You are on page 1of 89

Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị

Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG
CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
I. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Thuật ngữ khoa học Kinh tế chính trị (political economy) được xuất hiện vào đầu
thế kỷ thứ XVII trong tác phẩm Chuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế người
Pháp A.Montchretien (1575-1621) xuất bản năm 1615. Cho đến nay có thể chia ra hai
giai đoạn: Từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII và từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay.
1. Từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ thứ XVIII:
Trong thời kỳ cổ đại, trung đại (từ thời kỳ cổ đại đến đầu thế kỷ XV): do trình
độ phát triển của các nền sản xuất còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết
cho sự hình thành các lý luận kinh tế. Các tư tưởng kinh tế nằm rải rác trong các tác
phẩm triết học, luân lý.
Đầu thế kỷ XV, phương thức sản xuất TBCN bắt đầu hình thành ở một số nước
Châu Âu và tạo ra những tiền đề cho sự phát triển của lý luận kinh tế chính trị.
- Chủ nghĩa trọng thương: (từ thế kỷ thứ XV đến cuối thế kỷ XVII) Đại biểu
tiêu biểu gồm: Starfod (Anh); Thomas Mun (Anh); Xcaphuri (Italia); Antonso Serra
(Italia); Antoine Montchretien (Pháp).
Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu
về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh tế theo tư tưởng trọng thương tập
chung nghiên cứu trong lĩnh vực lưu thông. Tuy nhiên, họ sai lầm khi cho rằng nguồn
gốc của lợi nhuận là từ thương nghiệp: thông qua mua rẻ bán đắt mà có.
- Chủ nghĩa trọng nông: (từ giữa thế kỷ thứ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII)
Đại biểu tiêu biểu gồm: Francois Quesney; Turgot; Boisguillebert.
Hệ thống lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa trọng nông hướng việc nghiên
cứu vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đạt được nhiều tiến bộ về mặt lý luận khi
luận giải nhiều phạm trù như: giá trị, sản phẩm ròng, tư bản, tiền lương, lợi nhuận, tái
sản xuất. Chủ nghĩa trọng nông có hạn chế lớn nhất khi cho rằng chỉ có nông nghiệp
mới là sản xuất.
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh (từ giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII)
Đại biểu tiêu biểu gồm: W.Petty; A.Smith; D.Recardo.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá
trình tái sản xuất và trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế
thị trường như: phân công lao động, hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường,
tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản… để rút ra những quy luật kinh tế. Đóng

1
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
góp lớn nhất của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh cho khoa học kinh tế chính trị là:
họ cho rằng giá trị là do hao phí lao động tạo ra và giá trị khác với của cải.
Như vậy, kinh tế chính trị là môn khoa học kinh tế nghiên cứu các quan hệ kinh
tế để tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt
động kinh tế của con người tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất xã hội.
2. Từ sau thế kỷ XVIII đến nay:
Kể từ sau A.Smith, lý luận kinh tế chia ra hai dòng chính với các trường phái
khác nhau.
- Lý thuyết kinh tế kế thừa những luận điểm của A.Smith khái quát tâm lý,
hành vi để xây dựng lý thuyết kinh tế mới; không đi sâu vào phân tích, luận giải các
quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất. từ đó tạo cơ sở hình thành các lý thuyết kinh
tế đi sâu vào hành vi người tiêu dùng, hành vi của nhà sản xuất (cấp độ vi mô) hoặc
các mối quan hệ giữa các đại lượng lớn của nền kinh tế (cấp độ vĩ mô). Dòng lý thuyết
này được xây dựng và phát triển bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý
thuyết kinh tế của các quốc gia khác nhau phát triển từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay.
- Lý thuyết thể hiện từ D. Ricardo, kế thừa những giá trị khoa học trong lý luận
của A. Smith, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh nội dung luận giaircacs phạm trù kinh tế
chính trị…
- Lý thuyết kinh tế chính trị của C.Mác (1818-1883) kế thừa trực tiếp những giá
trị khoa học của D. Ricardo và phê phán để phát triển lý luận, phân tích một cách khoa
học, toàn diện về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra những quy luật kinh tế chi phối
sự hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Cùng với C.Mác, Ph.Ănghen (1820-1895) cũng là người có công lớn trong
việc công bố lý luận kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác.
Lý luận Kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ănghen được thể hiện tập trung và
cô đọng nhất trong Bộ Tư bản. Trong đó, C.Mác trình bày một cách khoa học với tư
cách là một chỉnh thể các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường như: hàng hóa,
tiền tệ, giá trị thặng dư, tích luỹ, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản. cạnh tranh … cùng
các quy luật kinh tế cơ bản cũng như các quan hệ xã hội giữa các giai cấp trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Sau khi C.Mác và Ph.Ănghen qua đời, V.I.Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát
triển lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C.Mác và có nhiều đóng góp
khoa học đặc biệt quan trọng. Trong đó nổi bật là kết quả nghiên cứu, chỉ ra những đặc
điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những vấn

2
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
đề kinh tế chính trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩa đó, dòng
lý thuyết kinh tế chính trị này được định danh với tên gọi kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các Đảng Cộng sản tiếp
tục nghiên cứu và bổ sung, phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin cho đến ngày nay.
Cùng với lý luận của các Đảng Cộng sản, hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nhà kinh tế
nghiên cứu kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị của C.Mác với nhiều
công trình được công bố trên khắp thế giới. Các công trình nghiên cứu đó được xếp vào
nhánh Kinh tế chính trị mácxít (maxist - những người theo chủ nghĩa Mác).
- Bên cạnh đó, cũng trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX có một số lý
thuyết kinh tế chính trị của các nhà chủ nghĩa không tưởng (thế kỷ XV-XIX) và kinh
tế chính trị tiểu tư sản (cuối thế kỷ XIX). Các lý thuyết này hướng vào phê phán những
khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, song nhìn chung các quan điểm dựa trên cơ sở tình
cảm cá nhân, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo, không chỉ ra được các quy luật
kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và do đó không luận chứng
được vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nhân loại.
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế
chính trị nằm trong dòng chảy phát triển tư tưởng kinh tế của nhân loại, được hình thành
và đặt nền móng bởi C.Mác - Ph. Ănghen, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển những
giá trị khoa học của kinh tế chính trị trước đó, trực tiếp là kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Anh và được V.I.Lênin kế thừa, phát triển. Kinh tế chính trị Mác - Lênin có quá trình
phát triển liên tục kể từ giữa thế kỷ thứ XIX đến nay. Kinh tế chính trị Mác - Lênin là
một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh tế của nhân loại.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin
Trước C.Mác, ở mỗi thời kỳ phát triển có các hướng xác định tìm đối tượng nghiên
cứu của kinh tế chính trị tương ứng. Chủ nghĩa trọng thương phát hiện đối tượng trong
lĩnh vực lưu thông; Chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực
nông nghiệp; Kinh tế chính trị tư sản cổ điển xác định đối tượng nghiên cứu trong sản
xuất. Mặc dù chưa hoàn thiện xong những tìm kiếm trên có giá trị lịch sử, phản ánh trình
độ từ thô sơ đến mang tính khoa học.
Kế thừa những thành tựu khoa học kinh tế chính trị của nhân loại, dựa trên quan
điểm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ănghen quan niệm đối tượng nghiên cứu của
kinh tế chính trị có thể được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu về một phương thức sản xuất cụ
thể và kết quả của việc nghiên cứu là khám phá ra những quy luật kinh tế của phương
thức sản xuất ấy. Trong bộ Tư bản C.Mác nhấn mạnh rằng: “Trong tác phẩm này, đối
3
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
tượng nghiên cứu của tôi là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ
sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy.”1.
Theo nghĩa rộng, Ph.Ănghen cho rằng: “Kinh tế chính trị, theo nghĩa rộng nhất,
là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất vật chất và sự trao đổi những tư
liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người…Những điều kiện trong đó người ta sản
xuất sản phẩm và trao đổi chúng đều thay đổi tuỳ từng nước, và trong mỗi nước lại
thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi vậy, không thể có cùng một môn kinh tế chính trị duy
nhất cho tất cả mọi nước và tất cả mọi thời đại lịch sử…môn kinh tế chính trị, về thực
chất là một môn khoa học có tính lịch sử… nó nghiên cứu trước hết là những quy luật
đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi
nghiên cứu như thế xong xuôi rồi nó mới có thể xác định ra một vài quy luật hoàn toàn
có tính chất chung, thích dụng, nói chung cho sản xuất và trao đổi”2.
Theo quan điểm của V.I.Lênin: “kinh tế chính trị không nghiên cứu sự sản xuất
mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu
chế độ xã hội của sản xuất”3.
Tổng hợp các quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen; V.I.Lênin nêu trên có thể rút
ra: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội
của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
của phương thức sản xuất nhất định.
Quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi biểu hiện ở những bộ phận như: quan
hệ sở hữu; quan hệ quản lý; quan hệ phân phối, phân bổ nguồn lực; quan hệ xã hội
trong lưu thông; quan hệ xã hội trong tiêu dùng; quan hệ xã hội trong quản trị và phát
triển quốc gia; quản trị phat triển địa phương; quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; giữa
sản xuât và thị trường …
Khi nhấn mạnh việc đặt quan hệ sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng, kinh tế chính
trị Mác – Lênin không xem nhẹ các quan hệ kinh tế khách quan giữa các quá trình
kinh tế trong một khâu và giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với tư cách là
một chỉnh thể biện chứng của sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
Trước đây, trong các công trình nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin
thuộc hệ thống các nước XHCN, hầu hết chỉ nhấn mạnh đối tượng nghiên cứu là mặt
quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quan hệ phân phối), cách hiểu này

1
C.Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, t.23, tr.19.
2
C.Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1994, t.20, tr.207,208.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ , Maxcơva, 1976, t.3, tr.58.

