You are on page 1of 29

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH


GIẢNG VIÊN: ThS. NGUYỄN THÀNH CÔNG

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


DEMOCRATIZATION THEORY: A COMPREHENSIVE VIEW ON
A CLASSIC DEBATE

LỚP: CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH (CT3)

TP. HỒ CHÍ MINH - 2022


Tên thành Mã số sinh Dung lượng
Phân công
viên viên chữ

Viết phần: 02 hướng tiếp cận của thuyết


Nguyễn Vũ dân chủ hóa (modernization approach,
2057061035 1296 chữ
Thái Hà structural approach), kết luận của bài
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Dân chủ hóa, quá trình dân


Phan Thế
2057061030 chủ hóa 1684 chữ
Bảo
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Trường hợp cụ thể của Ba


Võ Tú Anh 2057061028 Lan, Nhìn nhân trường hợp của Ba Lan 1730 chữ
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Trường hợp cụ thể của Mỹ


Phạm Thanh
2057061085 và Thụy Điển 1900 chữ
Huy
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Khái niệm dân chủ của


Lê Thanh Schumpeter, lý thuyết cổ điển, 3 tiêu chí
2057061097 1685 chữ
Mai dân chủ.
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Các khái niệm dân chủ của


Nguyễn Robert Dahl, Philippe Schmitter và
2057061111 1231 chữ
Hoàng Oanh Terry Karl, 3 tiêu chí dân chủ
Kiểm tra: Toàn bài

Viết phần: Tiêu chí phát triển kinh tế,


Nhìn nhận trường hợp của Mỹ và Thụy
Lữ Hà My 2057061102 Điển. 900 chữ
Format, hiệu đính
Kiểm tra: Toàn bài

1
MỤC LỤC

I. ĐỊNH NGHĨA 3
1. Dân chủ hoá 3
2. Dân chủ 6
a. Các khái niệm dân chủ của Robert Dahl, Philippe Schmitter và Terry Karl 6
b. Khái niệm dân chủ của Schumpeter 8
c. Lý thuyết cổ điển 9
d. Ba tiêu chí dân chủ 10
e. Quá trình dân chủ hóa 11
f. Tiêu chí phát triển 13
II. CÁC TRƯỜNG HỢP TIÊU BIỂU 14
1. Ba Lan 14
2. Mỹ 17
3. Thụy Điển 20
III. NHÌN NHẬN 22
1. Trường hợp Ba Lan 22
2. Trường hợp Mỹ 22
3. Trường hợp Thụy Điển 23
IV. KẾT LUẬN 24
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

2
I. ĐỊNH NGHĨA
1. Dân chủ hoá

Từ khi dân chủ hóa được chú ý đến một cách rộng rãi vào năm 1991 qua “The
Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century” của Samuel P. Huntington,
hầu hết các học giả quan tâm đến thuyết dân chủ hóa đều có một sự đồng thuận chung về
khái niệm này. Theo đó, dân chủ hóa là quá trình chuyển đổi về mặt thể chế chính trị của
một quốc gia, mà trong đó thể chế này có được những đặc điểm của một thể chế dân chủ
hơn. Sự chuyển biến này phải ở quy mô thể chế chính trị, vì những thành tố của một nền
dân chủ chỉ có thể xuất hiện ở những thể chế cho phép sự tồn tại của những thành tố này.
Tuy nhiên, cụ thể những “thành tố dân chủ” này là gì lại là một trong những điểm tranh
luận chính trong đại đa số các cuộc thảo luận xoay quanh dân chủ hóa. Thuyết dân chủ
hóa được khái quát hóa dựa trên quan điểm về dân chủ của mỗi học giả, từ đó dẫn đến
một số bất đồng nhất định trong cách xem xét và đánh giá các trường hợp chứng minh
cho thuyết này. Thêm vào đó, một trong những trọng tâm của thuyết dân chủ hóa là nhằm
giải thích những điều kiện được tạo ra bởi dân chủ hóa mà từ đó có thể dẫn tới sự phát
triển ở những chủ thể được nói tới, vì thế việc xác định cả những tiêu chí của sự phát
triển là cần thiết nếu muốn đưa ra được một lập luận có giá trị trong cuộc tranh luận này.
Trong quá trình xem xét và tìm hiểu về chủ đề này, ta thấy xuất hiện một số vấn đề như
sau: Một là, cần có một sự thống nhất cơ bản về khái niệm dân chủ, nhằm thỏa mãn được
một cách tối thiểu về mục đích của quá trình dân chủ hóa. Hai là, cần xác định một khung
tiến trình chung nhằm xác định được cơ bản những cột mốc đáng chú ý trong quá trình
dân chủ hóa. Và ba là, phải có những tiêu chí cụ thể cho việc xác định sự phát triển được
tạo nên bởi dân chủ hóa, hay rõ ràng hơn , sự phát triển đang nói tới ở đây là gì.

Ở một mức độ khái quát cao hơn, thuyết dân chủ hóa nổi bật bởi cách nhìn nhận
yếu tố, hay nguyên nhân, dẫn tới quá trình này. Nhiều học giả đứng trên nhiều phương
diện khác nhau đã cho ra một số giả thuyết nhất định cố gắng lý giải cho sự chuyển biến,

3
nhưng về cơ bản chưa thực sự có một thuyết nào mang đủ tính đột phá để làm lắng đi
những cuộc tranh luận xoay quanh chủ đề này. Sự tồn tại của cái mà Huntington gọi là
“làn sóng dân chủ” không phải là mối quan tâm của những nhà nghiên cứu dân chủ hiện
đại và dường như còn khiến cho việc nghiên cứu về sự chuyển đổi dân chủ trở nên phổ
biến hơn vào thế kỷ 20. Nhưng không phải ai trong số những học giả này cũng đồng ý
với giả thuyết của Huntington về nguyên nhân hình thành những làn sóng này. Trong
cuốn sách “Third wave of Democratization”, ông đưa ra ít nhất 27 nguyên nhân mà ông
cho là những yếu tố khả thi để dẫn tới dân chủ hóa. Tuy không phải tất cả đều có tầm
quan trọng như nhau và thậm chí một số còn thể hiện sự đối lập với nhau, nhưng danh
sách này lại là một tiền đề có giá trị để tổng hợp những hướng nghiên cứu khả thi và đưa
ra kết luận mới. Những nghiên cứu đáng chú ý gần đây hướng đến sự lý giải này có thể
được chia thành ba hướng tiếp cận chính: hiện đại hóa, cấu trúc giai cấp và chuyển đổi
(lịch sử) (David et al, 1997).

Lipset, một trong những học giả tiên phong của thuyết hiện đại hóa, cho rằng phải
có phát triển kinh tế thì mới có dân chủ, mà theo đó trong tiến trình phát triển tự nhiên
của một quốc gia, dân chủ là điểm đến cuối cùng và hoàn thiện quá trình này (Lipset,
1959). Tuy nhiên, giả thuyết của Lipset gặp một vấn đề lớn, vì ông không thực sự chỉ ra
được mối liên hệ rõ ràng giữa sự phát triển và nhu cầu chuyển hóa dân chủ, mà chỉ đơn
thuần định vị sự tồn tại mang tính tương quan của hai thành tố này. Theo đó, lý thuyết
của Lipset chỉ ra được sự phát triển của dân chủ tại các quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn
thường được giữ vững và lâu dài hơn, nhưng lại không làm rõ được việc một quốc gia
phát triển sẽ dẫn tới một nhu cầu để từ đó chuyển hóa dân chủ, điều đã được chứng minh
qua nghiên cứu của Adam Przeworski vào năm 2000. Kết luận quan trọng nhất từ nghiên
cứu này đó là xu hướng dân chủ thường xuất hiện trong các quốc gia giàu có không phải
nhờ vào sự phát triển kinh tế, mà là do chế độ dân chủ thường tồn tại được trong những
xã hội thịnh vượng thịnh vượng .

