được lợi hơn khi mua những sản phẩm
của Mỹ như máy giặt hay máy bay.
* *
*
Chúng ta hãy cùng xem xét vấn đề theo cách ngược lại
và tìm hiểu tác động của việc áp dụng thuế quan. Giả sử
rằng trước đây hàng dệt may từ nước ngoài không phải chịu
thuế, và người dân Mỹ có thể mua áo len của nước ngoài mà
không phải đóng thuế. Trong tình huống này, có ý kiến cho
rằng chúng ta có thể tạo nên ngành sản xuất áo len tại Mỹ
nếu áp dụng mức thuế quan $5 trên mỗi chiếc áo.
Lý luận này đến thời điểm này chưa có gì bất hợp lý. Giá
của chiếc áo len Anh đối với người tiêu dùng Mỹ sẽ bị đẩy
cao lên đến mức các nhà sản xuất Mỹ có thể thu được lợi
nhuận khi sản xuất và tiêu thụ áo len tại Mỹ. Nhưng người
tiêu dùng Mỹ sẽ buộc phải trợ giá cho những chiếc áo len
này. Với mỗi chiếc áo len họ mua, họ sẽ phải trả một khoản
thuế $5 nằm trong mức giá cao hơn mà họ phải trả để mua
những chiếc áo len sản xuất tại Mỹ.
Nhiều nhân công trên thị trường lao động Mỹ trước đây
không sản xuất áo len giờ sẽ được tuyển dụng để làm việc
trong ngành sản xuất áo len. Điều này hoàn toàn đúng, song
xét trên tổng quan, ta sẽ không có sự gia tăng trong hoạt
động sản xuất hay lượng việc làm. Bởi người tiêu dùng Mỹ
giờ phải trả thêm $5 để mua một chiếc áo len cùng chất
lượng, họ sẽ bị mất đi $5 để chi tiêu cho những việc khác. Họ
sẽ phải giảm $5 trong những chi tiêu khác của mình. Để giúp
một ngành sản xuất có thể hình thành hay phát triển, hàng
trăm ngành khác sẽ bị thu nhỏ lại. Để 50.000 lao động được
tuyển dụng trong ngành sản xuất áo len, 50.000 việc làm sẽ
bị mất đi trong những ngành sản xuất khác.
Nhưng ngành sản xuất áo len mới là điều mọi người sẽ
nhìn thấy. Số lao động được tuyển mộ, số vốn sản xuất được
đầu tư vào đó, giá trị thị trường tính theo đôla của các sản
phẩm, v.v… có thể dễ dàng được tính toán. Những người
hàng xóm có thể nhìn thấy người lao động trong ngành sản
xuất áo len đi làm và về nhà hàng ngày. Tác động của việc
áp thuế và tạo ra ngành sản xuất áo len, vì thế, rất trực tiếp
và rõ ràng. Nhưng sự thu nhỏ lại của hàng trăm ngành sản
xuất khác và sự mất đi của 50.000 việc làm tại các nơi khác
sẽ không dễ nhận ra. Ngay cả nhà thống kê tài giỏi nhất
cũng không thể biết chính xác được bao nhiêu công việc bị
mất đi, bao nhiêu đàn ông và phụ nữ đã bị sa thải trong mỗi
ngành sản xuất khác hay hoạt động kinh doanh của mỗi
ngành này bị giảm đi bao nhiêu khi người tiêu dùng phải trả
thêm tiền để mua áo len. Vì sự tổn thất này lan ra trong rất
nhiều ngành sản xuất khác nhau, tại mỗi ngành cụ thể, nó sẽ
khá nhỏ. Ta cũng không thể biết được đích xác mỗi người
tiêu dùng sẽ chi tiêu khoản $5 như thế nào nếu họ được giữ
nó. Chính vì những lý do này, phần lớn mọi người sẽ nghĩ
rằng ngành sản xuất áo len mới ra đời này không gây ra cho
chúng ta một sự tốn kém hay tổn thất gì.
* *
*
Chúng ta phải lưu ý rằng thuế áp dụng đối với áo len sẽ
không làm tăng lương tại Mỹ. Tất nhiên nó có thể khiến một
số lao động Mỹ làm việc trong ngành sản xuất
áo len có được mức lương trung bình tại Mỹ (cho lao động với
trình độ tay nghề như họ) mà không phải cạnh tranh trong
ngành này tại mức lương của Anh. Thế nhưng loại thuế đó sẽ
không làm tăng tổng lương của Mỹ, bởi vì, như chúng ta đã
thấy, số lượng việc làm, nhu cầu đối với sản phẩm và năng
suất lao động đều không tăng lên. Trên thực tế, năng suất
lao động còn bị giảm bởi ảnh hưởng của thuế.
Và điều này giúp chúng ta hiểu được tác động thật của
hàng rào thuế quan. Không chỉ đơn thuần rằng những ích lợi
hữu hình của thuế bị vô hiệu hóa bởi những thiệt hại gián
tiếp, mà còn là việc nó gây ra những tổn thất thực sư. Trên
thực tế, nếu xét tổng thể, thuế quan sẽ gây thiệt hại thuần
(net loss) cho nền kinh tế. Trái với hàng thế kỷ tuyên truyền
của những người có lợi ích trực tiếp trong việc áp dụng thuế
quan và sự mơ hồ của những người không có liên quan, thuế
quan làm giảm mức lương của Mỹ.
Chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn điều này xảy ra như thế
nào. Ta đã nói rằng lượng giá tăng thêm mà người tiêu dùng
phải trả khi mua các mặt hàng được thuế quan bảo trợ sẽ
khiến họ bị mất đi một khoản tương tự để mua các sản phẩm
và dịch vụ khác. Ở đây không có sự gia tăng sản xuất.
Nhưng kết quả của thuế quan đánh lên hàng nhập ngoại là
một phần lao động, vốn và đất đai của Mỹ bị sử dụng để sản
xuất những gì nó sản xuất kém hiệu quả hơn thay vì tập
trung vào những gì nó làm hiệu quả nhất. Chính vì thế, thuế
quan làm giảm năng suất bình quân của lao động và vốn của
Mỹ.
Nếu xem xét từ góc độ của người tiêu dùng, ta sẽ thấy
rằng người tiêu dùng giờ có thể mua được ít hơn với lượng
tiền của mình. Bởi phải trả nhiều tiền hơn để mua áo len và
những sản phẩm được bảo hộ khác, người tiêu dùng sẽ có ít
tiền hơn để mua những thứ khác. Sức mua chung từ thu
nhập của người đó, vì thế, bị giảm xuống. Điều gì sẽ xảy ra
khi áp dụng thuế quan - giảm lượng lương hay tăng mức giá
quy ra tiền - tùy thuộc vào chính sách tiền tệ được áp dụng.
Song điều rõ ràng là thuế quan, dù có thể làm tăng lương
trong các ngành sản xuất
được bảo hộ, sẽ làm giảm lương thật khi xét mọi ngành sản
xuất trong nền kinh tế - “giảm” khi so với mức mà chúng đã
có thể tăng nếu không có thuế quan.
Chỉ những đầu óc bị ảnh hưởng một cách nặng nề qua
nhiều thế hệ bởi những tư tưởng sai lầm mới cho rằng kết
luận chúng ta vừa đưa ra là mâu thuẫn. Chúng ta còn có thể
mong đợi kết quả gì khác từ những chính sách cố tình sử
dụng vốn và nguồn nhân lực của chúng ta một cách kém hữu
hiệu hơn cách chúng ta biết sử dụng chúng? Chúng ta còn có
thể mong đợi kết quả gì khác từ việc cố tình dựng nên nhưng
rào cản thương mại và giao thông?
Việc dựng nên những hàng rào thuế quan cũng có tác
động giống như việc dựng nên những bức tường thật. Chúng
ta cần chú ý đến việc những người ủng hộ việc bảo hộ qua
thuế quan thường xuyên dùng ngôn từ của chiến tranh. Họ
nói đến việc “chống lại sự xâm lược” của các hàng hóa nước
ngoài và sử dụng trong lĩnh vực kinh doanh các phương tiện
tương tự như trên chiến trường. Những rào cản thuế quan
được dựng nên để ngăn cản sự xâm nhập của hàng hoá nước
ngoài, cũng giống như các bẫy tăng, chiến hào và hàng rào
dây thép gai được tạo ra để ngăn cản hoặc làm chậm lại sự
xâm lược của quân địch.
Và cũng giống như việc quân địch bị bắt buộc phải sử
dụng phương tiện tốn kém hơn để vượt qua được những
chướng ngại vật này – xe tăng lớn hơn, máy dò mìn, các kỹ
sư để cắt dây thép gai, vượt suối và xây cầu, v.v…, các
phương tiện giao thông tốn kém và hữu hiệu hơn phải được
đưa ra để vượt qua được hàng rào thuế quan. Một mặt,
chúng ta cố gắng giảm giá cước vận chuyển giữa Anh và Mỹ
hoặc giữa Canada và Mỹ bằng cách chế tạo ra những máy
bay và tàu biển nhanh và có hiệu suất cao hơn, xây dựng
những con đường và cây cầu tốt hơn, những đầu máy xe lửa
và xe tải tốt hơn. Mặt khác, chúng ta vô hiệu hóa những
khoản đầu tư này thông qua việc dựng nên những hàng rào
thuế quan khiến cho việc chuyên chở hàng hóa, về mặt
thương mại, trở nên khó hơn so với bất kỳ thời điểm nào
trong quá khứ. Chúng ta có thể làm cho việc chuyên chở một
chiếc áo len rẻ đi 1 đôla, song lại tăng thuế lên 2 đôla để
ngăn cản việc chuyên chở chiếc áo len đó. Bằng việc làm
giảm đi lượng hàng hóa có thể được chuyên chở, chúng ta đã
làm tụt giá trị của những khoản đầu tư nhằm nâng cao hiệu
suất của ngành vận tải.
* *
*
Thuế quan đã được miêu tả như một công cụ đem lại lợi
ích cho nhà sản xuất bằng cách lấy đi từ người tiêu dùng.
Điều này cũng đúng một phần. Những người ủng hộ thuế
quan chỉ nghĩ đến lợi ích của nhà sản xuất được hưởng lợi
trực tiếp và tức thời từ một loại thuế quan nào đó mà quên đi
lợi ích của người tiêu dùng, những người bị thiệt hại bởi phải
gánh chịu khoản thuế này trong chi tiêu của mình. Thế
nhưng sẽ là sai nếu ta cho rằng vấn đề thuế là một sự xung
đột về quyền lợi giữa một bên là các nhà sản xuất và một
bên là người tiêu dùng. Mặc dù đúng là tất cả mọi người tiêu
dùng đều bị chịu thiệt vì thuế, nhưng không phải tất cả các
nhà sản xuất đều được hưởng lợi từ thuế. Ngược lại, như
chúng ta đã thảo luận, nó chỉ giúp một số nhà sản xuất nhất
định, những người được bảo hộ, và làm tổn hại nhiều nhà
sản xuất khác ở Mỹ, đặc biệt là những người có một thị
trường xuất khẩu tiềm năng lớn hơn so với những nhà sản
xuất khác.
Chúng ta có thể làm rõ hơn điểm này bằng một ví dụ
mang tính phóng đại. Giả sử chúng ta tăng thuế lên cao đến
mức không có một sản phẩm nào được nhập khẩu vào Mỹ.
Giả sử rằng điều này dẫn đến việc tăng giá áo len tại Mỹ
thêm $5 mỗi chiếc. Những người tiêu dùng tại Mỹ, vì phải trả
thêm $5 khi mua một chiếc áo len, sẽ chi ít hơn $5 cho 100
ngành sản xuất khác, nghĩa là ít hơn trung bình 5 cent cho
mỗi ngành sản xuất khác. (Các con số được chọn chỉ nhằm
phục vụ cho ví dụ minh họa này. Trong thực tế, tất nhiên sẽ
không có sự phân bổ đồng đều như vậy. Hơn nữa, bản thân
ngành sản xuất áo len cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những
ngành sản xuất được bảo hộ khác. Thế nhưng trong ví dụ,
chúng ta sẽ tạm thời không xét đến các yếu tố đó.)
Khi điều này xảy ra, những nhà sản xuất ở các nước khác
sẽ bị mất hoàn toàn thị trường của họ tại Mỹ. Vì vậy, họ sẽ
không có ngoại tệ của Mỹ (USD) và không thể
mua được hàng hóa Mỹ. Chính vì điều này, các ngành sản
xuất của Mỹ sẽ bị thiệt hại một khoản tương đương với lượng
xuất khẩu trước đây của họ. Những người sẽ bị ảnh hưởng
nhiều nhất là nhà sản xuất bông thô và các sản phẩm đồng,
các nhà sản xuất máy khâu, máy nông nghiệp, máy chữ,
máy bay chuyên chở, v.v…
Một hàng rào thuế quan cao, ngay cả khi không đến mức
làm ngừng nhập khẩu như trong ví dụ trên, vẫn sẽ gây ra
những tác động tương tự dù ở một mức độ thấp hơn.
Thuế quan, vì vậy, sẽ có tác dụng làm thay đổi cơ cấu
các ngành sản xuất của Mỹ. Nó thay đổi số lượng, chủng loại
và kích cỡ của các ngành sản xuất. Nó mở rộng các ngành
sản xuất kém hiệu năng và thu hẹp các ngành sản xuất có
hiệu năng của chúng ta. Vì vậy, nếu ta nhìn tổng thể, thuế
quan sẽ làm giảm năng suất của nền kinh tế Mỹ và của các
nền kinh tế khác, các thị trường mà ta đã có thể có nhiều
hoạt động trao đổi sản phẩm hơn nếu không có thuế quan.
Mặc dù có rất nhiều ý kiến ủng hộ và phản đối, xét về lâu
dài, thuế quan không có liên quan đến vấn đề tuyển lao
động. (Tuy nhiên, những thay đổi đột ngột của thuế theo
chiều hướng tăng hay giảm có thể nhất thời tạo ra nạn thất
nghiệp bởi chúng dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu của
nền kinh tế. Những thay đổi đột ngột này thậm chí còn có
thể dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế.) Tuy nhiên, thuế quan
lại có liên quan chặt chẽ đến các mức lương. Xét về lâu dài,
thuế quan sẽ luôn làm giảm giá trị thật của lương, bởi nó làm
giảm hiệu suất, sản lượng, và tổng lượng của cải.
Tóm lại, mọi nguỵ biện về thuế quan đều xuất phát từ
nguỵ biện chủ chốt mà cuốn sách này muốn đề cập đến. Đó
là kết quả của việc chỉ nhìn vào những tác động tức thời của
một loại thuế quan nhất định đối với một nhóm các nhà sản
xuất nhất định mà quên mất những tác động dài hạn của
thuế quan đối với toàn bộ người tiêu dùng và đối với các nhà
sản xuất khác.
(Có độc giả sẽ hỏi: “Tại sao ta không giải quyết vấn đề
này bằng cách thực hiện bảo hộ thuế quan đối với tất
cả các ngành sản xuất?” Nguỵ biện ở đây là giải pháp này
không thể hỗ trợ đồng đều mọi nhà sản xuất, và không thể
hỗ trợ gì được cho những nhà sản xuất nội địa vốn đang có
lợi thế hay đang bán được nhiều sản phẩm hơn so với những
nhà sản xuất ở nước ngoài; những nhà sản xuất có hiệu suất
cao này chắc chắn sẽ bị thiệt do sự chuyển hướng sức mua
gây ra bởi thuế quan.)
* *
*
Chúng ta cần ghi nhớ thêm một chú ý cuối cùng về chủ
đề này. Đây cũng là chú ý chúng ta đã nói đến khi xem xét
tác động của việc sử dụng máy móc. Chúng ta không nên
phủ định thực tế rằng thuế quan có, hay ít nhất là có thể,
đem lại lợi ích cho một số nhóm lợi ích đặc
biệt. Mặc dù chúng đến từ sự thiệt hại của những người
khác, nhưng những lợi ích này là có thật. Nếu một ngành sản
xuất được bảo hộ thông qua thuế quan trong khi người làm
việc trong ngành đó vẫn được tận hưởng những ích lợi kinh
tế của tự do thương mại trong những ngành sản xuất khác,
thì bản thân ngành sản xuất đó sẽ được hưởng lợi. Nhưng khi
chính phủ mở rộng bảo hộ kinh tế sang các ngành nghề sản
xuất khác, ngay cả những người trong những ngành được
bảo hộ cũng sẽ bắt đầu bị thiệt hại bởi sự bảo hộ ở những
ngành khác, và có thể trở nên nghèo hơn so với trường hợp
không ai được bảo hộ.
Thế nhưng chúng ta không nên phủ định rằng thuế quan
có thể đem lại những lợi ích thực cho một số nhóm lợi ích
nhất định, điều mà những người ủng hộ tự do thương mại
thường làm. Chúng ta không nên giả vờ rằng việc giảm thuế
sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi người và không gây thiệt hại
cho ai. Đúng là nếu xét trên tổng thể, việc giảm thuế sẽ có
lợi cho toàn bộ nền kinh tế. Song sẽ có những cá thể nhất
định bị thiệt hại từ việc này. Những đối tượng trước đây được
hưởng sự bảo hộ của thuế quan sẽ bị thiệt hại. Trên thực tế,
đây là một trong những lý do vì sao ngay từ đầu chúng ta
không nên tạo ra những lợi ích kinh tế nhờ việc bảo hộ thuế
quan. Song thực tế bắt chúng ta phải nhìn thấy và công
nhận rằng một số nhà sản xuất đã đúng khi họ nói rằng việc
loại bỏ thuế quan trên sản phẩm họ đang sản xuất sẽ khiến
họ bị phá sản và các lao động của họ bị thất nghiệp (ít nhất
là tạm thời). Và nếu những lao động này là những người có
các kỹ năng mang tính chuyên biệt cao, họ có thể sẽ bị thất
nghiệp mãi mãi hoặc ít nhất là cho đến khi họ học được
những kỹ năng mới. Khi xem xét các tác động của thuế quan
cũng như của máy móc, chúng ta phải tìm hiểu tất cả các tác
động chính, ngắn hạn và dài hạn, đối với tất cả mọi đối
tượng trong nền kinh tế.
Trước khi kết thúc chương này, tôi muốn nói thêm rằng
những lý lẽ được đưa ra không nhằm vào tất cả các loại thuế
quan (bao gồm những loại thuế được thu chủ yếu để tạo
nguồn thu nhập quốc dân hay để duy trì những ngành nghề
sản xuất cần thiết cho chiến tranh), và không nhằm chống
lại tất cả các lý lẽ khác ủng hộ thuế quan. Chương sách này
chỉ nhằm phản đối nguỵ biện rằng thuế quan xét trên tổng
quan sẽ “tạo ra việc làm”, “nâng cao mức lương”, và “bảo vệ
mức sống của người dân Mỹ”. Thuế quan không làm được
những điều đó; về lương và mức sống, nó thậm chí còn làm
điều ngược lại. Song trong chương sách này, chúng ta không
xem xét việc áp dụng thuế quan vì các mục đích khác.
Ở đây, chúng ta cũng không cần xem xét tác động của
các chính sách như hạn ngạch nhập khẩu, kiểm soát ngoại
hối, thương mại song phương và các biện pháp khác nhằm
giảm, chuyển hướng hoặc ngăn chặn thương mại quốc tế.
Nói chung, các công cụ này có tác động tương tự như thuế
quan trong các trường hợp ta vừa thảo luận và thường dẫn
đến những hậu quả tồi tệ hơn. Mặc dù chúng thường gây ra
các vấn đề phức tạp hơn, tác động của chúng xét về tổng
quan có thể được xem xét với cùng một kiểu lý luận ta đã áp
dụng khi nói về hàng rào thuế quan.
Chương XII: Động lực cho xuất khẩu
Điều duy nhất lớn hơn sự thèm khát vô cớ đối với xuất
khẩu; đó là sự sợ hãi vô cớ đối nhập khẩu. Xét về logic,
không có gì bất hợp lý hơn hai điều này. Về lâu dài, xuất
khẩu và nhập khẩu luôn phải cân bằng nhau (ở đây, ta đang
xét đến xuất và nhập khẩu theo nghĩa rộng, bao gồm cả
những sản phẩm vô hình như chi tiêu của khách du lịch, cước
phí vận chuyển đường biển và các khoản khác trong “cán cân
thanh toán”). Xuất khẩu được dùng để chi trả cho nhập khẩu
và ngược lại. Nếu chúng ta muốn được thanh toán cho các
khoản xuất khẩu của mình, càng xuất khẩu nhiều thì ta càng
phải nhập khẩu nhiều. Nhập khẩu càng ít thì xuất khẩu cũng
càng ít. Nếu không nhập khẩu, ta sẽ không có xuất khẩu, bởi
các quốc gia khác sẽ không có tiền để mua hàng hóa của
chúng ta. Khi quyết định cắt giảm nhập khẩu, chúng ta trên
thực tế cũng đang quyết định cắt giảm xuất khẩu. Khi quyết
định tăng xuất khẩu, chúng ta trên thực tế cũng đang quyết
định tăng nhập khẩu.
Lý do của điều này rất đơn giản. Một nhà xuất khẩu Mỹ
bán hàng hóa của mình cho một nhà nhập khẩu Anh và được
trả tiền bằng bảng Anh. Nhưng ông ta không thể dùng bảng
Anh để trả lương cho những người lao động của mình, để
mua quần áo cho vợ hay mua vé đi xem kịch. Để làm những
việc này, ông ta cần có đôla Mỹ. Chính vì thế, những đồng
bảng Anh này sẽ không có giá trị gì với ông ta trừ khi ông ta
tự mình dùng chúng để mua hàng từ Anh hoặc bán chúng
(thông qua ngân hàng của mình hay các đại lý khác) cho
những nhà nhập khẩu Mỹ muốn có bảng Anh để nhập hàng
từ Anh. Cho dù ông ta có làm điều nào đi nữa, giao dịch này
sẽ không được hoàn tất cho đến khi lượng xuất khẩu hàng
hóa Mỹ được thanh toán bằng một lượng nhập khẩu tương
đương.
Mọi việc cũng sẽ xảy ra tương tự nếu giao dịch được thực
hiện bằng đôla Mỹ thay vì bằng bảng Anh. Nhà nhập khẩu
Anh không thể có đôla Mỹ để trả cho nhà xuất khẩu Mỹ trừ
khi một số nhà xuất khẩu Anh đã có những khoản thu đôla
từ những giao dịch trước đó với chúng ta. Nói tóm lại, nếu
xem xét từ nước Mỹ, giao dịch ngoại tệ là một giao dịch
nhằm bù đắp những khoản nợ đôla của người nước ngoài
bằng những khoản thu đôla của họ. Nếu xét từ nước Anh,
các khoản nợ bảng Anh của người nước ngoài sẽ được bù đắp
bởi những khoản thu bảng Anh của họ.
Chúng ta không cần thiết phải đi sâu vào những nội dung
mang tính kỹ thuật về các giao dịch này, bởi chúng có thể
được tìm thấy trong bất kỳ một giáo trình tốt nào về giao
dịch ngoại tệ. Song điều chúng ta cần chỉ ra tại đây là mặc
dù luôn có vẻ bí hiểm và khó hiểu, các giao dịch ngoại tệ
không có gì quá phức tạp. Chúng thực sự không khác biệt
nhiều so với những gì xảy ra trong nội thương. Mỗi người
trong chúng ta đều phải bán một thứ gì đó (mặc dù đối với
phần lớn trong chúng ta, thứ ta bán là dịch vụ thay vì hàng
hóa) để có thể có được sức mua để mua những gì ta muốn.
Thương mại nội địa cũng được thực hiện phần lớn thông qua
việc bù trừ các khoản thu và chi tại các ngân hàng hoặc sở
hối đoái.
Đúng là trong hệ thống kim bản vị quốc tế, các khoản
chênh lệch trong cán cân xuất nhập đôi khi được bù đắp
bằng những chiếc tàu xuất nhập khẩu vàng. Tuy nhiên,
chúng cũng có thể được bù đắp bằng những chiếc tàu xuất
nhập khẩu các hàng hóa khác như bông, thép, rượu mạnh,
nước hoa, v.v… Sự khác biệt chủ yếu là khi hệ thống kim bản
vị được áp dụng, cầu đối với vàng có thể được coi là vô hạn
(một phần bởi vàng được coi và chấp nhận như “phương tiện
thanh toán” quốc tế cuối cùng chứ không chỉ là một hàng
hóa đơn thuần), và các quốc gia không tạo nên các hàng rào
nhằm ngăn cản việc nhập vàng như cách họ ngăn chặn việc
nhập hầu hết các hàng hóa khác. (Mặt khác, trong những
năm gần đây, họ bắt đầu tạo ra nhiều rào cản nhằm ngăn
chặn việc xuất
khẩu vàng hơn đối với bất kỳ mặt hàng xuất khẩu nào
khác. Tuy nhiên, đây là một câu chuyện khác.)
Chính những người luôn tỉnh táo và khôn ngoan trong các
vấn đề thuộc về nội thương có thể trở nên hết sức nhầm lẫn
trong lĩnh vực ngoại thương. Trong ngoại thương, họ sẵn
sàng ủng hộ và chấp nhận những nguyên tắc mà bản thân
họ sẽ coi là điên rồ nếu áp dụng vào nội thương. Một ví dụ
điển hình là việc nhiều người tin rằng chính phủ nên cho các
nước khác vay những khoản tiền lớn nhằm tăng xuất khẩu,
cho dù những nước này có khả năng hoàn trả hay không.
Tất nhiên, các công dân Mỹ nên được phép cho vay vốn
riêng của mình ra nước ngoài và tự gánh chịu mọi rủi ro có
thể xảy ra. Chính phủ không nên tự ý đặt ra những hàng rào
ngăn cản việc cho vay của tư nhân với những quốc gia có
quan hệ hòa bình với chúng ta. Mỗi cá nhân chúng ta cũng
nên đóng góp một cách rộng rãi cho các mục đích nhân đạo
nhằm giúp những người đang có nguy cơ chết đói hoặc đang
gánh chịu những khó khăn lớn. Nhưng chúng ta phải luôn
biết rõ việc mình làm. Sẽ là thiếu khôn ngoan nếu chúng ta
giúp người dân nước khác những những khoản viện trợ nhân
đạo lớn với ý nghĩ rằng mình đang thực hiện những giao dịch
kinh tế khôn ngoan nhằm phục vụ cho lợi ích riêng của mình.
Điều này sẽ chỉ dẫn đến những hiểu lầm và quan hệ không
tốt đẹp sau này.
Trong số những lập luận được đưa ra để ủng hộ việc cho
các nước khác vay các khoản tiền lớn, một lý lẽ nguỵ biện
thường xuất hiện ở vị trí trung tâm: ngay cả nếu cuối cùng
một nửa (hoặc toàn bộ) số tiền chúng ta cho các nước khác
vay không được hoàn trả, quốc gia của chúng ta vẫn sẽ giàu
có hơn vì đã cho vay, bởi các khoản vay đó sẽ là những động
lực lớn thúc đẩy xuất khẩu của chúng ta.
Song chúng ta phải nhận ra một điều hiển nhiên là nếu
khoản tiền ta cho các nước khác vay để họ có thể mua hàng
hóa của ta cuối cùng không được hoàn trả, chúng ta trên
thực tế đang cho không hàng hóa của mình. Một quốc gia chỉ
có thể nghèo đi chứ không thể không thể trở nên giàu có hơn
bằng cách cho không hàng hóa.
Không ai nghi ngờ hay phản đối điều này khi nó được áp
dụng vào một công ty tư nhân. Nếu một công ty sản xuất xe
hơi cho một người vay $5.000 để mua một chiếc xe có giá
bằng khoản tiền này và nếu người đó không có khả năng
hoàn trả khoản tiền đó, công ty xe hơi sẽ không trở nên giàu
có hơn bởi nó đã “bán” được chiếc xe hơi. Nó đã mất đi số
tiền tương đương với chi phí sản xuất ra chiếc xe hơi đó. Nếu
chi phí sản xuất chiếc xe hơi là $4.000 và người được cho
vay chỉ hoàn trả được một nửa khoản cho vay, công ty sản
xuất xe hơi sẽ mất $4.000 trừ đi $2.500, nghĩa là $1.500.
Việc bán được chiếc xe không thể bù đắp lại lượng tiền công
ty mất vì khoản cho vay không được hoàn trả đó.
Nếu luận đề này đơn giản đến vậy khi áp dụng với một
công ty tư nhân, tại sao nhiều người lại trở nên nhầm lẫn khi
áp dụng nó cho một quốc gia? Lý do là vì khi áp dụng cho
một quốc gia, giao dịch này phải được theo dõi thông qua
nhiều bước hơn. Một nhóm lợi ích nào đó có thể thực sự được
hưởng lợi trong khi những người còn lại bị thiệt hại.
Chẳng hạn, đúng là những người vốn chỉ tham gia hoàn
toàn hoặc khá sâu vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu
có thể sẽ được lợi nhờ những khoản cho vay không được
hoàn trả của chính phủ với các nước khác. Thiệt hại của toàn
bộ nền kinh tế là điều chắc chắn, nhưng ta khó có thể theo
dõi xem thiệt hại này được phân bổ như thế nào. Những
người cho vay tiền tư nhân sẽ phải trực tiếp chịu các khoản
thiệt hại khi tiền họ cho vay không được hoàn trả. Còn các
khoản thiệt hại do tiền cho vay của chính phủ không được
hoàn trả cuối cùng sẽ được bù đắp thông qua việc tăng thuế.
Hơn nữa những thiệt hại trực tiếp này cũng sẽ lại gây ra
nhiều thiệt hại gián tiếp khác cho nền kinh tế.
Xét về lâu dài, những khoản cho vay nước ngoài không
được hoàn trả không những không hỗ trợ mà còn làm tổn hại
hoạt động sản xuất kinh doanh và việc tuyển lao động ở Mỹ.