4
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
phù hợp với điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trường quan điểm này không phù hợp và không sát với quan điểm của các nhà kinh
điển. Các nhà kinh điển khẳng định kinh tế chính trị Mác – Lênin nghiên cứu mặt quan
hệ xã hội của sản xuất và trao đổi nghĩa là mặt xã hội của sự thống nhất biện chứng
của cả sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng.
2. Mục đích nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Mục đích nghiên cứu ở cấp độ cao nhất của kinh tế chính trị Mác – Lênin là
nhằm phát hiện ra các quy luật chi phối quan hệ giữa người với người trong sản xuất
và trao đổi. Từ đó vận dụng các quy luật ấy để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích,
tạo động lực cho con người sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã
hội. Theo nghĩa đó, Kinh tế chính trị không đơn thuần chỉ là khoa học về cách thức tạo
ra sự giàu có, hơn thế kinh tế chính trị Mác - Lênin còn góp phần thúc đẩy phát triển
toàn diện xã hội để đạt tới trình độ văn minh.
Giá trị khoa học của kinh tế chính trị Mác – Lênin thể hiện ở chỗ phát hiện ra
những nguyên lý, quy luật chi phối các quan hệ lợi ích giữa con người với con người
trong sản xuất và trao đổi.
Kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin tạo cơ sở lý luận khoa
học cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia phù hợp với những giai đoạn phát triển nhất định.
Cần nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác – Lênin để có cơ sở
lý luận khoa học cho việc giải quyết những mối quan hệ lợi ích trong quá trình phát
triển đất nước cũng như hoạt động gắn với đới sống của mỗi con người.
3. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Với tư cách là một môn khoa học, kinh tế chính trị Mác - Lênin sử dụng các
phương pháp nghiên cứu bao gồm:
Để nghiên cứu kinh tế chính trị Mác – Lênin cần vận dụng thành thạo phép biện
chứng duy vật để thấy được các hiện tượng và quá trình kinh tế hình thành, phát triển,
chuyển hóa không ngừng, giữa chúng có mối liên hệ tác động biện chứng với nhau,
quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi ứng với từng điều kiện cụ thể nhất định luôn
thuộc về một chỉnh thể những mối liên hệ trong nền sản xuất xã hội tương ứng với
những trình độ phát triển, trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Để nhận thức được các hiện thực kinh tế khách quan và khái quát thành các
khái niệm, phạm trù khoa học kinh tế chính trị, cùng với việc vận dụng phép biện
chứng duy vật, kinh tế chính trị Mác – Lênin còn yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu thích hợp như: trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử, thống
kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa, khảo

5
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
sát, tổng kết thực tiễn …; trong đó phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử
dụng như một phương pháp chủ yếu của kinh tế chính trị Mác – Lênin.
Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp được tiến hành bằng cách nhận ra và gạt
bỏ khỏi quá trình nghiên cứu những yếu tố ngẫu nhiên, những hiện tượng tạm thời, gián
tiếp, trên cơ sở đó tách ra được những dấu hiệu điển hình, bền vững, ổn định, trực tiếp của
đối tượng nghiên cứu. Từ đó nắm được bản chất, xây dựng được các phạm trù và khám
phá được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
Khi sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, cần phải biết xác định giới
hạn của sự trừu tượng hóa. Không được tùy tiện, chủ quan loại bỏ những nội dung
hiện thực của đối tượng nghiên cứu gây sai lệch bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Ngày nay, do sự phát triển đan xen giữa các ngành nên kinh tế chính trị Mác –
Lênin còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, dựa trên các kết quả
nghiên cứu của các ngành khoa học khác để minh chứng, bổ sung cho kết quả nghiên
cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin và đưa kinh tế chính trị Mác – Lênin gắn với
thực tiễn cuộc sống.
III. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1. Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là môn khoa học cung cấp hệ thống tri thức lý
luận về sự vận động của các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi
đặt trong sự tác động biện chứng với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tương ứng với trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức mở về những quy luật
chi phối sự phát triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất. Những tri
thức đó sẽ giúp khám phá và nhận thức một cách đúng đắn lịch sử phát triển của nền
sản xuất xã hội của nhân loại nói chung, về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin Cung cấp những phạm trù kinh tế cơ bản được
khái quát từ đó góp phần làm phong phú tri thức, tư duy lý luận của người lao động và
toàn xã hội.
2. Chức năng thực tiễn
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp tri thức giúp các nhà hoạch định chính
sách vận dụng các quy luật kinh tế vào trong hoạt động thực tiễn cũng như quản trị
quốc gia của mình.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin giúp hình thành phương pháp luận, cơ sở khoa
học để giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển, tạo động lực
thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội sáng tạo, từ đó không ngừng cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần toàn xã hội.
6
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Đối với mọi công dân, trong đó có sinh viên cần nhận diện vị trí, vai trò, trách
nhiệm của bản thân và định hướng tư duy, hình thành kỹ năng thực hành khi tham gia
các hoạt động kinh tế - xã hội phù hợp với các quy luật kinh tế để nâng cao thu nhập
cho bản thân và đóng góp vào sự phát triển của xã hội.
3. Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng tiến bộ cho
những người lao động, biết quý trọng thành quả lao động của bản thân, của xã hội và
củng cố niềm tin cho sự phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng khoa học cho những
chủ thể muốn xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ
áp bức, bất công giữa con người với con người.
4. Chức năng phương pháp luận
Mỗi môn khoa học kinh tế chuyên ngành có hệ thống phạm trù, khái niệm
riêng, song để hiểu được một cách sâu sắc, bản chất, thấy được sự gắn kết một cách
biện chứng giữa kinh tế với chính trị và căn nguyên của sự dịch chuyển trình độ văn
minh của xã hội thì cần phải dựa trên cơ sở am hiểu nền tảng lý luận từ kinh tế chính
trị. Theo nghĩa như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp
luận, nền tảng lý luận khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế chuyên ngành.
***
Vấn đề thảo luận:
Ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
kinh tế chính trị?
Câu hỏi ôn tập:
1. Phân tích sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin?
2. Phân tích đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin?
3. Phân tích chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin?
4. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin đối với bản
thân trong quá trình học tập và cuộc sống?
Tài liệu học tập
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2021), Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị).
3. Sách tham khảo kinh tế chính trị Mác – Lênin (dạng Hỏi – đáp) (2020) TS Phan Thị
Huê, TS Tường Mạnh Dũng, Ths Vũ Thị Thùy.
7
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị

Chương 2
HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ
THAM GIA THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
1. Sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa: Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động
kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa
chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
- Thứ nhất, Phân công lao động xã hội:
+ Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội
thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của
những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
+ Do phân công lao động nên mỗi người chỉ sản xuất ra một vài sản phẩm, để
thỏa mãn nhu cầu họ buộc phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
- Thứ hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất:
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người
sản xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là
phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa.
Tóm lại, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên.
Thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao
động cũng không mang hình thái hàng hóa.
2. Hàng hóa
a. Khái niệm và thuộc tính của hàng hóa
* Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- Hàng hóa là phạm trù lịch sử; sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái hàng
hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc ở dạng phi vật thể.
* Hai thuộc tính của hàng hóa:
Bất cứ hàng hóa nào cũng bao gồm hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị:
- Giá trị sử dụng của hàng hóa:

8
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể
thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên (vật lý, hóa học) của hàng
hóa quyết định và là nội dung vật chất của của cải. Với nghĩa đó, giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn.
+ Khoa học kỹ thuật phát triển sẽ giúp con người khám phá thêm những giá trị
sử dụng mới của hàng hóa.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho người mua, tức là giá trị
sử dụng xã hội.
- Giá trị:
Giá trị là phạm trù trừu tượng. Giá trị chỉ được biểu hiện ra bên ngoài thông qua
trao đổi, mua bán hay được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi.
+ Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa
những giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: xA = yB.
Ở đây, x đơn vị hàng hóa A được đổi lấy y đơn vị hàng hóa B. Tỷ lệ trao đổi
giữa các giá trị sử dụng khác nhau này được gọi là giá trị trao đổi.
Các hàng hóa này nếu gạt bỏ đi những biểu hiện cụ thể thì chúng có một điểm
chung: chúng đều là sản phẩm của lao động; cần một lượng lao động hao phí bằng
nhau để tạo ra chúng. Đây là cơ sở để thực hiện quan hệ trao đổi
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị hàng hóa là biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất,
trao đổi hàng hóa và là phạm trù lịch sử.
b. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Lao động cụ thể:
+ Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+ Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết
quả riêng. Lao động cụ thể là cơ sở để phân công lao động xã hội.
+ Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có một giá trị sử
dụng khác nhau. PCLĐ càng phát triển thì càng có nhiều hình thức lao động cụ thể.
- Lao động trừu tượng:
+ Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng
hoá không kể đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động của người sản
xuất hàng hoá nói chung về cơ bắp, thần kinh, trí óc.