Khác với các học giả theo thuyết hiện đại hóa, những người theo thuyết cấu trúc
sử dụng phương pháp nghiên cứu riêng. Trong công trình nghiên cứu đầu tiên năm 1993

4
năm 1993, Social Origins of Dictatorship and Democracy, Barrington Moore Jr. đã phát
triển một lý thuyết cho rằng tiến trình lịch sử sản sinh ra nhiều tầng lớp tinh hoa trong các
bối cảnh đất nước khác nhau là lý do vì sao những quốc gia lớn lại thiết lập chế độ cộng
hòa nghị viện trong khi các nước khác trở thành những nước cộng sản hoặc độc tài trong
thế kỷ XX. Cấu trúc tầng lớp xã hội còn chủ yếu quyết định vai trò của chính phủ trong
xã hội. sức mạnh tương đối của các tầng lớp được quyết định thông qua việc thương mại
hóa nông nghiệp trong thời kỳ cận hiện đại. Ở một vài trường hợp thì quá trình này được
Moore phân tích chi tiết hơn về quỹ đạo của từng nước, đã tạo ra một giai cấp tư sản
mạnh mẽ, độc lập, đủ khả năng để đối nghịch lại với những quyền lực truyền thống của
các tầng lớp cao hơn và cả sức mạnh của giai cấp nông dân, đồng thời hạn chế sự chuyên
chế của nhà nước. Tóm lại, theo Moore,: “Không tư sản, khỏi dân chủ!”

Trong những nghiên cứu cấu trúc sau này trong thuyết dân chủ hóa, Moore bị chỉ
trích vì quá chú trọng vào tầng lớp tư sản và lờ đi sự quan trọng của giai cấp lao động
trong tiến trình dân chủ hóa, và đề cập rất ít đến vai trò của các dạng quyền lực xuyên
quốc gia khác nhau, bao gồm chiến tranh và chủ nghĩa đế quốc. Tiêu biểu nhất là tác
phẩm Capitalist Development and Democracy với kết luận tầng lớp lao động là tầng lớp
chính tạo ra chủ nghĩa tư bản toàn cầu và từ đó giúp hình thành quá trình dân chủ hóa.
Nghiên cứu này bị chỉ trích nặng nề vì việc diễn giải sai dữ liệu của chính tác giả. Người
tiên phong cho hướng chuyển đổi của thuyết dân chủ hóa, Dankwart Rustow, trong bài
báo “Transitions to Democracy: Toward a Dynamic Model” từ 1970. Theo Rustow, có
hai lý do dẫn đến dân chủ hóa. Một là, thuyết “chuyển đổi chính trị” được phát triển để
đáp lại làn sóng dân chủ thứ ba; Rustow lập luận ngược lại bằng việc xây dựng một
nghiên cứu so sánh với những quá trình dân chủ hóa sớm hơn ở Thụy Điển và Thổ Nhĩ
Kỳ. Hai là, trong khi các nghiên cứu kinh điển đối với thuyết chuyển đổi không tập trung
vào lịch sử, còn lập luận của Rustow chú trọng vào yếu tố lịch sử. Nghiên cứu của
Rustow bao gồm bốn giai đoạn phát triển. Giai đoạn đầu - “điều kiện nền” là giai đoạn
nổi lên về biên giới quốc gia và thống nhất đất nước; ít nhất phải có phần lớn dân số trong
quốc gia đó có chung một bản sắc dân tộc rõ ràng để quá trình dân chủ hóa diễn ra. Giai

5
đoạn thứ hai được Rustow gọi là “chuẩn bị”, được xác định khi có nhiều đụng độ chính
trị xảy ra giữa tầng lớp tinh hoa cũ và mới, trong đó tầng lớp mới sẽ yêu cầu có tiếng nói
lớn hơn về chính trị quốc gia. Tiếp theo là giai đoạn “quyết định”, khi các chủ thể chính
có sự chấp thuận rõ ràng, đặc biệt là các đảng phái, về các luật lệ và thủ tục dân chủ đơn
giản. Cuối cùng, giai đoạn “thích ứng” khi thể chế dân chủ cơ bản đã được thiết lập và
luật chơi được các chủ thể quan trọng tham gia vào.

Vậy cả ba hướng tiếp cận này của thuyết dân chủ hóa đang đối nghịch nhau hay bổ
sung cho nhau? Câu trả lời là cả hai. Mỗi hướng tiếp cận đều mang những ý tưởng và lập
luận khác nhau. Nhưng cả ba hướng tiếp cận đều có những điểm giao nhất định. Dù vậy,
việc gộp cả ba hướng tiếp cận vào một thuyết dân chủ hóa là điều không thể.

2. Dân chủ
a. Các khái niệm dân chủ của Robert Dahl, Philippe Schmitter và Terry
Karl

Các khái niệm dân chủ do các nhà nghiên cứu đề xuất, như nhắc đến ở trên, luôn
thay đổi, thường ít và hầu như không được cô đọng dưới một định nghĩa súc tích. Trong
đó, mỗi học giả chỉ thừa nhận các giá trị cốt lõi nhất của dân chủ như: bầu cử định kỳ, thể
chế có tính đa nguyên, quyền tự do dân sự,.. Nhóm chủ yếu nhắc đến những nhà nghiên
cứu có tính đột phá trong việc đưa ra những khái niệm bao quát về dân chủ, được thừa
nhận rộng rãi trong phạm vi các bài nghiên cứu mà nhóm đã quan sát được, bao gồm khái
niệm về dân chủ được Robert Dahl (2000) đề xuất, cũng như định nghĩa của dân chủ từ
Philippe C. Schmitter và Terry Lynn Karl (1991).

Robert Dahl (2000) cho rằng "dân chủ" là một kiểu lý tưởng mà chưa một quốc
gia nào đạt được. Đối với Dahl, dân chủ là một hệ thống "hoàn toàn đáp ứng cho tất cả
công dân của mình", và điều gần nhất với lý tưởng dân chủ mà bất kỳ quốc gia nào có thể
đạt được là chế độ dân chủ đa nguyên (polyarchy). Dahl đặt ra các tiêu chí rõ ràng về các
yếu tố cấu thành một chế độ đa nguyên, bao gồm các yếu tố cốt lõi: các quan chức được
bầu theo hiến pháp trong chính phủ, các cuộc bầu cử thường xuyên và được tiến hành

6
công bằng, quyền bầu cử cho hầu hết người trưởng thành và quyền ứng cử, quyền thể
hiện bản thân mà không bị đe dọa bạo lực, quyền tìm kiếm các nguồn thông tin thay thế,
tự do thành lập hiệp hội và tổ chức, và quyền công dân toàn diện.

Đối với định nghĩa về dân chủ của Schmitter và Karl, nhóm đánh giá cao bài viết
của hai tác giả; đây là một tiền đề phù hợp với người mới bắt đầu tìm hiểu những khái
niệm cơ bản nhất của dân chủ hiện đại. Định nghĩa về dân chủ do Schmitter và Karl đề
xuất như sau: “Dân chủ hiện đại là một hệ thống quản trị trong đó những người quản trị
phải chịu trách nhiệm cho hành động của công dân, được thể hiện gián tiếp thông qua sự
cạnh tranh và hợp tác của các đại diện dân biểu”.

Tuy nhiên, định nghĩa của Karl và Schmitter không đủ bao quát về các nền dân
chủ hiện đại. Định nghĩa ngụ ý rằng việc mà các nhà lãnh đạo phải chịu trách nhiệm,
thông qua quyền bỏ phiếu, là đủ để cấu thành nền dân chủ. Nếu chỉ xem xét trách nhiệm
giải trình của các quan chức thì sẽ không đủ để khái quát hóa dân chủ. Khái niệm “trách
nhiệm giải trình” nhấn mạnh một hành động theo chu kỳ của nền dân chủ, các cuộc bầu
cử định kỳ, được quy định để tưởng thưởng hoặc trừng phạt những người đương nhiệm vì
hành động của họ bằng cách bầu chọn để họ tái đắc cử hoặc thay thế họ bằng cách bầu
chọn cho một người mới vào hệ thống chính trị. Tuy nhiên, bằng cách lạm dụng duy nhất
một quy trình bỏ phiếu theo định kỳ này, Schmitter và Karl đang giảm nghĩa vụ của công
dân đối với hành động bỏ phiếu đơn giản, mà đối với nhóm, hành động này chỉ có thể
đảm bảo một tiêu chuẩn tối thiểu của dân chủ. Để vượt ra ngoài mức tối thiểu này, công
dân cần tham gia của vào các khía cạnh khác nhau của xã hội dân sự.