Với mỗi đôla mà người nước ngoài có được thông qua những
khoản cho vay này để mua hàng hóa Mỹ, những người mua
hàng trong nước sẽ bị mất đi một đôla. Các ngành kinh
doanh sản xuất dựa vào nội thương về lâu dài sẽ bị thua
thiệt tương đương với phần lợi nhuận mà các ngành sản xuất
phục vụ cho xuất khẩu thu được. Nhiều người thậm chí cho
rằng, nếu tính trên tổng quan, ngay cả các ngành sản xuất
phục vụ xuất khẩu cũng sẽ bị thua thiệt. Các công ty sản
xuất xe hơi của Mỹ vào năm 1975 bán khoảng 15% sản
phẩm của mình ra các thị trường nước ngoài. Nếu nhờ các
khoản cho vay nước ngoài không được hoàn trả mà các công
ty này tăng được 5% sản phẩm của mình ra thị trường nước
ngoài (tương đương 20% sản phẩm), song tại thị trường nội
địa lại bị giảm 10% do người dân phải đóng thuế nhiều hơn
để bù đắp lại các khoản cho vay không được hoàn trả này,
các công ty đó sẽ không thu được lợi ích gì về kinh tế.
Tất cả những điều này, tôi xin được nhắc lại, không có
nghĩa là các nhà đầu tư tư nhân không nên cho vay ra nước
ngoài. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ta không thể trở
nên giàu có hơn thông qua các khoản cho vay hầu như
không được hoàn trả.
Chính vì các lý do này, việc kích thích xuất khẩu một
cách giả tạo thông qua các khoản cho vay với khả năng hoàn
trả thấp hoặc các khoản viện trợ không hoàn lại cho các nước
khác là điều xuẩn ngốc. Trợ cấp xuất khẩu là một ví dụ điển
hình cho việc tặng không hàng hóa của mình cho các nước
khác vì đã bán cho họ các hàng hóa với giá thấp hơn cả chi
phí sản xuất. Đây là một ví dụ minh họa cho việc cố gắng
làm giàu bằng cách vứt bớt của cải đi.
Bất chấp thực tế như vậy, nhiều năm qua, chính phủ Mỹ
đã thực hiện chương trình “hỗ trợ kinh tế nước ngoài”, phần
lớn là các khoản viện trợ không hoàn lại trị giá hàng tỷ đôla
giữa các chính phủ. Tại đây, chúng ta chỉ thảo luận về một
khía cạnh của chương trình này: nhiều người tham gia tài trợ
với niềm tin thơ ngây rằng đây là một cách khôn ngoan,
thậm chí là cần thiết, để “tăng xuất khẩu của chúng ta” và
nhờ đó duy trì được việc làm cho lao động trong nước và sự
vững mạnh của nền kinh tế. Đây là một dạng khác của ảo
tưởng rằng một quốc gia có thể trở nên giàu có hơn khi cho
bớt của cải của mình đi. Điều khiến nhiều người không nhìn
ra sự thật là thứ được cho đi không phải là các hàng hóa
xuất khẩu mà là tiền để mua chúng. Chính vì thế, nhiều nhà
xuất khẩu vẫn có thể thu lợi trong khi toàn bộ nền kinh tế bị
thiệt hại - điều này sẽ xảy ra trong trường hợp thu nhập của
họ từ xuất khẩu lớn hơn phần thuế đóng góp của họ để chi
trả cho chương trình hỗ trợ kinh tế nước ngoài này.
Tại đây, chúng ta có một ví dụ minh họa nữa về việc chỉ
nhìn vào những tác động tức thời của một chính sách đối với
một nhóm lợi ích cá biệt nào đó mà không có đủ kiên nhẫn
hay khôn ngoan để xem xét những tác động dài hạn trên
toàn xã hội.
Nếu chúng ta thực sự xem xét những tác động dài hạn
trên toàn xã hội, chúng ta sẽ đi đến một kết luận nữa hoàn
toàn trái ngược với luận thuyết được phần lớn viên chức
chính phủ tin theo và sử dụng trong nhiều thế kỷ qua. Như
John Stuart Mill đã chỉ ra một cách rõ ràng, lợi ích thực sự
của ngoại thương đối với bất kỳ quốc gia nào không nằm
trong xuất khẩu mà trong nhập khẩu. Những người tiêu dùng
của quốc gia này hoặc sẽ có thể mua được từ nước ngoài các
hàng hóa với giá thấp hơn so với giá mà họ sẽ phải trả nếu
các hàng hóa đó được sản xuất trong nước, hoặc sẽ có thể
mua được từ nước ngoài các sản phẩm mà trong nước hoàn
toàn không sản xuất. Những ví dụ điển hình cho điều này là
cà phê và trà. Nếu ta xem xét một cách tổng quan, lý do
thực sự khiến một nước cần phải xuất khẩu hàng hóa là để
có thể chi trả cho hàng hóa nhập khẩu của mình.
Một ảnh hưởng nữa là việc giảm thu nhập của thành phố
bởi giá trị các tài sản chịu thuế bị giảm đi. Các thành phố có
thể bị phá sản và không thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ cơ
bản.
Khi những hậu quả này trở nên rõ ràng đến mức không
thể bỏ qua được, những người đã quyết định việc kiểm soát
giá thuê nhà tất nhiên sẽ không chịu nhận rằng đó là lỗi của
mình. Thay vào đó, họ sẽ đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản. Họ sẽ
nói rằng doanh nghiệp tư nhân đã “thất bại”, rằng các doanh
nghiệp tư nhân “không thể đảm đương được vai trò”. Chính
vì thế, họ cho rằng chính phủ cần phải can thiệp vào và trực
tiếp xây dựng các căn hộ và nhà cho thuê giá rẻ.
Đây là điều đã xảy ra với hầu như mọi quốc gia tham gia
vào Thế Chiến II hay đã thực hiện việc kiểm soát giá cho
thuê nhà nhằm đối phó với lạm phát.
Vậy là các chính phủ thực hiện các chương trình xây
dựng nhà cho thuê khổng lồ với chi phí lấy từ nguồn thuế thu
được. Các ngôi nhà này sau đó được cho thuê với mức giá
thấp không đủ để bù đắp lại chi phí xây dựng và hoạt động.
Để xử lý việc này, chính phủ thường cung cấp các khoản trợ
cấp hàng năm, trao trực tiếp cho người thuê nhà giá rẻ hoặc
những người xây dựng và quản lý các chương trình xây dựng
nhà của chính phủ. Cho dù hình thức bên ngoài là gì, trên
thực tế, những người thuê nhà này được trợ cấp bởi những
người khác trong xã hội. Họ được người khác trả giúp một
phần tiền thuê nhà. Họ được chọn ra để hưởng những ưu tiên
này. Sự ưu tiên sẽ dẫn đến những hậu quả chính trị rất rõ
ràng. Trong xã hội sẽ xuất hiện một nhóm thường gây áp lực
đòi hỏi được ưu tiên; họ nghĩ rằng họ có quyền đòi hỏi những
người nộp thuế cung cấp những khoản trợ cấp này cho họ.
Đây thực sự là một bước tiến gần hơn đến mô hình xã hội
phúc lợi toàn bộ.
Điều oái ăm cuối cùng của sự kiểm soát giá thuê nhà là
khi chính sách này càng thiếu tính thực tế, càng bất công và
hà khắc bao nhiêu thì những lý lẽ mang tính chính trị được
đưa ra để ủng hộ việc duy trì nó càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Nếu giá thuê nhà do chính phủ quy định bằng 95% giá ngoài
thị trường tự do, nghĩa là những người cho thuê nhà chỉ phải
chịu một sự bất công không đáng kể, sẽ không có những lý
lẽ mạnh mẽ đưa ra từ phía chính phủ nhằm phản đối việc bãi
bỏ sự kiểm soát giá đó, bởi vì những người thuê nhà sẽ chỉ
phải trả thêm 5% khi không có sự kiểm soát giá này. Nhưng
nếu mức lạm phát rất cao hoặc giá thuê nhà bị kiểm soát ở
mức quá nặng nề, khiến cho giá thuê nhà do chính phủ quy
định chỉ bằng 10% mức giá của thị trường tự do và những
người sở hữu và cho thuê nhà đang phải chịu những thiệt hại
nặng nề, sẽ có một sự phản đối rất mạnh mẽ chống lại ý
định bãi bỏ sự kiểm soát đối với giá thuê nhà, bắt những
người thuê nhà trả mức giá thuê nhà thực sự của thị trường.
Chính phủ sẽ lý luận rằng việc bất thình lình bắt người thuê
nhà phải chịu một mức giá thuê nhà tăng đột ngột và nhiều
như vậy là vô cùng tàn nhẫn và bất hợp lý. Ngay cả những
người phản đối kiểm soát giá thuê nhà cũng phải công nhận
rằng việc hủy bỏ sự kiểm soát đối với giá thuê nhà phải được
thực hiện từ từ trong một thời gian dài và hết sức thận trọng.
Trong hoàn cảnh này, rất hiếm người trong số họ thực sự có
được sự dũng cảm về mặt chính trị và sự khôn ngoan về mặt
kinh tế để thậm chí chỉ đề xuất việc dần dần loại bỏ sự kiểm
soát. Tóm lại, sự kiểm soát giá thuê nhà càng phi thực tế và
bất công thì, xét về mặt chính trị, càng khó hủy bỏ. Tại rất
nhiều nước, sự kiểm soát giá cho thuê nhà vẫn được duy trì
rất nhiều năm sau khi những hình thức kiểm soát giá khác
đã bị bãi bỏ, gây nhiều tổn hại cho nền kinh tế.
Các lý do chính trị được đưa ra để duy trì việc kiểm soát
giá thuê nhà đều không đáng tin cậy. Các luật về giá thuê
nhà đôi khi quy định rằng sự kiểm soát sẽ bị bãi bỏ khi mức
dư thừa nhà cho thuê đạt đến một con số nhất định. Những
người muốn duy trì kiểm soát giá thuê nhà sau đó luôn nói
một cách đắc thắng rằng mức dư thừa nhà cho thuê vẫn
chưa đạt đến mức đó. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra.
Chính việc mức giá thuê nhà bị giữ ở mức thấp hơn nhiều so
với giá thị trường sẽ làm tăng cầu đồng thời giảm cung trong
thị trường nhà cho thuê. Chính vì vậy, mức giá thuê nhà
càng bị giữ ở mức thấp bao nhiêu thì sự khan hiếm nhà cho
thuê sẽ càng tiếp tục lâu bấy nhiêu.
Những người chủ nhà cho thuê phải chịu sự bất công rất
lớn. Họ bị bắt buộc phải trợ giá cho tiền thuê nhà của chính
những người thuê nhà của họ và thường phải trực tiếp gánh
chịu những thiệt hại này. Người thuê nhà được hưởng giá
thuê nhà kiểm soát thường giàu có hơn người cho thuê nhà
bị bắt buộc phải gánh chịu sự chênh lệch giữa giá được áp
dụng và giá thị trường. Các chính trị gia không quan tâm đến
quyền lợi của họ. Những người tham gia các ngành nghề
khác, những người ủng hộ việc duy trì sự kiểm soát giá thuê
nhà bởi họ thương cảm những người thuê nhà, sẽ không bao
giờ chịu lên tiếng rằng họ muốn gánh chịu một phần khoản
trợ cấp tiền thuê nhà thông qua thuế. Toàn bộ gánh nặng sẽ
rơi lên vai một nhóm nhỏ những người đã phạm một tội lớn
là dám xây nhà để cho thuê.
Ít có từ nào mang ý nghĩa đặc biệt như từ slumlord
(người cho thuê nhà trong khu ổ chuột). Một slumlord là gì?
Đó không phải một người có những ngôi nhà cho thuê đắt
tiền trong những khu vực giàu có, mà là người sở hữu một
ngôi nhà dột nát trong khu ổ chuột, nơi tiền thuê thấp nhất
và việc thanh toán thường xuyên bị chậm trễ và thiếu hụt.
Thật không dễ gì để hiểu lý do tại sao một người lẽ ra có thể
có được một ngôi nhà trọ tử tế lại quyết định trở thành người
cho thuê nhà trong khu ổ chuột.
Khi sự kiểm soát giá cả bất hợp lý bị áp dụng trên những
mặt hàng được tiêu dùng ngay, ví dụ như bánh mỳ, những
người làm bánh có thể thằng thừng từ chối tiếp tục làm và
bán bánh mỳ. Sự khan hiếm sẽ xảy ra ngay lập tức và các
chính trị gia sẽ phải nâng mức giá trần hoặc hủy bỏ sự kiểm
soát giá. Nhưng nhà cho thuê là những tài sản tồn tại lâu
dài. Có thể sau một vài năm, những người thuê nhà mới bắt
đầu cảm thấy ảnh hưởng của việc những người xây dựng và
sở hữu nhà không muốn xây nhà mới hoặc không chịu tu bổ
sửa chữa những ngôi nhà đang cho thuê. Có thể sẽ mất
nhiều năm nữa họ mới nhận ra rằng tình trạng khan hiếm và
xuống cấp nhà cho thuê là hậu quả trực tiếp của việc kiểm
soát giá cho thuê. Trong hiện tại, chừng nào những người
cho thuê nhà vẫn còn một chút lợi nhuận sau khi nộp thuế
và trả lãi tức cầm cố, họ dường như chẳng còn sự lựa chọn
nào khác ngoài việc tiếp tục sở hữu và cho thuê những ngôi
nhà đó. Các chính trị gia - luôn biết rằng những người thuê
nhà với số lượng đông hơn sẽ bỏ phiếu nhiều hơn so với
những người cho thuê nhà - sẽ tiếp tục sự kiểm soát giá thuê
nhà sau khi họ đã bị bắt buộc phải ngừng sự kiểm soát giá
cả chung trên thị trường.
Chúng ta quay trở lại với bài học cơ bản của mình. Sức
ép đối với việc kiểm soát giá cho thuê nhà đến từ những
người chỉ xem xét những tác động ngắn hạn mà họ tưởng
tượng ra đối với một nhóm cá thể trong toàn xã hội. Nhưng
khi ta xem xét những tác động lâu dài lên tất
cả mọi người, bao gồm cả những người đi thuê nhà, chúng ta
sẽ thấy rằng việc kiểm soát giá thuê nhà càng nặng nề và
kéo dài thì càng trở nên vô ích và tai hại đối với nền kinh tế.
Chương XIX: Các điều luật về mức lương tối thiểu
Chúng ta đã xem xét một số tác động tiêu cực của việc
chính phủ tự ý tăng giá một số mặt hàng được ưu tiên. Việc
chính phủ tìm cách tăng lương thông qua các điều luật về
mức lương tối thiểu cũng có tác động tương tự. Điều này
chắc không làm cho chúng ta ngạc nhiên, bởi lương cũng là
một loại giá. Chính việc chúng ta gọi giá của dịch vụ lao
động bằng một cái tên hoàn toàn khác đã dẫn đến nhiều
nhầm lẫn trong tư duy về kinh tế của chúng ta. Chính điều
này đã khiến nhiều người trong chúng ta không nhận ra rằng
cả hai trường hợp này đều bị chi phối bởi các nguyên tắc
giống nhau.
Tư duy của chúng ta về vấn đề lương thường bị ảnh
hưởng bởi quá nhiều xúc cảm và các thành kiến chính trị,
đến mức trong phần lớn các cuộc thảo luận về chủ đề này,
những nguyên tắc cơ bản và đơn giản nhất thường xuyên bị
bỏ qua. Ngay cả những người luôn phản đối tư tưởng cho
rằng việc tăng giá hàng hóa cao hơn mức giá tự nhiên trên
thị trường sẽ khiến chúng ta giàu có hơn, hay những người
luôn sẵn sàng chỉ ra rằng các điều luật về mức giá tối thiểu
sẽ làm hại chính những ngành sản xuất mà các điều luật này
muốn hỗ trợ, cũng sẽ ủng hộ các điều luật về mức lương tối
thiểu và thẳng thừng phê phán những người phản đối chúng.
Song ta cần phải chỉ ra một cách rõ ràng rằng điều luật
về mức lương tối thiểu nhìn nhận theo cách tích cực nhất
cũng chỉ là một vũ khí còn nhiều hạn chế nhằm chống lại
mức lương quá thấp, và nó sẽ chỉ có lợi nhiều hơn hại khi các
mục tiêu của nó không quá lớn. Khi các mục tiêu của nó càng
mang tính tham vọng, khi nó được áp dụng cho càng nhiều
người lao động, khi nó càng cố gắng nâng cao hơn mức lương
của họ, việc nó gây hại nhiều hơn lợi sẽ càng trở nên chắc
chắn.
Khi một điều luật quy định mức lương tối thiểu cho một
tuần làm việc 40 giờ là 106 đôla, điều đầu tiên sẽ xảy ra là
tất cả những lao động bị coi là không đáng giá 106 đôla một
tuần sẽ không được thuê. Chúng ta không thể khiến một lao
động trở nên xứng đáng với một mức lương nào đó bằng
cách dùng luật để cấm những ai muốn tuyển dụng người đó
trả cho anh ta một mức lương thấp hơn. Khi làm vậy, ta sẽ
khiến người này không còn cơ hội nhận được mức lương mà
khả năng và hoàn cảnh của người đó cho phép anh ta nhận
được, đồng thời ta sẽ khiến xã hội mất đi những dịch vụ mà
người đó có thể cung cấp. Nói tóm lại, chúng ta sẽ thay thế
một mức lương thấp bằng một người thất nghiệp. Điều này
chỉ có hại mà không có lợi.
Một ngoại lệ sẽ xảy ra trong trường hợp một số lao động
đang phải nhận mức lương thấp hơn so với giá trị thị trường
của các dịch vụ mà họ cung cấp. Điều này thường chỉ xảy ra
trong một số trường hợp hãn hữu tại những địa điểm đặc
biệt, nơi thị trường lao động không có sự tự do cạnh tranh;
song hầu hết các trường hợp này có thể được giải quyết
thông qua việc thành lập các công đoàn, một phương thức
cũng không kém hiệu quả so với việc đưa ra mức lương tối
thiểu, song lại linh hoạt hơn và giảm thiểu được các rủi ro
cho nền kinh tế.
Nhiều người cho rằng nếu lương cho lao động trong một
ngành sản xuất nào đó được nâng lên cao hơn theo quy định
của pháp luật, ngành sản xuất đó có thể nâng giá sản phẩm
của mình và kết cục là gánh nặng của việc nâng lương sẽ
được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này trên thực tế
không dễ xảy ra như vậy, và việc xử lý các hậu quả của việc
tăng lương cao hơn mức tự nhiên trên thị trường thường
phức tạp hơn nhiều. Việc bán sản phẩm với mức giá cao hơn
không phải lúc nào cũng khả thi; nó có thể khiến người tiêu
dùng quay sang sử dụng những sản phẩm nhập khẩu hoặc
những mặt hàng thay thế khác. Ngay cả khi người tiêu dùng
tiếp tục mua sản phẩm này, mức giá cao hơn sẽ khiến họ
mua ít đi. Vì vậy, cho dù một số lao động trong ngành có thể
được hưởng lợi từ việc tăng lương, nhiều người khác trong
ngành sẽ bị mất việc. Một mặt khác, nếu giá sản phẩm
không được tăng lên, các nhà sản xuất có hiệu suất thấp sẽ
buộc phải ngừng sản xuất. Kết quả cuối cùng, cho dù bằng
một cách khác, vẫn là việc giảm sản xuất và lượng lao động
được tuyển dụng.
Khi ta chỉ ra những hậu quả này, một số người sẽ nói:
“Được thôi! Nếu ngành sản xuất này không thể tồn tại được
ngoại trừ bằng việc trả một mức lương chết đói cho các lao
động trong ngành, có lẽ sẽ tốt hơn nếu ta để điều luật về
mức lương tối thiểu khiến cho nó đóng cửa luôn”. Song lời
tuyên bố dũng cảm ấy chưa xem xét hết được thực tế. Trước
hết, nó quên mất rằng nếu điều này xảy ra, người tiêu dùng
sẽ không được sử dụng sản phẩm đó nữa. Thứ hai, nó quên
mất rằng nó sẽ đẩy toàn bộ lao động trong ngành đó vào
cảnh thất nghiệp. Cuối cùng, nó quên mất rằng mặc dù mức
lương trong ngành sản xuất đó có vẻ thấp, nó vẫn là mức
lương cao nhất mà hiện giờ các lao động đó có thể tìm được,
nếu không tự bản thân họ đã bỏ việc để đi làm chỗ khác có
lương cao hơn. Vì vậy, nếu ngành sản xuất này phải đóng
cửa vì điều luật về mức lương tối thiểu, những lao động trước
đây làm việc trong ngành này sẽ bị bắt buộc phải tìm việc
trong những ngành sản xuất mà từ đầu họ đã biết là không
tốt bằng. Việc họ phải cạnh tranh với nhau để giành được
việc làm sẽ khiến mức lương trong những ngành này giảm
thấp hơn nữa. Kết luận cuối cùng của chúng ta vẫn không có
gì thay đổi: các điều luật về mức lương tối thiểu sẽ làm tăng
tỷ lệ thất nghiệp.
* *
*
Bên cạnh đó, các chương trình trợ cấp được đưa ra nhằm
xử lý tình trạng thất nghiệp do các điều luật gây ra cũng làm
nảy sinh một vấn đề nữa mà chúng ta cần xem xét. Với việc
quy định mức lương tối thiểu là 2,65 đôla một giờ, chúng ta
không cho phép bất kỳ ai làm việc với mức lương thấp hơn
106 đôla cho một tuần lao động 40 giờ. Giả sử chúng ta
quyết định trợ cấp 70 đôla một tuần cho những người bị thất
nghiệp, điều này có nghĩa là chúng ta không cho phép một
người được tuyển dụng và lao động một cách hữu ích với
mức lương 90 đôla một tuần để cho phép anh ta ăn không
ngồi rồi và hưởng trợ cấp thất nghiệp 70 đôla một tuần.
Chúng ta khiến xã hội mất đi những dịch vụ mà người này có
thể cung cấp. Chúng ta lấy mất đi của người này sự độc lập
và lòng tự trọng mà anh ta có được khi có thể tự nuôi sống
bản thân mình, cho dù ở một mức độ kham khổ, và khi anh
ta có thể cung cấp cho xã hội những dịch vụ hữu ích thông
qua lao động của mình. Đồng thời, chúng ta cũng làm giảm
đi những gì mà người đó có thể nhận được với sức lực và sự
cố gắng của anh ta.
Những hậu quả này sẽ xảy ra chừng nào mức trợ cấp
thất nghiệp hàng tuần vẫn thấp hơn 106 đôla. Song càng
tăng cao mức trợ cấp, ta sẽ càng làm tình hình trở nên tồi tệ
hơn trên những khía cạnh khác. Nếu chúng ta trả mức trợ
cấp thất nghiệp 106 đôla, chúng ta sẽ khiến người lao động
nhận được khi ngồi không trong hiện tại cùng một số tiền mà
họ nhận được trước đây khi làm việc. Hơn nữa, cho dù khoản
trợ cấp có là bao nhiêu, chúng ta cũng sẽ khiến mọi người
làm việc chỉ vì khoản chênh lệch giữa mức lương họ đang
nhận được với khoản tiền trợ cấp. Nếu mức trợ cấp là 106
đôla một tuần, những người có mức lương 2,75 đôla một giờ,
hay 110 đôla một tuần, sẽ thấy rằng mình làm việc cả tuần
chỉ vì 4 đôla, bởi họ có thể được hưởng phần còn lại mà
không phải làm gì.
Nhiều người cho rằng chúng ta có thể tránh được các hậu
quả này nếu ta cung cấp “trợ cấp dưới dạng việc làm”, nghĩa
là cho họ làm việc để hưởng mức lương trợ cấp, thay vì cung
cấp trợ cấp bằng tiền. Song ngay cả khi làm như vậy, ta vẫn
không thể tránh được hậu quả; ta chỉ thay đổi bản chất của
chúng mà thôi. Làm việc để hưởng mức lương trợ cấp có
nghĩa là chúng ta trả cho những người này cao hơn mức thị
trường lao động trả họ. Vì vậy, chỉ một phần trong mức
lương trợ cấp có thể được xem là sự đền bù hợp lý cho lao
động của họ; phần còn lại vẫn là một loại trợ cấp thất nghiệp
trá hình.
Chúng ta cũng cần nhận thấy rằng các dự án tạo việc
làm nhằm cung cấp lương trợ cấp của chính phủ đều không
có hiệu quả. Tính hữu dụng của nó cũng là một vấn đề đáng
đặt câu hỏi. Chính phủ sẽ phải tạo ra các dự án lao động
nhằm tuyển những người có tay nghề thấp nhất. Chính phủ
sẽ không dám dạy cho họ những nghề như mộc hay xây
dựng vì sợ rằng họ sẽ cạnh tranh với những lao động có tay
nghề trên thị trường và gây ra sự phản kháng từ các công
đoàn. Tôi không muốn gợi ý điều này, song tôi nghĩ rằng có
lẽ nếu ngay từ đầu chính phủ trợ cấp cho lương của các lao
động có thu nhập thấp tại chính nơi họ đang làm việc (thay
vì tạo các công việc khác cho họ làm để nhận lương trợ cấp)
thì sẽ đỡ gây tổn hại cho nền kinh tế hơn. Song việc này
cũng không phải là không có những vấn đề riêng về mặt
chính trị của nó.
Chúng ta không cần thảo luận thêm nữa, bởi nó sẽ dẫn
đến những vấn đề không liên quan trực tiếp đến những gì
chúng ta đang xem xét. Song khi muốn xem xét việc đưa ra
các điều luật về mức lương tối thiểu hoặc tăng các mức lương
tối thiểu đã đưa ra, chúng ta cần phải nhớ đến các vấn đề và
hậu quả của việc cung cấp trợ cấp7.
Trước khi kết thúc đề tài này, tôi muốn xem xét một lý lẽ
đôi khi được đưa ra để ủng hộ cho việc quy định mức lương
tối thiểu thông qua luật. Lý lẽ này chỉ ra rằng trong những
ngành sản xuất mà tại đó một công ty lớn độc quyền, công
ty này sẽ không sợ cạnh tranh và vì thế có thể trả cho lao
động của mình mức lương thấp hơn mức trên thị trường. Đây
là một tình huống rất khó xảy ra. Một công ty “độc quyền”
như vậy khi được thành lập thường phải trả mức lương cao
để có thể thu hút được lao động từ những ngành sản xuất
khác. Sau đó, nếu nó
7 Vào năm 1938, khi mức lương bình quân trong các ngành sản xuất tại Mỹ
là 63 cent một giờ, mức lương tối thiểu do quốc hội đưa ra chỉ là 25 cent.
Vào năm 1945, khi mức lương bình quân cho các lao động nhà máy đã tăng
lên 1,02 đôla một giờ, quốc hội tăng mức lương tối thiểu lên 40 cent. Vào
năm 1949, khi mức lương bình quân cho các lao động nhà máy tăng lên 1,4
đôla một giờ, quốc hội lại tăng mức lương tối thiểu lên thành 75 cent. Vào
năm 1955, khi mức lương bình quân tăng lên 1,88 đôla, quốc hội tăng lương
tối thiếu lên thành 1 đôla. Vào năm 1961, với mức lương bình quân của các
lao động nhà máy khoảng 2,3 đôla một giờ, mức lương tối thiểu theo giờ
được tăng lên 1,15 đôla vào năm 1961 và 1,25 đôla vào năm 1963. Một cách
ngắn gọn hơn, mức lương tối thiểu đã được tăng lên 1,4 đôla vào năm 1967,
1,6 đôla vào năm 1968, 2,00 đôla vào năm 1974, 2,1 đôla vào năm 1975, 2,3
đôla vào năm 1976 (khi mức lương bình quân trong các ngành sản xuất phi
nông nghiệp là 4,87 đôla). Vào năm 1977, khi mức lương bình quân trong
các ngành sản xuất phi nông nghiệp là 5,26 đôla, mức lương tối thiểu được
tăng lên 2,65 đôla một giờ với điều khoản đi kèm qui định rằng mức lương
này sẽ tiếp tục được tăng trong ba năm tới. Khi mức lương bình quân theo
giờ tăng lên, những người ủng hộ mức lương tối thiểu quyết định rằng mức
lương tối thiểu cũng phải được tăng lên ít nhất với tốc độ tương đương. Dù
những người làm luật luôn bám theo mức lương phổ biến nhất trên thị
trường, ngày càng có nhiều người cho rằng chính các điều luật về mức
lương tối thiểu đã góp phần làm tăng mức lương của thị trường.
không tăng lương với tốc độ như ở các ngành khác hoặc trả
mức lương thấp hơn mức thị trường, điều này chứng tỏ bản
thân ngành sản xuất hoặc công ty đó đang có khó khăn hoặc
đang bị thu nhỏ. Nếu ngành sản xuất hoặc công ty đó vẫn
hoạt động tốt hoặc đang mở rộng, nó sẽ phải tiếp tục đưa ra
mức lương cao để có thể thu hút đủ lao động cho nhu cầu
đang tăng của mình.
Qua kinh nghiện thực tế, chúng ta biết rằng chính những
công ty lớn, những công ty thường bị coi là độc quyền trong
một lĩnh vực nào đó, lại là các công ty có mức lương cao và
điều kiện làm việc tốt nhất. Các công ty nhỏ có mức lợi
nhuận thấp và phải đối chọi với sự cạnh tranh khốc liệt
thường là những công ty trả lương thấp nhất. Nhưng tất cả
các chủ doanh nghiệp đều phải trả ít nhất là mức lương đủ
để giữ lao động của mình hoặc để thu hút họ đến làm cho
mình.
* *
*
Tất cả những điều này không nhằm chứng minh rằng
không có cách nào để tăng lương. Tôi chỉ muốn chỉ ra rằng
phương thức dường như dễ dàng nhất – thông qua quyết
định của chính phủ - là phương thức sai và tồi nhất.