9
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Lao động trừu tượng chính là lao động chung, đồng nhất của con người. Tuy
nhiên, không phải sự tiêu hao sức lao động nào cũng là lao động trừu tượng. Chỉ sự
tiêu phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa mới là lao động trừu tượng.
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Vì vậy, giá trị hàng hóa là
lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
+ Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, chỉ có trong sản xuất và trao đổi
hàng hóa bởi vì, chỉ trong sản xuất và trao đổi hàng hóa mới cần quy các lao động
khác nhau thành lao động chung, đồng nhất làm cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị
sử dụng khác nhau.
- Tính thống nhất và mâu thuẫn:
+ Tính thống nhất: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của một lao
động thống nhất.
+ Tính mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất
hiện khi sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp
với nhu cầu xã hội, hoặc khi mức tiêu hao lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã
hội có thể chấp nhận được.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu
thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính những mâu thuẫn đó làm cho sản xuất hàng
hóa vừa vận động phát triển lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
c. Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa.
* Lượng giá trị của hàng hóa
- Về bản chất, giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó quyết định và được đo bằng đơn vị thời gian.
Trong thực tế, do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của
mối người sản xuất là khác nhau nên thời gian hao phí lao động để sản xuất ra hàng
hóa của mỗi người là không giống nhau – Đó là hao phí lao đông cá biệt. Trên thị
trường, giá trị hàng hóa đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết hay hao phí lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
- Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo
trung bình, cường độ lao động trung bình và năng suất lao động trung bình của xã hội đó.
Trên thực tế, hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa
thường trùng hợp với mức hao phí lao động cá biệt của những người sản xuất và cung

10
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
cấp đại bộ phận sản phẩm đó trên thị trường. Vì vậy, người nào đưa ra thị trường số
lượng sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn sẽ là người quyết định giá bán của sản phẩm.
- Lượng giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng c + v + m.
Hao phí lao động để sản xuất hàng hóa gồm: Hao phí về lao động vật hóa dưới
dạng nhà xưởng, máy móc, công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu (C) và hao phí lao
động sống (v + m).
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
- Thứ nhất, năng suất lao động.
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động,
được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng
thời gian hao phí để sản xuất ra một sản phẩm.
+ Năng suất lao động có tác động tỷ lệ nghịch với giá trị của một hàng hóa. Khi
năng suất lao động tăng, số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời
gian nhiều hơn nên hao phí lao động để sản xuất ra một sản phẩm ít hơn, lao động kết
tinh trong một sản phẩm giảm xuống. Mác nói: “Như vậy là đại lượng giá trị của một
hàng hóa thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động thể hiện trong hàng hóa đó và tỷ
lệ nghịch với sức sản xuất của lao động”4.
+ Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: Trình độ tay nghề của
người lao động; mức độ phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản
xuất; trình độ tổ chức quản lý sản xuất; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các
điều kiện tư nhiên.
+ Khi xem xét năng suất lao động cần xem xét mối quan hệ với cường độ lao
động: Cường độ lao động là khái niệm dùng để chỉ mức độ khẩn trương, tích cực của
lao động trong sản xuất.
Do đó, tăng cường độ lao động là tăng mức độ hao phí lao động trong một đơn
vị thời gian. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý,
trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động…
Nếu giải quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần
thục hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều sản phẩm hơn.
- Thứ hai, tính chất phức tạp của lao động.
Trong đời sống xã hội có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Căn cứ tính chất
của lao động có thể chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn, là lao động không cần quá trình đào tạo (kỹ năng, nghiệp
vụ, chuyên môn…) cũng có thể làm được.

4
C.Mác và Ph. Ănghen: Toà n tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nộ i, 1993, t.23, tr.207,208.
11
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Lao động phức tạp, là những loại lao động phải trải qua một quá trình đào
tạo theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn nên trong cùng một đơn vị thời
gian, một lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn một lao động giản đơn. Sản phẩm
của lao động phức tạp vì vậy sẽ có giá trị cao hơn sản phẩm của lao động giản đơn.
3. Tiền tệ
a. Nguồn gốc, bản chất của tiền
- Nguồn gốc của tiền: Tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và
trao đổi hàng hóa, là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ
hình thái giản đơn đến hình thái phát triển cao nhất là hình thái tiền tệ.
+ Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
Đây là hình thái trao đổi đầu tiên trong lịch sử, khi sản xuất hàng hóa mới sơ
khai, người ta thực hiện trao đổi trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác (H – H).
Ví dụ 1 hàng hóa A = 5 hàng hóa B.
+ Hình thái mở rộng của giá trị
Khi sản xuất phát triển, trao đổi được mở rộng và trở nên thường xuyên hơn,
một hàng hóa có thể được đem trao đổi với nhiều hàng hóa khác nhau, làm xuất hiện
hình thái mở rộng của giá trị.
Ví dụ:

+ Hình thái chung của giá trị


Đây là hình thái mà giá trị của mọi hàng hóa đem ra trao đổi đều biểu hiện giá
trị của mình ở một hàng hóa đứng vai trò vật ngang giá chung, làm môi giới cho việc
trao đổi hàng hóa. Trong lịch sử, đã có rất nhiều hàng hóa khác nhau “thử nghiệm”
đóng vai trò vật ngang giá chung.
Ví dụ:
= 1 hàng hóa A

+ Hình thái tiền


Khi vàng độc chiếm vai trò là vật ngang giá chung, hình thái tiền tệ chính thức
ra đời.
Ví dụ:
= 0,1 gram vàng

12
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Bản chất của tiền, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang
giá chung cho các hàng hóa; tiền thể hiện lao động xã hội và quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa.
Khi tiền xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực; một bên là tất cả
các hàng hóa thông thường đại biểu cho giá trị sử dụng và một bên là tiền tệ được
dùng để đo lường giá trị của các hàng hóa còn lại.
b. Chức năng của tiền
- Thước đo giá trị
Thực hiện chức năng này, tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các
hàng hoá khác. Để thực hiện chức năng này chỉ cần một lượng tiền tưởng tượng.
Giá trị của hàng hoá được biểu hiện và đo lường bằng một số tiền nhất định gọi
là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá chịu tác động bởi các yếu tố sau: Lượng giá trị
hàng hoá; Giá trị của tiền tệ; Quan hệ cung – cầu.
- Phương tiện lưu thông
Thực hiện chức năng này, tiền được dùng làm môi giới cho quá trình trao đổi
hàng hóa. Công thức: H – T – H
Khi thực hiện chức năng lưu thông tiền góp phần thúc đẩy lưu thông được
thuận lợi, tuy nhiên chính tiền cũng làm cho hàng hoá tách rời nhau cả không gian và
thời gian. Đây chính là nguyên nhân gây khủng hoảng thừa trong sản xuất hàng hoá.
- Phương tiện cất trữ.
Tiền là đại biểu cho mọi của cải trong xã hội, do đó tiền có thể được cất trữ. Khi
thực hiện chức năng này tiền rút khỏi lưu thông và đây là tiền vàng hay các nguyên
liệu quan trọng, các đồng tiền mạnh (Dolla, Bảng Anh, EURO…).
Trong thực tế tiền chỉ được đưa vào tích trữ khi dư thừa hàng hoá, còn khi hàng
hoá khan hiếm thì tiền được đưa vào SX và lưu thông hàng hoá.
- Phương tiện thanh toán.
Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền được dùng để chi trả sau khi
công việc đã hoàn thành như: trả tiền mua chịu, trả nợ, nộp thuế, trả lãi ngân hàng...
Ngày nay khoa học công nghệ phát triển, các ngân hàng thương mại ra đời tiền
có các dạng mới như thẻ tín dụng, ngân phiếu.
- Tiền tệ thế giới.
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các nước thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm phương tiện lưu thông, thanh
toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá
trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán
quốc tế.