Dựa trên định nghĩa tối giản về dân chủ là gì, nếu lật ngược lại vấn đề, ta sẽ có
được định nghĩa về cái gì không phải là dân chủ? Tuy nhiên, Schmitter và Karl đưa ra
một lời phê bình, đáng chú ý như sau: "Các nền dân chủ không nhất thiết phải hiệu quả
hơn về mặt kinh tế so với các hình thức chính phủ khác. Tốc độ tăng trưởng tổng hợp, tiết
kiệm và đầu tư của họ cũng có thể không tốt hơn tốc độ của các nền phi dân chủ". Điều
này đề cập đến bản chất của mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ, một mối

7
quan hệ mà nhóm muốn quan sát kĩ càng hơn. Mặc dù cả hai dường như đã có những sự
liên kết nhất định trong dòng chảy của lịch sử, nhưng liệu chúng có xảy ra song song với
nhau không? Nhóm tin rằng có một hệ thống phụ thuộc một chiều; một quốc gia có thể là
tư bản chủ nghĩa nhưng không dân chủ, nhưng một quốc gia không thể dân chủ nếu nó
không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Theo nhóm nhận định, dân chủ đòi hỏi một
điều kiện rằng quyền lực, vai trò của nhà nước phải bị hạn chế ở một mức nhất định ở nền
kinh tế thị trường; nếu một nền kinh tế mà trong đó phần lớn quyền kiểm soát rơi vào tay
chính phủ, và từ đó làm mất đi đáng kể những xu hướng tự do cơ bản phổ biến mà ta có
thể thấy đang hiện hữu ở hầu hết các nền dân chủ thành công ngày nay.

b. Khái niệm dân chủ của Schumpeter

Schumpeter chính là cha đẻ của “mô hình đa nguyên tinh hoa cân bằng" (pluralist
elitist equilibrium model) đã xem xét nền dân chủ trong bối cảnh của chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản. Ông đã rút ra nhận xét rằng dân chủ có mối quan hệ mật
thiết với chủ nghĩa tư bản (Schumpeter, 1942). Mối quan hệ này được thể hiện thông qua
việc dân chủ hiện đại chính là công cụ chính trị được giới tư sản tận dụng để có thể định
hình và lý tính hoá quá trình thay đổi chính trị và thể chế, qua đó xây dựng lại cấu trúc
chính trị và xã hội. Chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản của đã thúc đẩy dân chủ, bởi vì
dân chủ phù hợp với các giá trị và nhu cầu khách quan của chủ nghĩa tư bản và là một
nhân tố hoạt động hiệu quả trong các cuộc đấu tranh giành quyền thống trị của giai cấp
lãnh đạo tư sản với giai cấp thống trị của phong kiến ​trước đó.

Vai trò của công dân trong nền dân chủ theo Schumpeter là "tạo ra một chính phủ
hoặc một cơ quan trung gian (hoặc quốc hội), từ đó sẽ tạo ra một hệ thống điều hành quốc
gia hoặc chính phủ." Dân chủ vì vậy là “sự sắp xếp thể chế để đi đến các quyết định
chính trị, trong đó các cá nhân có được quyền quyết định qua một cuộc đấu tranh để
giành lá phiếu của nhân dân”. Nói cách khác, dân chủ được đặc trưng bởi sự tồn tại của
bầu cử cạnh tranh để giành các chức vụ hành pháp và lập pháp thay vì được bổ nhiệm
theo kiểu kế vị cha truyền con nối, bằng biện pháp bạo lực cách mạng, v.v. Theo

8
Schumpeter, đây là một định nghĩa mang tính mô tả, tức nó mô tả một cách khách quan
các nền dân chủ hiện đại, và như thế, tránh được những định nghĩa mang tính chủ quan,
quy phạm quy định một nền dân chủ lý tưởng phải ra sao theo thế giới quan của từng tác
giả.

Schumpeter sau đó tiếp tục chỉ trích cách hiểu cổ điển về dân chủ: “Chế độ dân
chủ không có nghĩa là và không thể có nghĩa là nhân dân thực sự cai trị theo bất kỳ nghĩa
rõ ràng nào của các thuật ngữ “nhân dân” và “cai trị”. Nhưng vì họ cũng có thể quyết
định điều này theo những cách hoàn toàn phi dân chủ, nên chúng tôi đã phải thu hẹp định
nghĩa của mình bằng cách bổ sung thêm một tiêu chí xác định phương pháp dân chủ,
nghĩa là, các nhà lãnh đạo tương lai được tự do cạnh tranh để giành được lá phiếu của cử
tri. Từ định nghĩa này về dân chủ, chúng ta thấy rõ ràng rằng trong suy nghĩ của
Schumpeter, không có cách nào để tổ chức nền dân chủ ngoài việc có một hệ thống đại
diện.

Điểm đặc biệt trong lý thuyết về dân chủ của Schumpeter là tinh hoa “ở chỗ nó chỉ
định quá trình tự lựa chọn các nhóm lãnh đạo đóng vai trò chính trong nền chính trị". Lý
thuyết của Schumpeter còn đa nguyên “ở chỗ nó bắt đầu từ giả định rằng xã hội phù hợp
với hệ thống chính trị dân chủ hiện đại phải là một xã hội đa nguyên, nghĩa là một xã hội
bao gồm các cá nhân bị lôi kéo theo nhiều hướng bởi nhiều lợi ích". Nó cũng mang tính
đa nguyên theo quan niệm về một cuộc cạnh tranh giữa các nhà lãnh đạo chính trị để
giành lấy lá phiếu của nhân dân.

c. Lý thuyết cổ điển

Lý thuyết cổ điển về dân chủ đã trải qua nhiều biến đổi và có vô số phiên bản. Ba
đặc điểm nổi bật của nền dân chủ cổ điển là tính tập trung vào “lợi ích chung” (common
goods) hay “ý chí chung” (general will), sự tham gia tối đa vào chính quyền của dân
chúng, và thảo luận, tranh luận lý tính về chính trị.

Định nghĩa chính xác về lợi ích chung và cách xác định nó là vấn đề được thảo
luận về sự tham gia chính trị trong nhiều thế kỷ. Nhiều tác giả quan tâm đến dư luận, tin

9
rằng dư luận và lợi ích chung gần như có thể thay thế cho nhau - rằng dư luận đơn giản
nhất là một xã hội đồng thuận về các giá trị và mục tiêu (Herbst, 1991).

Trung tâm của lý thuyết dân chủ cổ điển là sự tham gia của nhân dân. Cả Plato và
Aristotle đều ưu tiên một chính thể có quy mô nhỏ để công dân có sự tiếp xúc lẫn nhau và
có nhiều cơ hội để tham gia vào các cuộc tranh luận chính trị và đưa ra quyết định.

Davis (1964) ghi nhận rằng trong lý thuyết dân chủ cổ điển, con người chỉ có thể
phát triển về mặt đạo đức thông qua hành động chính trị. Sự tham gia tối đa của các cá
nhân trong quá trình chính trị tạo ra một diễn ngôn hợp lý, tự do về các vấn đề và lợi ích
chung mà chính thể phải đối mặt.

d. Ba tiêu chí dân chủ

Dựa trên sự phân tích và tổng hợp các lý thuyết trên, nhóm đã xây dựng nên 3 tiêu
chí tối thiểu mà nhóm cho rằng một nền dân chủ phải thoả mãn. Lý giải cụ thể cho sự lựa
chọn của nhóm sẽ được nhắc đến trong phần II: Các trường hợp tiêu biểu.

1. Bầu cử định kỳ, tự do, công bằng


2. Tự do cạnh tranh (thể chế đa nguyên)
3. Tồn tại quyền tự do dân sự và quyền bầu cử của người dân

Đầu tiên, nhóm tổng kết được một điểm chung từ những lý thuyết dân chủ cổ điển,
cũng như nghiên cứu của tác giả Robert A. Dahl và Schumpeter, nền dân chủ phải có cơ
chế bầu cử tự do và công bằng, nghĩa là việc bầu cử phải được diễn ra mà không có sự
can thiệp, cưỡng ép và trừng phạt. Các công dân có thể tự do ứng cử vị trí trong chính
phủ và cạnh tranh công bằng. Việc bầu cử cũng cần phải diễn ra định kỳ để có thể đảm
bảo quyền lực được phân phối trong chính quyền, không có sự tập trung quyền lực về
một cá nhân hay tổ chức nhất định. Đây chính là trọng tâm của cả ba lý thuyết đã nêu,
đều ưu tiên một mô hình nơi mà người dân có quyền tham gia và lựa chọn người lãnh đạo
cho mình một cách định kỳ.