Đây có lẽ là thời điểm tốt để chỉ ra rằng, so với những
người không chấp nhận các đề xuất của họ, các nhà cải cách
kinh tế không phải là người có luận điểm hay hơn mà là
người luôn trông đợi những kết quả chóng vánh hơn. Vấn đề
không phải là liệu chúng ta có muốn làm cho mọi người đều
giàu có hết khả năng của họ hay không. Đối với những người
tử tế thì mục tiêu này có thể coi là điều đương nhiên. Vấn đề
quan trọng ở đây là làm thế nào để đạt được điều đó. Và
trong khi tìm cách trả lời câu hỏi này, chúng ta không bao
giờ được phép quên một số sự thật hiển nhiên sau: chúng ta
không thể ban phát một lượng của cải nhiều hơn những gì
chúng ta có thể tạo ra; xét về lâu dài, chúng ta không thể
trả lương cho lao động nhiều hơn những gì họ tạo ra.
Vì vậy, cách tốt nhất để tăng lương là tăng năng suất
biên của lao động. Ta có thể đạt được điều này bằng nhiều
phương pháp: bằng cách tăng tích lũy vốn sản xuất – ví dụ
như tăng lượng máy móc để hỗ trợ người lao động; bằng các
phát minh và cải tiến mới; bằng sự quản lý có hiệu quả của
đội ngũ quản lý; bằng sự chăm chỉ và năng suất của người
lao động; bằng việc giáo dục và đào tạo nghề tốt hơn. Một
người lao động càng tạo ra nhiều thì toàn xã hội càng có
nhiều của cải. Một người lao động càng tạo ra nhiều thì các
dịch vụ của anh ta càng có giá trị đối với ngưởi tiêu dùng;
anh ta vì thế càng trở nên có giá trị đối với chủ doanh nghiệp
và toàn xã hội. Và một người lao động càng có giá trị đối với
chủ của mình thì càng được trả lương cao. Các mức lương
thật phải xuất phát từ sản xuất chứ không phải từ các quyết
định của chính phủ.
Vì vậy, các chính sách của chính phủ không nên áp đặt
những yêu cầu nặng nề đối với các doanh nghiệp mà nên
khuyến khích lợi nhuận, khuyến khích các nhà sản xuất mở
rộng hoạt động của mình, khuyến khích họ đầu tư vào các
trang thiết bị mới và tốt hơn để tăng năng suất của người lao
động. Tóm lại, chính phủ nên khuyến khích việc tích lũy vốn
sản xuất, thay vì ngăn cản quá trình này và tăng lượng việc
làm cũng như mức lương.
Chương XX: Các công đoàn có thực sự làm tăng
lương?
Một trong những ảo tưởng lớn nhất của thời đại chúng ta
là quan niệm cho rằng các công đoàn lao động, về lâu dài, có
thể tăng lương thật một cách đáng kể cho toàn bộ lực lượng
lao động của xã hội. Ảo tưởng này chủ yếu là do chúng ta
không nhận ra rằng về cơ bản, lương được quyết định bởi
năng suất lao động. Chính vì lý do này, lương ở Mỹ đã cao
hơn lương ở Anh và Đức rất nhiều ngay trong những thập kỷ
khi “phong trào lao động” ở hai nước này phát triển hơn
nhiều so với Mỹ.
Mặc dù có vô vàn bằng chứng chứng tỏ rằng năng suất
lao động là yếu tố chính quyết định mức lương, nhưng kết
luận này thường xuyên bị bỏ qua hay thậm chí cười nhạo bởi
các lãnh đạo công đoàn hay các học giả chuyên nhại lại
giọng điệu của những người theo “tư tưởng tự do” hòng
mong được liệt vào cùng hàng ngũ với họ. Song kết luận này
không dựa trên giả định rằng các doanh nghiệp tuyển lao
động đều là những người tốt, hào phóng và luôn muốn làm
điều đúng đắn. Giả định của kết luận này rất khác, rằng mỗi
chủ doanh nghiệp đều luôn muốn tăng lợi nhuận của mình
lên đến mức tối đa. Nếu một lao động sẵn sàng làm việc cho
chủ doanh nghiệp với mức lương thấp hơn giá trị thực của
họ, tại sao chủ doanh nghiệp lại không tận dụng cơ hội? Tại
sao ông ta lại không muốn thu được 1 đôla một tuần từ một
lao động hơn là nhìn một chủ doanh nghiệp khác thu được 2
đôla một tuần từ cùng lao động đó? Cho đến khi nào tình
huống này còn tồn tại, các chủ doanh nghiệp sẽ có xu hướng
trả lương cho người lao động gần mức giá trị kinh tế thực của
họ hơn.
Tất cả những điều ấy không nhằm nói rằng các công
đoàn không có ích lợi hay chức năng chính đáng nào. Chức
năng chủ yếu của họ là cải thiện điều kiện làm việc tại địa
phương và đảm bảo rằng tất cả các thành viên của họ được
trả lương cho những dịch vụ họ cung cấp theo đúng giá trị thị
trường.
Sự cạnh tranh giữa những người lao động để có được việc
làm và giữa các chủ doanh nghiệp để có được lao động
không phải lúc nào cũng diễn ra hoàn hảo. Người lao động và
các chủ doanh nghiệp thường không nắm vững được tình
hình thị trường lao động. Một người lao động có thể không
biết được giá trị thị trường thực của các dịch vụ của mình đối
với một chủ doanh nghiệp và vì thế bị bất lợi khi đàm phán.
Những quyết định sai trong trường hợp này sẽ khiến người
lao động bị thiệt hại nhiều hơn nhiều so với chủ doanh
nghiệp. Nếu chủ doanh nghiệp mắc sai lầm và không thuê
một lao động có thể đem lại cho ông ta lợi nhuận, chủ doanh
nghiệp sẽ chỉ mất đi phần lợi nhuận có thể thu được từ một
lao động; ông ta vẫn có thể thuê hàng trăm hay hàng ngàn
lao động khác. Song nếu một người lao động sai lầm khi từ
chối một việc làm vì nghĩ rằng mình sẽ dễ dàng kiếm được
một việc làm khác với mức lương cao hơn, lao động này sẽ
phải trả giá nặng nề. Toàn bộ kế sinh nhai của anh ta sẽ bị
ảnh hưởng. Không chỉ có thể không kiếm được một công việc
khác với mức lương cao hơn, anh ta thậm chí có thể không
kiếm được ngay một công việc với mức lương tương đương.
Thời gian có thể là mấu chốt của vấn đề, bởi bản thân người
lao động và gia đình của anh ta cần phải có đồ ăn hàng
ngày. Vì vậy, để tránh những rủi ro này, có thể người lao
động sẽ chịu chấp nhận một công việc mà anh ta cho rằng
thấp hơn “giá trị thực” của mình. Tuy nhiên, khi những người
lao động trong một doanh nghiệp đàm phán với chủ doanh
nghiệp với tư cách một tập thể và đưa ra một “mức lương
chuẩn” cho loại công việc của họ, họ có thể khiến cho cán
cân trên bàn đàm phán trở nên cân bằng và giảm thiểu được
những rủi ro có thể xảy ra.
Song kinh nghiệm thực tế cho ta thấy các công đoàn rất
dễ vượt quá các chức năng chính đáng của mình để hành
động một cách thiếu trách nhiệm và thực hiện những chính
sách thiển cận có hại cho xã hội, đặc biệt là khi họ được hỗ
trợ bởi những điều luật về lao động không công bằng, mang
tính áp chế đối với chủ doanh nghiệp. Điều này xảy ra khi họ
tìm cách ấn định cho các thành viên của mình các mức lương
cao hơn giá trị thực trên thị trường. Điều này luôn dẫn đến
thất nghiệp, và thường chỉ được áp dụng thông qua một hình
thức đe dọa hoặc cưỡng ép nào đó.
Một phương cách hay được sử dụng là hạn chế số lượng
thành viên của công đoàn dựa trên một số tiêu chuẩn khác
thay vì dựa trên kỹ năng hay loại ngành nghề. Sự hạn chế
này có thể được thực hiện bằng nhiều cách: đòi hỏi các mức
phí gia nhập rất cao đối với các lao động mới; tùy ý đưa ra
các tiêu chuẩn kết nạp; phân biệt đối xử, trực diện hay trá
hình, dựa trên tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; quy định số
lượng thành viên tối đa; loại bỏ sản phẩm của các lao động
không nằm trong công đoàn hay thậm chí của các công đoàn
có liên kết tại các bang hay thành phố khác, có thể bằng vũ
lực nếu cần thiết.
Đình công là một ví dụ rõ ràng nhất của việc công đoàn
dùng vũ lực hoặc sự đe dọa để giữ mức lương của các thành
viên mình cao hơn giá trị thực trên thị trường. Một cuộc đình
công ôn hòa lại là chuyện khác. Chừng nào biểu tình vẫn
mang tính ôn hòa, nó có thể được coi là một thứ vũ khí chính
đáng của công đoàn, cho dù vũ khí này chỉ nên được sử dụng
như là phương cách cuối cùng trong một số trường hợp đặc
biệt. Nếu các thành viên của công đoàn đều ngừng cung cấp
dịch vụ lao động của mình, họ có thể khiến cho người chủ
doanh nghiệp ngang bướng từ trước đến giờ luôn trả lương
quá thấp cho nhân công phải tỉnh ngộ. Chủ doanh nghiệp
này có thể sẽ nhận ra rằng mình không thể tìm được những
lao động khác có cùng trình độ tay nghề song lại chấp nhận
mức lương mà giờ đây các lao động cũ của ông ta không
chấp nhận nữa. Nhưng khi các lao động sử dụng vũ lực hay
sự đe dọa, khi họ tập trung trước cửa nhà máy để ngăn cản
không cho bất kỳ công nhân nào vào làm việc hoặc ngăn cản
không cho chủ doanh nghiệp tuyển các lao động mới để thế
vào chỗ họ, việc họ làm trở thành sai, bởi sự ngăn cản này
chủ yếu chống lại những người lao động khác chứ không phải
chống lại chủ doanh nghiệp. Các lao động khác là những
người sẵn sàng chấp nhận công việc mà những lao động cũ
đã bỏ, ở mức lương mà lao động cũ không chấp nhận. Điều
này chứng tỏ các cơ hội việc làm khác của những người này
không tốt bằng việc làm mà lao động cũ từ bỏ. Nếu các lao
động cũ thành công trong việc không cho các lao động mới
vào làm thế chỗ họ, trên thực tế họ đã ngăn cản khiến
những người này không chọn được cơ hội việc làm tốt nhất
cho mình, và bắt buộc người ta phải làm một công việc khác
không tốt bằng. Những người đình công trên thực tế đang
đòi hỏi một vị trí ưu tiên cho mình và dùng bạo lực để duy trì
vị trí đó trước những lao động khác.
Nếu sự phân tích trên là đúng, ta sẽ thấy sự căm ghét
đối với những người sẵn sàng làm thế chỗ những người đình
công là vô căn cứ. Sự căm ghét này có thể có lý nếu những
người thế chỗ này là bọn côn đồ chuyên nghiệp chuyên dùng
bạo lực và thực chất là không làm được việc, hoặc nếu họ là
những người được thuê để làm tạm thời với mức lương cao
hơn nhằm khiến mọi người tưởng rằng doanh nghiệp vẫn
hoạt động bình thường cho đến khi các lao động cũ vì sợ mà
phải quay trở lại làm việc với mức lương cũ. Song sự căm
ghét này sẽ rất bất công nếu những người thế chỗ lại là
những lao động bình thường sẵn sàng chấp nhận công việc ở
mức lương cũ; để cho bản thân mình có được công việc tốt
hơn, những người đình công sẵn sàng đẩy những lao động
mới đó vào việc làm tồi tệ hơn. Trên thực tế, vị trí ưu tiên
dành cho những lao động cũ chỉ có thể được giữ vững thông
qua đe dọa hoặc bạo lực.
* *
*
Kinh tế học, khi bị ảnh hưởng bởi quá nhiều xúc cảm, sẽ
tạo ra những lý thuyết mà khi xem xét một cách khách quan
ta sẽ không thể chấp nhận. Một trong những lý thuyết này là
quan điểm cho rằng người lao động nhìn
chung bị “trả lương thấp” hơn so với giá trị của họ. Điều này
cũng giống như ý kiến cho rằng trên thị trường tự do, các
mức giá luôn ở mức quá thấp. Một giả thuyết kỳ khôi song có
sức tồn tại dai dẳng khác cho rằng quyền lợi của tất cả người
lao động ở một quốc gia đều giống nhau, và sự tăng lương
cho các thành viên của một công đoàn nhất định, bằng một
cách bí hiểm nào đó, sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các lao
động khác. Điều này hoàn toàn không đúng; sự thực là nếu
một công đoàn nhất định, thông qua đe dọa và cưỡng ép,
nâng mức lương của các thành viên của mình lên cao hơn giá
trị thực trên thị trường một cách đáng kể, việc làm đó sẽ gây
tổn hại cho tất cả các lao động khác và toàn bộ các thành
viên của xã hội.
Để có thể hiểu được điều này sẽ xảy ra như thế nào,
chúng ta hãy cùng xem xét một cộng đồng được đơn giản
hóa đến mức tối đa. Giả sử rằng trong cộng đồng này chỉ có
khoảng 6 nhóm lao động, với tổng lương và tổng giá trị thị
trường của các sản phẩm của họ cân bằng nhau vào lúc ban
đầu.
Giả sử rằng 6 nhóm lao động này bao gồm (1) nông dân,
(2) nhân viên bán lẻ, (3) công nhân dệt may, (4) thợ lò
than, (5) công nhân xây dựng, và (6) công nhân đường sắt.
Các mức lương của họ, được quyết định bởi thị trường tự do,
không nhất thiết phải bằng nhau; song cho dù chúng là bao
nhiêu, ta hãy cho mỗi nhóm một chỉ số ban đầu là 100. Giả
sử rằng mỗi nhóm đều thành lập một công đoàn trên toàn
quốc và có khả năng thực thi những đòi hỏi của mình nhờ cả
năng suất kinh tế lẫn quyền lực chính trị và vị trí chiến lược
của mình. Giả sử kết quả là các nông dân không tăng được
lương một chút nào, nhân viên bán lẻ được tăng 10% lương,
công nhân dệt may được tăng 20% lương, thợ lò than được
tăng 30% lương, công nhân xây dựng được tăng 40% lương,
và công nhân đường sắt được tăng 50% lương.
Theo các giả định này, mức tăng lương bình quân trong
xã hội sẽ là 25%. Nhằm đơn giản hóa, chúng ta sẽ tiếp tục
giả định rằng mức giá của loại hàng hóa mà mỗi nhóm lao
động tạo ra sẽ tăng tương đương với mức tăng lương của
nhóm đó. (Trong thực tế, sự tăng giá thường không xảy ra
như vậy, đặc biệt là trong một thời gian ngắn, bởi giá lao
động chỉ là một trong các chi phí đầu vào. Song những con
số được giả định này sẽ giúp ta thấy rõ nguyên tắc có liên
quan ở đây.)
Khi đó, chúng ta sẽ có chi phí cho cuộc sống tăng bình
quân là 25%. Những người nông dân, mặc dù vẫn nhận được
cùng một mức lương, sẽ trở nên nghèo hơn nếu ta xét đến
sức mua của họ. Các nhân viên bán lẻ, mặc dù được tăng
10% lương, vẫn nghèo hơn so với trước khi có sự tăng lương
và tăng giá hàng hóa. Ngay cả người công nhân dệt may với
mức tăng lương 20% vẫn bị bất lợi hơn so với lúc ban đầu.
Những người thợ lò than, với mức tăng lương 30%, sẽ tăng
được một chút sức mua của mình. Các công nhân xây dựng
và công nhân đường sắt tất nhiên sẽ là những người được lợi,
song những lợi ích thực này trên thực tế nhỏ hơn nhiều so
với con số bề ngoài.
Những tính toán này chúng ta vẫn dựa trên giả định rằng
sự tăng lương mang tính ép buộc này không dẫn đến thất
nghiệp. Điều này sẽ chỉ xảy ra nếu tăng lương được đi kèm
với tăng lượng tiền và tín dụng ngân hàng ở mức độ tương
đương. Ngay cả trong trường hợp đó, thật khó có thể tăng
lương lớn như vậy mà không gây ra thất nghiệp trong một số
lĩnh vực nhất định, đặc biệt trong những ngành có mức tăng
lương cao nhất. Nếu không có lạm phát tiền tệ ở mức độ
tương đương, sự tăng lương mang tính ép buộc này sẽ gây ra
thất nghiệp trên diện rộng.
Tình trạng thất nghiệp, tính theo tỷ lệ phần trăm, không
nhất thiết phải nặng nề nhất trong những công đoàn có mức
tăng lương lớn nhất, bởi thất nghiệp sẽ bị chuyển dịch và
phân chia giữa các ngành khác nhau tùy thuộc vào mức độ
linh hoạt của nhu cầu đối với từng loại lao động và vào tính
“cơ cấu” của nhu cầu đối với các loại lao động nói chung.
Nhưng sau khi tất cả những sự dịch chuyển và bù trừ này đã
được thực hiện, xét cả các lao động tiếp tục có việc làm và
những người trở nên thất nghiệp, ta sẽ thấy rằng ngay cả
các nhóm lao động có mức tăng lương cao nhất có thể vẫn
trở nên nghèo hơn so với trước. Tất nhiên, thiệt hại về mặt
phúc lợi sẽ lớn hơn nhiều so với những thiệt hại quy ra tiền
hay sức mua, bởi vì những mất mát về mặt tâm lý của
những lao động bị mất việc làm sẽ lớn hơn nhiều so với
những lợi ích về mặt tâm lý của những người có sức mua
tăng lên đôi chút.
Tình hình này không thể được xử lý bằng cách cung cấp
các khoản trợ cấp thất nghiệp. Trước hết, những khoản trợ
cấp này phần lớn đều được lấy trực tiếp hay gián tiếp từ tiền
lương của những người đang làm việc. Vì vậy, nó sẽ làm
giảm lương. Hơn nữa, mức trợ cấp “thỏa đáng”, như chúng ta
đã thấy, tạo ra sự thất nghiệp. Điều này có thể xảy ra thông
qua một số hình thức. Khi những công đoàn mạnh trước đây
đảm nhiệm cả việc cung cấp trợ cấp cho các thành viên bị
thất nghiệp của mình, họ phải suy nghĩ rất kỹ trước khi đưa
ra những yêu cầu về lương nhằm tránh gây ra thất nghiệp
nặng nề. Nhưng khi xã hội có hệ thống trợ cấp thất nghiệp
(khi những người nộp thuế buộc phải trợ cấp cho những
người bị thất nghiệp bởi những đòi hỏi quá đáng về lương),
các công đoàn sẽ không còn phải lo lắng về những đòi hỏi về
lương của mình nữa. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy, mức
trợ cấp “thỏa đáng” sẽ khiến nhiều người không muốn tìm
việc làm nữa hoặc nghĩ rằng trên thực tế họ đang được yêu
cầu làm việc không phải vì toàn bộ mức lương mà chỉ vì
khoản chênh lệch giữa mức lương và mức trợ cấp thất
nghiệp. Thất nghiệp nặng nề sẽ làm giảm lượng hàng hóa
được sản xuất; quốc gia sẽ trở nên nghèo hơn và mỗi người
dân sẽ có ít của cải hơn.
Những người ủng hộ công đoàn đôi khi sẽ đưa ra một giải
pháp khác cho vấn đề mà tôi vừa trình bày. Họ công nhận
rằng những thành viên của các công đoàn mạnh ngày nay
bóc lột những lao động không nằm trong công đoàn cùng
những người khác, song giải pháp cho việc này rất đơn giản:
hãy đưa tất cả lao động vào công đoàn! Song thực tế không
đơn giản như vậy! Trước hết, ngay cả với những sự khuyến
khích chính trị và pháp lý mạnh mẽ (trong một vài trường
hợp, có người thậm chí gọi chúng là sự cưỡng ép) để mọi
người tham gia vào các công đoàn như theo điều luật
Wagner-Taft-Hartley hay các điều luật khác, không phải
ngẫu nhiên mà chỉ khoảng một phần tư số lao động đang
được tuyển dụng của quốc gia tham gia vào công đoàn. Các
điều kiện cần thiết để dẫn đến việc người lao động gia nhập
công đoàn không đơn giản như chúng ta thường nghĩ. Song
ngay cả khi mọi lao động đều gia nhập công đoàn, các công
đoàn, giống như tình trạng hiện nay, không thể có quyền lực
giống nhau. Một số nhóm lao động có những vị trí chiến lược
tốt hơn nhiều so với các nhóm khác bởi họ có số lượng lớn
hơn, hoặc bởi sản phẩm của họ có tầm quan trọng cao hơn,
hoặc bởi các ngành sản xuất khác phụ thuộc nhiều vào
ngành của họ hơn, hoặc bởi họ có nhiều khả năng hơn trong
việc dùng các biện pháp cưỡng ép. Song cứ cho rằng điều
này không xảy ra; bất chấp tất cả những sự vô lý ở đây, ta
hãy giả sử rằng tất cả lao động đều có thể tăng lương của
mình một mức đồng đều thông qua các biện pháp mang tính
ép buộc. Vậy thì về lâu dài, chẳng ai sẽ được lợi so với khi tất
cả các mức lương chưa được tăng.
* *
*
Điều này dẫn ta đến mấu chốt của vấn đề. Chúng ta
thường cho rằng việc tăng lương sẽ làm giảm lợi nhuận của
chủ doanh nghiệp. Điều này tất nhiên có thể xảy ra trong
những khoảng thời gian ngắn hoặc trong những tình huống
đặc biệt. Nếu lương bị ép phải tăng trong một công ty nào đó
và bởi sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác, công ty này
hiện giờ không thể tăng giá sản phẩm của mình, lương đuợc
tăng lên sẽ đến từ lợi nhuận của công ty. Điều này sẽ ít khả
năng xảy ra hơn nếu việc tăng lương xảy ra trong toàn bộ
ngành sản xuất. Nếu ngành sản xuất không phải chịu sự
cạnh tranh của các nhà sản xuất nước ngoài, nó có thể tăng
giá sản phẩm và chuyển gánh nặng của việc tăng lương sang
người tiêu dùng. Bởi phần lớn người tiêu dùng cũng là người
lao động, mức lương thật của họ sẽ bị giảm vì họ phải mua
một sản phẩm nào đó với giá cao hơn. Do giá sản phẩm
tăng, tổng lượng sản phẩm được tiêu thụ của ngành sản xuất
đó có thể bị giảm, dẫn đến việc giảm lợi nhuận của ngành;
số lượng việc làm và tổng lương của ngành cũng có thể sẽ bị
giảm một lượng tương đương.
Tất nhiên, cũng có trường hợp lợi nhuận của một ngành
giảm đi mà không dẫn đến sự giảm tương đương số lượng
việc làm của ngành. Nói một cách khác, đây là trường hợp
việc tăng lương dẫn đến việc tăng tổng lương của ngành.
Toàn bộ chi phí cho việc tăng lương sẽ được lấy ra từ lợi
nhuận của ngành và không làm cho một công ty nào phải
đóng cửa. Điều này tuy hiếm, song có thể xảy ra.
Chúng ta hãy lấy ngành đường sắt làm ví dụ. Trong
ngành này, các chi phí cho việc tăng lương không thể luôn
được chuyển sang cho người tiêu dùng, bởi các quy định của
chính phủ không cho phép.
Các công đoàn trong ngành đường sắt vẫn có thể thực
hiện được đòi hỏi của mình trong một khoảng thời gian ngắn
bằng cách bắt chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư chịu các chi
phí này. Các nhà đầu tư đã từng có một lượng vốn đầu tư lưu
động, song họ đã đầu tư nó vào ngành đường sắt. Vốn đầu
tư của họ đã được biến thành các thanh ray và lòng đường
ray, toa tàu và đầu máy kéo. Vốn đầu tư của họ trước đây ở
dạng lưu động và có thể được chuyển thành hàng ngàn loại
hình khác nhau; giờ đây, nó bị kẹt trong một loại hình nhất
định. Các công đoàn đường sắt có thể bắt họ phải chấp nhận
mức lợi nhuận thấp hơn từ số vốn đầu tư của họ. Các nhà
đầu tư sẽ tiếp tục phải điều hành ngành đường sắt chừng
nào doanh thu của họ vẫn lớn hơn tổng chi phí, ngay cả khi
mức chênh lệch này chỉ là 0,1% số vốn đầu tư của họ.
Song điều này sẽ dẫn đến một hệ quả không thể tránh
khỏi. Nếu lượng vốn họ đã đầu tư vào ngành đường sắt giờ
đây đem lại ít lợi nhuận hơn so với lượng vốn họ đầu tư vào
các ngành khác, các nhà đầu tư sẽ không đầu tư thêm một
cent nào vào ngành đường sắt nữa. Họ có thể vẫn bỏ tiền ra
để thay thế một số thiết bị hư hỏng trong thời gian đầu để
đảm bảo mức lợi nhuận vốn đã rất nhỏ bé của họ, nhưng về
lâu dài, họ sẽ chẳng buồn thay thế những gì trở nên cũ kỹ
hay hư hỏng. Nếu vốn đầu tư trong nước đem lại ít lợi nhuận
hơn so với vốn đầu tư ở nước ngoài, họ sẽ đầu tư ra nước
ngoài. Nếu họ không tìm được nơi đầu tư với mức lợi nhuận
đủ để bù đắp những rủi ro phải chịu, họ sẽ không đầu tư
nữa.
Chính vì vậy, sự chiếm đoạt vốn thông qua chi phí cho
lao động nếu có thực hiện được cũng chỉ mang tính chất nhất
thời. Nó sẽ nhanh chóng kết thúc. Trên thực tế, nó sẽ không
kết thúc như trong ví dụ mang tính minh họa của chúng ta;
nó sẽ kết thúc bằng việc đóng cửa hàng loạt công ty có hiệu
suất thấp, tăng tỷ lệ thất nghiệp và bắt buộc phải điều chỉnh
lại mức lương và lợi nhuận cho đến khi việc tuyển dụng và
sản xuất được phục hồi nhờ khả năng thu được lợi nhuận ở
mức bình thường (hoặc bất thường). Trong khi đó, do sự bóc
lột và chiếm đoạt này, nạn thất nghiệp và đình trệ sản xuất
sẽ khiến mọi người trở nên nghèo hơn. Cho dù thu nhập của
người lao động trong một khoảng thời gian ngắn sẽ chiếm
một tỷ trọng tương đối lớn hơn trong tổng thu nhập quốc
dân, con số tuyệt đối của tổng thu nhập quốc dân sẽ giảm,
khiến cho những khoản thu này của người lao động trở nên
vô nghĩa. Nó cũng có thể khiến cho tổng sức mua thật của
người lao động bị giảm đi.
* *
*
Vì những lý do trên, kết luận chúng ta đưa ra là công
đoàn hoàn toàn không có khả năng tăng mức lương
thật của người lao động nếu xét về lâu dài và tính đến toàn
bộ người lao động trong xã hội, cho dù trong một khoảng
thời gian nhất định, công đoàn có khả năng đem lại một mức
lương quy ra tiền cao hơn cho các thành viên của mình thông
qua việc gây tổn hại cho các chủ doanh nghiệp và đặc biệt là
cho các lao động không thuộc công đoàn.
Quan điểm cho rằng công đoàn có thể làm được điều này
dựa trên một số ảo tưởng sai lầm. Một trong những ảo tưởng
này là nguỵ biện post hoc ergo proter
hoc (tiếng Latin: lập luận sai lầm cho rằng sự kiện A là
nguyên nhân của sự kiện B bởi sự kiện B xảy ra sau sự kiện
A). Những người theo quan điểm này cho rằng lý do của sự
tăng lương mạnh trong nửa sau của thế kỷ 20 (chủ yếu do
sự tăng cường đầu tư và các tiến bộ khoa học kỹ thuật) là
nhờ hoạt động của các công đoàn, bởi đây cũng là thời kỳ
phát triển của các công đoàn. Song sai lầm lớn nhất dẫn đến
ảo tưởng này là việc chỉ xem xét tác động ngắn hạn của việc
tăng lương do đòi hỏi của công đoàn đối với một số lao động
nhất định (những người giữ được việc làm của mình) mà bỏ
qua tác động đối với sự tuyển dụng lao động, hoạt động sản
xuất và chi phí cho đời sống của toàn bộ người lao động
trong xã hội, bao gồm chính những người đòi hỏi sự tăng
lương này.
Ta có thể đi xa hơn kết luận trên và hỏi liệu có phải chính
công đoàn là “thủ phạm” khiến mức lương thật, xét về lâu
dài và tính đến toàn bộ người lao động trong xã hội, không
tăng được đến mức mà nó đã có thể tăng nếu không có
những đòi hỏi tăng lương của công đoàn hay không. Nếu các
đòi hỏi của công đoàn làm giảm năng suất lao động, thì trên
thực tế chúng chính là yếu tố làm giảm mức lương thật.
Khi nói về năng suất lao động, ta phải công nhận rằng
các chính sách của công đoàn trong một số trường hợp có
đem lại những tác động tích cực. Trong một số ngành sản
xuất, các công đoàn đã kiên quyết đưa ra tiêu chuẩn để nâng
cao trình độ kỹ năng và tay nghề của lao động. Trong thời kỳ
đầu, các công đoàn đã làm được nhiều điều để bảo vệ sức
khỏe cho nhân công. Khi nguồn cung cấp lao động trên thị
trường dồi dào, một số chủ doanh nghiệp thường tìm cách
kiếm lợi bằng cách bắt người lao động làm việc nhanh hơn và
nhiều hơn, bất chấp những tác hại đến sức khỏe của họ, bởi
vì các chủ doanh nghiệp có thể thay thế họ bằng những lao
động khác một cách dễ dàng. Đôi khi các chủ doanh nghiệp
đó, với sự ngu ngốc và thiển cận của mình, có thể tự làm
giảm lợi nhuận vì bắt lao động làm việc quá sức. Trong
những trường hợp này, các công đoàn, thông qua các tiêu
chuẩn và đòi hỏi của họ, thường giúp thành viên công đoàn
cải thiện sức khỏe và phúc lợi của mình, đồng thời giúp tăng
được mức lương thật.