13
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
4. Dịch vụ và quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng
hóa thông thường ở điều kiện hiện nay
a. Dịch vụ
- Dịch vụ là loại hàng hóa đặc biệt có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của con
người và tồn tại dưới dạng phi vật thể (vô hình).
- Dịch vụ có những đặc điểm như:
+ Dịch vụ là hàng hóa không thể tích trữ, quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra
đồng thời;
+ Chất lượng dịch vụ không ổn định, nó phụ thuộc vào sức khỏe, tâm lý của
người cung ứng các sản phẩm dịch vụ.
b. Quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng hóa thông
thường ở điều kiện ngày nay
- Quan hệ trong trường hợp mua bán quyền sử dụng đất
Đối với nước ta và nhiều nước trên thế giới, đất đai thuộc quyền sở hữu của
quốc gia và nhà nước đại diện chủ sở hữu. Công dân và các chủ thể kinh tế được giao
quyền sử dụng đất. Vì vậy, thực chất việc mua bán (trao đổi) là quyền sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất có giá trị sử dụng và giá cả, nhưng giá cả không dựa vào giá
trị của đất đai như đối với các hàng hóa thông thường mà do tác động của các yếu tố
như: giá trị của tiền, quan hệ cung cầu, đầu cơ, sự khan hiếm, mức độ đô thị hóa, sự
gia tăng dân số …
Bản chất của việc buôn bán đầu cơ đất để làm giàu không phải do sự gia tăng về
giá trị của đất mà chủ yếu do quan hệ cung – cầu và sự khan hiếm và đầu cơ đã đẩy giá
cả của đất đai tăng lên. Nhờ đó, một phần tiền của người này bị người khác chiếm đoạt
và trở nên giàu có. Còn xét về tổng giá trị xã hội không thể có sự gia tăng giá trị đất
đai thông qua quan hệ trao đổi.
- Quan hệ trong trao đổi thương hiệu (danh tiếng)
+ Thương hiệu được hiểu là một tập hợp những cảm nhận của khách hàng về
một công ty, một sản phẩm hay dịch vụ với đầy đủ các khía cạnh như: mô tả nhận diện
(tên, logo của hãng hay sản phẩm), giá trị, thuộc tính, nét đặc trưng riêng có của hãng
hay sản phẩm (cá tính).
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thương hiệu của doanh nghiệp hoặc của
một sản phẩm có thể được trao đổi, định giá (nghĩa là chúng có giá cả). Xét về bản
chất, thương hiệu là sự kết tinh uy tín (uy tín được tạo lập thông qua chất lượng của
sản phẩm, dịch vụ hay nó chính là sự kết tinh sức lao động) của người sáng lập thương
hiệu và của rất nhiều người lao động khác trong quá trình sản xuất sản phẩm của
doanh nghiệp và được xã hội thừa nhận. Sự tích lũy uy tín càng nhiều (xã hội thừa

14
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
nhận uy tín càng nhiều) thì giá trị của thương hiệu càng lớn. Như vậy, thương hiệu
luôn gắn liền với một kiểu sản xuất hàng hóa, dịch vụ cụ thể.
+ Đối với hiện tượng mua bán cầu thủ (cầu thủ bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ
…). Về thực chất đây là mua sức lao động của các cầu thủ để phục vụ cho hoạt động
kinh doanh dịch vụ (tổ chức các trận đấu để bán vé thu lợi nhuận, cho thuê quảng cáo,
bán bản quyền truyền hình …). Giá cả của cầu thủ cao hay thấp tùy thuộc vào khả
năng đặc biệt (tài năng) của cầu thủ và sự khan hiếm, kỳ vọng của các câu lạc bộ.
+ Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại còn có hiện tượng thuê các cầu thủ, ca sĩ,
diễn viên nổi tiếng đại diện, quảng bá cho thương hiệu của một hãng, giới thiệu một
sản phẩm, thực chất đây là việc trao đổi danh tiếng. Cũng như thương hiệu, danh tiếng
được tạo lập bởi sức lao động của cầu thủ, diễn viên, ca sĩ … tích lũy trong nhiều năm
và với khả năng đặc biệt của họ đã tạo ra sức hút của rất đông người hâm mộ. Do đó
khi các hãng sản xuất thuê cầu thủ, ca sĩ, diễn viên … giới thiệu sản phẩm là hình thức
thuê danh tiếng để đưa sản phẩm nhanh chóng đến với đông đảo người tiêu dùng.
- Quan hệ trong trao đổi chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các
giấy tờ có giá được thực hiện trên thị trường gọi chung là các sàn giao dịch chứng
khoán.
Chứng khoán và các loại giấy tờ có giá khác có thể đem lại thu nhập cho người
sở hữu chúng. Tuy nhiên, chứng khoán và các loại giấy tờ có giá này phải dựa trên cơ
sở tồn tại và hoạt động của một tổ chức sản xuất nhất định. Vì vậy, chứng khoán và
các loại giấy tờ có giá là yếu tố phái sinh, nó có một số thuộc tính của hàng hóa nhưng
bản thân chúng không phải là hàng hóa như các loại hàng hóa thông thường khác.
Việc giao dịch chứng khoán trên thị trường đem lại thu nhập do chênh lệch giá
mua vào và giá bán ra chỉ đơn thuần là sự chuyển tiền từ người này sang người khác
(người mua chấp nhận mua giá cao hơn vì kỳ vọng vào sự tiếp tục tăng giá của chứng
khoán). Việc tăng giá của chứng khoán không phản ánh sự tăng lên về mặt giá trị. Do
vậy, xã hội không thể giàu có nếu chỉ dựa vào mua bán chứng khoán mà không có
hoạt động sản xuất.
II. THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm, phân loại và vai trò của thị trường
a. Khái niệm và phân loại thị trường
- Khái niệm thị trường: Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế trong đó
nhu cầu của các chủ thể được đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác
định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định
của nền sản xuất xã hội.

15
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thị trường dưới góc độ trực quan ta có thể thấy như chợ, cửa hàng, quầy hàng
lưu động, văn phòng giao dịch hay siêu thị; … Theo nghĩa này, thị trường là hữu hình,
phù hợp giai đoạn thị trường mới hình thành.
Thị trường dưới góc nhìn trừu tượng đó là tổng thể các mối quan hệ kinh tế
gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ
hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh
tế như nhu cầu (người mua hàng); người bán; tiền - hàng; dịch vụ mua bán… Tất các
quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường.
Thị trường là lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Sự hình thành và phát triển thị trường
gắn liền với phân công lao động xã hội. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trên thị
trường là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán theo giá cả thị trường.
- Phân loại thị trường: Nghiên cứu về thị trường có nhiều cách tiếp cận khác
nhau tuỳ theo tiêu thức hoặc mục đích nghiên cứu.
+ Căn cứ vào đối tượng hàng hóa đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường, có
thể chia ra thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng.
+ Căn cứ vào vai trò của người mua, người bán trên thị trường, có thể chia ra
thị trường người bán và thị trường người mua.
+ Căn cứ vào phạm vi hoạt động, ta chia ra thị trường trong nước (thị trường
dân tộc) và thị trường thế giới.
+ Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành của thị trường, ta có thị trường tự do,
thị trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo.
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ
thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ
về bản chất hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường và các
vấn đề liên quan đến thị trường.
b. Vai trò của thị trường
Một là, thị trường là nơi thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho
sản xuất phát triển.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tao ra
cách thức phân bổ các nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế
quốc gia với thế giới.
c. Cơ chế thị trường

16
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Cơ chế thị trường là tổng thể các quan hệ giữa các chủ thể kinh tế tuân theo các
quy luật của nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào? Bán ở đâu, cho ai?
- Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân bổ và sử dụng các nguồn lực
sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Đây là kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế dựa trên
các quy luật kinh tế khách quan được hình thành từ bản thân nền kinh tế thị trường.
A.Smith gọi đây là “bàn tay vô hình” điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể trong nền
kinh tế.
2. Nền kinh tế thị trường và một số quy luật chủ yếu của nền kinh tế thị
trường
a. Nền kinh tế thị trường
* Khái niệm: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế
thị trường. Đó là nền kinh tế mà ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông
qua thị trường, chịu sự tác động và điều tiết của các quy luật kinh tế.
* Đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường:
Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ
thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã
hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như: thị trường hàng hóa, dịch vụ;
thị trường sức lao động; thị trường vốn; thị trường bất động sản; thị trường khoa học
công nghệ.
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh; động lực trực tiếp của
các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi nhuận và các lợi ích kinh tế - xã hội khác; nhà
nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý, chức năng kinh tế, thực hiện khắc phục
những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng
xã hội và ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước có mối quan hệ mật thiết với thị
trường quốc tế.
* Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Nền kinh tế thị trường tạo động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
- Nền kinh tế thị trường giúp khai thác tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, vùng
miền và lợi thế quốc gia để thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra phương thức tốt nhất đề thỏa mãn tối đa nhu
cầu của con người, từ đó thúc đẩy xã hội tiến bộ.
* Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro, khủng hoảng kinh tế.
17
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân gây
cạn kiệt các nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường.
- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo trong
xã hội ngày càng sâu sắc.
Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế hầu như không
tồn tại một nền kinh tế thị trường thuần túy. Ngày nay nhà nước thường can thiệp vào
thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết thị trường nhằm khắc phục
những khuyết tật của nó. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
b. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường
* Quy luật kinh tế
Quy luật kinh tế là những mối liên hệ phản ánh bản chất, khách quan, lặp đi lặp
lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế trong nền sản xuất xã hội tương ứng với
những trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội ấy.
Quy luật kinh tế mang tính khách quan. Là quy luật xã hội, nên sự tác động của
các quy luật kinh tế phải thông qua các hoạt động của con người trong xã hội với những
động cơ lợi ích khác nhau. Quy luật kinh tế tác động vào các động cơ lợi ích của con
người từ đó mà điều chỉnh hành vi kinh tế của con người. Chính bởi lẽ đó, khi vận dụng
đúng các quy luật kinh tế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
* Trong nền kinh tế thị trường có những quy luật kinh tế cơ bản sau:
(1) Quy luật giá trị
- Nội dung: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá.
Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được
tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá
cả xung quanh giá trị dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên
xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị.
- Tác động: trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ
bản sau:
Thứ nhất, tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong sản xuất, thông qua sự biến động của giá cả sẽ cung cấp thông tin cho
người sản xuất biết được tình hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án
sản xuất, bố trí các nguồn lực sản xuất. Với nghĩa đó, quy luật giá trị điều tiết một cách
tự phát các nguồn lực sản xuất từ những ngành sản xuất có lợi nhuận thấp sang những
ngành sản xuất có lợi nhuận cao, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.