10
Về yếu tố thứ hai, nền dân chủ cần có thể chế đa nguyên. Theo nghiên cứu của
Robert Dahl, cũng như Schumpeter đã có nhắc đến, các cá nhân và đảng phái có thể tự do
cạnh tranh để nắm quyền lực. Điều quan trọng là các cá nhân và đảng phái này phải có
quyền thực hiện quyền lực hợp pháp của mình. Lý thuyết cổ điển về dân chủ đã thất bại
trong việc xem xét và đề cập đến vấn đề này do có trường hợp những nhà lãnh đạo chính
trị chỉ tồn tại như bình phong hoặc con rối của một số nhóm xã hội khác mà không thể
thực hiện quyền lực thật sự.

Yếu tố thứ ba, theo Robert Dahl và lý thuyết cổ điển có đề cập, nền dân chủ cũng
phải tồn tại quyền tự do dân sự và quyền bầu cử cho người dân. Người dân có thể tự do
lựa chọn người đứng đầu thông qua bầu cử cũng như ứng cử mà không bị trừng phạt hay
cưỡng ép. Người dân cũng có quyền lựa chọn và thể hiện thái độ và suy nghĩ của bản
thân đối với đảng phái và tổ chức, nhóm chính trị. Ngoài ra, người dân cũng có những
quyền cơ bản khác như quyền tìm kiếm thông tin, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội
họp,...

e. Quá trình dân chủ hóa

Mặc dù việc đi sâu vào và cố gắng giải mã quá trình dân chủ hóa của một quốc gia
giữa các học giả có những điểm bất đồng nhất định, song vẫn có những điểm tương đồng
trong cấu trúc phân tích và vạch ra những cột mốc quan trọng của quá trình này. Cụ thể
hơn, quá trình dân chủ hóa có thể chia thành bốn giai đoạn: bối cảnh, chuyển đổi dân chủ,
những điều kiện được tạo ra bởi dân chủ hóa, và phát triển. Bối cảnh, hay điểm xuất phát
của quá trình dân chủ hóa, là lúc mà dân chủ hóa được đặt ra như một nhu cầu của xã hội.
Một số luồng quan điểm cho rằng do tính chất thay đổi về mặt thể chế của dân chủ hóa,
điểm xuất phát của quá trình này sẽ rơi vào lúc mà thể chế chính trị đó gặp khủng hoảng.
Điều này được minh họa rất rõ qua trường hợp của Ba Lan khi mà sự khủng hoảng trên
nhiều phương diện của quốc gia này vào giai đoạn 1980 đã tạo ra một áp lực cải cách lên
chính quyền, thúc đẩy nhu cầu chuyển đổi cấu trúc của thể chế chính trị tại quốc gia này.
Tuy nhiên, một số trường hợp được coi là dân chủ hóa lại không diễn ra do khủng hoảng,

11
mà đến từ sự thay đổi một số điểm nhỏ trong thể chế chính trị của quốc gia đó theo
hướng “nhiều” dân chủ hơn, như trường hợp của các nước Bắc Âu. Nội dung của bài viết
này tập trung xem xét các ví dụ dân chủ hóa để hướng tới một cách hiểu toàn diện hơn về
thuyết này, vì vậy việc khái quát hóa điểm bắt đầu của sự chuyển đổi này thành “bối
cảnh” là một điều cần thiết để phù hợp với những trường hợp được chọn nhằm thể hiện
những hướng tiếp cận khác nhau của các học giả.

Tiếp theo đó là chuyển đổi dân chủ, bao gồm những biện pháp hoặc chính sách
được đưa ra theo hướng dân chủ hóa thể chế chính trị. Những chính sách này có thể mang
tính đối phó, cũng có thể là những sự thay đổi nhằm tạo ra một môi trường chính trị có
lợi hơn cho quốc gia đó vào giai đoạn kể trên. Một điều cần lưu ý, dựa theo cách hiểu về
quá trình dân chủ hóa rằng một thể chế chính trị đang chuyển đổi hướng tới một hình thái
khác mang nhiều màu sắc dân chủ hơn, sự chuyển đổi dân chủ này có thể bao gồm cả
cách mà quốc gia này sử dụng một phương tiện nào đó để đạt được mức độ dân chủ cao
hơn trước đó, chứ không chỉ riêng biệt là chuyển đổi từ phi dân chủ thành dân chủ.

Việc chuyển đổi dân chủ này tất nhiên sẽ phải mang lại một số lợi ích nhất định,
và những lợi ích này là tiền đề để hình thành nên sự phát triển của những quốc gia thực
hiện chuyển đổi. Những tiền đề này được khái quát hóa thành “điều kiện cho sự phát triển
được tạo ra bởi dân chủ hóa” trong bài viết này, như là một nỗ lực xâu chuỗi lại quá trình
dân chủ hóa của một quốc gia. Tất nhiên việc tách biệt tất cả các biến xảy ra sau quá trình
dân chủ hóa để chỉ rõ rằng sự phát triển của một quốc gia được tạo ra từ đó là điều bất
khả thi, khi mà sự đan xen của những yếu tố kinh tế chính trị xã hội trong một quốc gia
rất phức tạp. Tuy nhiên, có thể khái quát hóa một số nhóm yếu tố tiềm năng nếu chúng có
thể liên kết với sự phát triển sau đó, từ đó hình thành một chuỗi sự kiện ít mang tính giả
định hơn và phần nào đó thể hiện tính khả thi trong việc chứng minh mối liên hệ giữa dân
chủ và phát triển. Và cuối cùng, sau tất cả, là sự phát triển của quốc gia sau quá trình dân
chủ hóa. Tuy sự phát triển của một quốc gia có thể được cân đo đong đếm dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhưng trong nội hàm của bài viết này, sự phát triển sẽ chủ yếu tập
trung vào các yếu tố kinh tế nhiều hơn.

12
f. Tiêu chí phát triển

Có rất nhiều yếu tố để đánh giá sự phát triển của một quốc gia, được chia thành
yếu tố phi kinh tế và kinh tế. Các yếu tố phi kinh tế là chính trị, xã hội hoặc tôn giáo.
Trong đó, môi trường chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, theo đó, một
nền chính trị ổn định sẽ tạo niềm tin của người dân vào các chính sách của chính phủ.
Ngoài ra, một quốc gia dân chủ còn có vốn con người cao hơn, lạm phát thấp hơn, chính
trị ổn định hơn và có mức độ tự do kinh tế cao hơn. Thông qua quá trình dân chủ hóa,
trình độ học vấn và tuổi thọ tăng lên khi cải thiện các cơ sở giáo dục cũng như chăm sóc
sức khỏe. Những người lao động được trao quyền có khả năng đòi hỏi điều kiện sống tốt
hơn, góp phần tăng tuổi thọ và do đó, tăng năng suất lao động, từ đó dẫn đến sự phát triển
của quốc gia.

Mặc dù có nhiều tiêu chí phát triển sau khi dân chủ hóa như thu nhập bình quân
đầu người, tỷ lệ biết chữ cũng như khả năng tiếp cận được với y tế, hầu hết các cuộc
tranh luận về sự phát triển của một quốc gia, tiêu chí phát triển về kinh tế tài chính luôn
chiếm ưu thế. Đây là tiêu chí dễ dàng nhận thấy thông qua việc phân tích số liệu mà
không cần một thang đo cụ thể như các tiêu chí về phát triển con người hay giáo dục.
Ngoài ra, một quốc gia có được tiềm lực kinh tế vững mạnh thì mọi hoạt động của quốc
gia cũng trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn. Thông thường, tiêu chí đánh giá mức độ phát
triển kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập
bình quân đầu người. Do đó, các quốc gia có GDP bình quân đầu người cao được coi là
nước phát triển. Một nền kinh tế có những giai đoạn tạm lắng và suy thoái tự nhiên,
nhưng về lâu dài, GDP tăng lên có nghĩa là nhiều tiền hơn đang đổ vào nền kinh tế, nhiều
việc làm hơn và tỷ lệ có việc làm ngày càng tăng. Đây là tất cả các dấu hiệu quan trọng
của một nền kinh tế phát triển. Dẫu vậy, một nền kinh tế sau dân chủ có thể được xem là
phát triển miễn là tỷ lệ tăng GDP dương, khoảng từ 2-3% là lý tưởng. Khi đó, nền kinh tế
đang trong tình trạng “khỏe mạnh”.

13
Vì vậy, nhóm sẽ không so sánh rằng liệu một quốc gia có đi từ một quốc gia trong
nhóm đang phát triển lên nhóm phát triển mà sẽ so sánh sự phát triển của một quốc gia so
với tình trạng trước đó của nó.