Thế nhưng trong những năm gần đây, quyền lực của các
công đoàn ngày càng tăng cao và công chúng thường có thái
độ ủng hộ thái quá đối với công đoàn, dẫn đến việc chấp
nhận và ủng hộ các chính sách và hoạt động không có lợi
cho xã hội. Trong bối cảnh này, nhiều công đoàn đã vượt quá
các mục tiêu chính đáng của họ. Việc giảm tuần làm việc từ
70 giờ xuống còn 60 giờ có lợi đối với sức khỏe và phúc lợi
của người lao động và đối với hoạt động sản xuất xét về lâu
dài. Việc giảm tuần làm việc từ 60 xuống còn 48 giờ có lợi
đối với sức khỏe và các hoạt động giải trí của người lao động.
Việc giảm tuần làm việc từ 48 xuống còn 40 giờ có lợi đối với
các hoạt động giải trí của người lao động, song không nhất
thiết là có lợi đối với hoạt động sản xuất và thu nhập. Giá trị
của việc giảm tuần làm việc xuống còn 40 giờ đối với sức
khỏe và các hoạt động giải trí của người lao động cũng giảm
đi, đồng thời việc giảm tổng sản lượng và thu nhập trở nên
rõ ràng hơn. Song các công đoàn ngày nay vẫn tiếp tục đề
cập đến, và một số công đoàn đã áp dụng, tuần làm việc 35
hoặc 30 giờ, đồng thời không công nhận rằng việc này có thể
giảm sản lượng và thu nhập.
Tuy nhiên các chính sách của công đoàn không chỉ làm
giảm năng suất lao động thông qua việc giảm thời gian làm
việc. Việc giảm thời gian làm việc trên thực tế là một trong
những chính sách gây ít tổn hại nhất của các công đoàn, bởi
các chính sách này có những lợi ích rõ ràng để bù đắp lại cho
các thiệt hại. Nhưng nhiều công đoàn đã kiên quyết thực
hiện việc phân chia lao động một cách cứng nhắc, khiến cho
chi phí sản xuất bị tăng cao và dẫn đến các cuộc tranh chấp
“lãnh thổ” tốn kém và nực cười. Họ phản đối việc trả lương
dựa trên thành phẩm hay năng suất và đòi chủ doanh nghiệp
phải trả một mức lương theo giờ đồng đều cho tất cả các
thành viên của họ, cho dù năng suất lao động của những
người này khác nhau. Họ đòi hỏi việc thăng chức dựa trên
thâm niên thay vì thành tích. Họ cố tình giảm tốc độ làm việc
với lý do trá hình là chống lại việc tăng tốc độ sản xuất quá
mức. Họ phê phán, đòi đuổi việc, thậm chí hành hung những
người làm việc với năng suất cao hơn những người khác. Họ
phản đối sự áp dụng và cải tiến các thiết bị sản xuất. Họ đòi
hỏi rằng nếu bất kỳ thành viên nào của họ bị mất việc làm vì
các thiết bị có năng suất cao và tiết kiệm lao động hơn,
những lao động bị mất việc sẽ được nhận “thu nhập đảm
bảo” mãi mãi. Họ kiên quyết áp dụng các nguyên tắc nhằm
tăng lượng lao động và thời gian để thực hiện một công việc
nào đó. Họ bắt buộc các chủ doanh nghiệp phải thuê những
lao động hoàn toàn không cần thiết bằng cách đe dọa rằng
họ sẽ làm các chủ doanh nghiệp phá sản nếu không tuân
theo.
Phần lớn các chính sách này đều dựa trên quan điểm cho
rằng số lượng công việc để làm là cố định, và rằng “quỹ công
việc” cố định đó, để khỏi sớm bị hết, phải được chia đều cho
càng nhiều lao động và càng kéo dài về thời gian càng tốt.
Đây là một quan điểm hoàn toàn sai. Trên thực tế, không có
giới hạn cho lượng công ăn việc làm. Công việc sẽ tạo ra
thêm công việc. Những gì A sản xuất sẽ tạo ra nhu cầu cho
những gì B sản xuất.
Song bởi quan điểm sai lầm này vẫn tồn tại và các chính
sách của công đoàn lấy nó làm nền tảng, các chính sách sẽ
làm giảm năng suất xuống thấp hơn mức nó có thể đạt được.
Vì vậy, tác động lâu dài của chúng đối với toàn bộ người lao
động sẽ là làm giảm lương thật (tính bằng lượng hàng hóa có
thể mua được) xuống thấp hơn mức nó có thể đạt được.
Nguyên nhân thực sự của việc tăng mạnh mức lương thật
của người lao động trong thế kỷ qua, xin được nhắc lại, là sự
tích lũy vốn sản xuất và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vượt
bậc xảy ra nhờ sự tích lũy vốn đó.
Song quá trình này không tự nhiên xảy ra. Mức tăng
lương trong thập kỷ qua đã ngừng lại bởi các chính sách tồi
của công đoàn và chính phủ. Nếu ta nhìn vào thu nhập trước
thuế bình quân theo tuần tính bằng đôla của các lao động phi
nông nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, đúng là nó đã
tăng từ 107,73 đôla vào năm 1968 lên 189,36 đôla vào
tháng tám năm 1977. Nhưng khi Phòng thống kê lao động
tính đến lạm phát và quy mức thu nhập này về đồng đôla
của năm 1967 để xét cả sự tăng giá của hàng tiêu dùng, họ
nhận thấy rằng thu nhập thật theo tuần đã giảm từ 103,39
đôla vào năm 1968 xuống 103,36 đôla vào tháng tám năm
1977.
Việc mức lương thật ngừng tăng không phải là một hậu
quả thuộc về bản chất của công đoàn; nó là hậu quả của các
chính sách thiển cận của chính phủ và công đoàn. Chúng ta
vẫn có đủ thời gian để thay đổi cả hai nhóm chính sách này.
Chương XXI: “Đủ để mua lại sản phẩm mình tạo ra”
Những người viết về kinh tế học không chuyên luôn đòi
hỏi các mức giá hay mức lương “công bằng”. Những khái
niệm mơ hồ này về sự công bằng trong kinh tế đã có từ thời
Trung cổ. Thay vì các khái niệm đó, các nhà kinh tế học theo
trường phái cổ điển đã đưa ra khái niệm về mức giá hay mức
lương mang tính chức năng. Các mức giá mang tính chức
năng là các mức giá có khả năng tạo ra sản lượng sản xuất
và doanh thu bán hàng lớn nhất. Các mức lương mang tính
chức năng là các mức lương có khả năng tạo ra lượng việc
làm và tổng lương thật lớn nhất.
Khái niệm các mức lương mang tính chức năng đã bị bóp
méo bởi những người theo tư tưởng Mác-xít và những người
theo trường phái sức mua (vốn cũng là những người tin vào
tư tưởng Mác-xít một cách vô thức). Cả hai nhóm cho rằng
vấn đề thực sự không phải là tính “công bằng” của các mức
lương đang được áp dụng (câu hỏi này nên dành cho những
bộ óc đơn sơ hơn) mà là liệu các mức lương này có thực hiện
được các chức năng của chúng không. Họ tuyên bố rằng các
mức lương duy nhất có thể thực hiện được các chức năng của
mình, các mức lương duy nhất có thể giúp nền kinh tế không
sụp đổ, là những mức lương cho phép người lao động “mua
lại sản phẩm do mình tạo ra”. Những người theo tư tưởng
Mácxít và trường phái sức mua cho rằng nguyên nhân của
mọi cuộc khủng hoảng kinh tế trước đây là do các mức lương
trước đó đã không thỏa mãn được điều kiện này. Và khi xem
xét các mức lương tại bất kỳ thời điểm nào, họ đều thấy rằng
chúng chưa đủ cao để cho phép người lao động mua lại sản
phẩm mình tạo ra.
Luận thuyết này đã tỏ ra rất hữu dụng khi được sử dụng
bởi những người lãnh đạo công đoàn. Nản lòng vì không đủ
khả năng khiến cho công chúng quan tâm hay thuyết phục
các chủ doanh nghiệp (“những kẻ xấu xa”, theo định nghĩa
của họ) đối xử với người lao động một cách “công bằng”, họ
đã nắm lấy lý lẽ này, điều đánh trúng vào những động cơ ích
kỷ của công chúng, và đe dọa gây sức ép đòi các chủ doanh
nghiệp phải chấp nhận những đòi hỏi của công đoàn.
Tuy nhiên, làm sao ta có thể biết chính xác khi nào thì
người lao động có đủ tiền để “mua lại các sản phẩm mình tạo
ra” hay khi nào họ đã có nhiều hơn mức đó? Làm sao ta có
thể xác định được khoản tiền đó là bao nhiêu? Bởi những
người ủng hộ luận thuyết này dường như không muốn trả lời
các câu hỏi đó, chúng ta sẽ tự phải tìm câu trả lời.
Một số người ủng hộ lý thuyết này dường như muốn ám
chỉ rằng trong mỗi ngành sản xuất, người lao động nên có đủ
tiền để có thể mua lại chính sản phẩm họ tạo ra. Song chắc
chắn những người này không có ý rằng những người sản
xuất quần áo rẻ tiền cần có đủ tiền để mua quần áo rẻ tiền
trong khi những người làm áo khoác lông chồn phải có đủ
tiền để mua áo khoác lông chồn; hay những người làm trong
nhà máy sản xuất xe Ford nên có đủ tiền để mua xe Ford
trong khi những người làm trong nhà máy sản xuất xe
Cadillac cần có đủ tiền để mua xe Cadillac.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ lại rằng vào những năm 40,
khi phần lớn thành viên của công đoàn trong ngành sản xuất
xe hơi đều nằm trong một phần ba dân số có thu nhập cao
nhất trong xã hội, với mức lương cao hơn 20% so với mức
bình quân của những người làm việc trong các nhà máy và
gần gấp đôi mức bình quân của những người trong ngành
bán lẻ (theo thống kê của chính phủ), các công đoàn trong
ngành sản xuất xe hơi vẫn đòi tăng 30% lương để họ có thể,
theo lời người phát ngôn của họ, “hỗ trợ khả năng đang bị
suy giảm nhanh của chúng tôi trong việc tiêu thụ những sản
phẩm mà chúng tôi có khả năng tạo ra”.
Thế còn những công nhân nhà máy hay những người bán
lẻ bình thường khác thì sao? Nếu, trong tình huống này,
những công nhân sản xuất xe hơi cần tăng 30% lương để
giúp cho nền kinh tế không bị sụp đổ, liệu 30% có đủ cho
những người này không? Hay liệu họ sẽ cần tăng 55 hay
160% lương để mỗi người trong số họ sẽ có được sức mua
tương đương với những công nhân sản xuất xe hơi? Chúng ta
cần nhớ rằng vào thời điểm đó, cũng như ngày nay, giữa các
ngành sản xuất khác nhau luôn có sự khác biệt lớn về mức
lương bình quân. Vào năm 1976, những người làm việc trong
các ngành bán lẻ chỉ được hưởng lương bình quân 113,96
đôla một tuần, trong khi công nhân trong các ngành sản
xuất hưởng lương bình quân 207,60 đôla một tuần và lao
động trong ngành thầu xây dựng hưởng lương 284,93 đôla
một tuần.
(Cứ nhìn vào lịch sử của việc đàm phán lương ngay cả
trong mỗi công đoàn, ta có thể chắc chắn rằng nếu có người
đề xuất việc tăng lương cho lao động trong các ngành khác
để đảm bảo sự bình đẳng về sức mua, các công nhân sản
xuất xe hơi sẽ kiên quyết đòi duy trì sự khác biệt về lương
của họ; bởi, đối với các thành viên công đoàn cũng như mỗi
chúng ta, ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt của những vị
thánh hay những người sẵn sàng xả thân vì lợi ích chung,
việc đòi hỏi sự công bằng về kinh tế thực chất là để ta cũng
được như những người giàu có hơn mình chứ không phải để
giúp những người nghèo hơn ta có được những gì ta có. Song
ở đây, chúng ta sẽ không thảo luận về những nhược điểm
đáng hổ thẹn trong bản tính con người mà chỉ quan tâm đến
tính logic và sự hợp lý của lý thuyết kinh tế cụ thể này.)
* *
*
Lý lẽ cho rằng người lao động nên được nhận đủ tiền để
mua lại những gì họ tạo ra chỉ là một dạng đặc biệt của luận
điểm chung về “sức mua”. Luận điểm này chỉ ra rằng lương
của người lao động là sức mua của họ. Điều này đúng, song
nó cũng đúng với bất kỳ ai khác. Thu nhập của người chủ
hàng tạp hóa, người cho thuê nhà hay chủ doanh nghiệp là
sức mua người đó có để mua những gì người khác bán. Và
một trong những thứ quan trọng nhất mà mọi người có bán
là dịch vụ lao động của họ.
Hơn nữa, tất cả những điều này đều có mặt trái của nó.
Trong một nền kinh tế mang tính trao đổi, thu nhập bằng
tiền của một người sẽ là chi phí của một người khác. Mỗi sự
tăng lên trong mức lương theo giờ, trừ khi và cho đến khi nó
đi kèm với một mức tăng tương đương trong năng suất lao
động theo giờ, sẽ là một sự tăng lên trong chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất tăng lên, khi mức giá bị kiểm soát bởi chính
phủ và không được phép tăng, sẽ làm giảm lợi nhuận của
những nhà sản xuất có hiệu suất thấp và khiến họ phải
ngừng sản xuất. Điều này sẽ thu nhỏ sản xuất và làm tăng
thất nghiệp. Ngay cả khi giá sản phẩm có thể tăng, mức giá
cao hơn sẽ khiến lượng người mua giảm đi và dẫn đến việc
thu nhỏ thị trường và thất nghiệp. Nếu việc áp dụng mức
tăng lương 30% khiến giá sản phẩm tăng lên 30%, người lao
động sẽ không mua được nhiều sản phẩm đó hơn so với
trước đây, và chu kỳ này lại phải tiếp tục.
Nhiều người chắc chắn sẽ không đồng ý rằng mức tăng
lương 30% có thể tạo ra một sự tăng giá hàng hóa tương tự.
Đúng là kết quả này chỉ có thể xảy ra về lâu dài với sự cho
phép của chính sách tiền tệ và tín dụng. Nếu lượng tiền và
tín dụng kém linh hoạt đến mức các mức giá không tăng khi
mức lương tăng (và nếu ta giả sử rằng mức lương cao hơn là
không hợp lý nếu so với năng suất lao động hiện tại quy ra
đôla), tác động chính của việc tăng lương sẽ là thất nghiệp.
Trong trường hợp đó, điều có thể xảy ra là tổng lương,
tính theo đôla hay theo sức mua thật, sẽ thấp hơn trước, bởi
việc giảm lượng việc làm (do chính sách của công đoàn chứ
không phải các tiến bộ khoa học kỹ thuật) chắc chắn sẽ dẫn
đến việc giảm lượng hàng hóa được sản xuất ra cho người
tiêu dùng. Việc có được một tỷ trọng tương đối lớn hơn trong
tổng sản phẩm quốc dân sẽ không đủ để giúp người lao động
bù lại sự giảm xuống về con số tuyệt đối của tổng sản phẩm.
Paul H. Douglas ở Mỹ, thông qua việc phân tích một lượng dữ
liệu lớn, và A. C. Pigou ở Anh, với các phương pháp hầu như
hoàn toàn mang tính diễn dịch, đã cùng đưa ra một kết luận
giống nhau rằng độ co giản của cầu đối với lao động là
khoảng giữa 3 và 4. Nói một cách đơn giản, “khi mức lương
5
thật giảm 1%, tổng cầu lao động sẽ tăng hơn 3%” . Hoặc
là, khi nhìn vào vấn đề bằng một cách khác, “nếu lương bị
đẩy lên cao hơn mức năng suất biên, cầu lao động sẽ giảm
6
một lượng lớn gấp 3 - 4 lần so với mức tăng lương” , và tổng
thu nhập của người lao động cũng sẽ giảm một lượng tương
đương.
Ngay cả nếu những con số này chỉ nói lên mức độ co giãn
của cầu lao động trong một khoảng thời gian nhất định trong
quá khứ chứ không có khả năng dự đoán tương lại, chúng
cũng đáng để chúng ta xem xét một cách nghiêm túc.
* *
*
Hãy giả sử rằng cùng lúc hay sau khi mức lương được
tăng, lượng tiền và tín dụng được tăng đủ để không gây ra
thất nghiệp nghiêm trọng. Nếu ta giả sử rằng quan hệ giữa
giá hàng hóa và lương trước đây là một tương quan “bình
thường” và đã tồn tại trong một thời gian dài, việc tăng mức
lương, ví dụ là 30%, rất có thể sẽ làm tăng giá hàng hóa với
một tỷ lệ % tương đương.
Nhiều người cho rằng lượng tăng của giá sẽ thấp hơn
nhiều so với lượng tăng của lương, bởi hai nguỵ biện chính
sau. Nguỵ biện thứ nhất là: họ chỉ xem xét các chi phí lao
động trực tiếp của một công ty hay một ngành sản xuất và
cho rằng các chi phí này đã bao gồm tất cả chi phí về lao
động có liên quan. Song ở đây, việc xem một bộ phận là
tổng thể, là sai lầm căn bản. Mỗi “ngành sản xuất” không chỉ
đại diện cho một phần trong quy trình sản xuất theo “chiều
ngang”; nó cũng đại diện cho một phần trong quy trình sản
xuất theo “chiều dọc”. Vì vậy, chi phí trực tiếp cho lao động
trong các nhà máy sản xuất xe hơi có thể ít hơn một phần ba
tổng chi phí, và điều này sẽ khiến những người không xem
xét kỹ vấn đề kết luận rằng mức tăng lương 30% sẽ chỉ dẫn
đến mức tăng 10% hoặc ít hơn trong giá xe hơi. Song điều
này có nghĩa là ta đã bỏ qua những chi phí lao động gián tiếp
trong nguyên vật liệu thô và các bộ phận đi mua, trong các
chi phí vận tải, trong các nhà máy và công cụ mới, hay trong
hoạt động tăng giá của những người bán hàng.
Các con số dự đoán của chính phủ cho thấy rằng trong
khoảng thời gian 15 năm từ 1929 đến 1943, tổng lương của
người dân Mỹ chiếm 69% tổng thu nhập quốc dân. Trong
khoảng thời gian 5 năm từ 1956 đến 1960, tổng lương bình
quân cũng ở mức 69% tổng thu nhập quốc dân. Trong
khoảng thời gian 5 năm từ 1972 đến 1976, tổng lương bình
quân chiếm 66% tổng thu nhập quốc dân, và khi thêm vào
các khoản phụ cấp, tổng số tiền người lao động nhận được
chiếm khoảng 76% tổng thu nhập quốc dân. Số tiền lương
này tất nhiên phải được lấy từ sản phẩm quốc dân. Tuy để có
được con số áng chừng thu nhập của “người lao động”, ta sẽ
phải cộng thêm và trừ đi nhiều khoản từ những số liệu đang
có, nhưng dựa trên cơ sở này, ta có thể cho rằng chi phí lao
động sẽ không nhỏ hơn hai phần ba và có thể cao hơn ba
phần tư tổng chi phí sản xuất (tùy theo cách chúng ta định
nghĩa lao động). Nếu ta lấy con số thấp hơn và giả định rằng
mức lợi nhuận biên tính ra đôla không thay đổi, điều này
nghĩa là mức tăng lương 30% sẽ khiến cho giá sản phẩm
tăng gần 20%.
Song sự thay đổi này sẽ có nghĩa là lợi nhuận biên tính ra
đôla, cũng chính là thu nhập của những nhà đầu tư, người
quản lý và những người làm việc cho bản thân, sẽ chỉ còn
84% lượng sức mua trước đây của nó. Tác động về lâu dài
của điều này sẽ là sự giảm đầu tư và hình thành doanh
nghiệp mới so với bình thường, và những người làm việc cho
bản thân có mức thu nhập thấp sẽ chuyển thành những lao
động hưởng lương có mức lương cao. Hiện tượng này sẽ tiếp
diễn cho tới khi mối tương quan trước đây được phục hồi.
Điều này không có nghĩa là các lao động hưởng lương sẽ
không có lợi ích tương đối. Họ sẽ thu được lợi ích tương đối,
và những thành phần khác trong dân chúng sẽ bị thiệt hại
tương đối, trong thời gian chuyển tiếp. Song lợi ích tương đối
này thường biến mất khi xét theo con số tuyệt đối, bởi sự
thay đổi trong mối tương quan giữa lương và giá mà chúng
ta đang xem xét ở đây hầu như luôn dẫn đến sự thất nghiệp
và tình trạng lệch lạc, gián đoạn hay suy giảm của sản xuất.
Vì vậy, trong thời kỳ chuyển tiếp và điều chỉnh đến mức cân
bằng mới, thu nhập của người lao động có thể chiếm một tỷ
trọng lớn hơn trong một tổng sản phẩm nhỏ hơn. Song khi
xét về con số tuyệt đối, nó có thể không lớn hơn, thậm chí
còn nhỏ hơn so với trước đây (khi tổng thu nhập của lao
động chiếm một tỷ trọng nhỏ hơn trong một tổng sản phẩm
lớn hơn).
* *
*
Điều này dẫn chúng ta đến ý nghĩa và tác động tổng
quan của trạng thái cân bằng kinh tế. Các mức lương và giá
cân bằng là các mức lương và giá khiến cho cung và cầu
ngang bằng nhau. Nếu vì sự can thiệp của chính phủ hay sự
cưỡng ép của cá nhân mà mức giá bị nâng lên cao hơn mức
cân bằng, cầu sẽ giảm và vì thế sản xuất sẽ giảm. Nếu giá bị
đẩy xuống thấp hơn mức cân bằng, việc giảm hay không còn
lợi nhuận sẽ làm giảm cung và giảm các hoạt động sản xuất
mới. Chính vì vậy, bất kỳ khi nào giá bị nâng lên trên hay
đẩy xuống dưới mức cân bằng của nó (thị trường tự do luôn
có xu hướng đưa giá đến mức cân bằng này), lượng việc làm
và quy mô sản xuất sẽ bị giảm thấp hơn so với mức bình
thường.
Chúng ta hãy cùng quay lại quan điểm người lao động
phải có “đủ tiền để mua lại sản phẩm mình tạo ra”. Một điều
hiển nhiên là sản phẩm quốc dân được tạo ra và tiêu dùng
không chỉ bởi lực lượng sản xuất. Nó được tiêu dùng bởi tất
cả mọi người – các nhân viên văn phòng, những người có
chuyên môn, nông dân, chủ doanh nghiệp lớn hay nhỏ, nhà
đầu tư, chủ cửa hiệu tạp hóa, người giết mổ gia súc, chủ sở
hữu các hiệu thuốc tây và cây xăng, v.v…, nói tóm lại là bởi
tất cả những ai góp phần tạo ra sản phẩm đó.
Còn về các mức giá, lương và lợi nhuận có chức năng
quyết định việc phân phối sản phẩm đó, mức giá tối ưu
không phải là mức giá cao nhất mà là mức giá dẫn đến sản
lượng và doanh số lớn nhất. Mức lương tối ưu cho người lao
động không phải là mức lương cao nhất mà là mức lương cho
phép các hoạt động sản xuất và lượng việc làm đạt đến mức
tối ưu và tạo ra tổng lương lớn nhất. Mức lợi nhuận tối ưu, từ
phương diện của cả ngành sản xuất và người lao động,
không phải là mức lợi nhuận thấp nhất mà là mức lợi nhuận
sẽ khiến nhiều người trở thành chủ doanh nghiệp và cung
cấp nhiều việc làm hơn so với trước đây.
Nếu chúng ta cố gắng điều hành nền kinh tế vì lợi ích của
một nhóm lợi ích hay một tầng lớp nào đó, chúng ta sẽ sẽ
gây thiệt hại và thương tổn cho toàn xã hội, bao gồm cả
những người mà chúng ta đang cố gắng bảo vệ và phục vụ.
Chúng ta phải điều hành nền kinh tế vì tất cả mọi người.
Chương XXII: Chức năng của lợi nhuận
Việc nhiều người ngày hôm nay vẫn cảm thấy khó chịu
với từ lợi nhuận chứng tỏ chúng ta vẫn còn biết rất ít về chức
năng sống còn của lợi nhuận trong nền kinh tế. Để hiểu rõ
hơn về chủ đề này, chúng ta sẽ nói lại trong chương này một
số điều đã được đề cập đến trong chương XV về hệ thống
giá. Tuy nhiên, vấn đề sẽ được xem xét từ một góc độ khác.
Trong toàn bộ nền kinh tế của chúng ta, lợi nhuận
thường không chiếm tỷ suất lớn. Lợi nhuận ròng bình quân
của các doanh nghiệp trong khoảng thời gian15 năm, từ
1929 đến 1943 chiếm không đầy 5% tổng thu nhập quốc
dân. Mức lợi nhuận sau thuế bình quân của doanh nghiệp
trong vòng 5 năm, từ 1956 đến 1960 chỉ đạt chưa đến 6%
tổng thu nhập quốc dân. Mức lợi nhuận sau thuế bình quân
của doanh nghiệp trong vòng 5 năm, từ 1971 đến 1975 cũng
chỉ ở mức dưới 6% tổng thu nhập quốc dân (con số này có
thể cao hơn thực tế bởi việc tính toán chưa xem xét hết được
tác động của lạm phát). Vậy nhưng lợi nhuận cũng là loại thu
nhập bị nhiều người phê phán nhất. Không phải vô cớ mà
trong tiếng Anh có từ profiteer (xuất phát từ profit: lợi
nhuận) được dùng để phỉ báng những người thu lợi nhuận
quá mức, song lại không có những từ tương tự, ví dụ như
wageer hoặc losseer, để miêu tả những người nhận lương
quá nhiều (wage: lương) hoặc những người thua lỗ quá
nhiều (loss: sự thua lỗ). Nhưng lợi nhuận của một người chủ
hiệu cắt tóc tính bình quân không chỉ thấp hơn so với lương
của một minh tinh màn bạc hay giám đốc điều hành của một
tổng công ty thép mà thậm chí còn thấp hơn mức lương bình
quân của một lao động có tay nghề.
Suy nghĩ của chúng ta về vấn đề này bị ảnh hưởng bởi
nhiều thông tin và quan niệm không chính xác. Người ta nhìn
vào tổng lợi nhuận của công ty General Motors, doanh
nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực công nghiệp trên thế giới, như
thể nó là con số đại diện chung cho mức lợi nhuận của các
doanh nghiệp chứ không phải như là một trường hợp đặc
biệt. Rất ít người biết được tỷ lệ đóng cửa của các doanh
nghiệp kinh doanh. Họ không biết rằng (theo trích dẫn từ
nghiên cứu của TNEC) “nếu điều kiện kinh doanh bình quân
của 50 năm qua được duy trì, cứ trong 10 cửa hàng tạp hóa
thì khoảng 7 cửa hàng sẽ tồn tại đến năm thứ hai và chỉ 4
cửa hàng vẫn còn mở cửa sau 4 năm.” Họ không biết rằng,
theo thống kê thuế thu nhập, số doanh nghiệp thua lỗ luôn
lớn hơn số doanh nghiệp có lợi nhuận trong tất cả các năm
từ 1930 đến 1938.
Tính bình quân thì lợi nhuận là bao nhiêu?
Câu hỏi này thường được trả lời thông qua các số liệu mà
tôi đưa ra ở đầu chương này - rằng lợi nhuận bình quân của
doanh nghiệp thường ở mức dưới 6% tổng thu nhập quốc
dân, hay bằng cách chỉ ra rằng lợi nhuận bình quân sau khi
đã trừ thuế thu nhập của tất cả các doanh nghiệp sản xuất là
dưới 5 cent trên mỗi đôla doanh thu. (Trong vòng 5 năm từ
1971 đến 1975, con số này là 4,6 cent.) Thế nhưng những số
liệu chính thức này, dù thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận
mà công chúng thường mường tượng, lại chỉ mới áp dụng
cho số liệu của các doanh nghiệp và được tính toán theo các
phương pháp kế toán thông thường. Chưa ai đưa ra được
một số liệu đáng tin cậy có tính đến mọi loại hoạt động kinh
tế, trong cũng như ngoài doanh nghiệp, trong một khoảng
thời gian đủ dài bao gồm cả những năm kinh doanh tốt cũng
như những năm kinh doanh tồi. Một số nhà kinh tế học nổi
tiếng cho rằng có thể sẽ không còn lợi nhuận ròng, hay thậm
chí là sẽ có lỗ, nếu xét trong một khoảng thời gian dài, sau
khi đã tính hết mọi khoản lỗ và trừ đi một khoản lợi tức tối
thiểu “phi rủi ro” trên số vốn đầu tư và một mức lương “hợp
lý” cho công sức của những người tự điều hành công việc
kinh doanh của mình. Điều này hoàn toàn không phải vì các
chủ doanh nghiệp (những người kinh doanh vì bản thân
mình) cố tình trở thành những nhà hảo tâm, mà là vì họ, với
sự tự tin hay lạc quan thái quá của mình, thường theo đuổi
các công việc kinh doanh không hoặc không có khả năng
7
thành công .