18
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi
có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu từ đó góp phần hình
thành những cân đối mới trên thị trường.
Thứ hai, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có
giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất
lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản
xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng
giá trị xã hội. Muốn vậy, phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới
phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm... Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống.
Thứ ba, thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất. Trong
quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực
giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội nên lãi nhiều.
Những người này sẽ mở rộng quy mô sản xuất, trở nên giàu có, phát triển thành ông
chủ. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình
độ công nghệ lạc hậu... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ lâm vào tình
trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê.
Tóm lại, quy luật giá trị có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự
tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng phân loại
người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những tác
động tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường nên cần có
sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực.
(2) Quy luật cung cầu
- Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu
hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu
không có sự thống nhất giữa chúng thì sẽ xuất hiện các nhân tố điều chỉnh chúng.
- Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị
trường để bán tại một thời điểm nhất định. Cung do sản xuất quyết định song không
đồng nhất với sản xuất. Chỉ những sản phẩm hàng hóa được đưa ra thị trường mới tạo
thành cung.
- Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Cầu không
đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo
nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán.
Chỉ những nhu cầu có khả năng thanh toán mới tạo thành cầu trong kinh tế.

19
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn
hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn
giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo
nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.
- Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá; làm
biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn cứ quan hệ
cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả; khi giá cả thay đổi, cần đưa ra
các chính sách điều tiết giá cho phù hợp nhu cầu thị trường...
- Quy luật cung – cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Ở đâu có thị
trường thì ở đó quy luật cung – cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu
nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước có thể vận dụng quy luật
cung – cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín
dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng… để tác động vào các hoạt
động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung – cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
(3) Quy luật lưu thông tiền tệ
- Quy luật lưu thông tiền tệ là một quy luật của nền kinh tế hàng hóa. Quy luật
này yêu cầu số lượng tiền tệ đưa vào lưu thông phải luôn phù hợp với tổng giá cả
hàng hóa đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá được xác định theo một quy luật là
quy luật lưu thông tiền tệ. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau:

Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất
định; P là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số
vòng lưu thông của đồng tiền trong 1 năm.
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả
hàng hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Đây
là quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho mọi hình thái kinh tế -
xã hội có sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở
nên phổ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:

20
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Trong đó: P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu; G2
là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh
toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ trong 1 năm.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngoài các quy luật kinh tế còn có nhiều
yếu tố như chính trị, thiên tai, dịch bệnh … tác động đến thị trường. Do đó việc xác
định khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông phức tạp và vượt ra khỏi khuôn khổ của
nguyên lý nêu trên.
Quy luật lưu thông tiền tệ có ý nghĩa quan trọng đối với chính phủ các nước
trong việc kiểm soát và phát hành tiền giấy nhằm chống lạm phát và thúc đẩy kinh tế
phát triển.
(4) Quy luật canh tranh
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan
hệ ganh đua giữa những chủ thể trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Thị trường càng phát triển và mở rộng thì quan hệ cạnh tranh càng khốc liệt và
đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra dưới 2 phương diện sau:
- Cạnh tranh nội bộ ngành:
+ Khái niệm: Cạnh tranh nội bộ ngành là cạnh tranh giữa những chủ thể kinh
doanh trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá để thu nhiều nhất lợi ích cho mình.
+ Biện pháp cạnh tranh là cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất …
+ Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự hình thành giá trị thị trường
của hàng hóa.
- Cạnh tranh giữa các ngành
+ Khái niệm: Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản
kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
+ Biện pháp của cạnh tranh giữa các ngành là tư do di chuyển vốn và lao động.
+ Cạnh tranh giữa các ngành là phương thức tìm kiếm lợi ích của các chủ thể.
- Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
+ Những tác động tích cực của cạnh tranh:
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực
sản xuất hiệu quả nhất.
Thứ tư, cạnh tranh góp phần thúc đẩy năng lực thỏa mãn các nhu cầu của xã
hội, đặc biệt là nhu cầu của người tiêu dùng.
+ Những tác động tiêu cực của cạnh tranh:
Một là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây tổn hại môi trường kinh doanh.
21
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Hai là, cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây lãng phí các nguồn lực xã hội.
Ba là, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại tới lợi ích chung của xã hội.
III. VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
1. Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch
vụ ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Người sản xuất luôn hướng tới mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều kiện
nguồn lực có hạn. Vì vậy, họ luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa
nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả những người sản xuất ngoài việc tìm kiếm
lợi nhuận còn phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội, cung cấp những hàng
hóa, dịch vụ đem lại lợi ích cho xã hội.
2. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng bao gồm tất cả
các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức xã hội, nhà nước, người nước ngoài... Tiêu dùng
tạo ra nhu cầu và là mục đích của sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người
tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất.
Người tiêu dùng là người quyết định hành vi mua sắm của mình. Mục tiêu của
họ là đạt được lợi ích tối đa trong tiêu dùng với nguồn thu nhập có hạn. Vì vậy, thông
qua hành vi mua sắm, người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến giá cả thị trường của
hàng hóa, dịch vụ. Trên thị trường, người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định
hướng sản xuất.
3. Các chủ thể trung gian trong nền kinh tế thị trường
Các chủ thể trung gian trong nền kinh tế thị trường là những cá nhân, tổ chức
đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ thể sản xuất và người tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường.
Nhờ sự xuất hiện của các chủ thể trung gian mà nền kinh tế trở nên năng động.
Ngoài ra, các chủ thể trung gian góp phần quan trọng giảm chi phí lưu thông, từ đó
giảm giá bán hàng hóa góp phần thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các chủ thể trung gian không chỉ là
thương nhân mà còn bao gồm những cá nhân, tổ chức hoạt động trong nhiều lĩnh vực
khác như: môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản, khoa học công nghệ …
4. Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, xét về mặt kinh tế nhà nước vừa tham gia thị
trường với tư cách là một chủ thể kinh tế. Đồng thời nhà nước còn thực hiện chức
năng quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường.
22
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thực hiện chức năng của mình, nhà nước tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho
các chủ thể kinh tế phát huy tối đa khả năng của mình để sản xuất hàng hóa, dịch vụ
cung ứng cho thị trường. Để quản lý nền kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng các công
cụ (pháp luật, thuế, chính sách tài khóa, kinh tế nhà nước) và cơ chế để điều tiết hoạt
động của các chủ thể kinh tế theo mục tiêu của nhà nước trong từng giai đoạn nhất định.
Tóm lại, trong nền kinh tế, mọi hoạt động của các chủ thể đều chịu sự tác động
của các quy luật kinh tế khách quan của thị trường; đồng thời chịu sự điều tiết, can
thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế.
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa; lượng giá trị của hàng hóa và các nhân
tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa; ý nghĩa của việc nghiên cứu các vấn đề trên.
2. Thị trường và vai trò của thị trường; phân biệt kinh tế hàng hóa với kinh tế
thị trường; ưu thế và khuyết tật của kinh tế thị trường; vai trò nhà nước trong phát huy
ưu thế, khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường.
3. Nội dung, vai trò, tác dụng của các quy luật kinh tế cơ bản của thị trường; ý
nghĩa của việc nhận thức và vận dụng đúng các quy luật kinh tế đó.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hàng hoá là gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá và mối quan hệ giữa
hai thuộc tính đó.
2. Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Vì sao chỉ lao
động sản xuất hàng hoá mới có tính hai mặt?
3. Lượng giá trị hàng hoá được xác định như thế nào? Những nhân tố nào có tác
động và làm thay đổi lượng giá trị của hàng hoá?
4. Từ nghiên cứu bản chất, chức năng của tiền, hãy làm rõ vì sao tiền là một
loại hàng hóa đặc biệt? Quy luật lưu thông tiền tệ hoạt động như thế nào?
5. Phân tích yêu cầu, nội dung, tác dụng của quy luật giá trị.
6. Làm rõ vai trò của thị trường và các chức năng của thị trường. Nhà nước có
vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường?
7. Phân tích vai trò và mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng trên
thị trường.
TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2020). Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị).

