Professional Documents
Culture Documents
Nếu bạn không thừa nhận và hiểu những nhu cầu và ưu tiên của đối tác đàm phán với bạn
thì cuộc đàm phán sẽ không đi đến đích. Hãy nhớ rằng, mọi hoạt động kinh doanh, mọi
mối quan hệ cần phải trên tinh thần cùng có lợi.
2. Lạc quan quá mức, tự tin quá mức
Việc quá tin vào khía cạnh nào đó có thể dẫn tới những khả năng bất trắc không được
thảo luận và những bất trắc này có thể phá vỡ thỏa thuận, hoặc dẫn đến những hành động
không đáng tin cậy.
Đàm phán phải thật thận trọng, kín kẽ để giảm thiểu rủi ro và những tình huống bất định.
Điều quan trọng hơn để thành công là phải đàm phán về những giao dịch phức tạp giữa
các đối tác, nhà đầu tư, nhà cung cấp, rủi ro, lợi ích dài hạn, các mối quan hệ…
6. Chủ yếu dựa vào cảm nhận trực giác, chứ không phải là các dữ liệu cụ thể
Đây là dạng đàm phán ứng khẩu, xem nhẹ việc chuẩn bị các tình huống, những đòi hỏi
cần thiết, những nhân nhượng có thể chấp nhận được. Đàm phán kiểu này không có thể
đạt hiệu quả như mong muốn.
Nếu kiềm chế được cảm xúc, thấu hiểu vị trí của người khác và sử dụng các lập luận
logic, bạn sẽ nhận thấy rằng, cuộc đàm phán sẽ thành công hơn và làm bạn hài lòng hơn.
Để tránh các sai lầm trên, trước hết, bạn cần coi đàm phán là một hoạt động thường
xuyên và sống còn của doanh nghiệp, chứ không phải là một sự kiện đặc biệt nhất thời.
Nhận thức như vậy, bạn sẽ coi đó hoạt động thường ngày và sẽ luôn có ý thức cải thiện
kỹ năng.
Khi đàm phán, hãy luôn tỏ ra cởi mở, cương quyết, nhưng không đòi hỏi khắt khe. Hãy
chủ động đàm phán để tìm cách đi đến thành công, chứ đừng chờ cơ may bất chợt đến
với bạn.
Đàm phán theo kiểu mềm còn gọi là đàm phán kiểu hữu nghị, trong đó người đàm phán
cố gắng tránh xung đột, dễ dàng chịu nhượng bộ, nhằm đạt được thoả thuận và giữ gìn
mối quan hệ giữa đôi bên. Họ đặt mục đích phải đạt được thoả thuận lên hàng đầu, chứ
không nhấn mạnh phải chiếm ưu thế. Người đàm phán theo kiểu mềm không coi đối
phương là địch thủ, mà luôn xem họ như bạn bè, thân hữu. Trong đàm phán chỉ cố gắng
xây dựng và gìn giữ mối quan hệ, ký cho được hợp đồng, còn hiệu quả kinh tế không
được xem trọng.
Vì vậy, trong kiểu đàm phán này thường diễn ra các bước: đưa ra đề nghị, tin cậy đối tác,
chịu nhượng bộ, giữ gìn mối quan hệ thân thiết, hết sức tránh đối lập, nhằm đạt cho được
thoả thuận (thậm chí có khi phải khuất phục đối phương, chấp nhận những thoả thuận bất
lợi cho mình).
Đàm phán theo kiểu cứng còn gọi là đàm phán kiểu lập trường điển hình trong đó người
đàm phán đưa ra lập trường hết sức cứng rắn, rồi tìm mọi cách bảo vệ lập trường của
mình, lo sao đè bẹp cho được đối phương.
Trong kiểu đàm phán này, người đàm phán cố gắng bảo vệ bằng được lập trường đưa ra,
cương quyết không chịu nhượng bộ.