Trong bất kỳ trường hợp nào, điều rõ ràng là một cá
nhân đổ vốn vào kinh doanh sẽ có thể bị mất không chỉ phần
lợi tức của vốn đầu tư mà toàn bộ số vốn đó. Trong quá khứ,
sự cám dỗ của mức lợi nhuận cao tại một số doanh nghiệp
hay ngành sản xuất đặc biệt đã khiến người đó quyết định
chấp nhận rủi ro này. Song nếu mức lợi nhuận tối đa không
vượt quá 10% hoặc một con số tương tự, trong khi khả năng
mất toàn bộ vốn đầu tư vẫn tồn tại, điều này sẽ có tác động
như thế nào đối với động cơ thu lợi nhuận, hoạt động tuyển
dụng lao động và sự sản xuất? Thuế siêu thu nhập trong thời
kỳ Thế Chiến II đã cho ta thấy hiệu suất kinh doanh có thể
giảm như thế nào khi mức lợi nhuận bị hạn chế, ngay cả
trong một khoảng thời gian ngắn.
Thế nhưng các chính sách của chính phủ ngày nay ở hầu
như khắp nơi trên thế giới đều được đưa ra dựa trên giả định
rằng cho dù họ có làm gì để ngăn cản sản xuất thì nó vẫn cứ
tiếp tục một cách tự động. Ngày nay, một trong những mối
đe dọa lớn nhất đối với sản xuất trên thế giới vẫn là các
chính sách định giá của chính phủ. Các chính sách này không
chỉ triệt tiêu động cơ của việc sản xuất nhiều mặt hàng,
khiến cho nhiều loại hàng hóa không được sản xuất nữa, mà
về lâu dài chúng còn gây ra sự mất cân bằng giữa sản xuất
và nhu cầu của người tiêu dùng. Khi nền kinh tế được tự do,
nhu cầu của người tiêu dùng sẽ khiến cho một số ngành sản
xuất có được cái mà chính phủ gọi là mức lợi nhuận “thái
quá”, “bất hợp lý”, thậm chí là “bẩn thỉu”. Song chính điều
này sẽ khiến mọi công ty trong ngành đó mở rộng sản xuất
đến mức cao nhất, tái đầu tư lợi nhuận của nó vào các trang
thiết bị và tạo ra nhiều việc làm hơn; đồng thời, nó cũng sẽ
thu hút nhiều nhà đầu tư và nhà sản xuất mới từ mọi nơi,
cho tới khi sản xuất của ngành đó đủ để đáp ứng cho nhu
cầu của người tiêu dùng và mức lợi nhuận của ngành này sẽ
quay trở lại (hay giảm xuống thấp hơn) mức lợi nhuận bình
quân.
Trong nền kinh tế tự do, nơi các mức lương, chi phí và
giá cả được quyết định bởi hoạt động tự do của thị trường
cạnh tranh, khả năng thu lợi nhuận sẽ quyết định loại hàng
hóa gì sẽ được sản xuất với số lượng bao nhiêu, cũng như là
loại hàng hóa nào sẽ không được sản xuất. Nếu việc sản xuất
một loại hàng hóa nào đó không mang lại lợi nhuận, đó là
dấu hiệu chứng tỏ rằng lao động và vốn sản xuất được dùng
để sản xuất ra nó đã bị đầu tư sai chỗ; giá trị của các nguồn
lực được dùng để tạo ra loại hàng hóa đó lớn hơn giá trị của
bản thân nó.
Nói tóm lại, chức năng của lợi nhuận là hướng dẫn các
yếu tố sản xuất để quyết định mức sản lượng tương đối của
hàng ngàn loại hàng hóa khác nhau tùy theo nhu cầu. Không
nhà quản lý kinh tế nào, cho dù có khôn ngoan đến đâu, có
thể tùy ý mình giải quyết được bài toán khó đó. Các mức giá
và lợi nhuận tự do sẽ tăng tối đa sản xuất và giải quyết
những khan hiếm nhanh hơn bất kỳ một hệ thống nào khác.
Các mức giá bị cố định và mức lợi nhuận bị hạn chế một cách
tùy tiện sẽ kéo dài tình trạng khan hiếm, giảm sản xuất và
số lượng việc làm.
Cuối cùng, lợi nhuận cũng có chức năng liên tục tạo sức
ép lên những người đứng đầu mỗi doanh nghiệp mang tính
cạnh tranh để họ luôn tìm cách tiết kiệm và nâng cao hiệu
suất kinh tế, cho dù chúng đã ở mức độ đến thế nào. Trong
thời điểm kinh doanh phát đạt, người đó sẽ làm điều này để
tăng thêm lợi nhuận. Trong thời điểm kinh doanh bình
thường, người đó sẽ làm điều này để vượt lên trước các đối
thủ cạnh tranh khác. Trong thời điểm kinh doanh tồi tệ,
người đó sẽ làm điều này có thể chỉ để tồn tại. Lợi nhuận
không chỉ có thể giảm về không (0); nó có thể nhanh chóng
chuyển thành lỗ, và một người sẽ cố gắng hơn nhiều để
thoát khỏi cảnh thua lỗ so với khi người đó chỉ đơn thuần
muốn cải thiện tình hình kinh doanh của mình.
Không giống như mọi người thường nghĩ, ta thu được lợi
nhuận không phải nhờ tăng giá mà bằng cách tiết kiệm và
nâng cao hiệu suất kinh tế để giảm chi phí sản xuất. Rất
hiếm khi (và trừ khi có độc quyền - điều này rất hiếm khi
xảy ra trong một thời gian dài) mọi công ty trong một ngành
đều có lợi nhuận. Mức giá các công ty đưa ra cho cùng một
loại hàng hóa hay dịch vụ phải giống nhau; những người
muốn đưa ra mức giá cao hơn sẽ không có khách hàng. Vì
vậy, mức lợi nhuận lớn nhất sẽ thuộc về những công ty có
chi phí sản xuất thấp nhất. Các công ty này sẽ mở rộng và
khiến công ty nào có hiệu suất thấp phải thu nhỏ. Nhờ vậy,
người tiêu dùng và công chúng được hưởng lợi.
Nói tóm lại, lợi nhuận - kết quả của tương quan giữa giá
và chi phí - cho ta biết nên sản xuất loại hàng hóa nào và
bằng cách thức nào thì kinh tế nhất. Trong bất kỳ một hệ
thống kinh tế nào ta có thể tưởng tượng ra, chủ nghĩa tư bản
hay chủ nghĩa xã hội, các câu hỏi này phải được trả lời. Và
đối với phần lớn các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ra, các câu trả lời do lợi nhuận và lỗ trong một doanh nghiệp
tự do cạnh tranh đưa ra luôn đáng tin cậy hơn nhiều so với
những câu trả lời có được thông qua bất kỳ một phương
pháp nào khác.
Trong chương này, tôi đã nhấn mạnh việc giảm chi phí
sản xuất bởi đây là một chức năng của lời lỗ ít được chú ý
đến nhất. Tất nhiên, lợi nhuận lớn hơn sẽ không chỉ thuộc về
người làm ra một cái bẫy chuột tốt hơn so với những người
khác mà cũng thuộc về cả người sản xuất ra một cái bẫy
chuột có tính hiệu quả hơn. Thế nhưng trong hai loại chức
năng này thì chức năng của lợi nhuận trong việc khuyến
khích nâng cao chất lượng và cải tiến sản phẩm là điều mọi
người dễ dàng nhận ra.
Chương XXIII: Ảo ảnh về lạm phát
Tôi đã một số lần phải nhắc nhở độc giả rằng một chính
sách nhất định sẽ dẫn đến một kết quả nào đó “nếu không
có lạm phát”. Trong các chương về công trình công cộng và
tín dụng, tôi đã hẹn sẽ nghiên cứu các tác động phức tạp của
lạm phát ở phần sau. Thế nhưng tiền và chính sách tiền tệ là
một bộ phận rất mật thiết và hữu cơ trong mọi quy trình
kinh tế, đến mức sự tách biệt này, cho dù chỉ để giúp chúng
ta phân tích được vấn đề rõ hơn, không phải là chuyện dễ
làm. Vì vậy, trong các chương về ảnh hưởng của các chính
sách khác nhau về lương của chính phủ và công đoàn đối với
tuyển dụng lao động, lợi nhuận và sản xuất, chúng ta đã
phải xem xét ngay một số tác động của các chính sách tiền
tệ khác nhau.
Trước khi xem xét hậu quả của lạm phát trong các
trường hợp cụ thể, ta sẽ cùng nghiên cứu tác động chung
của nó. Thế nhưng, trước hết, chúng ta nên hỏi tại sao lạm
phát lại thường xuyên được sử dụng, tại sao từ xưa đến nay
nó luôn có một sự cám dỗ lạ kỳ, tại sao hết quốc gia này đến
quốc gia khác đã theo tiếng gọi của lạm phát để đi vào
khủng hoảng kinh tế nặng nề.
Sai lầm dễ thấy nhất, đồng thời là sai lầm cổ điển và
bướng bỉnh nhất, đã tạo nên sự hấp dẫn của lạm phát là sự
nhầm lẫn giữa “tiền” và sự giàu có. Adam Smith đã viết cách
đây hơn hai thế kỷ: “Quan niệm phổ biến cho rằng sự giàu
có đồng nghĩa với tiền, hoặc vàng và bạc, xuất phát tự chức
năng kép của tiền tệ. Nó vừa là một công cụ mua bán, vừa là
thước đo giá trị… Trở nên giàu có nghĩa là có tiền; tóm lại,
nói một cách đơn giản, trong ngôn ngữ đại chúng, sự giàu có
đồng nghĩa với tiền bạc trên mọi phương diện.”
Tất nhiên, sự giàu có thật là những gì được sản xuất ra
và tiêu thụ: thực phẩm chúng ta ăn, quần áo chúng ta mặc,
nhà cửa chúng ta sống. Nó là đường sắt, đường bộ và xe hơi;
tàu thủy, máy bay và nhà máy; trường học, nhà thờ và rạp
hát; đàn piano, tranh và sách vở. Song sự không phân biệt
rõ ràng về ngôn ngữ giữa sự giàu có và tiền bạc phổ biến
đến mức ngay cả những người đôi khi nhận ra sự nhầm lẫn
này vẫn tiếp tục mắc phải nó trong tư duy của họ. Mỗi người
đều thấy rằng nếu có nhiều tiền hơn, mình sẽ có thể mua
được nhiều thứ hơn từ những người khác. Nếu có nhiều tiền
gấp đôi, người đó sẽ có thể mua gấp đôi số hàng hóa mình
muốn. Nếu có nhiều tiền gấp ba lần, người đó sẽ “đáng giá”
gấp ba lần. Vì vậy, nhiều người đương nhiên cho rằng nếu
chính phủ phát hành thêm tiền tệ và phân phát cho mọi
người, tất cả chúng ta sẽ trở nên giàu có hơn.
Đây là cách suy nghĩ của những người ủng hộ việc tăng
lượng tiền tệ và tín dụng một cách “ngây thơ”. Bên cạnh
nhóm này, có một nhóm khác với lý luận sắc sảo hơn. Họ
thấy rằng nếu mọi việc đơn giản như thế, chính phủ sẽ có
thể giải quyết mọi vấn đề của chúng ta đơn giản bằng cách
phát hành thêm tiền tệ. Họ cảm thấy có một cái bẫy ở đâu
đó, vì vậy, họ sẽ hạn chế số lượng tiền tệ mà họ muốn yêu
cầu chính phủ phát hành thêm. Họ sẽ chỉ yêu cầu chính phủ
in vừa đủ để bù đắp vào một “khoản thiếu hụt” hay “khe hở”
nào đó.
Họ cho rằng sức mua luôn ở tình trạng thiếu hụt bởi vì,
do một lý do nào đó, các ngành sản xuất không cung cấp đủ
tiền cho các nhà sản xuất để họ, với tư cách là người tiêu
dùng, có thể mua lại những gì đã được sản xuất ra. Có một
chỗ “rò rỉ” nào đó mà họ không biết. Một nhóm đã “chứng
minh” điều này bằng các phương trình. Ở một vế của các
phương trình, họ đếm mỗi thứ một lần. Ở vế kia của phương
trình, họ cứ như thể vô tình đếm cùng một thứ một vài lần.
Điều này tạo ra một sự chênh lệch lớn giữa cái mà họ gọi là
“các khoản thanh toán A” và cái được gọi là “các khoản
thanh toán A + B”. Vậy là họ có nguyên cớ để mặc lên người
những bộ đồng phục xanh và bắt đầu một phong trào đòi
chính phủ phát hành thêm tiền hoặc “tín dụng” để bù vào
các khoản thanh toán B đang bị thiếu hụt.
Chúng ta có thể cười nhạo những người tin vào “tín dụng
xã hội” một cách ngây ngô, song có rất nhiều trường phái
khác ủng hộ việc gây lạm phát với lý luận sắc sảo hơn và các
kế hoạch mang tính “khoa học” nhằm phát hành vừa đủ
lượng tiền tệ và tín dụng để lấp đầy một sự thiếu hụt định kỳ
hay dài hạn nào đó mà họ tính ra theo cách của mình.
* *
*
Những người khôn ngoan hơn trong số họ nhận ra rằng
bất kỳ sự tăng đáng kể nào trong lượng tiền tệ sẽ làm giảm
sức mua của mỗi đơn vị tiền tệ - nói theo cách khác, nó sẽ
dẫn đến việc tăng giá hàng hóa. Song điều này không khiến
họ bận tâm; nó thực ra là mục đích của họ, là lý do vì sao họ
muốn có lạm phát. Một số người trong bọn họ cho rằng điều
này sẽ giúp cải thiện tương quan giữa những người nghèo đi
vay và những người giàu cho vay theo hướng có lợi cho
người nghèo. Một số người khác cho rằng nó sẽ kích thích
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Một số người khác lại cho
rằng đây là một phương cách hữu hiệu để thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng, để “kích thích các ngành sản xuất”, và
8
để giúp “mọi lao động đều có việc làm” .
Có rất nhiều lý thuyết khác nhau về tác động của việc
tăng lượng tiền tệ (bao gồm cả tín dụng ngân hàng) đối với
mức giá. Đầu tiên, như chúng ta vừa thấy, ta có những người
cho rằng lượng tiền tệ có thể được tăng lên với bất kỳ mức
nào mà không ảnh hưởng gì đến mức giá. Họ chỉ coi việc
tăng lượng tiền như là một cách tăng “sức mua” của mọi
người, nghĩa là giúp mọi người mua được nhiều hàng hóa
hơn trước đây. Hoặc họ không chịu hiểu rằng toàn xã hội sẽ
không thể tăng gấp đôi lượng tiêu dùng trừ khi lượng hàng
hóa được sản xuất tăng gấp đôi, hoặc họ tưởng rằng điều
duy nhất khiến sản xuất không thể tăng vô tận là sự thiết
hụt nhu cầu tiền tệ chứ không phải không phải là sự thiếu
hụt những yếu tố khác như nhân công, thời gian hay năng
lực sản xuất. Họ cho rằng nếu mọi người muốn mua hàng
hóa và có đủ tiền để mua chúng, hàng hóa đó sẽ được sản
xuất ngay lập tức.
Mặt khác, ta có những người, trong đó có cả một số nhà
kinh tế học nổi tiếng, tin vào một lý thuyết cứng nhắc về ảnh
hưởng của nguồn cung tiền tệ đối với giá cả. Theo cách giải
thích của họ, tất cả tiền tệ trong một quốc gia sẽ được dùng
để mua toàn bộ lượng hàng hóa. Vì thế, giá trị của tổng
lượng tiền tệ nhân với “tốc độ lưu chuyển tiền tệ” phải luôn
cân bằng với giá trị của tổng lượng hàng hóa được mua. Vì
vậy, nếu tốc độ lưu chuyển tiền tệ không thay đổi, giá trị của
mỗi đơn vị tiền tệ sẽ thay đổi hệt như lượng tiền được đem
vào lưu chuyển nhưng theo chiều ngược lại. Nếu ta tăng gấp
đôi lượng tiền tệ và tín dụng ngân hàng, ta sẽ tăng gấp đôi
“mức giá”; nếu tăng gấp ba lượng tiền tệ và tín dụng, mức
giá cũng sẽ tăng lên gấp ba. Nói tóm lại, nếu ta tăng lượng
tiền lên n lần, ta cũng phải tăng giá hàng hóa lên n lần.
Tại đây, ta không có đủ chỗ để chỉ ra tất cả những nguỵ
9
biện trong lời giải thích có vẻ hợp lý này . Thay vì làm việc
đó, chúng ta sẽ xem xét vì sao việc tăng lượng tiền dẫn đến
việc tăng giá, và điều đó xảy ra như thế nào.
Một lượng tiền lớn hơn phải được tạo ra theo cách nào
đó. Chúng ta hãy giả sử rằng nó được tạo ra bởi chính phủ có
các khoản chi tiêu lớn hơn lượng tiền chính phủ có thể thu
hoặc muốn thu từ thuế (hoặc thông qua việc người dân dùng
tiền tiết kiệm của mình để mua công trái chính phủ). Hãy giả
sử rằng chính phủ phát hành tiền tệ để thanh toán cho các
nhà thầu phục vụ chiến tranh. Các khoản chi tiêu này trước
hết sẽ làm tăng giá các mặt hàng phục vụ chiến tranh và
cung cấp thêm tiền cho các nhà thầu và lao động của họ.
(Trong chương về sự định giá của chính phủ, chúng ta quyết
định tạm thời chưa xét tới ảnh hưởng của lạm phát. Tương tự
như vậy, khi xem xét vấn đề lạm phát trong chương này,
chúng ta sẽ bỏ qua các ảnh hưởng từ sự cố định giá của
chính phủ. Nếu xem xét những ảnh hưởng này, ta sẽ thấy
chúng cũng không thay đổi bản chất của vấn đề ở đây.
Chúng chỉ làm giảm nhẹ hoặc che giấu một số ảnh hưởng
ban đầu của lạm phát, sau đó lại làm trầm trọng hơn các ảnh
hưởng về sau.)
Các nhà thầu phục vụ cho chiến tranh và các lao động
của họ khi đó sẽ có thu nhập bằng tiền lớn hơn. Họ sẽ dùng
nó để mua những hàng hóa hay dịch vụ mà họ muốn. Bởi
nhu cầu tăng cao, những người bán các loại hàng hóa và dịch
vụ này sẽ tăng giá của chúng. Những người có thu nhập
bằng tiền lớn hơn sẽ sẵn sàng trả giá cao để có được các
hàng hóa và dịch vụ này bởi họ có nhiều tiền hơn trước. Đối
với họ, đồng đôla sẽ có giá trị nhỏ hơn.
Chúng ta hãy gọi những nhà thầu này và lao động của họ
là nhóm A và những người cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho
họ là nhóm B. Nhóm B, do bán được nhiều với giá cao hơn,
sẽ mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn từ nhóm C. Nhóm C
vì vậy cũng nâng được giá sản phẩm của họ lên và có thu
nhập lớn hơn để mua hàng hóa và dịch vụ của nhóm D, và
cứ như vậy cho đến khi việc tăng giá và thu nhập bằng tiền
xảy ra trên toàn bộ quốc gia. Khi quá trình này kết thúc, hầu
như mọi người sẽ có mức thu nhập quy ra tiền lớn hơn,
nhưng (giả sử rằng lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ra không tăng) giá của hàng hóa và dịch vụ cũng sẽ tăng
một lượng tương đương. Quốc gia sẽ không giàu hơn so với
trước kia.
Điều này không có nghĩa là tài sản hay thu nhập của tất
cả mọi người, tính một cách tương đối hay tuyệt đối, sẽ
giống hệt trước đây. Ngược lại, quá trình lạm phát chắc chắn
sẽ tác động không đồng đều đến địa vị và hoàn cảnh kinh tế
của các nhóm khác nhau. Nhóm đầu tiên được nhận lượng
tiền tăng lên sẽ được lợi nhiều nhất. Thu nhập bằng tiền của
nhóm A sẽ tăng lên trước khi các mức giá tăng lên, vì thế,
lượng hàng hóa họ mua được cũng tăng tương đương với thu
nhập của họ. Thu nhập bằng tiền của nhóm B sẽ tăng sau,
khi các mức giá đã bắt đầu tăng, nhưng nhóm B vẫn được
hưởng lợi thông qua lượng hàng hóa họ mua được. Trong khi
đó, các nhóm vẫn chưa có thu nhập bằng tiền lớn hơn đã
phải bắt đầu trả giá cao hơn cho các hàng hóa họ muốn
mua. Điều này có nghĩa là mức sống của họ sẽ bị giảm so với
trước đây.
Chúng ta có thể giải thích điều này rõ ràng thông qua các
số liệu giả định. Giả sử chúng ta tùy ý chia ngẫu nhiên xã hội
thành bốn nhóm sản xuất chính A, B, C, và D, và bốn nhóm
này nhận được mức thu nhập bằng tiền lớn hơn nhờ lạm phát
theo trình tự đó. Khi thu nhập bằng tiền của nhóm A đã tăng
30%, giá của những mặt hàng họ mua vẫn hoàn toàn chưa
tăng. Khi thu nhập bằng tiền của nhóm B tăng 20%, giá
hàng hóa bình quân mới chỉ tăng 10%. Tuy nhiên, khi thu
nhập bằng tiền của nhóm C tăng lên chỉ 10%, giá cả đã tăng
lên 15%. Và khi thu nhập bằng tiền của nhóm D chưa tăng
một chút nào, mức giá bình quân của các hàng hóa họ phải
mua đã tăng lên đến 20%. Nói cách khác, mức lợi ích do các
nhóm đầu tiên thu được từ việc tăng giá hoặc lương do lạm
phát cũng gây ra sự thiệt hại (thông qua tiêu dùng) cho
những nhóm sản xuất được tăng giá hoặc lương cuối cùng.
Nếu lạm phát ngừng lại sau một vài năm, kết quả cuối
cùng có thể là cả thu nhập bằng tiền và giá đều tăng một
lượng tương đương là 25%, và cả hai sẽ được phân phối đều
giữa các nhóm trong xã hội. Nhưng điều này không bù đắp
được những lợi ích hay thiệt hại trong giai đoạn chuyển tiếp
ban đầu. Ví dụ như nhóm D: mặc dù thu nhập và mức giá
của họ cuối cùng cũng tăng lên đến 25%, họ vẫn chỉ mua
được một lượng hàng hóa và dịch vụ tương tự như trước khi
có lạm phát. Những thiệt hại của họ trong thời kỳ đầu tiên,
khi thu nhập và giá của họ chưa tăng một chút nào trong khi
họ phải mua hàng hóa và dịch vụ của nhóm A, B, và C với
giá cao hơn tới 30%, sẽ không bao giờ được đền bù.
* *
*
Vì vậy, lạm phát cũng chỉ là một ví dụ nữa minh họa cho
bài học chính của chúng ta. Nó có thể thực sự đem lại lợi ích
trong một thời gian ngắn cho những nhóm được ưu ái, song
điều này chỉ xảy ra thông qua những thiệt hại mà các nhóm
khác phải chịu, và về lâu dài sẽ gây ra nhiều hậu quả tai hại
cho toàn bộ xã hội. Ngay cả lạm phát nhẹ cũng có thể làm
méo mó cơ cấu sản xuất. Nó sẽ kích thích một số ngành sản
xuất mở rộng quá mức, khiến cho những ngành khác phải
thu nhỏ. Nó sẽ dẫn đến việc đầu tư sai và lãng phí vốn sản
xuất. Khi lạm phát sụp đổ hoặc bị ngừng lại, lượng vốn đầu
tư sai – cho dù ở dạng nào: máy móc, nhà máy, các tòa nhà
văn phòng, v.v… - sẽ không thể đem lại mức lợi nhuận phù
hợp và sẽ mất phần lớn giá trị của nó.
Ta không thể khiến lạm phát ngừng lại một cách nhẹ
nhàng và tránh sự khủng hoảng thường xảy ra sau đó. Một
khi lạm phát đã bắt đầu, ta thậm chí không thể ngừng nó lại
tại một điểm nào đó được định trước hay chặn nó lại khi các
mức giá đã tăng đến mức được thỏa thuận từ trước, bởi các
yếu tố kinh tế và chính trị sẽ vượt ra ngoài tầm kiểm soát
của ta. Khi ta ủng hộ việc tăng giá ở mức 25% thông qua
lạm phát, chắc chắn sẽ có người thấy rằng lợi ích đạt được sẽ
tăng gấp đôi khi tăng giá ở mức 50%, thậm chí là gấp bốn
khi tăng giá ở mức 100% thông qua lạm phát. Những nhóm
có thể gây sức ép chính trị và được hưởng lợi từ lạm phát sẽ
đòi phải tiếp tục duy trì lạm phát.
Hơn nữa, trong thời kỳ lạm phát, ta không thể kiểm soát
được giá trị của tiền tệ bởi, như ta đã thấy, nguyên nhân của
sự mất giá tiền tệ không chỉ là một vấn đề kỹ thuật. Ta
không thể nói trước rằng việc tăng 100% lượng tiền tệ sẽ
làm giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm đi 50%. Như ta đã
thấy, giá trị của tiền tệ phụ thuộc vào sự đánh giá mang tính
chủ quan của người giữ tiền, và sự đánh giá này không chỉ
phụ thuộc vào lượng tiền mà người đó đang giữ. Nó cũng phụ
thuộc vào chất lượng của tiền tệ. Trong thời chiến, giá trị của
một đơn vị tiền tệ của một quốc gia không dựa trên chuẩn
vàng và sẽ tăng hay giảm so với ngoại tệ tùy thuộc vào việc
quốc gia đó thắng hay thua, cho dù lượng tiền tệ có thay đổi
như thế nào. Sự đánh giá giá trị tiền tệ trong hiện tại thường
phụ thuộc vào việc mọi người trông đợi lượng tiền trong
tương lai sẽ là bao nhiêu. Và, giống như các hàng hóa trên
thị trường đầu cơ, sự đánh giá của mỗi người không chỉ phụ
thuộc vào việc người đó nghĩ giá trị tiền tệ sẽ là bao nhiêu
mà còn dựa trên việc người đó nghĩ những người khác sẽ
đánh giá giá trị của tiền tệ như thế nào.
Điều này giải thích vì sao một khi siêu lạm phát xảy ra,
giá trị của một đơn vị tiền tệ giảm nhanh hơn nhiều so với
tốc độ lượng tiền tệ được hoặc có thể được tăng. Khi lạm
phát đạt đến giai đoạn này, điều xấu nhất sẽ sớm xảy ra:
phá sản.
* *
*
Vậy nhưng vẫn luôn có những người ủng hộ lạm phát.
Dường như chẳng có quốc gia nào học được bài học từ kinh
nghiệm của các quốc gia khác, và chẳng có thế hệ nào tránh
được vết xe đổ của những người đi trước.
Mọi thế hệ và quốc gia đều chạy theo ảo ảnh lạm phát, cố
gắng nắm bắt lấy những lợi ích kinh tế vốn sẽ sớm tan thành
khói bụi, bởi đó là bản chất của lạm phát: nó có thể tạo ra vô
vàn ảo tưởng cho con người.
Trong thời đại của chúng ta, quan điểm hay được sử
dụng nhất để ủng hộ lạm phát là nó sẽ “kích thích các ngành
sản xuất”, rằng nó sẽ giúp chúng ta thoát khỏi những thiệt
hại không thể bù đắp được của sự đình trệ kinh tế, rằng nó
sẽ khiến cho “mọi lao động đều có việc làm”. Quan điểm
này, ở dạng thô sơ nhất của mình, dựa trên sự nhầm lẫn
giữa tiền và sự giàu có thật. Nó cho rằng “sức mua” mới
đang được tạo ra, và tác động của lượng sức mua này sẽ
được nhân lên và ngày càng lan rộng, giống như các vòng
tròn của gợn sóng khi ta ném một viên đá xuống hồ. Tuy
nhiên, sức mua thực sự đối với một loại hàng hóa, như chúng
ta đã thấy, chính là các loại hàng hóa khác. Nó không thể
được tăng lên một cách mầu nhiệm thông qua việc in thêm
các tờ giấy gọi là tiền. Về cơ bản, điều xảy ra trong nền kinh
tế mang tính trao đổi là những thứ do A sản xuất ra được
10
trao đổi lấy những thứ do B sản xuất ra .
Tác dụng thực sự của lạm phát là thay đổi tương quan
giữa giá và chi phí. Sự thay đổi quan trọng nhất mà lạm phát
cần tạo ra là tăng giá hàng hóa trong tương quan với mức
lương, và nhờ vậy phục hồi được mức lợi nhuận trước đây và
khuyến khích tiếp tục tăng sản lượng vượt lên mức còn tồn
tại các nguồn lực nhàn rỗi, thông qua việc phục hồi tương
quan hợp lý giữa giá và chi phí sản xuất.
Ta có thể thấy ngay rằng điều này có thể đạt được một
cách trực tiếp và thẳng thắn hơn bằng cách giảm mức lương
không hợp lý. Song những người ủng hộ lạm phát với lý luận
sắc sảo hơn sẽ cho rằng điều này không thể đạt được về mặt
chính trị. Đôi khi họ còn đi xa hơn và tuyên bố rằng trong
bất kỳ hoàn cảnh nào, mọi đề xuất đòi giảm trực tiếp một
mức lương nào đó để giảm thất nghiệp đều là các đề xuất
“chống lại người lao động”. Song nói trắng ra, điều họ muốn
làm là lừa người lao động bằng cách giảm mức lương thật
của họ (mức lương tính bằng sức mua) thông qua việc tăng
giá.
Điều họ quên mất là người lao động cũng đã trở nên
khôn ngoan, là các công đoàn lớn đã thuê những nhà kinh tế
học thông thạo các chỉ số về lương và giá cả, là người lao
động không để mình bị lừa nữa. Vì vậy, trong hoàn cảnh hiện
tại, chính sách này rất dễ thất bại trong cả mục tiêu kinh tế
cũng như mục tiêu chính trị của nó. Chính các công đoàn
mạnh nhất, nơi mức lương cần điều chỉnh nhất, mới đang
kiên quyết yêu cầu mức lương của họ được tăng lên ít nhất là
tương đương với độ tăng của chỉ số chi phí sinh hoạt. Nếu
các công đoàn mạnh nhất kiên quyết đòi cho được điều này,
tương quan bất hợp lý giữa giá và các mức lương chính sẽ
tiếp tục tồn tại. Trên thực tế, cơ cấu lương thậm chí còn có
thể bị bóp méo hơn nữa, bởi một số lượng lớn lao động
không thuộc công đoàn, những người mà ngay từ trước lạm
phát đã có thể có một mức lương không phù hợp (hay thậm
chí đã có thể bị chà đạp bởi họ không nằm trong công đoàn)
sẽ tiếp tục bị thiệt hại nhiều hơn trong giai đoạn đầu của lạm
phát bởi sự tăng giá hàng hóa.