23
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Chương 3
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Nguồn gốc giá trị thặng dư
a. Công thức chung của tư bản
- Để tìm ra công thức chung của tư bản cần xem xét vai trò của tiền trong lưu
thông hàng hóa giản đơn và tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức H – T – H.
Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức T – H – T’.
Điểm khác nhau cơ bản giữa 2 hình thức vận động nêu trên thể hiện ở mục đích
của quá trình lưu thông. Tiền vận động theo công thức H – T – H nhằm mục đích giá
trị sử dụng; tiền vận động theo công thức T – H – T’ nhằm mục đích tìm kiếm giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu (T’= T + t, trong đó t > 0).
Do vậy, T – H – T’ là công thức chung của tư bản và các hình thái tư bản
đều vận động theo công thức này.
Số tiền dôi ra lớn hơn giá trị ban đầu được gọi là giá trị thặng dư; còn số tiền
ứng ra ban đầu được gọi là tư bản. Như vậy, tiền trở thành tư bản khi được dùng để
mang lại giá trị thặng dư.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
- Nguồn gốc giá trị thặng dư do đâu mà có? Để thấy rõ ta xét trong các trường
hợp sau:
+ Lưu thông thuần túy không tạo ra giá trị thặng dư.
+ Không có lưu thông cũng không thể tạo ra giá trị thặng dư.
Từ công thức T – H – T’ ta thấy: nếu tiền không đưa vào lưu thông (T – H) thì
không thể có được giá trị thặng dư; đồng thời nếu hàng hóa không đưa vào lưu thông
(H – T’) thì cũng không thể có được giá trị thặng dư. Do vậy, nếu không có lưu thông
sẽ không thể có giá trị thặng dư.
- Giá trị thặng dư được tạo ra nhờ nhà tư bản mua được loại hàng hóa đặc biệt:
hàng hóa sức lao động.
b. Hàng hóa sức lao động:
* Khái niệm sức lao động: C.Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người
đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng
nào đó"5

5
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1993, tr.251.
24
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
* Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của
mình và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định.
Hai là, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao
động và cũng không còn của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động.
* Thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị:
+ Khái niệm: Giá trị của hàng hóa sức lao động là do thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu
sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Cụ thể:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về cơ sở vật chất và tinh thần để
tái sản xuất ra sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Hai là, chi phí đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt nuối sống người thay thế.
- Giá trị sử dụng:
+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công dụng của sức
lao động, là tính hữu ích thể hiện ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu của người mua là sử
dụng vào quá trình lao động.
Giá trị sử dung của hàng hóa sức lao động chỉ được thể hiện trong qua trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động tạo ra hàng hóa.
+ Hàng hoá sức lao động có đặc điểm riêng biệt, là nguồn gốc trực tiếp tạo ra
giá trị thặng dư, là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
Hàng hóa SLĐ là điều kiện của sự bóc lột chứ không phải là cái quyết định có
hay không có bóc lột.
+ Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt vì: Khi được sử dụng nó tạo ra
giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
c. Sự sản xuất giá trị thăng dư
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất giữa quá trình tạo ra giá trị
sử dụng và quá trình làm tăng giá trị.
Ví dụ quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Giả sử sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện dưới hình thái sản xuất cụ thể là
sản xuất sợi. Để tiến hành sản xuất sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là:
- 50USD để mua 50 kg bông;
- 3USD hao mòn máy móc để kéo 50 kg bông thành sợi;
- 15USD mua hàng hoá sức lao động để sử dụng trong 1 ngày làm việc 8 giờ.
Như vậy, nhà tư bản ứng ra 68USD.
25
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Trong quá trình sản xuất sợi, bằng lao động cụ thể, người công nhân biến bông
thành sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy móc được chuyển vào giá trị của
sợi; bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới, giả định, trong 4 giờ
lao động thứ nhất công nhân đã chuyển toàn bộ 50 kg bông thành sợi. Giá trị sợi gồm:
Giá trị 50 kg bông chuyển vào sợi: 50 USD
Hao mòn máy móc chuyển vào sợi: 3 USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động: 15 USD
Tổng cộng: 68 USD
Nhà tư bản ứng ra 68USD, bán sợi thu về 68USD. Nếu quá trình lao động dừng
lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành tư bản.
Do đó, để có giá trị thặng dư, thời gian lao động phải vượt quá cái điểm bù lại
giá trị sức lao động. Nhà tư bản mua sức lao động của công nhân để sử dụng trong 8
giờ chứ không phải 4 giờ. Công nhân phải tiếp tục làm việc trong 4 giờ nữa, nhà tư
bản chỉ phải tốn thêm 50USD để mua 50 kg bông và 3USD hao mòn máy móc. Quá
trình lao động 4 giờ lao động thứ 2 diễn ra như quá trình đầu. Số sợi được tạo ra trong
4 giờ lao động sau cũng có giá trị 68USD.
Giá trị 50 kg bông chuyển vào sợi: 50 USD
Hao mòn máy móc chuyển vào sợi: 3 USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động: 15 USD
Tổng cộng: 68 USD
Tổng cộng sau một ngày lao động nhà tư bản thu được 100kg sợi có giá trị là:
Giá trị 100 kg bông chuyển vào sợi: 100 USD
Hao mòn máy móc chuyển vào sợi: 6 USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động: 30 USD
Tổng cộng: 136 USD
Chi phí nhà tư bản bỏ ra cho quá trình sản xuất sợi gồm: 100USD (mua bông) +
6USD (khấu hao máy kéo sợi) + 15USD (mua hàng hóa sức lao động) = 121USD,
trong khi đó số sợi sản xuất ra có giá trị 136USD. Do đó, nhà tư bản thu được lượng
giá trị thặng dư là 136USD - 121USD = 15 USD.
Kết luận: Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra, là kết quả lao động không công của người công nhân cho
nhà tư bản (ký hiệu là m).
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư không những là sự thống nhất giữa sản xuất
giá trị sử dụng và giá trị, mà còn là sự thống nhất giữa sản xuất giá trị sử dụng và giá
trị thặng dư.
Xét theo phương diện tạo ra giá trị mới và giá trị thặng dư, ngày lao động được
chia thành hai phần: thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư. Trong đó:
26
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Thời gian lao động tất yếu (t) là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
lượng giá trị bằng với giá trị của hàng hóa sức lao động;
- Thời gian lao động thặng dư (t’) là thời gian dôi ra so với thời gian lao
động tất yếu bị nhà tư bản chiếm đoạt, tức là làm mà không được trả công.
Nguồn gốc của giá trị thặng dư là do sức lao động của người công nhân kết tinh
trong hàng hóa bị nhà tư bản chiếm đoạt.
d. Tư bản bất biến, tư bản khả biến
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, xét từ phía nhà tư bản, là quá trình ứng ra và sử
dụng tư bản với tư cách là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Để tiến hành sản xuất, nhà tư
bản phải ứng tư bản ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
- Tư bản bất biến:
+ Khái niệm: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị
được lao động cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá
trị sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi trong quá trình sản xuất gọi là tư bản bất
biến (ký hiệu là c).
+ Tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư nhưng là điều kiện hết sức cần
thiết để tạo ra giá trị thặng dư.
Nhà tư bản chỉ sử dụng robot khi nó đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với
thuê lao động. Ngược lại, nhà tư bản sẽ tiếp tục sử dụng sức lao động làm thuê của
người công nhân.
Ngày nay, trong cách mạng khoa học công nghệ robot được ứng dụng vào sản
xuất, đây là tiền đề để tăng năng suất lao động nhằm thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch cho nhà tư bản.
- Tư bản khả biến
+ Khái niệm: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện
ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi về số
lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư bản khả biến (ký hiệu là v).
Như vậy, nếu gọi giá trị hàng hóa là G thì ta có công thức về giá trị hàng hóa
như sau:
G=C+v+m
Trong đó: C là giá trị những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng (đây chính là chi
phí lao động quá khứ đã được vật hóa dưới dạng tư liệu sản xuất); v + m là giá trị mới
do sức lao động của người công nhân kết tinh trong quá trình sản xuất.
e. Tiền công
- Khái niệm: Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động hay biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hóa sức lao động.

27
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Bản chất tiền công do người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất nhưng
được hiểu là do nhà tư bản trả cho người công nhân để mua hàng hóa sức lao động.
+ Mối quan hệ giữa người mua và người bán sức lao động mang tính thống nhất
về lợi ích. Vì vậy, đối với người mua sức lao động cần đảm bảo quyền lợi chính đáng
của người lao động (bản thân người lao động là nguồn gốc tạo ra sự giàu có cho bản
thân người sử dụng lao động). Ngược lại, đối với người lao động cần phải thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng lao động và biết bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân.
+ Khi khẳng định hàng hóa sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư
không có nghĩa là mua được sức lao động là có giá trị thặng dư, vì giá trị thặng dư kết
tinh trong hàng hóa do người lao động sản xuất ra trong quá trình sản xuất. Nhà tư bản
chỉ thu được giá trị thặng dư sau khi bán được hàng hóa đúng với giá trị hoặc thấp hơn
không dưới mức chi phí ứng ra để tiến hành sản xuất.
f. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
* Tuần hoàn của tư bản:
- Khái niệm: Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua
ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thái, thực hiện ba chức năng và quay trở về hình thái
ban đầu cùng với giá trị thặng dư.
Công thức chung của tuần hoàn tư bản là:
SLĐ
T – H < … SX … H’ – T’
TLSX
- Tuần hoàn tư bản phản ánh những mối quan hệ khách quan giữa các hoạt
động, các khâu của quá trình sản xuất. Để sản xuất kinh doanh hiệu quả, chủ thể kinh
doanh phải có các yếu tố sản xuất cần thiết với số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp,
phải có đủ trình độ tổ chức sắp xếp và thực hiện công việc theo quy trình. Đồng thời
cần có môi trường thuân lợi dựa trên hệ thống cơ chế chính sách của nhà nước.
* Chu chuyển của tư bản:
- Khái niệm: Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định
kỳ, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian.
- Chu chuyển tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu
chuyển tư bản.
+ Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi
được ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó
cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông.