Trong thực tế, nếu người đàm phán theo kiểu cứng gặp đối tác yếu, thì cuộc đàm phán
diễn ra nhanh chóng, người đàm phán dùng mọi mưu kế (kể cả gian kế) áp đảo đối
phương, dồn mọi bất lợi cho đối tác, giành mọi thuận lợi về mình. Sau này nếu đối tác
không có khả năng thực hiện, thì hợp đồng cũng sẽ bị đổ bể. Nếu hai bên đàm phán cùng
chọn đàm phán theo kiểu cứng, thì cuộc đàm phán diễn ra căng thẳng, kéo dài, có thể đổ
vỡ giữa chừng, hợp đồng không ký được, quan hệ hợp tác tan vỡ.
Vì vậy, người đàm phán theo kiểu cứng, nếu có thu được thắng lợi thì chỉ là thắng lợi bề
ngoài, chứ không phải thắng lợi đích thực. Còn nếu không thu được thắng lợi - không ký
được hợp đồng, thì còn tệ hại hơn, họ sẽ làm mất đi mối quan hệ hợp tác, mất bạn hàng,
mất đối tác.
Trong các kiểu đàm phán thì đàm phán theo kiểu nguyên tắc có nhiều ưu thế hơn cả, nên
được nhiều nước, nhiều nhà quản trị áp dụng, nhưng muốn áp dụng thành công, phải có
một số điều kiện nhất định; trong đó, điều kiện tiên quyết: phải có đội ngũ cán bộ đàm
phán giỏi.
Đàm phán kiểu nguyên tắc còn gọi là “Thuật đàm phán Harvard” có 4 đặc điểm:
- Tách rời con người ra khỏi vấn đề, chủ trương: Đối với người: ôn hoà, đối với việc:
cứng rắn.
- Cần tập trung vào lợi ích của đôi bên, chứ không cố giữ lấy lập trường cá nhân, chủ
trương: thành thực, công khai, không dùng gian kế, không cố bám vào lập trường của
mình.
- Cần đưa ra các phương án khác nhau để lựa chọn, thay thế.
- Kết quả của sự thoả thuận cần dựa trên những tiêu chuẩn khách quan khoa học.
Không thể phủ nhận tầm quan trọng của mối quan hệ trong đàm phán kinh doanh tại Hàn
Quốc. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người Hàn Quốc lại có những thay đổi bất chợt trong suy
nghĩ. Xét về mặt lý thuyết, người mua luôn đứng ở vị trí thuận lợi trên bàn đàm phán.
Nhưng với người Hàn Quốc, điều đó không phải luôn đúng – mà theo họ, cả hai bên đều
phải quan tâm đến lợi ích của nhau. Nói chung, đối tác Hàn Quốc hợp tác trên nguyên tắc
“đôi bên cùng có lợi” nhưng vẫn bị chi phối bởi mối quan hệ cá nhân. Họ chú trọng cả
vào lợi ích trước mắt cũng như lợi ích lâu dài. Mặc dù phong cách đàm phán ban đầu rất
mang tính cạnh tranh, nhưng họ vẫn coi trọng mối quan hệ lâu dài và hy vọng một kết
quả có lợi cho cả đôi bên.
Một mặt người Hàn Quốc rất coi trọng mối quan hệ cá nhân, luôn duy trì việc gây dựng
quan hệ với đối tác nhưng mặt khác họ cũng rất cảm tính, hay công kích đối tác hoặc trở
nên gay gắt trong quá trình đàm phán. Tuy nhiên, phong cách hay công kích không có
nghĩa là họ có mục đích xấu. Kỹ năng, nghệ thuật đàm phán tốt nhất cần vận dụng vẫn là
giữ bình tình, thân thiện, hòa nhã và kiên trì. Đừng bao giờ để các vấn đề bàn bạc trong
quá trình đàm phán trở thành những mâu thuẫn gay gắt giữa hai bên.
Nếu có tranh chấp trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình đàm phán, bạn nên bình tĩnh
xử lý thông qua những mối quan hệ cá nhân và các biện pháp nhằm lấy lại lòng tin. Hẹn
gặp cá nhân với người có quyền lực cao nhất của đối tác là một nghệ thuật đàm phán hiệu
quả giúp bạn hàn gắn những rạn nứt trong quan hệ hai bên. Tiếp tục chỉ ra những lợi ích
mà họ có thể có nếu tiếp tục đàm phán với doanh nghiệp bạn. Lưu ý tránh sử dụng những
lí lẽ logic hoặc hành động cãi lý vì chúng có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.