* *
*
Tóm lại, những người ủng hộ lạm phát với những quan
điểm tinh vi hơn cũng là những người đầy tính toán. Họ
không hoàn toàn trung thực trong lý lẽ của mình, và kết cục
là họ lừa dối chính bản thân. Giống như những người ủng hộ
lạm phát với quan điểm “thô sơ”, họ bắt đầu bằng việc nói về
tiền giấy như thể nó là một loại của cải thực sự mà có thể
được in ra tùy ý ở các nhà máy in tiền. Họ thậm chí còn nói
đến “khả năng tự nhân lên” của lượng tiền này, hay là việc
mỗi đôla do chính phủ phát hành và tiêu sẽ nhờ một phép
màu nào đó mà biến thành nhiều đôla góp thêm vào tài sản
của quốc gia.
Tóm lại, họ làm chệch hướng sự chú ý của công chúng và
của bản thân họ ra khỏi các nguyên nhân thật của tình trạng
khủng hoảng trong hiện tại. Trong phần lớn trường hợp,
nguyên nhân thực sự là sự điều chỉnh sai mối tương quan
của lương, chi phí và giá: sự điều chỉnh sai mối tương quan
giữa lương và giá, giữa giá của nguyên vật liệu thô và giá
của thành phẩm, giữa các mức giá hoặc giữa các mức lương
với nhau. Những sự điều chỉnh sai này, đến một thời điểm
nào đó, sẽ triệt phá động cơ sản xuất hoặc làm cho sản xuất
không thể tiếp tục được nữa, và thông qua những mối quan
hệ hữu cơ giữa các thành phần trong nền kinh tế trao đổi,
khủng hoảng sẽ lan ra. Tình trạng sản xuất và tuyển dụng
lao động tối ưu chỉ có thể được phục hồi khi những sự điều
chỉnh sai này được sửa chữa lại.
Đôi khi lạm phát có thể sửa chữa những sự điều chỉnh sai
này, nhưng nó có thể là một con dao hai lưỡi. Nó không điều
chỉnh bằng những phương pháp thẳng thắn và công khai mà
thông qua các ảo tưởng. Lạm phát phủ một lớp màn ảo
tưởng lên trên mọi quy trình kinh tế. Nó lừa dối và gây nhầm
lẫn cho hầu hết mọi người, bao gồm cả những người phải
gánh chịu những thiệt hại do nó gây ra. Chúng ta luôn quen
với việc tính thu nhập và tài sản của mình bằng tiền. Thói
quen này ăn sâu vào suy nghĩ của chúng ta và mạnh đến
mức ngay cả những nhà kinh tế học hay thống kê học cũng
không thoát nổi nó. Không phải dễ để ta có thể luôn luôn
nhìn ra các mối tương quan trên thông qua hàng hóa thật
hoặc phúc lợi thật. Ai trong chúng ta không cảm thấy giàu có
và tự hào hơn khi biết rằng tổng thu nhập quốc dân của
chúng ta đã tăng gấp đôi (tính theo đôla) so với một thời
điểm nào đó trước lạm phát? Ngay cả một nhân viên trước
đây được trả 75 đôla một tuần và giờ nhận được 120 đôla
một tuần cũng nghĩ rằng mình đã trở nên giàu hơn, cho dù
chi phí sinh hoạt hiện tại của anh ta đã tăng lên gấp đôi so
với khi anh ta nhận mức lương 75 đôla. Không phải anh ta
không nhận ra sự tăng lên trong chi phí sinh hoạt; song anh
ta cũng không hiểu rõ hoàn cảnh kinh tế thực sự của mình
trong hiện tại (nếu chi phí sinh hoạt của anh ta không thay
đổi, song mức lương của anh ta giảm đi khiến sức mua của
anh ta bị giảm tương đương với sức mua của anh ta trong
hiện tại với mức lương và giá mới cao hơn vì lạm phát, chắc
anh ta sẽ nhận rõ hoàn cảnh kinh tế của mình hơn). Lạm
phát khiến người ta ngộ nhận, bị thôi miên, bị gây mê để
không cảm thấy sự đau đớn do lưỡi dao mổ gây ra. Lạm phát
là thuốc phiện của quần chúng.
* *
*
Đây chính là chức năng chính trị của lạm phát. Vì lạm
phát khiến mọi việc trở nên rối loạn, nên nó thường xuyên
được áp dụng bởi các chính phủ theo đuổi “kinh tế kế
hoạch”. Ví dụ: trong chương IV, chúng ta đã chứng minh sự
sai lầm của quan điểm cho rằng các công trình công cộng sẽ
tạo thêm việc làm. Chúng ta đã thấy rằng nếu tiền dành cho
các công trình này được lấy từ thuế, mỗi đôla chính phủ chi
tiêu cho các công trình này là một đôla bị lấy đi từ chi tiêu
của người nộp thuế, và mỗi công việc do chính phủ tạo ra
trong những công trình này có nghĩa là một công việc bị mất
đi trong khu vực kinh tế tư nhân.
Nhưng giả sử các công trình phúc lợi đó không được chi
trả từ nguồn thuế mà thông qua khoản vay nợ của các cơ
quan chính phủ hoặc thông qua lượng tiền tệ được in thêm.
Lúc đó, các kết quả ta vừa miêu tả bên trên dường như
không xảy ra. Các công trình phúc lợi dường như được tạo ra
bằng một lượng sức mua “mới”. Ta không thể nói rằng lượng
sức mua này bị cướp đi từ những người nộp thuế. Trong một
khoảng thời gian nhất định, dường như quốc gia có thêm
nhiều thứ mà chẳng mất gì.
Song, theo đúng tinh thần bài học, chúng ta hãy cùng
xem xét các hậu quả dài hạn. Các khoản vay nợ đến một lúc
nào đó phải được hoàn trả. Chính phủ không thể cứ chồng
chất nợ mãi được, bởi nếu làm thế, đến một lúc nào đó chính
phủ sẽ bị phá sản. Như Adam Smith đã chỉ ra vào năm 1776:
Khi các khoản nợ quốc gia đã bị tích lũy đến một mức
độ nào đấy, tôi tin rằng hầu như không có trường hợp
nào chúng sẽ được hoàn trả nghiêm túc và đầy đủ. Việc
giải phóng thu nhập quốc dân, nếu xảy ra, luôn xảy ra
thông qua sự phá sản; đôi khi là sự tuyên bố phá sản,
song luôn là sự phá sản thật, mặc dù thường xuyên
thông qua một sự thanh toán giả.
Nhưng khi phải thanh toán những khoản nợ đến từ việc
chi trả cho các công trình công cộng, chính phủ sẽ phải đánh
thuế cao hơn mức chi tiêu của mình. Vì vậy, trong giai đoạn
sau này, lượng việc làm chính phủ hủy hoại sẽ nhiều hơn
lượng việc làm chính phủ tạo ra. Mức thuế quá cao mà chính
phủ phải áp dụng không chỉ lấy đi sức mua; nó cũng làm
giảm hay thậm chí triệt tiêu động cơ sản xuất, và vì vậy làm
giảm tổng thu nhập và tài sản của quốc gia.
Cách duy nhất để tránh được kết cục này (điều mà
những người ủng hộ chi tiêu chính phủ luôn giả định) là
những người nắm quyền lực chính trị sẽ chỉ tiêu tiền vào
những thời kỳ mà, nếu không có sự tác động của chi tiêu
chính phủ, sẽ trở thành những thời kỳ khủng hoảng hoặc
“giảm phát”, và sẽ nhanh chóng trả hết những khoản nợ này
trong những thời kỳ mà, nếu không phải trả nợ cho các
khoản chi tiêu chính phủ, sẽ là những thời kỳ kinh tế bùng
nổ hoặc “lạm phát”. Song đây chỉ là chuyện giả tưởng;
những người nắm quyền lực chính trị chưa bao giờ hành
động như thế. Hơn nữa, những dự đoán kinh tế thường
không ổn định, và sẽ luôn có sức ép chính trị khiến các chính
phủ không hành động như vậy. Việc chi tiêu chính phủ nhờ
các khoản vay nợ, một khi được thực hiện, thường tạo ra
những lợi ích cá nhân mạnh mẽ đòi hỏi phải duy trì sự chi
tiêu theo cách này trong mọi tình huống.
Nếu chính phủ không thực sự tìm cách thanh toán các
khoản nợ tồn đọng một cách chân thực và phải dùng đến
cách gây lạm phát, kết quả sẽ giống những gì chúng ta đã
miêu tả. Một quốc gia, với tư cách là một tổng thể, không
thể có được điều gì miễn phí. Lạm phát thực chất cũng là
một dạng thuế, một dạng thuế đáng sợ nhất và thường tác
động nặng nề nhất đến những người ít có khả năng chi trả
nhất. Giả sử rằng lạm phát ảnh hưởng đồng đều đến mọi
người và mọi thứ (điều không bao giờ xảy ra trên thực tế,
như chúng ta đã thấy), nó sẽ giống một mức thuế doanh thu
đồng đều cho tất cả mọi loại hàng hóa. Thuế suất áp dụng
với bánh mỳ và sữa cũng cao như thuế suất áp dụng với kim
cương và áo lông thú. Hay ta cũng có thể so sánh nó với một
mức thuế thu nhập đồng đều trên tất cả mọi người, không ai
được miễn trừ. Nó được áp dụng không chỉ với các khoản chi
tiêu mà cả với tiền tiết kiệm và bảo hiểm của mỗi cá nhân.
Trên thực tế, nó là một loại thuế đồng đều được áp dụng trên
vốn sản xuất, không ai được miễn trừ; người nghèo cũng
phải chịu thuế suất cao như người giàu.
Trên thực tế, mọi việc còn tồi tệ hơn, bởi lạm phát không
và không thể ảnh hưởng đến tất cả mọi người một cách đồng
đều. Một số người sẽ bị thiệt hại nhiều hơn người khác. Quy
ra tỷ lệ phần trăm, người nghèo thường bị tác động nặng nề
hơn so với người giàu bởi họ không có các phương tiện để
bảo vệ bản thân mình bằng cách mua để đầu cơ những giá
trị thực có khả năng quy đổi sau này. Lạm phát là một loại
thuế vượt ngoài sự kiểm soát của những người quản lý thuế.
Nó tấn công một cách điên loạn theo mọi hướng. Thuế suất
của lạm phát không cố định và không thể được định trước.
Ngày hôm nay chúng ta biết nó là bao nhiêu, song ngày mai
ta không thể biết nó sẽ tăng hay giảm thế nào; và vào ngày
mai, ta không biết điều gì sẽ xảy ra vào ngày kia.
Như các loại thuế khác, lạm phát quyết định các chính
sách cá nhân và kinh tế mà chúng ta buộc phải tuân theo.
Nó khiến cho mọi sự khôn ngoan trở nên vô ích. Nó khuyến
khích sự tiêu xài hoang tàn và phí phạm. Nó thường khiến
cho việc đầu cơ đem lại nhiều lợi nhuận hơn là việc sản xuất.
Nó phá tan hệ thống các tương quan kinh tế bền vững. Sự
bất công tột độ của nó đẩy con người đến những giải pháp
tuyệt vọng. Nó gieo các hạt giống của chủ nghĩa phát xít và
chủ nghĩa cộng sản. Nó khiến con người đòi hỏi sự kiểm soát
mang tính toàn trị. Kết cục của nó thường là sự vỡ mộng cay
đắng và sụp đổ.
Chương XXIV: Chế nhạo sự tiết kiệm
Từ xa xưa, con người luôn đề cao sự tiết kiệm và cảnh
báo những hậu quả của thói hoang tàn và lãng phí. Đây vừa
là vấn đề đạo đức, vừa thể hiện tính cẩn trọng của loài
người. Nhưng trong chúng ta, luôn tồn tại những kẻ tiêu xài
hoang phí và những người có thể đưa ra đủ lý lẽ để biện hộ
cho sự lãng phí này.
Những nhà kinh tế học theo trường phái cổ điển, nhằm
chống lại những lý lẽ sai lầm vào thời kỳ của họ, đã chỉ ra
rằng chính sách tiết kiệm – chính sách tốt nhất đối với lợi ích
của các cá nhân – cũng là chính sách tốt nhất cho lợi ích của
quốc gia. Họ cho rằng việc một người tiết kiệm một cách hợp
lý để dự phòng cho tương lai của mình không làm tổn hại mà
thực chất là làm lợi cho toàn xã hội. Song ngày nay, khi quan
điểm trái ngược cổ vũ sự chi tiêu trở nên thịnh hành, sự chặt
chẽ và tiết kiệm - điều được người xưa ca ngợi và các nhà
kinh tế học theo trường phái cổ điển ủng hộ - lại một lần nữa
phải gánh chịu sự công kích vì những lý do mới.
Để có thể hiểu rõ vấn đề, tôi nghĩ rằng ví dụ minh họa
tốt nhất chúng ta có thể sử dụng là ví dụ của Bastiat. Chúng
ta hãy cùng tưởng tượng ra hai anh em, một người tiêu xài
hoang phí, một người rất khôn ngoan và cẩn thận trong chi
tiêu. Cả hai đều được hưởng tài sản thừa kế như nhau với
mức lợi tức hàng năm là 50.000 đôla. Chúng ta sẽ bỏ qua
vấn đề thuế thu nhập cũng như câu hỏi liệu hai anh em nên
thực sự lao động kiếm sống hay trao phần lớn thu nhập của
mình cho các tổ chức từ thiện, bởi những điều này không liên
quan đến mục đích của chúng ta tại đây.
Anh cả Alvin là người tiêu xài hoang phí. Đây không chỉ là
sở thích thất thường mà là quan điểm sống của anh ta. Alvin
tin theo tư tưởng của Rodbertus, người vào giữa thế kỷ XIX
đã tuyên bố rằng người theo chủ nghĩa tư bản “phải chi đến
đồng xu cuối cùng trong thu nhập của mình vào những gì
đem lại tiện nghi và sự xa hoa cho cuộc sống”, bởi nếu họ
“muốn tiết kiệm,… hàng hóa sẽ bị tồn đọng lại, và một bộ
11
phận lao động sẽ mất việc làm” . Alvin thường xuyên đi đến
các câu lạc bộ đêm; ông ta cho tiền boa rất hậu hĩnh; ông ta
có một cơ ngơi với vẻ bề ngoài xa hoa và rất nhiều người
hầu; ông ta có vài tài xế riêng, nhưng rất ít khi sử dụng
những chiếc xe mình có; ông ta có một đàn ngựa đua; ông
ta có một chiếc du thuyền; ông ta đi du lịch; ông ta mua cho
vợ mình hàng đống kim cương và áo lông thú; ông ta mua
tặng bạn bè mình những món quà vô dụng song đắt tiền.
Để có thể chi tiêu như thế, Alvin phải dùng đến tiền vốn
gốc của mình, song vậy thì có làm sao? Nếu tiết kiệm là tội
lỗi thì tiêu xài hoang phí là một ưu điểm. Và có làm gì đi nữa,
ông ta cũng chỉ đơn giản là đang bù đắp lại cho những thiệt
hại mà sự tiết kiệm của người em trai keo kiệt Benjamin gây
ra.
Chắc không nói ta cũng biết rằng người như Alvin sẽ
được lòng những cô ả đào mỏ, những người bồi bàn, những
ông chủ nhà hàng, những người bán lông thú hay kim cương,
những người cung cấp hàng xa xỉ phẩm đủ loại. Họ coi ông
ta như một Mạnh Thường Quân; ai cũng có thể thấy rằng
ông ta tạo ra nhiều việc làm và vung tiền khắp nơi.
So với anh trai mình, Benjamin ít nổi tiếng hơn nhiều.
Người ta hiếm khi nhìn thấy Benjamin ở các hiệu bán đồ lông
thú hay kim cương hay các câu lạc bộ đêm. Ông ta không gọi
những người hầu bàn trưởng bằng tên tục của họ. Trong khi
Alvin không chỉ tiêu hết khoản lợi tức 50.000 đôla hàng năm
mà còn phải lạm vào tiền vốn gốc của mình, Benjamin sống
đơn giản hơn và chỉ tiêu hết khoảng 25.000 đôla một năm.
Tất nhiên, những người chỉ biết phán xét dựa trên những gì
mình nhìn thấy sẽ cho rằng Benjamin chỉ tạo ra một nửa
lượng việc làm so với anh trai mình, và phần 25.000 đôla còn
lại cũng vô ích như thể nó không hề tồn tại.
Nhưng chúng ta hãy cùng xem Benjamin thực sự làm gì
với 25.000 đôla còn lại của mình. Benjamin không giữ chúng
trong ví, trong ngăn kéo phòng làm việc hay trong két sắt.
Ông ta sẽ gửi số tiền đó vào ngân hàng hoặc sẽ đem nó ra
đầu tư. Nếu ông ta gửi tiền vào một ngân hàng thương
nghiệp hay một ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng sẽ dùng
khoản tiền này để cho các doanh nghiệp vay ngắn hạn hoặc
để mua chứng khoán. Nói cách khác, số tiền của Benjamin sẽ
được đem ra đầu tư, trực tiếp hoặc gián tiếp. Lượng tiền
được đầu tư sẽ được dùng để mua hoặc tạo ra các loại hàng
hoá tư liệu sản xuất: nhà cửa, tòa nhà văn phòng, nhà máy,
tàu biển, xe tải, máy móc, v.v… Bất kỳ dự án nào trong số
này cũng sẽ đưa nhiều tiền vào chu chuyển và tạo ra nhiều
việc làm như khi cùng một lượng tiền đó được dùng để chi
tiêu trực tiếp.
Tóm lại, trong thế giới hiện đại, “tiết kiệm” cũng là một
dạng chi tiêu. Sự khác biệt thường thấy là lượng tiền tiết
kiệm sẽ được chuyển cho một người nào đó để mua hay xây
dựng các công cụ để tăng cường sản xuất. Xét về khả năng
tạo ra việc làm, tổng chi tiêu và “tiết kiệm” của Benjamin
cũng sẽ tạo ra nhiều việc làm như chi tiêu của Alvin và cũng
đưa vào chu chuyển tiền tệ một lượng tiền tương tự. Sự khác
biệt chủ yếu là ai cũng có thể nhìn thấy những công việc do
Alvin tạo ra, song để có thể nhận ra rằng mỗi đôla Benjamin
tiết kiệm cũng tạo ra nhiều việc làm như mỗi đôla Alvin
phung phí, chúng ta phải quan sát kỹ càng và cẩn thận hơn.
Nhiều năm trôi qua. Alvin lâm vào cảnh phá sản. Không
ai còn nhìn thấy ông ta ở những câu lạc bộ đêm hay những
cửa hàng thời thượng nữa, và những người trước đây phục
vụ hay bán hàng cho ông ta giờ coi ông ta như kẻ ngốc. Ông
ta phải viết thư xin tiền Benjamin. Còn Benjamin, người vẫn
giữ một mức độ chi tiêu và tiết kiệm như vậy, không chỉ
cung cấp nhiều việc làm hơn trước đây (bởi thu nhập của ông
ta đã tăng lên thông qua đầu tư) mà còn tạo ra những công
việc có năng suất cao và được trả lương hậu hơn. Của cải và
thu nhập của Benjamin trở nên lớn hơn. Tóm lại, ông ta đã
góp phần nâng cao khả năng sản xuất của quốc gia, điều
Alvin không hề làm.
* *
*
Rất nhiều nguỵ biện về sự tiết kiệm đã xuất hiện trong
những năm gần đây, và ví dụ về hai anh em trai của chúng
ta không thể là câu trả lời cho tất cả những lập luận này.
Chúng ta cần phải thảo luận thêm về chúng. Rất nhiều lập
luận xuất phát từ những sai lầm cơ bản đến mức khó tin, đặc
biệt là khi chúng xuất hiện trong tác phẩm của những nhà
kinh tế học được nhiều người biết đến. Ví dụ: tiết kiệm đôi
khi chỉ được hiểu là sự tích trữ tiền và đôi khi được hiểu là
đầu tư; không có sự phân biệt rõ ràng và nhất quán nào giữa
hai ý nghĩa này.
Việc tích trữ lượng tiền mặt (hand-to-hand money), nếu
được thực hiện một cách không hợp lý, bất cẩn và với quy
mô lớn, sẽ gây hại trong phần lớn các trường hợp kinh tế.
Song loại hình tích trữ này rất hiếm xảy ra. Một hiện tượng
tương tự, song phải được phân biệt rõ ràng, là điều thường
xảy ra sau khi có sự suy thoái trong hoạt động kinh doanh.
Cả chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư đều bị giảm. Người tiêu
dùng giảm chi tiêu một phần bởi sợ rằng mình có thể bị mất
việc làm, và vì thế họ muốn tiết kiệm những nguồn tài chính
của mình. Họ giảm chi tiêu không phải vì nhu cầu chi tiêu
của họ giảm mà bởi muốn đảm bảo rằng họ sẽ cầm cự được
lâu hơn nếu bị mất việc làm.
Song người tiêu dùng cũng có thể giảm chi tiêu vì một lý
do khác. Có thể giá hàng hóa đang giảm, và người tiêu dùng
nghĩ rằng nó còn có thể tiếp tục giảm nữa. Nếu họ tạm thời
ngừng chi tiêu, họ sẽ có thể mua được nhiều hàng hóa hơn
sau này với cùng một lượng tiền. Họ không muốn chuyển
vốn của mình thành hàng hóa là những thứ đang mất giá trị
mà muốn giữ nó ở dạng tiền tệ là thứ đang tăng giá (xét một
cách tương đối).
Chính suy nghĩ này cũng khiến họ ngừng đầu tư. Họ bị
mất niềm tin vào khả năng sinh lời của các doanh nghiệp;
hoặc họ cho rằng nếu họ đợi một vài tháng nữa, họ có thể
mua được cổ phiếu với giá rẻ hơn. Chúng ta có thể coi họ là
những người từ chối giữ hàng hóa (là thứ có thể hạ giá) hoặc
những người giữ tiền (để chờ tăng giá).
Gọi hành động từ chối mua mang tính tạm thời này là
“tiết kiệm” là không chính xác. Nó có các động cơ khác so với
tiết kiệm thông thường. Và ta sẽ sai lầm nghiêm trọng hơn
nữa nếu cho rằng kiểu “tiết kiệm” này là nguyên nhân gây ra
khủng hoảng. Thực tế hoàn toàn ngược lại: nó là hậu quả
của khủng hoảng.
Đúng là việc từ chối mua có thể kéo dài cuộc khủng
hoảng hoặc khiến nó trở nên nặng nề hơn. Khi có sự can
thiệp thất thường của chính phủ và khi các doanh nghiệp
không biết chính phủ sẽ tiếp tục làm gì, mọi người đều cảm
thấy bất ổn. Các công ty và cá nhân sẽ giữ tiền lại trong
ngân hàng. Họ sẽ để ra các khoản dự phòng lớn hơn để đề
phòng trường hợp bất trắc. Ta có thể nghĩ việc tích trữ tiền
mặt này là nguyên nhân gây ra sự suy thoái tiếp diễn trong
hoạt động kinh tế, song nguyên nhân thực là sự bất ổn do
các chính sách của chính phủ gây ra. Lượng tiền mặt lớn
được các công ty hoặc cá nhân giữ lại chỉ là một mắt xích
trong chuỗi các hậu quả của sự bất ổn đó. Nói rằng sự “tiết
kiệm quá mức” là nguyên nhân gây ra sự suy thoái trong
hoạt động kinh doanh cũng giống như nói rằng việc giá táo
giảm không phải do mùa táo bội thu mà do người tiêu dùng
không chịu trả giá cao hơn khi mua táo.
Song một khi người ta đã quyết định phê phán hay chế
nhạo một điều gì đó, bất kỳ quan điểm nào chống lại điều
đó, cho dù có thiếu logic đến đâu, cũng sẽ được chấp nhận.
Họ nói rằng nhiều ngành sản xuất hàng tiêu dùng được xây
dựng dựa trên một mức cầu nhất định, và nếu mọi người bắt
đầu chuyển sang tiết kiệm, mức cầu trên thị trường sẽ xuống
thấp hơn mức cầu cần thiết để duy trì ngành sản xuất và gây
ra khủng hoảng. Quan điểm này dựa chủ yếu trên sai lầm
mà chúng ta đã xem xét: họ quên mất rằng lượng tiền được
tiết kiệm đối với hàng tiêu dùng sẽ trở thành vốn sản xuất,
và “tiết kiệm” không nhất thiết khiến tổng chi tiêu giảm đi.
Điều duy nhất đúng trong lý luận này là bất kỳ sự biến động
đột ngột nào cũng sẽ gây ra tâm lý bất ổn. Sự bất ổn cũng
sẽ xuất hiện nếu người tiêu dùng bất thình lình chuyển nhu
cầu của mình từ một loại tiêu dùng sang một loại khác. Tình
hình thậm chí sẽ còn bất ổn hơn nữa nếu những người tiết
kiệm (và đầu tư vào vốn sản xuất) bất thình lình chuyển
sang tiêu dùng hàng hóa.
Vẫn có một quan điểm nữa phản đối sự tiết kiệm: đây là
một việc làm vô cùng ngốc nghếch. Họ cười nhạo luận điểm
phổ biến của thế kỷ XIX cho rằng nhân loại, thông qua việc
tiết kiệm, có thể tạo ra một cái bánh ngày càng lớn hơn mà
không bao giờ ăn nó. Bản thân hình ảnh này đã rất ngây ngô
và trẻ con. Điều này có lẽ sẽ được xử lý tốt nhất nếu chúng
ta đưa ra một một sự miêu tả chính xác hơn về những điều
xảy ra trên thực tế.
Chúng ta hãy cùng hình dung một quốc gia với mức tiết
kiệm là 20% tổng sản phẩm hàng năm. Con số này lớn hơn
12
nhiều so với mức tiết kiệm ròng trong lịch sử của nước Mỹ ,
song nó là một con số chẵn dễ tính toán và phù hợp với các
quan điểm cho rằng chúng ta đang “tiết kiệm quá mức”.
Nhờ lượng tiết kiệm và đầu tư hàng năm đó, tổng sản
phẩm quốc gia sẽ tăng hàng năm. (Để tập trung vào vấn đề
này, chúng ta sẽ tạm bỏ qua những sự bùng nổ hay suy
thoái kinh tế cùng các dao động khác.) Hãy giả sử rằng mức
tăng tổng sản phẩm hàng năm là 2,5 điểm trên thang 100
(chúng ta sẽ sử dụng hệ thống điểm thay vì tỷ lệ phần trăm
để đơn giản hóa sự tính toán). Khi đó, chúng ta sẽ có bảng
sau thể hiện mối tương quan giữa hàng tiêu dùng và vốn sản
xuất trong vòng 11 năm.
Năm Tổng sản Lượng Lượng
phẩm hàng hàng hoá
hoá tiêu tư liệu
dùng sản được
được xuất xuất
sản xuất sản
Thứ nhất 100 80 20*
Thứ hai 102,5 82 20,5
Thứ ba 105 84 21
Thứ tư 107,5 86 21,5
Thứ năm 110 88 22
Thứ sáu 112,5 90 22,5
Thứ bảy 115 92 23
Thứ tám 117,5 94 23,5
Thứ chín 120 96 24
Thứ mười 122,5 98 24,5
Thứ 125 100 25
mười
một
* Tất nhiên, ta phải giả định rằng quá trình tiết kiệm và
đầu tư đã tồn tại sẵn với cùng một tốc độ.
Điều đầu tiên ta nhận thấy từ bảng này là tổng sản phẩm
tăng đều hàng năm nhờ sự tiết kiệm, và sẽ không tăng nếu
không có tiết kiệm. (Cũng có trường hợp khi các loại máy
móc và phương tiện sản xuất mới hoặc được cải tiến, với giá
trị ngang bằng các loại máy móc và phương tiện sản xuất cũ,
sẽ thay thế các loại máy móc và phương tiện sản xuất cũ và
làm tăng tổng sản phẩm quốc dân; thế nhưng lượng tăng
này sẽ không đáng kể, và điều này cũng có nghĩa là đã có
những lượng đầu tư từ trước vào các máy móc và phương
tiện hiện tại.) Hàng năm, lượng tiền tiết kiệm sẽ được sử
dụng để tăng số lượng và chất lượng của các máy móc hiện
tại, và nhờ đó tăng tổng sản lượng của quốc gia. Đúng là mỗi
năm ta sẽ có một “chiếc bánh” lớn hơn. Đúng là mỗi năm,
không phải toàn bộ chiếc bánh sản xuất ra sẽ được tiêu dùng
hết. Song điều này hoàn toàn không phải do một sự hạn chế
bất thường nào đó, bởi mỗi năm, một chiếc bánh lớn hơn sẽ
được tiêu dùng, cho đến năm thứ mười một (trong ví dụ của
chúng ta), khi chỉ riêng chiếc bánh của người tiêu dùng đã
lớn bằng cả chiếc bánh của người tiêu dùng lẫn chiếc bánh
của các nhà đầu tư vào năm đầu tiên. Hơn nữa, tổng số vốn
được đầu tư vào sản xuất, hay khả năng sản xuất hàng hóa,
đã tăng lên 25% so với năm đầu tiên.