28
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình
thái nhất định quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một
đơn vị thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Tốc độ chu chuyển tư bản được tính theo công thức:
Công thức:
CH
n =
ch
Trong đó: n là số vòng chu chuyển của tư bản.
CH là thời gian trong năm.
ch là thời gian 1 vòng chu chuyển.
* Tư bản cố định, tư bản lưu động
- Tư bản cố định:
+ Khái niệm: Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái
tư liệu lao động, chúng tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị chỉ
chuyển dịch từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn.
+ Hao mòn của tư bản cố định bao gồm:
-> Hao mòn hữu hình (sự mất mát về giá trị sử dụng và trạng thái vật chất) do
sử dụng và tác động của tự nhiên gây ra.
-> Hao mòn vô hình (sự mất giá trị thuần túy) do quá trình khấu hao và sự xuất
hiện của những thế hệ tư liệu lao động mới có năng suất cao hơn.
- Tư bản lưu động:
+ Khái niệm: Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái
sức lao động, nguyên nhiên vật liệu, vật liệu phụ… , giá trị của nó được chuyển toàn
bộ một lần vào giá trị sản phẩm khi kết thúc từng quá trình sản xuất.
+ Để thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, các nhà tư bản phải nỗ lực rút
ngắn thời gian chu chuyển hay đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản trên cơ sở nắm
vững các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển tư bản, đồng thời sử dụng hiệu
quả tư bản cố định và tư bản lưu động.
2. Bản chất của giá trị thặng dư
* Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư có bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó giai
cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở thuê mướn lao động.
Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không
những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là phải thu được
nhiều giá trị thặng dư, do đó cần có thước đo để đo lường giá trị thặng dư về lượng.
C.Mác đã sử dụng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng để đo lường giá trị thặng dư.
29
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
*Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
- Khái niệm: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và
tư bản khả biến để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là:
m
m’ = x 100 (%)
v
Trong đó: m’ – tỷ suất giá trị thăng dư
m – giá trị thặng dư
v - tư bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao
động thặng dư (t’) và thời gian lao động tất yếu (t).
t’
m’ = x 100 (%)
t
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với người
công nhân.
- Khái niệm: Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà
nhà tư bản thu được.
Công thức tính khối lượng giá trị thặng dư là:
M = m’. V
Trong đó: M – khối lượng giá trị thặng dư
V – tổng tư bản khả biến.
m’ – tỷ suất giá trị thặng dư
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của nhà tư bản đối với giai
cấp công nhân.
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ
ra hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài
ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
- Ví dụ: Nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.

30
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
4
m’ = x 100 = 100%
4
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện
không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng
dư sẽ là:
6
m’ = x 100 = 150%
4
- Hạn chế:
+ Độ dài ngày lao động là giới hạn (1 ngày chỉ kéo dài tối đa là 24 giờ).
+ Hạn chế về thể lực, tâm lý của người lao động.
b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút
ngắn thời gian lao động tất yếu để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động
thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
- Ví dụ: ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng
dư, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao
động tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó
6
m’ = x 100 = 300%
2
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến
thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5
giờ. Khi đó:
5
m’ = x 100 = 500%
1
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong
các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế
tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Ưu điểm:
* Giá trị thặng dư siêu ngạch:
- Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị phụ thêm xuất hiện khi
giá trị cá biệt của hàng hóa nhỏ hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.

31
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước hết
ở một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hoá do các xí nghiệp ấy sản xuất ra
có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư
vượt trội so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư
siêu ngạch.
Xét từng trường hợp cá biệt, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu
ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra
sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Việc ứng dụng KHCN vào sản xuất của
các nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá
trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng dư
siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thông qua cách mạng công
nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và công nghệ thúc đẩy
sản xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư phát triển nhanh. Cùng với toàn cầu
hóa kinh tế khoa học và công nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan trọng của sản
xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay.
III. TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Bản chất của tích lũy tư bản
Tư bản là quan hệ sản xuất xã hội được tái sản xuất không ngừng trong chủ
nghĩa tư bản. Việc duy trì tư bản được thể hiện thông qua tái sản xuất.
- Tái sản xuất giản đơn: là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ, tức
là toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân.
Tuy nhiên, mục đích của nhà tư bản là khối lượng giá trị thặng dư phải không
ngừng lớn lên, để đạt được điều đó nhà tư bản phải thực hiện chuyển hóa một phần giá
trị thặng dư làm tư bản để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
- Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa: là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy
mô và trình độ ngày càng tăng lên.
Để thực hiện tái sản xuất mở rộng phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành
tư bản phụ thêm, do đó tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
- Nghiên cứu tái sản xuất mở rộng cho thấy, nguồn gốc duy nhất của tư bản
tích luỹ là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
không những trở thành thống trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
2. Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ
- Quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân
chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.
32
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Với tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng đã xác
định, thì các nhân tố quyết định quy mô tích luỹ bao gồm:
Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư bằng cách cắt xén tiền công, tăng
thời gian sử dụng tư liệu lao động trong ngày.
Thứ hai, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Thứ ba, chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước.
3. Một số hệ quả của tích luỹ tư bản
Quá trình tích luỹ tư bản dẫn đến một loạt các hệ quả, thể hiện các quy luật phổ
biến của tích lũy tư bản, bao gồm:
- Thứ nhất, Tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu C/v) là cấu tạo giá trị được quy định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật tư bản.
Trình độ kỹ thuật của sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện thông qua cấu tạo kỹ
thuật của tư bản: Cấu tạo kỹ thuật biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản
xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó.
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng ra những lượng tư bản bất biến và
khả biến theo những tỷ lệ nhất định, thể hiện cấu tạo giá trị của tư bản. Cấu tạo giá trị
biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến.
- Thứ hai, tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư
bản riêng rẽ.
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt và quy mô tư bản xã hội, nó là
kết quả tất yếu của tích luỹ.
Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành tư bản cá biệt lớn.
Trong quá trình tích lũy tư bản, tích tụ và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẫn
nhau, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
- Thứ ba, quá trình tích lũy tư bản làm gia tăng chênh lệch giữa thu nhập của
nhà tư bản với thu nhập của người lao động cả tuyệt đối và tương đối.
Cùng với sự gia tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả
biến có xu hướng giảm tương đối so với tư bản bất biến, dẫn tới nguy cơ thừa nhân
khẩu dưới các hình thức nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm tàng và nhân
khẩu thừa ngưng trệ. Do đó, quá trình tích luỹ tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện
sự tích luỹ sự giầu sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích luỹ sự bần cùng về
phía giai cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hoá giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần
cùng hoá tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối.
33
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Bần cùng hoá tương đối là cùng với đà tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần
sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại
giảm tương đối so với phần giành cho giai cấp tư sản.
+ Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai
cấp công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai
cấp công nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm
thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Lợi nhuận
a. Chí phí sản xuất
- Khái niệm: Chi phí sản xuất là phần tư bản ứng ra để mua tư bản bất biến và
tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất.
Ví dụ: Giả định rằng, để sản xuất hàng hóa nhà tư bản phải đầu tư khối lượng tư
bản có giá trị là 1.000.000 USD, được chia thành các phần:
C1 – 500.000 USD với thời gian chu chuyển 10 năm;
C2 – 400.000 USD với thời gian chu chuyển 1 năm;
V – 100.000 USD với thời gian chu chuyển 1 năm;
m’ – 100%
Thì G: 450.000c + 100.000v + 100.000m = 650.000
Lấy 650.000 USD - 100.000 USD = 550.000 USD.
550.000 USD là giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất đã
tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng, chỉ bù lại số chi phí mà bản
thân nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa là chi phí sản xuất của hàng hóa.
Chi phí sản xuất được ký hiệu là k. Khi xuất hiện phạm trù chí phí sản xuất thì
giá trị hàng hóa G = C + v + m sẽ biểu hiện thành: G = k + m.
b. Bản chất lợi nhuận
- Trong thực tế để sản xuất nhà tư bản ứng ra một số tiền gọi là chi phí sản xuất
(ký hiệu: k), sau khi bán hàng hóa nhà tư bản thu về số tiền lớn hơn chi phí sản xuất,
phần chênh lệch đó C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu của lợi nhuận: p
Khi giá trị hàng hóa biểu hiện thành: G = k + p  p = G - k
- Bản chất của lợi nhuận: lợi nhuận là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
thặng dư và được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.
Lợi nhuận thể hiện sự lời lãi của đầu tư tư bản. Lợi nhuận chính là mục tiêu,
động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
c. Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận
34
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
* Tỷ suất lợi nhuận
- Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá
trị của tư bản ứng trước.
- Tỷ suất lợi nhuận được ký hiệu là p’ và được tính theo công thức:
p
p’ = x 100 (%)
C+v
- Tỷ suất lợi nhuận phản ảnh mức độ doanh lợi của tư bản, nó phản ánh hiệu
quả của quá trình sản xuất.
Hộp 3.1. Vai trò của lợi nhuận
“Tờ "Quarterly Reviewer" trích lời của tác giả T.J.Dunning nói rằng: “Tư bản
tránh sự ồn ào và cãi cọ, và có bản tính rụt rè. Đó là sự thật, nhưng chưa phải là
tất cả sự thật. Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít, cũng
như giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên
can đảm. Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản
vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần
trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi
luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không
dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ. Nếu sự ồn ào và cãi cọ đem lại lợi nhuận thì
tư bản khuyến khích cả hai. Chứng cớ là: buôn lậu và buôn nô lệ” (T.J.Dunning,
s.đ.d.,tr.35, 36)6.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận
Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách
để tận dụng những tác động tích cực của chúng nhằm làm tăng tỷ suất lợi nhuận:
Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư.
Thứ hai, của cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Thứ ba, thời gian chu chuyển của tư bản.
Thứ tư, sự tiết kiệm tư bản bất biến.
d. Lợi nhuận bình quân
Lợi nhuận bình quân hình thành bởi sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự
dịch chuyển tư bản.
Ví dụ: Giả định có 3 ngành sản xuất là: cơ khí, dệt, da; chi phí sản xuất đều
bằng nhau là 100; tỷ suất giá trị thặng dư đều là 100%; tốc độ luân chuyển vốn như
nhau, ta sẽ có:

6
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.1056.