II. CÁC TRƯỜNG HỢP TIÊU BIỂU

1. Ba Lan

Giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô-viết
năm 1991 đã gây nên khủng hoảng ở các quốc gia hậu Xô-viết (Sachs, 1994). Các đảng
phái chính trị không đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phục hồi
và dân chủ hóa ở các quốc gia Đông Âu: thực chất, quyền hạn của các đảng phái trong
giai đoạn này tương đối bị hạn chế và phải phụ thuộc vào cách giải quyết của chính
quyền cũ (Lewis, 2001). Điều này dẫn đến sự suy thoái trầm trọng của các nền kinh tế,
đòi hỏi cần có sự cải cách tức thời.

Một số học giả cho rằng dân chủ hóa ở Đông Âu sau Chiến tranh Lạnh là điều
không thể tránh khỏi. Hệ thống đơn đảng và sự lãnh đạo kéo dài của chế độ cộng sản đã
dẫn đến thái độ chống lại đảng, vì thế các quốc gia hậu Xô-viết sẽ không bài trừ các
nguyên tắc dân chủ mới, ít nhất là về mặt lý thuyết (Lewis, 2001: 545-549). Trong bối
cảnh khủng hoảng đã nêu trên, việc dân chủ hóa trong khuôn khổ đa nguyên chính trị là
biện pháp tối ưu nhất các quốc gia này có thể áp dụng.

Từ năm 1980, Ba Lan trải qua ba cuộc khủng hoảng, bao gồm khủng hoảng tài
chính, khủng hoảng hệ thống và khủng hoảng cấu trúc (Sachs, 1994).

Khủng hoảng tài chính: Ba Lan đối mặt với tình trạng siêu lạm phát sau sự sụp đổ
của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô với tỷ lệ lạm phát 54% vào tháng 10 năm 1989; cùng
với nợ của chính quyền đương thời, sự thiếu hụt trầm trọng hàng hóa tiêu dùng cho người
dân, sự phát triển của thị trường chợ đen và nạn đói lan rộng.

Khủng hoảng hệ thống: Sự độc quyền của chính phủ trong giai đoạn kinh tế khó
khăn đã làm tăng tỷ lệ nghèo của quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao khi công nhân trong

14
doanh nghiệp nhà nước đã bắt đầu các cuộc đình công đòi quyền lợi từ năm 1980
(Kramer, 2002). Điều này đòi hỏi Ba Lan phải chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, tức
là giảm sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và tạo điều kiện cho sự phát triển của
doanh nghiệp tư nhân.

Khủng hoảng cấu trúc: Vì sử dụng nguồn lực tài chính cho cơ sở hạ tầng phục vụ
cho các ngành công nghiệp nặng và quân sự thời kỳ Xô-viết thay vì tập trung vào các
ngành hàng tiêu dùng và dịch vụ, Ba Lan giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh không thể
đáp ứng được nhiều nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của người dân (Sachs, 1994: 272).

Sau một loạt các cuộc đình công làm tê liệt nền kinh tế quốc gia này, Công đoàn
Đoàn kết Ba Lan ra đời, được thành lập vào năm 1980, hoạt động ngầm với sự hỗ trợ của
các tổ chức lao động Tây Âu và các nhóm lao động trong nước.

Các thỏa thuận được ký kết tại Hội nghị Bàn tròn giữa chính phủ đương thời và
Công đoàn Đoàn kết vào ngày 04/4/1989 đã đem lại nhiều kết quả có lợi cho tiến trình
dân chủ hóa khi đã tạo nên sự thay đổi thể chế của Ba Lan. Chuyển hóa từ sự lãnh đạo
đơn nhất của Đảng Cộng sản, từ năm 1989 tại Ba Lan đã chính thức có tự do chính trị khi
chính phủ công nhận quyền bầu cử tự do cho 35% số ghế Quốc hội (Sejm), thành lập Hạ
viện và bầu cử tự do cho Thượng viện mới, cơ quan Tổng thống mới, và thừa nhận Công
đoàn Đoàn kết như một đảng chính trị hợp pháp. Việc này đã tạo nên một bước ngoặt lớn
khi có sự xuất hiện của đa nguyên chính trị ở Ba Lan.

Quá trình dân chủ hóa là tiền đề cho sự phát triển nhanh vượt bậc của Ba Lan khi
tạo ra hai điều kiện sau. Điều kiện đầu tiên là cải cách kinh tế; các thỏa thuận năm 1989
là lời đáp trả của chính quyền Ba Lan đối với yêu cầu thay đổi của nhân dân. Nhằm giải
quyết các khủng hoảng trong nước, năm 1990, với đề xuất của IMF, World Bank và Bộ
Tài chính Mỹ, Ba Lan áp dụng chương trình cải cách kinh tế “Đồng thuận Washington”
bao gồm gói mười chính sách giải quyết khủng hoảng kinh tế, về sau hướng cải cách này
được gọi là “Liệu pháp sốc”. Với mục tiêu chuyển đổi thành nền kinh tế thị trường tự do,
chính phủ Ba Lan giảm thiểu sự can thiệp của mình vào các hoạt động trong thị trường,

15
đưa ra các chính sách trợ giá, đảm bảo tín dụng và điều chỉnh mức thuế cho doanh
nghiệp, mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tức là ban hành luật thương mại, hệ thống tư
pháp mới để thực thi luật pháp mới và cơ cấu sở hữu tư nhân mới để thay thế nhà nước
(Ekiert & Kubik, 1999: 139; Sachs, 1994). Kết quả đạt được nằm ngoài dự đoán của
nhiều học giả lúc bấy giờ, khi Ba Lan có thể thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài,
giải quyết tình trạng siêu lạm phát (giảm xuống còn 4% vào giữa năm 1990), chuyển đổi
thành công sang kinh tế thị trường và phần nào đáp ứng nhu cầu thiết yếu, gia tăng chất
lượng cuộc sống của người dân.

Ở một góc nhìn khác, nhiều học giả cho rằng tình trạng đình công ở Ba Lan không
hẳn là quá trầm trọng, do mức lương cơ bản vẫn được giữ ở ngưỡng chấp nhận được
(Ekiert & Kubik, 1999: 138-139). Điều này dẫn tới nhận định rằng cải cách kinh tế ở Ba
Lan trong giai đoạn này không hẳn là triệt để, mà chỉ là cải cách trên một số phương diện
nhất định, và thành công dựa trên tiềm lực sẵn có. Dù vậy, một số phản ứng nhất định từ
phía công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn khiến cho tốc độ tư hữu hóa bị
giảm đáng kể do tác động trực tiếp từ phía hội đồng công nhân, quy trình nghị sự chuẩn,
và các doanh nghiệp nước ngoài.

Điều kiện tiếp theo là sự hỗ trợ của Mỹ và đồng minh. Việc chuyển hóa dân chủ là
một điều kiện cần thiết cho Ba Lan và các nước trong khu vực Đông - Trung Âu và các
quốc gia Balkan có được tấm vé gia nhập Liên minh Châu Âu, và các chính sách đưa ra
trong giai đoạn này phải tương thích với quá trình phát triển của Liên minh (Ágh, 1999:
276). Ba Lan với tốc độ dân chủ hóa nhanh chóng, đã trở thành một nhân tố đầy tiềm
năng để gia nhập với phương Tây. Bằng việc tích cực áp dụng đề xuất của IMF, Ba Lan
đã “để lại ấn tượng tốt” cho bá quyền thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến dễ dàng nhận được sự
hỗ trợ từ Mỹ và các đồng minh Tây Âu trong việc hòa nhập và phát triển.

Ba Lan sau khi chuyển hóa dân chủ đã đạt được một số tiêu chí phát triển đáng kể.
Từ đầu năm 1992, GDP hằng năm của Ba Lan tăng so với giai đoạn trước đó, khiến quốc

16
gia này có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất Châu Âu. Bằng việc tái cơ cấu nền kinh tế, khu
vực tư nhân phát triển nhanh chóng, từ 30% năm 1990 lên 56% vào cuối năm 1994, tạo ra
công ăn việc làm cho hơn 60% lực lượng lao động trong khu vực này. Giai đoạn
1993-1994, tỷ lệ tăng trưởng lương của Ba Lan đạt 22.3% so với sự sụt giảm 30% đối với
lương trung bình trước đó. Đồng thời, sự ổn định kinh tế trong nước đã giúp Ba Lan lấy
lại được sự tin tưởng của doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư nước ngoài trong giai đoạn
này ngày càng tăng (Angresano, 1996: 7-14). Có thể thấy, dù nhìn nhận ở bất cứ góc độ
nào cũng không thể phủ nhận những phát triển đáng kể về mặt kinh tế và xã hội của Ba
Lan sau khi tiến hành cải cách.