Chúng ta hãy cùng xem xét một số điều nữa. Việc 20%
tổng thu nhập quốc dân hàng năm được tiết kiệm hoàn toàn
không ảnh hưởng đến các ngành sản xuất hàng tiêu dùng.
Nếu trong năm thứ nhất họ chỉ bán được 80 đơn vị sản phẩm
(và không có sự tăng giá do có nhu cầu chưa được thỏa
mãn), chắc chắn họ sẽ không đưa ra kế hoạch sản xuất
nhằm vào tạo ra 100 đơn vị sản phẩm vào năm thứ hai. Nói
cách khác, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đã được lập
kế hoạch dựa trên giả định rằng mức tiết kiệm từ trước đó sẽ
tiếp tục được duy trì. Chỉ trong trường hợp lượng tiết kiệm
tăng một cách đáng kể và bất ngờ, những người sản xuất
hàng tiêu dùng mới
bị động và không bán hết được sản phẩm của mình.
Tình trạng bất ổn này, như chúng ta đã thấy, cũng sẽ
xảy ra trong các ngành sản xuất hàng hóa tư liệu sản
xuất nếu lượng tiết kiệm giảm mạnh và đột ngột. Nếu những
lượng tiền trước đây được tiết kiệm giờ được sủ dụng để mua
hàng tiêu dùng, lượng việc làm sẽ không tăng lên, song giá
hàng tiêu dùng sẽ tăng và giá hàng hóa tư liệu sản xuất sẽ
giảm. Tác động đầu tiên của nó, xét về tổng quan, sẽ là
những thay đổi về cơ cấu việc làm và việc tạm thời giảm
lượng việc làm trong các ngành sản xuất hàng hóa tư liệu
sản xuất. Tác động dài hạn của nó sẽ là việc giảm sản xuất
xuống thấp hơn so với bình thường.
* *
*
Những người phản đối tiết kiệm vẫn không chịu ngừng
lại. Họ bắt đầu bằng việc phân biệt giữa “tiết kiệm” và “đầu
tư”, nhưng rồi họ sẽ coi chúng là hai biến số hoàn toàn độc
lập với nhau, như thể chỉ do tình cờ mà chúng bằng nhau.
Những người này vẽ nên một bức tranh ảm đạm: một bên là
những người đang tiếp tục tiết kiệm một cách vô nghĩa và
xuẩn ngốc; một bên là những “cơ hội đầu tư” ít ỏi không
nhận được khoản tiền tiết kiệm này. Kết quả là sự đình trệ.
Họ tuyên bố rằng giải pháp duy nhất là chính phủ phải tịch
thu những khoản tiết kiệm xuẩn ngốc và có hại đó, và tạo ra
các dự án của mình, cho dù chúng có thể là những dự án vô
ích như đào chiến hào hay xây kim tự tháp, để có thể dùng
hết số tiền đó và tạo ra việc làm.
Trong bức tranh và giải pháp này, có nhiều điều sai đến
mức chúng ta chỉ cần chỉ ra một số nguỵ biện chính. Tiết
kiệm sẽ chỉ lớn hơn đầu tư bằng lượng tiền mặt được tích
13
trữ . Trong xã hội công nghiệp hóa ngày nay, rất ít người
còn giấu tiền trong tất hay dưới đệm. Ở mức độ mà nó tồn
tại, lượng tiền nhỏ được tích trữ này đã được thể hiện trong
kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp và trong mức giá.
Nó thậm chí thường không mang tính tích lũy: những khoản
tích trữ này, khi được đem ra phân phát (ví dụ như trong
trường hợp những người ở ẩn lập dị chết đi và của cải tích trữ
của họ được tìm thấy và phân phát), có lẽ cũng đủ đề bù đắp
lại những khoản tích trữ mới. Trên thực tế, toàn bộ lượng
tiền mặt được tích trữ là một con số không có tác động gì
đáng kể đối với các hoạt động kinh doanh.
Như ta đã thấy, nếu tiền được giữ trong ngân hàng kinh
doanh hay ngân hàng tiết kiệm, các ngân hàng sẽ luôn sẵn
sàng cho vay và đầu tư số tiền đó. Họ sẽ không để tiền nhàn
rỗi. Điều duy nhất khiến mọi người tăng lượng tiền mặt tích
trữ hoặc các ngân hàng tăng lượng tiền nhàn rỗi và chịu mất
lợi tức là khi họ sợ rằng giá của hàng hóa sẽ giảm, hoặc khi
các ngân hàng cho rằng rủi ro đối với vốn của họ là quá lớn.
Điều này nghĩa là các dấu hiệu của sự khủng hoảng đã xuất
hiện và tạo ra hiện tượng tích trữ tiền, chứ không phải là việc
tích trữ tiền tạo ra khủng hoảng.
Ngoài lượng tiền tích trữ không đáng kể (và ngay cả
trường hợp ngoại lệ này cũng có thể được coi là một dạng
“đầu tư” trực tiếp vào tiền tệ), tiết kiệm và đầu tư luôn được
giữ ở mức cân bằng, giống như cách cung và cầu của một
loại hàng hóa được giữ ở mức cân bằng, bởi chúng ta có thể
định nghĩa tiết kiệm và đầu tư như là cung và cầu cho vốn
sản xuất mới. Và giống như cách cung và cầu của bất kỳ loại
hàng hóa nào khác được giữ trong trạng thái cân bằng thông
qua mức giá, cung và cầu của vốn sản xuất được cân bằng
thông qua lãi suất. Lãi suất chỉ là một cách đặc biệt để gọi
giá của vốn sản xuất cho vay. Nó cũng là một loại giá, như
bất kỳ loại giá nào khác.
Do có nhiều lý lẽ sai lầm, và vì những chính sách có hại
của chính phủ lại dựa trên chúng, vấn đề này trong những
năm gần đây đã bị nhầm lẫn một cách thảm hại đến mức
nhiều người thực sự hết hy vọng có thể quay trở lại với các
quan điểm và lý lẽ đúng đắn. Mọi người thường sợ hãi thái
quá mức lãi suất “quá cao”. Họ lý luận rằng nếu lãi suất quá
cao, doanh nghiệp sẽ không còn có lãi khi vay vốn để đầu tư
vào các nhà máy và thiết bị mới. Lập luận này có tính thuyết
phục đến mức các chính phủ ở khắp nơi trong những thập kỷ
gần đây đã theo đuổi chính sách duy trì lãi suất thấp. Song
quan điểm, do quá quan tâm đến lượng cầu ngày càng tăng
đối với vốn sản xuất, đã bỏ qua tác động của các chính sách
đối với nguồn cung của vốn sản xuất. Một lần nữa, ta lại có
một ví dụ về sai lầm của việc chỉ xem xét các tác động của
một chính sách đối với một nhóm lợi ích nhất định mà quên
mất các tác động đối với những người khác.
Nếu lãi suất bị giữ ở mức quá thấp so với mức rủi ro mà
vốn cho vay phải chịu, hoạt động tiết kiệm và cho vay sẽ
giảm. Những người ủng hộ chính sách lãi suất thấp cho rằng
việc tiết kiệm sẽ được duy trì và không bị tác động bởi mức
lãi suất, bởi những người giàu có đã thỏa mãn mọi nhu cầu
của mình và không có nhu cầu tiêu thêm tiền vào việc gì
khác. Tuy nhiên, họ không chỉ ra được một cách chính xác ở
mức thu nhập cá nhân nào một người sẽ luôn tiết kiệm một
khoản cố định mà không xét đến mức lãi suất và rủi ro mà
người đó phải chịu với vốn cho vay của mình.
Mặc dù tính theo tỷ lệ, lượng tiết kiệm của những người
rất giàu chắc chắn ít bị ảnh hưởng bởi lãi suất hơn so với
lượng tiết kiệm của những người khá giả, nhưng trên thực tế,
lượng tiết kiệm của bất kỳ ai cũng sẽ bị ảnh hưởng ở một
mức độ nào đó bởi lãi suất. Việc nói rằng lượng tiết kiệm thật
sẽ không giảm khi mức lãi suất giảm một cách đáng kể cũng
giống như khi ta nói tổng sản lượng đường sẽ không bị giảm
khi giá của nó giảm mạnh, bởi những nhà sản xuất đường với
hiệu suất cao và mức chi phí thấp vẫn sẽ duy trì sản lượng
cũ. Quan điểm này bỏ quên những người tiết kiệm có thu
nhập thấp ở cận biên, vốn trên thực tế luôn chiếm đa số.
Xét về lâu dài, tác động của việc giữ lãi suất thấp một
cách giả tạo sẽ giống như tác động của việc giữ bất kỳ một
mức giá nào thấp hơn mức giá tự nhiên trên thị trường. Nó
sẽ làm tăng cầu và giảm cung. Nó sẽ làm tăng nhu cầu vốn
sản xuất và giảm nguồn vốn cho vay. Nó sẽ gây ra những
lệch lạc về kinh tế. Đúng là việc giảm mức lãi suất một cách
giả tạo sẽ làm tăng lượng vốn vay. Trên thực tế, nó thường
có xu hướng làm tăng các giao dịch mang nặng tính đầu cơ,
vốn chỉ tồn tại trong bối cảnh lãi suất bị giữ thấp hơn mức
của thị trường. Về nguồn cung, việc giảm lãi suất một cách
giả tạo sẽ ngăn cản sự tiết kiệm và đầu tư thông thường. Nó
làm giảm lượng vốn sản xuất được tích lũy. Nó làm chậm lại
sự tăng năng suất, hay tốc độ “tăng trưởng kinh tế”, mà
những người theo tư tưởng “tiến bộ” luôn mong đạt được.
Trên thực tế, lãi suất chỉ có thể được giữ ở mức thấp
bằng cách liên tục cung cấp thêm các khoản tiền tệ hay tín
dụng ngân hàng để thay cho tiết kiệm thực sự. Điều này có
thể tạo ra ảo tưởng rằng ta vẫn đang có thêm vốn, giống
như việc pha thêm nước vào sữa khiến ta nghĩ rằng mình có
nhiều sữa hơn. Nhưng đây là chính sách duy trì lạm phát. Nó
là quy trình tích lũy rủi ro và hiểm họa cho nền kinh tế. Lãi
suất sẽ tăng và khủng hoảng sẽ xuất hiện khi lạm phát bị
đảo ngược hoặc ngừng lại, hay thậm chí khi nó được duy trì ở
một mức độ thấp hơn.
Chúng ta cũng cần chỉ ra rằng mặc dù lúc ban đầu, việc
cung cấp thêm tiền tệ và tín dụng ngân hàng có thể tạm thời
khiến cho mức lãi suất giảm thấp hơn, nhưng việc tiếp tục sử
dụng công cụ này về lâu dài sẽ làm tăng lãi suất. Điều này
xảy ra vì việc cung cấp thêm tiền tệ thường có xu hướng làm
giảm sức mua của tiền tệ.
Những người cho vay nhận ra rằng lượng tiền họ cho vay sẽ
bị mất giá sau một năm (khi họ nhận lại nó). Vì vậy, họ sẽ
cộng thêm vào mức lãi suất thông thường một khoản phí để
bù cho lượng sức mua bị giảm đi của lượng tiền cho vay.
Khoản phí này có thể cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ
lạm phát mà họ dự đoán. Vì lý do này, hối phiếu kho bạc của
Anh vào năm 1976 có mức lãi suất hàng năm tăng đến 14%;
công trái của chính phủ Italy vào năm 1977 có mức lợi tức là
16%; và mức lãi suất của ngân hàng trung ương Chile với
các ngân hàng khác tăng vọt lên 75% vào năm 1974. Nói
tóm lại, chính sách lãi suất thấp cuối cùng sẽ gây ra những
biến động lớn hơn nhiều trong hoạt động kinh doanh so với
những gì có thể xảy ra bởi mức lãi suất thị trường cao hơn,
điều mà các chính sách này đang tìm cách xử lý.
Nếu chính phủ không can thiệp vào mức lãi suất thông
qua các chính sách gây lạm phát, lượng tiết kiệm được tăng
lên sẽ tự tạo ra nhu cầu cho nó bằng cách giảm lãi suất một
cách tự nhiên. Lượng tiền lớn hơn đang tìm cơ hội đầu tư sẽ
khiến những người chủ tiền phải chấp nhận mức lãi suất thấp
hơn. Song mức lãi suất thấp hơn cũng có nghĩa là nhiều
doanh nghiệp sẽ có thể vay vốn, bởi lợi nhuận mà họ có thể
thu được nhờ các thiết bị hay nhà máy mới thường cao hơn
mức lãi suất mà họ phải chịu trên lượng vốn vay.
* *
*
Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét nguỵ biện cuối cùng mà tôi
muốn đề cập đến về tiết kiệm. Quan điểm này cho rằng
lượng vốn sản xuất mới chỉ có thể được tiếp nhận đến một
giới hạn cố định, hay thậm chí cho rằng chúng ta đã đạt đến
mức giới hạn này của việc tiếp nhận thêm vốn. Thật khó tin
là ai đó có thể tin được điều này, ngay cả những người không
biết gì về kinh tế học, chứ đừng nói tới những người được coi
là các nhà kinh tế học được đào tạo. Phần lớn tổng tài sản
của thế giới hiện đại, hầu như tất cả những gì phân biệt thế
giới của chúng ta với thế giới của thời kỳ tiền công nghiệp
vào thế kỷ 17, chính là vốn được tích lũy.
Một phần của lượng vốn này bao gồm những thứ có thể
được gọi là hàng tiêu dùng lâu bền – xe hơi, tủ lạnh, đồ gỗ,
trường học, thư viện, bệnh viện, và đặt biệt là nhà thuộc sở
hữu tư nhân. Trong lịch sử thế giới, chúng ta chưa bao giờ có
đủ những thứ này. Ngay cả nếu có đủ về mặt số lượng, việc
tiếp tục tăng về chất lượng là có thể, cần thiết, và không có
giới hạn.
Phần còn lại của lượng vốn này bao gồm những thứ mà
ta có thể thực sự gọi là vốn. Nó bao gồm các công cụ sản
xuất, tất cả mọi thứ từ những chiếc rìu, dao hay lưỡi cày thô
sơ nhất cho đến những máy móc tối tân nhất, những máy
phát điện và máy gia tốc tuyệt vời nhất, hay những nhà máy
với trang thiết bị hiện đại nhất. Xét về số lượng và đặc biệt là
về chất lượng, khả năng và sự cần thiết của việc mở rộng
lượng vốn này là vô hạn. Chỉ khi nào đất nước lạc hậu nhất
trên thế giới này cũng được trang bị về kỹ thuật hiện đại như
đất nước phát triển nhất, khi những nhà máy có hiệu năng
thấp nhất cũng ngang hàng với những nhà máy có các trang
thiết bị tối tân và hiện đại nhất, khi phần lớn các công cụ sản
xuất đã được hoàn thiện đến mức con người không thể cải
tiến chúng thêm nữa, chỉ lúc đó, ta mới có lượng vốn “dư
thừa”. Chừng nào những điều này chưa xảy ra, chắc chắn
vẫn còn có chỗ để tiếp nhận thêm vốn.
Song lượng vốn tăng thêm này có thể được “tiếp nhận”
bằng cách nào? Làm sao có thể “chi trả” cho nó? Nếu nó
được tiết kiệm, nó sẽ tự tiếp nhận và chi trả. Các nhà sản
xuất đầu tư vào hàng hóa tư liệu sản xuất mới - họ mua các
công cụ mới và tốt hơn - bởi các công cụ này làm giảm giá
thành sản xuất. Chúng hoặc sẽ tạo ra các loại hàng hóa mà
con người không có sự hỗ trợ của máy móc không thể tạo ra
(chúng bao gồm phần lớn hàng hóa xung quanh chúng ta –
sách, máy đánh chữ, xe hơi, đầu kéo xe lửa, cầu treo, v.v…),
hoặc sẽ tăng mạnh lượng hàng hóa có thể sản xuất ra, hoặc
(đây là những cách khác nhau để nói về cùng một điều) sẽ
giảm chi phí sản xuất trên từng đơn vị hàng hóa. Bởi chi phí
sản xuất có thể giảm không có giới hạn – cho tới khi mọi thứ
có thể được sản xuất với chi phí bằng không (0) - lượng vốn
mới có thể được tiếp nhận cũng không có giới hạn.
Việc giảm dần đều chi phí sản xuất tính trên đơn vị sản
phẩm nhờ việc tăng vốn sản xuất sẽ đạt được một trong hai,
hoặc cả hai, điều sau. Nó sẽ giảm chi phí mua hàng hóa đối
với người tiêu dùng, và nó sẽ tăng lương của người lao động
được sử dụng các thiết bị mới bởi nó tăng năng suất của
người lao động đó. Vì vậy, một thiết bị sản xuất mới sẽ đem
lại lợi ích cho cả người lao động trực tiếp sử dụng nó và một
số lượng lớn người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, thiết
bị mới hoặc sẽ giúp họ, với cùng một lượng tiền, có được
hàng hóa với số lượng nhiều hơn hoặc chất lượng cao hơn,
hoặc nó sẽ tăng thu nhập thật của họ. Hai điều này thực ra
là một. Đối với người lao động sử dụng thiết bị mới, mức
lương thật của họ sẽ được tăng lên bằng hai cách: qua sức
mua và qua lượng lương quy ra tiền. Một ví dụ điển hình là
ngành sản xuất xe hơi. Ngành sản xuất xe hơi Mỹ trả mức
lương cao nhất trên thế giới, và một trong những mức lương
cao nhất tại Mỹ. Thế nhưng tới tận năm 1960, các nhà sản
xuất xe hơi của Mỹ vẫn có thể bán sản phẩm với giá thấp
nhất trên thế giới bởi chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm
của họ nhỏ hơn. Bí quyết của điều này là mức độ đầu tư vốn
trong ngành sản xuất xe hơi của Mỹ, tính trên bình quân mỗi
người lao động và mỗi chiếc xe hơi được sản xuất ra, cao
nhất thế giới.
Vậy mà vẫn có những người nghĩ rằng chúng ta đã chạm
14
vào giới hạn của quá trình này và những người khác cho
rằng việc chúng ta tiếp tục tiết kiệm và tăng lượng vốn tích
lũy của mình là xuẩn ngốc, ngay cả nếu chúng ta chưa chạm
đến mức giới hạn đó.
Điều này đúng với mọi ngành sản xuất. Nếu bởi thời tiết
bất thường, vụ mùa cam tăng đột ngột, mọi người tiêu dùng
sẽ hưởng lợi. Thế giới sẽ giàu có hơn một lượng tương đương
với sản lượng cam tăng lên. Giá cam sẽ giảm đi. Song chính
điều này có thể khiến những người trồng cam trở nên nghèo
hơn, trừ khi lượng cam tăng lên đủ để bù cho mức giá thấp
hơn. Trong trường hợp này, nếu sản lưọng cam của tôi không
lớn hơn mọi năm, chắc chắn thu nhập của tôi sẽ bị giảm vì
mức giá thấp hơn do sản lượng cam chung lớn hơn gây ra.
Điều đúng với sự thay đổi từ phía cung cũng đúng với sự
thay đổi từ phía cầu, dù những thay đổi này là do các phát
minh sáng chế mới hay chỉ đơn thuần là kết quả của sự thay
đổi thị hiếu. Một chiếc máy hái bông mới, dù có thể làm giảm
giá đồ lót và áo sơmi sợi cotton cho mọi người, sẽ làm cho
nhiều người hái bông bị mất việc làm. Một chiếc máy dệt
mới, với khả năng dệt vải chất lượng cao hơn và tốc độ
nhanh hơn, sẽ khiến hàng ngàn chiếc máy cũ trở thành đồ
phế thải và làm mất đi lượng vốn đã được đầu tư vào những
chiếc máy cũ. Vì vậy, nó cũng làm người sở hữu những chiếc
máy cũ trở nên nghèo hơn. Việc tiếp tục phát triển năng
lượng nguyên tử, dù có thể đem lại những lợi ích to lớn cho
nhân loại, là điều khiến nhiều chủ mỏ than và giếng dầu phải
lo lắng.
Các tiến bộ về khoa học kỹ thuật sẽ luôn gây tổn hại cho
ai đó. Tương tự như vậy, sự thay đổi trong thị hiếu hay đạo
đức xã hội, ngay cả khi theo hướng tốt hơn, cũng luôn đem
lại thiệt hại cho một số người nhất định. Người dân ít say xỉn
hơn cũng có nghĩa là hàng ngàn người phục vụ ở các quầy
bar sẽ thất nghiệp. Việc giảm đánh bạc sẽ khiến những người
hầu bài ở các sòng bạc và những môi giới đua ngựa phải đi
tìm những công việc có thu nhập cao hơn.
Song không chỉ những người phục vụ cho những thú vui
hay thói quen xấu của con người mới bị ảnh hưởng khi đạo
đức xã hội bất chợt được cải thiện. Trong số những người bị
ảnh hưởng nhiều nhất, sẽ có chính những người làm công
việc cải thiện đạo đức này. Các thày tu sẽ không còn nhiều lý
do để dạy dỗ; những nhà cải cách sẽ chẳng còn gì để theo
đuổi. Nhu cầu đối với công việc của họ và sự đóng góp tài
chính của xã hội sẽ giảm đi. Nếu không còn tội phạm, chúng
ta sẽ cần ít luật sư, quan tòa và lính cứu hỏa hơn. Ta sẽ
không cần người cai tù, người làm khóa tù, hay thậm chí
cảnh sát nữa (ngoại trừ một số lượng nhỏ để giám sát giao
thông).
Nói tóm lại, trong hệ thống phân công lao động, sẽ rất
khó để có thể thỏa mãn cao hơn một nhu cầu nào đó của con
người mà không, ít nhất là tạm thời, gây thiệt hại cho những
người đã đầu tư hoặc đã mất công sức để có được các kỹ
năng nhằm thỏa mãn chính nhu cầu đó. Nếu sự phát triển
hay tiến bộ diễn ra đồng đều trong xã hội, sự xung đột giữa
lợi ích của toàn xã hội và của một nhóm cụ thể nào đó sẽ
không đáng kể, hoặc nếu có xảy ra, nó sẽ không trở thành
vấn đề nghiêm trọng. Nếu trong cùng một năm khi sản lượng
lúa mỳ của thế giới tăng, sản lượng lúa mỳ của tôi cũng tăng
với một tỷ lệ tương tự, nếu sản lượng cam và các nông sản
khác cũng tăng tương tự, và nếu sản lượng của các sản
phẩm công nghiệp cũng tăng và chi phí sản xuất trên đơn vị
sản phẩm giảm một lượng tương ứng, khi đó tôi - một người
trồng lúa mỳ - sẽ không phải chịu thiệt hại vì sản lượng lúa
tăng. Tuy giá lúa tính theo giạ và tổng số tiền tôi thu được từ
sản lượng của mình có thể giảm, tôi vẫn có thể mua các sản
phẩm khác với giá rẻ hơn vì sản lượng của chúng cũng tăng.
Vì thế, tôi không có lý do gì để phàn nàn. Trên thực tế, tôi
còn trở nên giàu hơn một lượng tương đương với mức tăng
sản lượng của tôi. Và tất cả những người khác cũng trở nên
giàu hơn một lượng tương đương với mức tăng sản lượng
hàng hóa hay dịch vụ của họ.
Song các tiến bộ kinh tế chưa bao giờ và có lẽ sẽ không
bao giờ xảy ra một cách đồng đều như vậy. Sự tiến bộ
thường diễn ra ở mỗi thời điểm tại một ngành hoặc một
mảng sản xuất nhất định. Và nếu trong ngành sản xuất của
tôi, sản lượng hoặc nguồn cung tăng một cách đột ngột,
hoặc nếu sản phẩm của tôi không còn thị trường nữa do một
sáng chế hay phát minh mới, khi đó, lợi ích mà thế giới có
được cũng là thảm họa đối với tôi và những người cùng sản
xuất một mặt hàng hay dịch vụ như tôi.
Điều tác động mạnh nhất lên một người quan sát khách
quan thường không phải là những lợi nhuận được dàn trải
trên diện rộng do việc tăng cung hay nhờ những sáng chế
hay khám phá mới, mà là sự thiệt hại được tập trung vào
một nhóm hoặc một vài nhóm nhỏ. Chúng ta thường không
chú ý đến việc mọi người được uống cà phê nhiều và rẻ hơn
mà chỉ quan tâm đến việc thu nhập của những người trồng
cà phê không đủ cho cuộc sống của họ do giá cà phê giảm.
Chúng ta cũng thường bỏ qua việc tăng sản lượng và giảm
chi phí sản xuất trong ngành sản xuất giày do máy móc mới;
điều mà ta nhìn thấy là những công nhân sản xuất giày bị
mất việc. Tất nhiên, ta phải xem xét một cách toàn diện vấn
đề và nhìn nhận hoàn cảnh khó khăn của những cá nhân đó
để dành cho họ sự cảm thông và tìm cách sử dụng một trong
những lợi ích thu được từ chính sự tiến bộ trong lĩnh vực cụ
thể này để giúp những nạn nhân của nó tìm được một công
việc khác với mức thu nhập phù hợp.
Song chúng ta không được giải quyết vấn đề bằng cách
tùy tiện giảm sản lượng, ngăn cản các sáng chế hay khám
phá mới, hoặc hỗ trợ để những người đó tiếp tục sản xuất
loại hàng hóa hay cung cấp loại dịch vụ không còn giá trị
trên thị trường nữa. Song đây lại chính là điều thế giới
thường xuyên làm thông qua thuế quan bảo hộ, thông qua
việc phá hủy máy móc thiết bị, thông qua việc đốt hủy cà
phê, thông qua hàng ngàn chính sách mang tính hạn chế sản
xuất. Đây là quan điểm điên rồ nhằm tìm kiếm sự giàu có
thông qua sự khan hiếm.
Thật không may là quan điểm này lại có thể đúng trong
những trường hợp riêng lẻ, khi xét riêng một nhóm nhà sản
xuất nào đó, nếu họ có thể tạo ra sự khan hiếm trong mặt
hàng hay dịch vụ của họ đồng thời giữ nguyên sự dồi dào
của những thứ họ phải mua. Song xét chung cho toàn xã hội,
quan điểm này không bao giờ đúng. Nó không bao giờ được
áp dụng một cách đồng đều, bởi điều này là một hành động
tự sát về kinh tế.
Đây chính là bài học của chúng ta dưới dạng khái quát
nhất. Rất nhiều điều tưởng như đúng khi ta tập trung vào
một nhóm lợi ích kinh tế nhất định trở thành những ảo tưởng
khi ta xem xét lợi ích của mọi người, nhà sản xuất cũng như
người tiêu dùng.
Nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể chứ không chỉ trong
từng chi tiết: đó chính là mục tiêu của kinh tế học với tư cách
là một bộ môn khoa học.
Phần ba: Bài học sau 30 năm
Chương XXVI: Xem xét lại bài học sau 30 năm
Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên vào năm
1946. Khi tôi viết những dòng này, 32 năm đã trôi qua. Bài
học mà chúng ta đã cùng tìm hiểu trong những chương trước
đã và đang được học và áp dụng như thế nào trong thời đại
này?
Nếu nói đến các chính trị gia hay những người chịu trách
nhiệm xây dựng và thực thi các chính sách của chính phủ, ta
sẽ thấy rằng họ hoàn toàn không học được gì. Ngược lại, các
chính sách được phân tích trong các chương trước còn được
áp dụng nhiều và rộng rãi hơn so với khi cuốn sách này được
xuất bản lần đầu tiên, không chỉ tại Mỹ mà tại tất cả các
quốc gia trên thế giới.
Chúng ta có thể chọn ví dụ nổi bật nhất: lạm phát. Đây
không chỉ là một chính sách với mục đích riêng của nó mà
cũng là kết quả tất yếu của phần lớn các chính sách mang
tính can thiệp của chính phủ. Ngày nay, ở khắp nơi trên thế
giới, nó đã trở thành biểu tượng cho sự can thiệp của chính
phủ.
Ấn bản năm 1946 của cuốn sách này đã giải thích các
hậu quả của lạm phát, nhưng mức lạm phát trong giai đoạn
đó vẫn còn khá nhẹ. Mặc dù vào năm 1926, tổng chi tiêu của
chính phủ liên bang là gần 3 tỷ USD và có thặng dư, vào
năm tài khóa 1946, mức chi tiêu của chính phủ đã tăng lên
đến 55 tỷ USD và thâm hụt 16 tỷ USD. Vào năm tài khóa
1947, khi chiến tranh kết thúc, tổng chi phí lại giảm xuống
còn 35 tỷ USD và có thặng dư gần 4 tỷ USD. Tuy nhiên, vào
năm tài khóa 1978, tổng chi tiêu đã tăng vọt lên đến 451 tỷ
USD và thâm hụt 49 tỷ USD.
Điều này đi kèm với sự tăng vọt trong lượng tiền tệ - từ
113 tỷ USD bao gồm tiền gửi không thời hạn và tiền tệ nằm
ngoài ngân hàng vào năm 1947 lên đến 357 tỷ USD vào
tháng tám năm 1978. Nói cách khác, nguồn cung tiền linh
hoạt trong giai đoạn này đã tăng lên hơn ba lần.
Việc tăng lượng tiền tệ đã khiến các mức giá tăng mạnh.
Chỉ số giá hàng tiêu dùng vào năm 1946 dừng ở mức 58,5.
Vào tháng chín năm 1978 nó là 199,3. Nói tóm lại, các mức
giá cũng tăng lên hơn ba lần.
Như tôi đã nói, chính sách lạm phát được áp dụng một
phần để phục vụ các mục tiêu của chính nó. Hơn 40 năm sau
khi cuốn General Theory [Lý thuyết tổng quát] của John
Maynard Keynes được xuất bản và hơn 20 năm sau khi các
quan điểm trong cuốn sách này đã hoàn toàn bị bác bỏ
thông qua phân tích và kinh nghiệm thực tế, rất nhiều chính
trị gia của chúng ta vẫn đang đề xuất việc vay nợ để chi tiêu
nhằm giải quyết hoặc cải thiện tình trạng thất nghiệp trong
hiện tại. Điều oái oăm là họ đưa ra những đề xuất này trong
khi ngân quỹ của chính phủ liên bang trong vòng 48 năm
qua thì có đến 41 năm ở trong tình trạng thâm hụt, và mức
thâm hụt đó đang tăng tới con số 50 tỷ USD một năm.