2. Mỹ

Một trong những trường hợp đặc biệt trong mô hình dân chủ hoá dẫn đến phát
triển là Hợp chúng quốc Mỹ. Là một trong những nền dân chủ đầu tiên trên thế giới1, thể
chế cộng hòa của nước này có những đặc trưng nổi bật, một phần ảnh hưởng bởi Các
Kiến Quốc Phụ khi kế thừa những giá trị của Hy Lạp - La Mã cổ đại, chủ nghĩa Phục
hưng và trường phái Anh quốc (Steinhoff et al., 2004), đồng thời ra đời theo yêu cầu cấp
thiết là giải phóng mười ba thuộc địa Bắc Mỹ khỏi Đế quốc Anh trong thời điểm đó. Có
thể nhận định, nền dân chủ Mỹ ra đời trong điều kiện phù hợp cho sự kiến tạo của một
nền cộng hoà, từ đó chính thể chế này đã dọn đường cho sự phát triển lâu dài của nền
kinh tế Mỹ (Shalhope, 1972; Hartz, 1955). Sau đây ta sẽ tìm hiểu từng giai đoạn dân chủ
hóa, cũng như sự phát triển kinh tế theo sau ở Mỹ trong giai đoạn từ 1780-1830.

Đầu tiên, ta cần phải làm rõ nguyên nhân cải cách thể chế. Hợp chúng quốc Mỹ ra
đời sau Chiến tranh giành độc lập của mười ba thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, không phải kế
thừa hay cải cách từ một thể chế trước đó. Khi ra đời nền cộng hòa non trẻ, nước Mỹ khi
đó chỉ mới hình thành được căn tính riêng của quốc gia, tức hoàn thành được giai đoạn
thứ nhất “điều kiện nền” theo thuyết Chuyển đổi Dân chủ của Dankwart Rustow, và đang
hoàn thành bước thứ hai đó là “chuẩn bị”, tức diễn ra xung đột chính trị gay gắt giữa giới

1
Căn cứ theo số liệu từ Owings v. Speed, 18 U.S. 420, 2022. Justia Law.
https://supreme.justia.com/cases/federal/us/18/420/

17
tinh hoa cũ và mới, trong đó giới tinh hoa mới yêu cầu tiếng nói lớn hơn, gay gắt hơn, đòi
hỏi một quốc gia độc lập, tự chủ (Rustow, 1970).

Tiếp theo, Mỹ xây dựng một thể chế dân chủ kế thừa các giá trị trước đó từ các
nhà lập quốc. Trên hết, Hiến pháp Mỹ, có hiệu lực năm 1789, là văn bản luật cao nhất,
đặt nền móng cho một nền cộng hòa liên bang mạnh, thay thế cho thể chế yếu hơn dưới
Điều khoản Hợp bang và Liên bang phê chuẩn năm 1781. Tuyên ngôn Nhân quyền của
Mỹ, đã đảm bảo một số quyền tự nhiên cơ bản đối với các lý tưởng cộng hoà đã giúp
Cách mạng Mỹ thành công. Theo Hiến pháp, Mỹ đã đảm bảo ba tiêu chí của một nền dân
chủ mà nhóm đã đề cập: bao gồm bầu cử định kỳ, tự do, công bằng, tự do cạnh tranh (đa
nguyên) và sự tồn tại quyền tự do dân sự và quyền bầu cử của người dân.

Tiếp theo, ta sẽ đề cập đến những điều kiện được nền dân chủ Mỹ hậu Cách mạng
tạo ra và giúp nền kinh tế nước này phát triển. Từ lúc lập quốc, sau khi hình thành được
một nền dân chủ hiện đại và phát triển một bản sắc văn hóa chính trị, họ bắt đầu xác định
lý tưởng dân chủ của quốc gia và thay đổi xã hội và các thể chế chính trị sao cho phù hợp
với các giá trị ấy. Các sự thay đổi và thích ứng này tạo một điều kiện thích hợp để nước
này phát triển về mặt kinh tế và xã hội.

Biểu hiện đầu tiên nằm ở quyền bầu cử, quyền tiên quyết ở một thể chế dân chủ.
Quyền bầu cử được mở rộng từ các đối tượng có quyền sở hữu tài sản sang tất cả người
đàn ông da trắng trưởng thành, đi kèm với sự xuất hiện của các đảng phái chính trị. Đây
cũng là lúc Mỹ bước sang giai đoạn thứ ba theo thuyết Chuyển đổi Dân chủ của
Dankwart Rustow có tên gọi “giai đoạn quyết định”. Khi đó, các đảng phái chính trị dần
hình thành và tranh luận về các vấn đề quốc gia như thuế quan, quyền hạn của chính phủ
liên bang và quan hệ với các nước châu Âu. Trong những năm 1820-1830, các đảng
chính trị mới ra đời là Đảng Dân chủ do Andrew Jackson lãnh đạo và Đảng Whigs do
Henry Clay lãnh đạo.

Trên hết, sự kiện có thể nói đã thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội Mỹ đáng kể chính
là “Cuộc cách mạng thị trường” diễn ra trong những thập niên 20 và 30 của thế kỷ XIX.

18
Charles Grier Sellers lập luận rằng đây là một trong những biến đổi quan trọng nhất của
nước Mỹ trong nửa đầu thế kỷ XIX là sự kiện quyết định của lịch sử thế giới - sự chuyển
hóa từ xã hội nông nghiệp sang xã hội tư bản chủ nghĩa (Sellers, 1992). Nền kinh tế Mỹ
phát triển từ mô hình kinh doanh thủ công, nơi các công dân cá nhân chuyên sản xuất
hàng thủ công dành cho thị trường nội địa ở quy mô nhỏ, sang một môi trường tư bản chủ
nghĩa hơn, nơi các cá nhân giàu có sử dụng vốn để tạo ra các nhà máy lớn và tăng sản
lượng. Hơn nữa, một trong những nguyên nhân chính của Cách mạng Thị trường chính là
sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong khoảng thời gian này.

Chính những thay đổi này đã dẫn đến những thay đổi về kinh tế xã hội sau đó.
Kinh tế tăng trưởng đáng kể ở tốc độ trung bình từ 0,8 đến 2,1% mỗi năm. Trong những
năm 1840, tốc độ tăng trưởng kinh tế này tăng lên và chững lại ở mức 1,6% trong những
năm 1880. Hầu hết xu hướng tăng tốc có thể là do tăng trưởng vốn cổ phần. Một số yếu
tố đã thúc đẩy đầu tư ròng tăng lên, nhưng yếu tố quan trọng nhất, chiếm một nửa mức
tăng, là sự đổi mới công nghệ (Lindstrom, 1983). Những đổi mới trong công nghệ và
thương mại đã tăng tốc mạnh mẽ nền kinh tế Mỹ, tạo ra những thay đổi rộng rãi đối với
xã hội và căn tính quốc gia và khu vực. Hệ thống pháp luật và tư pháp hỗ trợ phát triển
đường bộ, kênh đào và đường sắt, giúp mở rộng và mở rộng thị trường, đồng thời giúp
thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau trong khu vực. Các mạng lưới giao thông kết nối miền
Bắc và Trung Tây chặt chẽ hơn so với cả hai mạng lưới này được kết nối với miền Nam.
Những thay đổi do cuộc cách mạng thị trường gây ra đã có những tác động đáng kể đến
xã hội Hoa Kỳ, cuộc sống của người lao động cũng như giới tính và quan hệ gia đình.

Tóm lại, có thể thấy trường hợp của Mỹ đặc biệt hơn so với các nền dân chủ
phương Tây. Trong giai đoạn sau độc lập và trước Nội chiến Mỹ, nền dân chủ non trẻ của
nước này đã có những biến đổi mạnh mẽ, từ hình thành một nền văn hóa chính trị riêng,
đến xuất hiện hệ thống đảng phái và các thể chế chính trị cho phép sự phát triển của nền
kinh tế.

19
3. Thụy Điển

Trường hợp của Thụy Điển có một số điểm tương đồng nhất định với các nước
Bắc Âu khác như Đan Mạch và Na Uy. Tương tự như trường hợp Mỹ, ta phân tích theo
từng giai đoạn của quá trình dân chủ hóa để làm rõ mối liên hệ giữa quá trình trên với
tăng trưởng kinh tế.

Về nguyên nhân cải cách thể chế, quá trình dân chủ hóa của Thụy Điển diễn ra sau
một quá trình cải cách chế độ lâu dài, khi quyền bầu cử được mở rộng thông qua một loạt
các đạo luật cải cách vào năm 1866, 1909 và 1918 tương tự như ở Anh. Vào năm 1907,
giới tinh hoa cũ, đại diện bởi Đảng Bảo thủ, đã chấp nhận quyền bầu cử chung của nam
giới, tuy nhiên quyền bầu cử vẫn bị hạn chế nghiêm trọng do phụ nữ và người nghèo
không được tham gia (theo Thuyết Chuyển đổi Dân chủ, đây là lúc nước này bước sang
“giai đoạn quyết định”). Phải đến giai đoạn 1918-1920, nguyên tắc chính phủ nghị viện
mới được chấp nhận hoàn toàn. Khi đó, nước này mới đáp ứng được các yếu tố cơ bản
của một nền dân chủ như nhóm đã đề cập như: bầu cử định kỳ, tự do, công bằng, đa
nguyên, có quyền tự do dân sự và quyền bầu cử của người dân. Sự chuyển đổi của Thụy
Điển diễn ra chủ yếu để đáp lại những áp lực chính trị trong nước mà không phải chịu tác
động từ tình hình thế giới lúc đó (Rustow, 1971).

Việc phát triển của Thụy Điển không chỉ nhờ vào quá trình dân chủ hóa mà còn
chịu ảnh hưởng của nhiều biến khác. Trước khi dân chủ hóa, Thụy Điển đã có những nền
tảng kinh tế nhất định, gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Trong khoảng
50 năm trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Thụy Điển là quốc gia công nghiệp có giai
đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với mức tăng sản phẩm quốc dân bình quân đầu
người mỗi thập kỷ (26,2 %) gấp hơn hai lần so với Vương quốc Anh (12,5 %) và chỉ kém
một chút so với Hoa Kỳ (27,5 %) (Rustow, 1971).

20
Nguồn ảnh: Maddison, Angus. The World Economy, Volumes 1 and 2. Paris: OECD (2007).

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thụy Điển vào khoảng năm 1920, tức sau khi dân
chủ hóa, đã tăng cao. Trước đó, chiến tranh đã làm giảm đáng kể khoản nợ nước ngoài
của Thụy Điển xuống chỉ còn khoảng 20% vào năm 1920, vốn chiếm hơn 80% GDP vào
năm 1914. Nền kinh tế phục hồi vào năm 1919 khi thương mại, chủ yếu là nhập khẩu,
tăng lên, mức tăng trưởng vào năm 1920 đạt 6,3%. Nền kinh tế Thụy Điển gặp phải một
giai đoạn suy thoái ngắn sau đó. Tăng trưởng kinh tế đã tăng trở lại vào năm 1922-1923,
và duy trì ở mức cao và bền vững trong suốt những năm 1920 (Schön, 2015). Trong suốt
giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1950, thu nhập bình quân đầu người của Thụy Điển tăng
2,2% hàng năm trong khi tăng trưởng chung ở vùng Scandinavia thấp hơn 2% và châu
Âu dao động ở mức 1%. Ba nguyên nhân dẫn đến sự phát triển đó bao gồm (1) cấu trúc
kinh tế được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX tạo tiềm năng tăng trưởng dài hạn đáng kể
cho nền kinh tế, (2) chiến tranh thế giới thứ nhất mang lại lợi ích tài chính to lớn cho thị
trường Thụy Điển và (3) sự phát triển nhân khẩu học đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền
kinh tế Thụy Điển trong giai đoạn này. Chúng còn được thúc đẩy bởi những đổi mới của
cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai. Giai đoạn sau đó (1950 đến 1975), nền kinh tế
Thụy Điển là một phần của Kỷ nguyên vàng châu Âu về tăng trưởng, mặc dù sự tăng tốc
của Thụy Điển từ những năm 1950 ít rõ rệt hơn so với phần còn lại của Tây Âu (Schön,
2008).

21
III. NHÌN NHẬN

Dân chủ không phải là nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất dẫn đến phát triển.
Các quốc gia dân chủ hóa ở làn sóng thứ nhất và thứ hai (điển hình là Thụy Điển), hay
xây dựng thể chế dân chủ sau khi giải phóng dân tộc và hình thành quốc gia (điển hình là
Mỹ) sẽ có những nhân tố nền tảng đóng một vai trò cần thiết để thúc tiến sự phát triển
kinh tế trước và sau khi nền dân chủ thực sự được hình thành.

1. Trường hợp Ba Lan

Sự chuyển hóa dân chủ thành công, tạo tiền đề cho sự phát triển của Ba Lan về cơ
bản chịu sự chi phối của một hệ thống chính trị thế giới được bảo hộ bởi Tây Âu và Mỹ.
Nhìn nhận theo góc độ này, việc dân chủ hóa trong giai đoạn này phần nào mang tính
chất “chọn phe”, khi Ba Lan chấp nhận tham gia một hệ thống đứng đầu bởi một bá
quyền để nhận được sự hỗ trợ của chủ thể này. Cũng phải nói thêm rằng, giai đoạn này là
ngay sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự phân chia về phe phái và ý thức hệ vẫn còn
chi phối hệ thống chính trị thế giới. Nhìn nhận dưới góc độ khác, để dân chủ hóa thành
công và việc chuyển hóa này tạo được tiền đề cho sự phát triển thì dân chủ hóa phải gắn
liền với việc tham gia một hệ thống được dẫn dắt bởi một chủ thể kinh tế với sức mạnh to
lớn và mong muốn làm chủ thế giới. Nói cách khác, các chính sách của Ba Lan trong giai
đoạn này phần lớn mang tính chất phù thịnh khi cố gắng đạt được tiêu chuẩn của phương
Tây nhằm đạt được mục đích tái hòa nhập với các quốc gia Tây Âu và “mượn” danh
xưng thành viên của Liên minh Châu Âu - đồng minh với bá quyền Mỹ nhằm tối đa hóa
ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế (Angresano, 1996: 3; Ágh, 1999: 275-276, 268).

2. Trường hợp Mỹ

Ở Mỹ, nguyên nhân cải cách thể chế là nhu cầu giải phóng dân tộc, và các nền
tảng có sẵn của quốc gia đó là hai biến có sự khác biệt đáng kể so với các quốc gia sau
đó. Khó có thể tách nền tảng khỏi biến nguyên nhân cải cách thể chế, khi những thành tố
thuận lợi có sẵn của Mỹ có sự đan xen với tư tưởng của các nhà lập quốc. Chủ nghĩa cộng
hòa và chủ nghĩa tự do là hai thành tố xuyên suốt ảnh hưởng đến nền chính trị Mỹ, cũng

22
sự hình thành và duy trì thể chế dân chủ nước này (Steinhoff et al., 2004). Các nhà lãnh
đạo của cuộc cách mạng bị ảnh hưởng nhiều bởi các tác phẩm của những nhà tư tưởng tự
do Pháp, và cả lịch sử của các nước cộng hòa cổ điển. Ban đầu, Cách mạng Mỹ chỉ chống
lại quyền lực của Đế quốc Anh đối với mười ba thuộc địa Bắc Mỹ, chưa mang tính chống
quân chủ. Song dần dần, nhận thức của đa số người Mỹ và giới lãnh đạo cách mạng khi
đó về chế độ quân chủ Anh dần rõ ràng. Họ, thông qua Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ,
kiên quyết bác bỏ chế độ quân chủ và chấp nhận chủ nghĩa cộng hòa.

3. Trường hợp Thụy Điển

Yếu tố nền tảng ở Thụy Điển đã được thể hiện qua từ thế kỷ XIX, thậm chí là sớm
hơn, thông qua một nền văn hóa chính trị mạnh mẽ, mang tính chính danh, chịu sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa tự do và một chính phủ hợp hiến phức tạp.

Truyền thống chính trị của Thụy Điển có tầm quan trọng thiết yếu đến quá trình
dân chủ hóa ở nước này, trong đó bao gồm sự tôn trọng sâu sắc đối với các quy tắc pháp
lý, sự tự do trong các quy tắc trị vì và sự phân quyền chính phủ. Đạo luật Tự do Báo chí
đã là một trong những luật cơ bản từ thế kỷ XVIII. Do đó, những người ủng hộ dân chủ
có thể tận dụng tối đa quyền tự do ngôn luận và hội họp cũng như quyền thỉnh cầu nhà
vua. Sự phân chia quyền lực lâu đời giữa nhà vua, nội các, Thượng viện, Hạ viện và bộ
máy quan liêu bao gồm nhiều cơ quan độc lập khiến sự độc tài khó có thể tồn tại trong bộ
máy nhà nước. Chúng đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi chính trị của
Thụy Điển (Rustow, 1971).