Oái oăm hơn nữa, không chỉ thỏa mãn với việc theo đuổi
những chính sách nguy hại này trong nước, chính phủ của
chúng ta còn phê phán các nước khác, đặc biệt là Đức và
Nhật Bản, là không chịu theo đuổi các chính sách “mở rộng”
này. Điều này khiến chúng ta nhớ đến con cáo trong chuyện
ngụ ngôn của Êdốp: khi bị mất đuôi, nó đã tìm cách thuyết
phục các bạn của nó cắt đuôi của mình đi.
Một trong những hậu quả tồi tệ nhất của việc tin theo và
áp dụng các tư tưởng sai lầm của Keynes là nó không chỉ dẫn
đến mức lạm phát ngày càng cao hơn mà còn, một cách rất
hệ thống, khiến chúng ta bỏ qua các nguyên nhân thật sự
của nạn thất nghiệp như mức lương quá cao do đòi hỏi của
công đoàn, các điều luật về mức lương tối thiểu, bảo hiểm
quá cao và kéo dài cho người bị thất nghiệp, và các khoản
trợ cấp thất nghiệp quá hào phóng.
Lạm phát ngày hôm nay, dù một phần là do cố ý, chủ
yếu là hậu quả của những sự can thiệp kinh tế khác của
chính phủ. Nói tóm lại, nó là hậu quả của chủ trương điều
chỉnh xã hội thông qua tái phân phối thu nhập, hay những
chính sách nhằm thu tiền của Peter để đổ dồn cho Paul một
cách bất hợp lý.
Việc theo dõi quá trình này và chỉ ra các hậu quả tai hại
của nó sẽ trở nên dễ hiểu hơn qua việc phân tích một chính
sách cụ thể nào đó, ví dụ như đề xuất về việc đảm bảo mức
thu nhập hàng năm do các ủy ban của quốc hội đưa ra và
nghiêm túc xem xét vào đầu những năm 70. Đề xuất này gợi
ý việc đánh thuế cao hơn nữa vào những người có thu nhập
cao hơn mức bình thường và dùng số tiền thu được để hỗ trợ
những người đang sống dưới mức nghèo đói tối thiểu, để đảm
bảo mức thu nhập của họ cho dù họ có muốn làm việc hay
không, và để “giúp họ sống một cuộc sống có phẩm giá”.
Thật khó có thể tưởng tượng ra một chương trình hay kế
hoạch nào có mục tiêu rõ ràng hơn nhằm ngăn cản lao động
và sản xuất và cuối cùng là làm tất cả mọi người trở nên
nghèo đói.
Song thay vì chỉ đưa ra một chính sách hay biện pháp
như vậy và gây ra các tác hại trong một lần, chính phủ của
chúng ta lại ban hành hàng trăm điều luật nhằm thực hiện
việc tái phân phối một cách không đồng đều và mang nặng
tính thiên vị. Các biện pháp này có thể hoàn toàn bỏ sót một
số nhóm nghèo đói song lại dành cho những nhóm khác
hàng chục loại hỗ trợ và lợi ích khác nhau, ví dụ như bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, tem phiếu thực phẩm, quyền lợi cho cựu chiến binh,
hỗ trợ cho nông trang, nhà bán hay cho thuê được trợ giá, ăn
trưa miễn phí tại trường học, tuyển mộ trong các công trình
công cộng nhằm tạo việc làm, hỗ trợ cho các gia đình có con
nhỏ, cùng rất nhiều loại hỗ trợ trực tiếp khác, như hỗ trợ cho
người cao tuổi, cho người khiếm thị, cho người tàn tật, v.v…
Chính phủ liên bang đã ước tính rằng với các chương trình
này, họ đang cung cấp các khoản hỗ trợ liên bang cho hơn 4
triệu người, chưa tính đến những chương trình độc lập của
các bang hay các thành phố.
Một học giả gần đây đã đếm và xem xét không dưới hơn
44 chương trình phúc lợi khác nhau. Tổng chi tiêu của chính
phủ cho các chương trình này vào năm 1976 là 187 tỷ USD .
Mức tăng bình quân của các chương trình này trong khoảng
thời gian từ năm 1971 đến năm 1976 là 25% một năm, lớn
gấp 2,5 lần so với tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm
quốc dân trong cùng giai đoạn. Mức chi phí dự tính cho năm
1979 là hơn 250 tỷ USD. Song song với mức tăng đến chóng
mặt của chi tiêu chính phủ cho các chương trình phúc lợi này
là sự phát triển của một “ngành phúc lợi quốc gia”, bao gồm
5 triệu nhân công của nhà nước và tư nhân, cung cấp các
khoản hỗ trợ và dịch vụ cho khoảng 50 triệu người hưởng
16
lợi .
Hầu như tất cả các nước phương Tây khác cũng đang
thực hiện một loạt chương trình tương tự, mặc dù đôi khi các
chương trình của họ được kết hợp chặt chẽ và lập kế hoạch
cẩn thận hơn. Và để làm được việc này, họ phải trông cậy
vào việc đánh thuế ngày càng nặng nề hơn.
Chúng ta có thể xem Anh như một ví dụ. Chính phủ Anh
đã và đang đánh thuế thu nhập cá nhân từ công việc lên tới
83% và từ đầu tư lên tới 98%. Vì vậy, chẳng có gì ngạc
nhiên khi lao động và đầu tư bị ngăn trở, gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đến việc sản xuất và tuyển dụng lao động.
Không có cách nào ngăn cản việc tuyển lao động hiệu quả
hơn bằng việc gây phiền toái và thiệt hại cho các chủ doanh
nghiệp. Nhưng điều này đang trở thành chính sách của nhiều
chính phủ khắp nơi trên thế giới.
Song ngay cả mức thuế cao một cách khó tin này cũng
không tạo ra đủ thu nhập cho chính phủ để chi trả cho các
khoản chi tiêu bạt mạng và các chương trình nhằm tái phân
phối của cải trong xã hội. Ngân sách nhà nước vì vậy thường
xuyên ở trong tình trạng thâm hụt ngày càng nặng nề, điều
này dẫn đến sự lạm phát liên miên và ngày càng tăng cao ở
hầu như mọi quốc gia trên thế giới.
Trong khoảng 30 năm vừa qua, ngân hàng Citibank của
New York giữ các số liệu về lạm phát tính theo các khoảng
thời gian 10 năm. Các số liệu này được tính dựa trên các chỉ
số ước tính về chi phí sinh hoạt do chính các chính phủ đưa
ra. Trong bản tin kinh tế tháng mười năm 1977, Citibank
xuất bản kết quả thống kê về lạm phát tại 50 quốc gia khác
nhau. Các con số này cho thấy rằng vào năm 1976, đồng
mark Tây Đức, loại tiền tệ có kết quả khả quan nhất trong
bảng thống kê, đã mất 35% sức mua của nó trong vòng 10
trước đó; đồng franc Thụy Sỹ đã mất 40%; đồng đôla Mỹ
mất 43%; đồng franc Pháp mất 50%; đồng yen Nhật mất
57%; đồng krone Thụy Điển mất 47%; đồng lira Italy mất
56%, đồng bảng Anh mất 61%. Khi chúng ta nhìn vào số liệu
của các nước thuộc châu Mỹ Latin, đồng cruzeiro Brazil mất
89%, và đồng peso của Uruguay, Chile và Argentina mất hơn
99% giá trị của nó.
Tuy nhiên, nếu so sánh với vài năm trước, sự mất giá của
các loại tiền tệ thế giới đã trở nên nhẹ hơn. Vào năm 1977,
đồng đôla Mỹ mất giá ở mức 6% một năm; đồng franc Pháp
ở mức 8,6%; đồng yen Nhật ở mức 9,1%; đồng krone Thụy
Điển ở mức 9,5%; đồng bảng Anh ở mức 14,5%; đồng lira
Italy ở mức 15,7%; và đồng peseta Tây Ban Nha ở mức
17,5%. Còn với các nước Mỹ Latin, tiền tệ của Brazil vào
năm 1977 có mức mất giá hàng năm là 30,8%; của Uruguay
là 35,%; của Chile là 53,9%; và của Argentina là 65,7%.
Tôi sẽ để cho độc giả tự hình dung ra sự hỗn loạn và bất
ổn mà các mức độ mất giá tiền tệ đang gây ra tại nền kinh tế
của các nước này và sự đau khổ mà nhiều triệu người dân ở
đó đang phải gánh chịu.
Như tôi đã chỉ ra, lạm phát, vốn là nguyên nhân gây ra
nhiều đau khổ cho con người, chủ yếu là hậu quả của các
chính sách can thiệp kinh tế này khác của chính phủ. Tất cả
những can thiệp, dù không chủ định, đều minh họa và nhấn
mạnh bài học cơ bản của cuốn sách. Tất cả đều được thực
hiện với niềm tin rằng chúng có thể đem lại một số lợi ích tức
thời cho một nhómlợi ích cá biệt nào đó. Những người thực
hiện chính sách đã không tính đến hậu quả thứ cấp của
chúng và không xem xét tác động dài hạn của chúng đối với
tất cả mọi người.
Nói tóm lại, bài học mà cuốn sách này cố gắng giới thiệu
cách đây hơn 30 năm dường như vẫn không có tác động gì
đến các chính trị gia.
Nếu chúng ta lần lượt đi qua các chương của cuốn sách
này, ta sẽ thấy mọi loại hình can thiệp của chính phủ bị phê
phán trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách hiện nay đều vẫn
đang được áp dụng, thường với mức độ cao hơn. Khắp mọi
nơi, các chính phủ đang phải cố gắng giải quyết tình trạng
thất nghiệp do các chính sách của họ gây ra bằng các công
trình công cộng. Họ đang áp dụng các mức thuế nặng nề và
mang tính cướp đoạt hơn bao giờ hết. Họ vẫn đang đề xuất
việc tăng các khoản tín dụng. Phần lớn các chính phủ vẫn coi
việc “mọi người đều có việc làm” là mục tiêu chính. Họ tiếp
tục áp dụng hạn mức nhập khẩu và thuế quan bảo hộ. Họ cố
gắng tăng xuất khẩu bằng cách tiếp tục đánh tụt giá tiền tệ
của mình. Nông dân vẫn đang “biểu tình” để đòi “các mức
giá tương đương”. Các chính phủ vẫn cung cấp những khoản
trợ cấp đặc biệt cho các ngành sản xuất thua lỗ. Các chính
phủ vẫn đang cố gắng “bình ổn” giá của một số hàng hóa
đặc biệt.
Các chính phủ, người khiến cho giá hàng hóa tăng cao do
việc làm mất giá tiền tệ của họ, lại đổ lỗi cho các nhà sản
xuất, thương nhân, và “những kẻ theo đuổi lợi nhuận” trong
việc giá hàng hóa tăng. Họ áp dụng mức giá trần đối với dầu
lửa và khí đốt tự nhiên và ngăn cản việc khai thác thêm
trong khi điều này đang cần hỗ trợ và khuyến khích nhất. Họ
cũng có thể dựa vào việc cố định và kiểm soát các mức lương
và giá chung. Họ tiếp tục kiểm soát giá cho thuê nhà, bất
chấp những tổn hại to lớn mà chính sách này đã gây ra. Họ
không chỉ tiếp tục duy trì mức lương tối thiểu mà còn liên tục
nâng cao mức lương này, bất chấp tình trạng thất nghiệp kéo
dài do các mức lương này sinh ra. Họ tiếp tục phê chuẩn các
đạo luật trao các đặc quyền và sự miễn trừ cho công đoàn
lao động, bắt người lao động phải tham gia vào công đoàn,
dung túng cho việc ngăn cản người lao động làm việc trong
thời kỳ biểu tình và các hình thức cưỡng ép khác, và bắt các
chủ doanh nghiệp phải “cùng thực sự đàm phán” với các
công đoàn, nghĩa là phải chịu nhượng bộ ít nhất một trong
những đòi hỏi của các công đoàn. Mục đích của tất cả các
hành động này là để “hỗ trợ người lao động”. Song một lần
nữa, kết quả lại là nạn thất nghiệp kéo dài và tổng lương
giảm so với mức nó có thể đạt được trong điều kiện bình
thường.
Phần lớn các chính trị gia tiếp tục bỏ qua tầm quan trọng
của lợi nhuận, ước tính quá cao mức lợi nhuận bình quân hay
mức tổng lợi nhuận, phê phán việc thu lợi nhuận quá cao ở
bất kỳ đâu, đưa ra các mức thuế lợi nhuận cao, và đôi khi
thậm chí đòi loại bỏ ngay cả sự tồn tại của lợi nhuận.
Tư tưởng chống lại chủ nghĩa tư bản ngày càng bám rễ
sâu hơn. Bất kỳ khi nào hoạt động kinh doanh bị đình trệ,
các chính trị gia sẽ cho rằng nguyên chính dẫn đến điều này
là “chi tiêu không đủ cho tiêu dùng”. Trong khi chính phủ
khuyến khích chi tiêu cho tiêu dùng, họ cũng đưa ra vô vàn
hình thức nhằm ngăn cản tiết kiệm và đầu tư. Phương pháp
chính mà chính phủ sử dụng ngày nay để làm được điều này,
như chúng ta đã thấy, là thông qua việc gây ra hoặc nâng
cao mức lạm phát. Kết quả là ngày nay, lần đầu tiên trong
lịch sử, không một quốc gia nào vẫn còn duy trì chuẩn tiền tệ
dựa trên kim loại quý.
Tất cả các quốc gia đều đang lừa gạt người dân của mình
thông qua việc liên tục phát hành và đánh tụt giá tiền tệ.
Để đưa ra thêm một ví dụ nữa, chúng ta hãy xem xét
một xu hướng xảy ra gần đây tại Mỹ và nhiều quốc gia khác:
các chương trình xã hội, sau khi được bắt đầu, thường hoàn
toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Chúng ta đã nhìn qua bức
tranh tổng thế, nhưng giờ ta hãy cùng xem xét kỹ càng hơn
một ví dụ điển hình: bảo hiểm xã hội tại Mỹ.
Điều luật đầu tiên về An sinh xã hội của Liên bang được
phê duyệt vào năm 1935. Điều luật này dựa trên quan điểm
cho rằng vấn đề chủ yếu trong lĩnh vực bảo trợ xã hội là
người lao động không tích trữ đủ trong những năm lao động
của họ. Vì vậy, khi không còn khả năng lao động, họ sẽ rơi
vào tình trạng túng thiếu. Chính phủ cho rằng vấn đề này có
thể được giải quyết bằng cách bắt buộc người lao động phải
tự mua bảo hiểm cho mình và chủ doanh nghiệp phải chịu
một nửa phí bảo hiểm, để rồi khi những người này hết tuổi
lao động (65 tuổi trở đi), họ sẽ có lương hưu đủ để sinh
sống. Theo dự định, An sinh xã hội sẽ là loại hình bảo hiểm
tự hạch toán tuân thủ các nguyên tắc tính toán của bảo
hiểm. Một quỹ dự phòng phải được xây dựng đủ cho các yêu
cầu thanh toán và các khoản chi trả đến hạn.
Trên thực tế, chương trình an sinh xã hội này đã diễn ra
hoàn toàn khác. Quỹ dự phòng chỉ tồn tại trên giấy tờ. Khi
thu được các khoản phí bảo hiểm, chính phủ sử dụng chúng
để bù đắp cho các chi phí thông thường hoặc trả các khoản
bảo trợ. Từ năm 1975, các khoản bảo trợ được trả đã vượt
quá các khoản phí bảo hiểm thu được.
Trong mọi phiên họp của quốc hội, các thành viên quốc
hội luôn tìm ra cách để tăng cường các khoản bảo trợ, mở
rộng diện hưởng bảo trợ xã hội và tăng thêm các loại hình
“bảo hiểm xã hội” mới. Một nhà bình luận đã phát biểu vài
tuần sau khi loại hình bảo hiểm y tế được đưa ra vào năm
1965: “Trong 7 năm bầu cử vừa qua, năm nào loại chất làm
ngọt mang tên An sinh xã hội cũng được sử dụng”.
Khi lạm phát xuất hiện và gia tăng, khoản tiền bảo trợ
của An sinh xã hội cũng được tăng lên không phải tương
đương mà cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát. Thủ đoạn
chính trị hay được dùng là tập trung việc trả các khoản tiền
bảo trợ cho hiện tại và dồn chi phí vào tương lai. Song tương
lai đó sớm muộn cũng đến; cứ vài năm một lần, quốc hội lại
phải tăng thuế thu nhập của cả người lao động và chủ doanh
nghiệp.
Không chỉ mức phí bảo hiểm xã hội mà lượng thu nhập
phải chịu phí bảo hiểm xã hội cũng liên tục tăng. Trong điều
luật đầu tiên vào năm 1935, chỉ 3.000 đôla đầu tiên phải
chịu phí bảo hiểm. Các mức phí lúc ban đầu cũng rất thấp.
Nhưng từ năm 1965 đến năm 1977, phí bảo hiểm xã hội
tăng từ 4,4% trên 6.600 đôla đầu tiên của thu nhập từ công
việc (cho cả người lao động và chủ doanh nghiệp) lên đến
11,7% trên 16.500 đôla đầu tiên. (Từ năm 1960 cho đến
năm 1977, tổng phí bảo hiểm thu được hàng năm tăng
572%, hay khoảng 12% mỗi năm. Chính phủ vẫn dự tính
tăng cao hơn nữa.)
Vào đầu năm 1977, tổng số nợ chưa có nguồn chi trả của
hệ thống An sinh xã hội được chính thức ước tính ở mức 4,1
ngàn tỷ đôla.
Ngày nay, không ai có thể nói được An sinh xã hội thực
sự là một chương trình bảo hiểm hay chẳng qua chỉ là một
chương trình bảo trợ phức tạp và mất cân đối. Phần lớn
những người nhận tiền bảo trợ đều tin rằng họ tự “chi trả”
cho các khoản tiền bảo trợ của họ. Song không một công ty
bảo hiểm nào có thể trả được mức tiền bảo trợ hiện tại dựa
trên khoản phí bảo hiểm thực sự thu được. Vào thời điểm
đầu năm 1978, khi những người lao động có thu nhập thấp
về hưu, tiền bảo trợ hàng tháng của họ thường ở mức 60%
mức lương trước đây của họ. Những người lao động có mức
thu nhập trung bình sẽ được nhận khoảng 45%. Với những
người có mức lương cao đặc biệt, tỷ lệ này có thể sẽ là 5 -
10%. Ngay cả nếu ta có coi bảo hiểm xã hội là một chương
trình bảo trợ xã hội, nó vẫn là một chương trình bảo trợ rất
kỳ lạ, bởi những người đã được nhận mức lương cao nhất vẫn
tiếp tục nhận được khoản tiền bảo trợ cao nhất tính theo
lượng tiền.
Song ngày nay, bảo hiểm xã hội là điều bất khả xâm
phạm. Việc bất kỳ một thành viên quốc hội nào đề xuất giảm
các khoản tiền bảo trợ trong hiện tại hoặc tương lai có thể
được coi như đang thực hiện hành động tự sát về chính trị.
Hệ thống An sinh xã hội ngày nay đã trở thành một biểu
tượng đáng sợ cho sự bất lực của chúng ta trong việc kiểm
soát các chương trình hỗ trợ quốc gia, tái phân phối, hay các
loại hình “bảo hiểm” khác, sau khi chúng được bắt đầu.
Nói tóm lại, vấn đề chính của chúng ta ngày nay không
phải là về kinh tế mà là về chính trị. Các nhà kinh tế học giỏi
đều thống nhất với nhau trong việc cần phải làm gì. Mọi nỗ
lực của chính phủ nhằm tái phân phối của cải và thu nhập
đều có xu hướng bóp nghẹt các động cơ thúc đẩy sản xuất
và khiến mọi người trở nên nghèo hơn. Vai trò đúng đắn của
chính phủ là tạo ra và duy trì một hệ thống pháp luật nghiêm
cấm việc gian lận và ép buộc, song chính phủ phải tránh một
số cách can thiệp nhất định vào hoạt động kinh tế. Chức
năng kinh tế chính của chính phủ là khuyến khích và duy trì
thị trường tự do. Khi Alexander Đại Đế đến thăm nhà triết
học Diogenes và hỏi liệu ngài có thể làm được gì cho ông ta
không, câu trả lời được truyền tụng lại của Diogenes là: “Có
đấy, xin hãy tránh ra một chút để khỏi che mất mặt trời của
tôi”. Đó là điều mọi công dân đều có quyền yêu cầu chính
phủ của mình làm.
Tương lai thật ảm đạm, nhưng không phải không còn
chút hy vọng nào. Thi thoảng ta lại thấy được chút ánh sáng
xuyên qua các đám mây. Ngày càng có nhiều người nhận
thức được rằng chính phủ chẳng có thể cho ai một điều gì mà
không lấy mất đi trước đó một thứ gì từ một người khác hay
từ chính người đó. Tăng hỗ trợ cho một số nhóm nhất định
cũng có nghĩa là tăng thuế, tăng thâm hụt và tăng lạm phát.
Và cuối cùng, lạm phát sẽ khiến việc sản xuất trở nên chệch
hướng và hỗn loạn. Ngay cả một số chính trị gia cũng bắt
đầu nhận ra, và một số người trong số họ đã nói ra điều này.
Bên cạnh đó, có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho ta thấy luồng
gió tri thức của các quan điểm kinh tế đang có sự thay đổi.
Những người theo quan điểm của Keynes hay ủng hộ sự can
thiệp kinh tế của chính phủ đang trên đà rút lui. Những
người theo trường phái bảo thủ, những người theo chủ nghĩa
tự do cá nhân hay những người khác ủng hộ tự do kinh
doanh đang có tiếng nói ngày càng lớn và rõ ràng hơn. Ngoài
ra, còn có rất nhiều người khác, ví dụ như trường phái kinh
tế học Áo, đang phát triển rất nhanh với phương pháp luận
dựa trên chủ nghĩa cá nhân.
Chúng ta vẫn có thể hy vọng rằng các chính sách kinh tế
xã hội sẽ được đảo ngược lại trước khi những tác hại do các
biện pháp và xu hướng trong hiện tại trở nên vô phương cứu
chữa.
Notes
[←1]
Gunnar Myrdal, The Challenge of World Poverty [Thách
thức đói nghèo toàn cầu] (New York: Patheon Book, 1970, tr. 400-
401 và nhiều chỗ khác.
[←2]
New York Time, 2 tháng 1 năm 1946. Tất nhiên những kế hoạch hạn chế diện
tích trồng trọt bản thân chúng đã giúp cho việc làm tăng sản lượng thu hoạch
trên một acre, bởi vì: thứ nhất những mảnh đất mà nông dân thôi không canh
tác nữa là những mảnh đất cằn cỗi, kém năng suất nhất, và thứ hai, mức giá cao
được hỗ trợ khiến cho người nông dân thấy có lợi hơn khi bón thêm phân vào
các mảnh ruộng. Do vậy, các kế hoạch hạn chế diện tích trồng trọt của chính
phủ về cơ bản sẽ tự bị đánh gục.
[←3]
Điều trần của Dan H. Wheeler, giám đốc của Ban quản lý than bitum
(Bituminous Coal Division). Các phiên điều trần về việc mở rộng Điều
luật về than bitum năm 1937.
[←4]
Tuy nhiên, kết luận của cá nhân tôi là trong thời chiến, cho dù không tránh khỏi
việc chính phủ đưa ra một số các ưu tiên, sử dụng hệ thống phân bổ và phân
phối trong một số lĩnh vực nhất định, xét trên toàn bộ cục diện của cuộc chiến
tranh, việc chính phủ định giá hàng hoá sẽ gây nhiều tổn hại. Trong khi việc
định ra các mức giá trần chỉ có thể thực hiện với sự hiện diện của hệ thống phân
phối, dù là tạm thời, thì điều ngược lại là không đúng.
[←5]
A. C. Pigou, The Theory of Unemployment [lý thuyết về thất nghiệp]
(1933), tr. 9.
[←6]
Paul H. Douglas, The Theory of Wages [lý thuyết về lương] (1934),
tr. 501.
[←7]
Tham khảo Frank H. Knight, Risk, Uncertainty and Profit [Rủi ro, Bất
trắc và Lợi nhuận] (1921). Tuy nhiên, trong bất kỳ giai đoạn nào có sự
tích luỹ vốn sản xuất ròng, ta có thể cho rằng trong giai đoạn này, đã có
lợi nhuận ròng từ khoản đầu tư trước đó.
[←8]
Đây là những nội dung chính yếu nhất trong học thuyết của những người
theo trường phái Keynes. Tôi phân tích lý thuyết này chi tiết trong tác
phẩm The Failure of the “New Economics” (New Rochelle, N.Y.:
Arlington House, 1959).
[←9]
Độc giả quan tâm đến phân tích về những nguỵ biện này có thể tham
khảo: B. M. Anderson, The Value of Money (1917; new edition, 1936);
Ludwig von Mises, The Theory of Money and Credit (American editions,
1935, 1953); hay tác phẩm của tôi: Inflation Crisis, and How to Resolve It
(New Rochelle, N. Y.: Arlington House, 1978).
[←10]
Tham khảo John Stuart Mill, Principle of Political Economy [Nguyên lý
kinh tế chính trị], t. 3, ch. XIV, đoạn 2; Alfred Marshall, Principles of
Economics [Các nguyên lý kinh tế học], t. 4, ch. XIII, đoạn 10; Benjamin
M. Anderson, A Refutation of Keynes’ Attack on the Doctrine that
Aggregate Supply Creates Aggregate Demand [Bác bỏ sự công kích của
Keynes đối với học thuyết rằng tổng cung tạo ra tổng cầu] trong
Financing American Prosperity [Nguồn tài chính cho sự thịnh vượng của
nước Mỹ] của nhiều học giả kinh tế. Cũng xem tuyển tập do chính tôi
biên tập: The Critics of Keynesian Economics [Phê bình kinh tế học
trường phái Keynes] (New Rochelle, N.Y.,: Arlington House, 1960).
[←11]
Karl Rodbertus, Overproduction and Crises [Sản xuất thừa và khủng
khoảng] (1850), tr. 51.
[←12]
Trong lịch sử của nền kinh tế của chúng ta, 20% sẽ tương đương với
tổng phần tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hàng năm được dành cho
việc tích luỹ tư bản (capital formation) (trừ các thiết bị máy móc phục vụ
người tiêu dùng). Tuy nhiên, khi tính cả chiết khấu vốn, tổng lượng tiết
kiệm ròng hàng năm khoảng gần 12%. Tham khảo George Terborg, The
Bogey of Economic Maturity [Tiêu chí đánh giá sự trưởng thành của nền
kinh tế] (1945). Vào năm 1977, tổng đầu tư trong nước trong khu vực
kinh tế tư nhân được chính thức ước tính khoảng 16% tổng sản phẩm
quốc dân.
[←13]
Rất nhiều quan điểm kinh tế học khác nhau về vấn đề này xuất phát từ
sự khác nhau về định nghĩa khái niệm. Tiết kiệm và đầu tự có thể được
coi là đồng nhất, và vì thế chúng luôn bằng nhau. Tại đây, tôi muốn định
nghĩa tiết kiệm bằng lượng tiền và định nghĩa đầu tư bằng lượng hàng
hoá. Điều này tuân theo, một cách tương đối, cách sử dụng thông
thường của hai từ này.
[←14]
Nếu bạn muốn có các số liệu thống kê để bác bỏ nguỵ biện này, hãy
tham khảo George Terborgh, The Bogey of Economic Maturity [Tiêu chí
đánh giá sự trưởng thành của nền kinh tế] (1945). Quan điểm của
những người theo thuyết “đình trệ” mà Tiến sĩ Terborgh phê phán được
tiếp tục theo đuổi bởi những người tin theo học thuyết kinh tế của
Galbraith.
[←15]
George Santayana, The Realm of Truth (1938), tr. 16.
[←16]
Charles D. Hobbs, The Welfare Industry [Ngành phúc lợi xã hội]
(Washington, D.C.: Heritage Foundation, 1978).
Table of Contents
Hiểu kinh tế trong một bài học
Mục lục
Phần một: Bài học
Chương I: Bài học
Phần hai: Ứng dụng bài học trong thực tế
Chương II: Câu chuyện cửa kính vỡ
Chương III: Phúc lành của sự phá huỷ
Chương IV: Công trình công cộng và gánh nặng thuế khoá
Chương V: Thuế ngăn cản sản xuất
Chương VI: Tín dụng làm chệch hướng sản xuất
Chương VII: Tác hại của máy móc
Chương VIII: Các chương trình nhằm chia sẻ việc làm
Chương IX: Giải trừ quân đội và đội ngũ công chức nhà nước
Chương X: “Mọi người đều phải có việc làm”
Chương XII: Động lực cho xuất khẩu
Chương XIII: Các mức giá “tương đương”
Chương XIV: Hãy cứu ngành sản xuất X
Chương XV: Cơ chế hoạt động của hệ thống giá
Chương XVI: “Bình ổn” giá hàng hóa
Chương XVII: Sự định giá của chính phủ
Chương XVIII: Tác động của việc kiểm soát giá thuê nhà
Chương XIX: Các điều luật về mức lương tối thiểu
Chương XXI: “Đủ để mua lại sản phẩm mình tạo ra”
Chương XXII: Chức năng của lợi nhuận
Chương XXIII: Ảo ảnh về lạm phát
Chương XXIV: Chế nhạo sự tiết kiệm
Chương XXV: Nhắc lại bài học
Phần ba: Bài học sau 30 năm
Chương XXVI: Xem xét lại bài học sau 30 năm
Notes