Có thể rút ra kết luận rằng, ở Thụy Điển, sự tăng trưởng kinh tế không phải là một
kết quả trực tiếp của nền dân chủ, mà là tổng hòa các nhân tố khác nhau bao gồm: cơ sở
kinh tế đã phát triển sẵn, thời cơ quốc tế, hệ quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, và
chính sách của nhà nước. Đối với trường hợp ở nước này, có thể thấy nền tảng từ trước và
cục diện thế giới đóng vai trò quan trọng hơn trong việc dẫn đến sự phát triển của nền
kinh tế hơn là vai trò của nền dân chủ, tương tự với trường hợp của Mỹ.

23
IV. KẾT LUẬN

Nhóm đã xác định được ba tiêu chí tối thiểu mà một thể chế phải đạt được để được
xem là một thể chế dân chủ, bao gồm: bầu cử định kỳ, tự do, công bằng; tự do cạnh tranh
(thể chế đa nguyên) và tồn tại quyền tự do dân sự và quyền bầu cử của người dân. Nhóm
sử dụng nghiên cứu của Rustow về quá trình dân chủ hóa, chia làm bốn giai đoạn chuyển
đổi: bối cảnh, chuyển đổi dân chủ, những điều kiện được tạo ra nhờ dân chủ, và phát
triển. Tiêu chí để xác định sự phát triển ở đây nhóm so sánh tăng trưởng kinh tế của quốc
gia trước và sau quá trình dân chủ. Tất cả những trường hợp thực tế nhóm đưa ra để phân
tích đều sử dụng các tiêu chí và bốn giai đoạn chuyển đổi trên.

Từ những phân tích về quá trình dân chủ hóa của một số nước tiêu biểu, có thể
thấy dân chủ hóa không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến sự phát triển cho các nước. Cụ
thể, trường hợp của Thụy Điển và các nước Bắc Âu là nhờ vào hệ quả của cách mạng
công nghiệp, trường hợp của Ba Lan xảy ra quá trình dân chủ hóa vì yếu tố chọn phe sau
Chiến tranh Lạnh. Những yếu tố trên cùng với nền dân chủ được thiết lập đã góp phần tạo
ra sự phát triển và thịnh vượng cho những quốc gia này. Từ đây có thể thấy được, dân chủ
hóa và phát triển có một mối liên hệ với nhau, dân chủ hóa có hỗ trợ một phần cho sự
phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, dân chủ hóa không phải là nguyên nhân chính tạo ra
sự phát triển: Ta chỉ nên xem đây là một nhân tố cùng thúc đẩy sự phát triển với những
nhân tố khác được tạo ra do đặc thù từng quốc gia.

24
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ágh, A. (1999). Processes of democratization in the East Central European and


Balkan states: Sovereignty-related conflicts in the context of Europeanization.
Communist and Post-Communist Studies, 32(3), 263–279.
https://doi.org/10.1016/S0967-067X(99)00012-4

Angresano, J. (1996). Poland after the shock. Comparative Economic Studies,


38(2–3), 87–111. https://doi.org/10.1057/ces.1996.14

Bengtsson, E., Missiaia, A., Olsson, M., & Svensson, P. (2017). Wealth inequality
in Sweden, 1750-1900†. The Economic History Review, 71(3), 772–794.
https://doi.org/10.1111/ehr.12576

Dahl, R. A. (1966). Robert A. Dahl – on Democracy [Review of Democratic


Theory, by G. Sartori]. Government and Opposition, 1(4), 560–562.
http://www.jstor.org/stable/44484211

DeVries, J. E., & Hickey, D. R. (1991). The War of 1812: A Forgotten Conflict.
The Michigan Historical Review, 17(1), 93. https://doi.org/10.2307/20173263

Dobski, B. (2020, June 19). America Is a Republic, Not a Democracy. The


Heritage Foundation.
https://www.heritage.org/american-founders/report/america-republic-not-democrac
y

Ekiert, G., & Kubik , J. (1999). Rebellious civil society: Popular Protest and
Democratic Consolidation in Poland, 1989-1993. University of Michigan Press.
https://www.press.umich.edu/16112/rebellious_civil_society

Goran, T. (2020). The Rule of Capital and the Rise of Democracy. Classes and
Elites in Democracy and Democratization, 103, 134–141.
https://doi.org/10.4324/9780203765173-21

25
Hartz, L. (1955). The liberal tradition in America; an interpretation of American
political thought since the Revolution. New York, Harcourt, Brace.

Herbst, Susan (1991). Classical Democracy, Polls, and Public Opinion: Theoretical
Frameworks for Studying the Development of Public Sentiment. , 1(3), 225–238.
https://doi.org/10.1111/j.1468-2885.1991.tb00016.x

Kramer, M. (2002). Collective protests and democratization in Poland 1989–1993:


was civil society really “rebellious”? [Review of Rebellious Civil Society: Popular
Protest and Democratic Consolidation in Poland, 1989–1993, by G. Ekiert & J.
Kubik]. Communist and Post-Communist Studies, 35(2), 213–221.
https://www.jstor.org/stable/48609440

Lewis, P. G. (2001). The `third wave’ of democracy in Eastern Europe:


Comparative Perspectives on Party Roles and Political Development. Party
Politics, 7(5), 543–565. https://doi.org/10.1177/1354068801007005002

Lipset, S. M. (1959). Some social requisites of democracy: Economic


development and political legitimacy. American Political Science Review, 53(1),
69–105. https://doi.org/10.2307/1951731

Moore, B. (1970). Social origins of dictatorship and democracy: Lord and peasant
in the making of the modern world (6. print). Beacon Press.

Owings v. Speed, 18 U.S. 420 (1820). (2022). Justia Law.


https://supreme.justia.com/cases/federal/us/18/420/

Potter, D. (Ed.). (1997). Democratization. Polity Press in association with the


Open University.

Rao, Vaman. (1985). Democracy and economic development. Studies in


comparative international development, 19(4), 67–81.
https://doi.org/10.1007/BF02743750

26
Rueschemeyer, D., Huber, E., & Stephens, J. D. (1992). Capitalist development
and democracy. University of Chicago Press.

Rustow, D. A. (1971). Sweden’s Transition to Democracy: Some Notes toward a


Genetic Theory 1. Scandinavian Political Studies, 6.
https://tidsskrift.dk/scandinavian_political_studies/article/view/32081/29611

Rustow, D. A. (1970). Transitions to democracy: Toward a dynamic model.


Comparative Politics, 2(3), 337. https://doi.org/10.2307/421307

Sachs, J. D. (1995). Shock therapy in Poland: Perspectives of Five years. 16,


265–290. https://doi.org/10.7916/D8NZ8DVS

Schmitter, P.C., & Karl, T.L. (1991). What Democracy Is. . . and Is Not. Journal of
Democracy 2(3), 75-88. https://muse.jhu.edu/article/225590/pdf

Schön, L. (2008, January 10). Sweden – Economic Growth and Structural Change,
1800-2000. Eh.net.
https://eh.net/encyclopedia/sweden-economic-growth-and-structural-change-1800-
2000/

Sellers, C. (1992). The market revolution: Jacksonian America, 1815-1846.


Choice Reviews Online, 29(09), 29–523929–5239.
https://doi.org/10.5860/choice.29-5239

Shalhope, R. E. (1972). Toward a Republican Synthesis: The Emergence of an


Understanding of Republicanism in American Historiography. The William and
Mary Quarterly, 29(1), 49. https://doi.org/10.2307/1921327

Steinhoff, A. J., Heideking, J., Henretta, J. A., & Heideking, J. (2004).


Republicanism and Liberalism in America and the German States, 1750-1850.
German Studies Review, 27(1), 142. https://doi.org/10.2307/1433561

27
Warner, Jonathan. (2013) Capitalism, Socialism and Democracy. By Joseph A.
Schumpeter, The European Legacy, 18:2, 262-263,
https://doi.org/10.1080/10848770.2012.755671

Wellman, J. (2005). The road to Seneca Falls: Elizabeth Cady Stanton and the
First Woman’s Rights Convention. Choice Reviews Online, 42(11),
42–671742–6717. https://doi.org/10.5860/choice.42-6717

28

You might also like