35
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Ngành Chi phí sản m’ = Giá trị P’ Giá cả sản
sản xuất xuất 100% hàng ngành P’(%) P xuất
hoá %
Cơ khí 80C + 20V 20 120 20 30 30 130
Dệt 70C + 30V 30 130 30 30 30 130
Da 60C + 40V 40 140 40 30 30 130

Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của các tỷ suất lợi nhuận. Tỷ
suất lợi nhuận bình quân p' được tính bằng số bình quân gia quyền của các tỷ suất lợi
nhuận như sau:
∑P
P’ = x 100 (%)
∑ (C+v)
Nếu ký hiệu lợi nhuận bình quân là P và giá trị tư bản ứng trước là “k” thì lợi
nhuận bình quân được tính như sau:

P = P’ x k
Khi lợi nhuận bình quân trở thành quy luật phổ biến chi phối các hoạt động
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì giá trị của hàng hóa chuyển hóa thành giá
cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả mang lại lợi nhuận bình quân. Nếu ký hiệu giá
cả sản xuất là GCSX thì giá cả sản xuất được tính như sau:
Gcsx = k + p
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân,
giá cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành
căn cứ cho các nhà tư bản lựa chọn ngành nghề, phương án kinh doanh, do đó, nó là
quy luật điều tiết chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh.
e. Lợi nhuận thương nghiệp
- Khái niệm TBTN: Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, phân công
lao động xã hội đã làm xuất hiện một bộ phận chuyên môn hóa trong khâu lưu thông
hàng hóa. Đó là tư bản thương nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá mua hàng hóa (giá bán
buôn) và giá bán hàng hóa (giá bán lẻ).
Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư do tư bản
sản xuất tạo ra trả cho nhà tư bản thương nghiệp để tư bản thương nghiệp bán hàng
hóa cho tư bản sản xuất.

36
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
VD: Một nhà tư bản công nghiệp bỏ ra 900 USD để đầu tư sản xuất. Giả định
cấu tạo hữu cơ tư bản là 4/1; m’ = 100%; và tư bản chu chuyển hết trong một năm.
G = 720C +180v + 180m = 1080
P’ = 180m/(720C + 180v) = 20%
Nếu nhà tư bản công nghiệp đảm nhiệm toàn bộ quá trình lưu thông thì phải đầu
tư một lượng tư bản để hoạt động thương nghiệp. Giả định là 100 USD, do đó tổng tư
bản ứng trước sẽ là 900 USD + 100 USD = 1000 USD.
P’ = 180m/(720C + 180v) + (100 HĐ thương nghiệp) = 18%
Nếu nhà tư bản công nghiệp không đảm nhiệm khâu lưu thông mà do tư bản
thương nghiệp đảm nhận thì TBCN phải nhường một phần lợi nhuận cho nhà TBTN
theo tỷ suất lợi nhuận chung và giá bán hàng hoá của nhà TBCN như sau:
G bán buôn = 720 C + 180 v + (900 x 18/100) = 1062USD
Trên thị trường nhà TBTN bản hàng hoá theo đúng quy luật giá trị và thu về
1080 USD, trừ đi khoản chi phí mua hàng hoá là 1062 sẽ thu được 18 USD lãi và bằng
đúng tỷ suất lợi nhuận bình quân của xã hội là 18% của tổng số vốn bỏ ra là 100 USD.
2. Lợi tức
a. Tư bản cho vay trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
- Khái niệm: Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là bộ phận tư bản xã hội
dưới hình thái tiền tệ, được chủ sở hữu cho người khác sử dụng trong một thời gian để
kiếm lời.
- Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
+ Quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
+ Là hàng hóa đặc biệt. Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ
được quyền sử dụng trong một thời gian.
+ Là hình thái tư bản phiến diện nhất song được sùng bái nhất. Tư bản cho vay
vận động theo công thức T – T’, tạo ra ảo tưởng là tiền đẻ ra tiền, che dấu quan hệ bóc
lột vì không phản ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
b. Nguồn gốc, bản chất của lợi tức, tỷ suất lợi tức
- Khái niệm: Lợi tức cho vay (ký hiệu z) trong chủ nghĩa tư bản là phần lợi
nhuận bình quân mà chủ thể sử dụng tư bản trả cho chủ thể sở hữu tư bản.
Sự hình thành lợi tức cho vay làm cho lợi nhuận bình quân được chia thành hai
phần: lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp (Pdn), tạo ra nhận thức phổ biến là tư bản trực
tiếp tạo ra lợi tức, còn tài năng kinh doanh trực tiếp tạo ra lợi nhuận doanh nghiệp.
- Khái niệm: Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay.
Nếu ký hiệu tỷ suất lợi tức là z’, tư bản cho vay là TBCV, thì công thức tính tỷ
suất lợi tức như sau:

37
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Z
Z’ = x 100 (%)
TBCV
Tỷ suất lợi tức chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu là tỷ suất lợi nhuận bình
quân và tình hình cung cầu về tư bản cho vay.
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa
- Khái niệm: Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp.
Cũng như các lĩnh vực sản xuất khác, tư bản kinh doanh trong nông nghiệp
cũng thu được lợi nhuận bình quân. Khác với các lĩnh vực sản xuất khác, để kinh
doanh trong nông nghiệp tư bản phải thuê đất của địa chủ và trả tiền thuê đất cho địa
chủ gọi là địa tô.
Kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nhà tư bản không những phải
bù đắp được chi phí sản xuất, thu được lợi nhuận bình quân, mà còn phải trả địa tô cho
người cho thuê đất.
- Khái niệm: Địa tô tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi
nhuận bình quân mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ vì đã
kinh doanh trên ruộng đất của địa chủ.
Địa tô tư bản chủ nghĩa có nhiều loại hình, trong đó chủ yếu là địa tô chênh lệch
và địa tô tuyệt đối.
- Khái niệm: Địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận
bình quân được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện kinh doanh trung bình và
thuận lợi.
Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.
+ Địa tô chênh lệch I, được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện tự
nhiên trung bình và thuận lợi, bao gồm những thuận lợi về mức độ màu mỡ của đất và
vị trí địa lý của đất.
+ Địa tô chênh lệch II, do thâm canh mà có. Sự hình thành địa tô chênh lệch II
dẫn đến mâu thuẫn giữa hai giai cấp nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa chủ,
trong đó địa chủ luôn muốn cho thuê đất với thời hạn càng ngắn càng tốt, còn nhà tư
bản kinh doanh nông nghiệp lại muốn thời hạn thuê đất càng dài càng tốt.
- Địa tô tuyệt đối là địa tô thu được do nông nghiệp lạc hậu tương đối so với
công nghiệp và các ngành sản xuất khác, đồng thời độc quyền tư hữu ruộng đất trong
nông nghiệp ngăn cản không cho nông nghiệp tham gia vào cạnh tranh bình quân hóa
tỷ suất lợi nhuận.

38
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Ví dụ:
Trong công nghiệp: 800c + 200v + 200m = 1200
Trong nông nghiệp: 600c + 400v + 400m = 1400
Giá trị thặng dư được tạo ra trong nông nghiệp lớn hơn trong công nghiệp là
400 m - 200m = 200m. Nếu như phần 200m trong công nghiệp tham gia vào quá trình
bình quân hóa lợi nhuận, làm cho lợi nhuận bình quân có mức 200 thì nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp cũng chỉ được nhận lợi nhuận bằng lợi nhuận bình quân. Phần giá
trị thặng dư dôi ra ngoài mức lợi nhuận bình quân được giữ lại để nộp địa tô tuyệt đối
cho địa chủ.
Giá cả của đất đai không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị đất đai. Vì đất
đai xét một cách thuần tuý tự nhiên thì không phải là sản phẩm của lao động, không có
lao động kết tinh, không có giá trị. Vì vậy, giá cả của đất đai phản ánh quan hệ kinh tế
phái sinh đặc biệt. Giá cả đất đai là địa tô tư bản hóa, được tính theo sự biến động của
địa tô và tỷ suất lợi tức tiền gửi vào ngân hàng. Công thức tính giá cả đất đai
Địa tô
Giá cả đất đai =
Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng

VẤN ĐỀ THẢO LUẬN


1. Mối quan hệ giữa các phạm trù giá trị thặng dư, phạm trù giá trị; hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
2. Nội dung cơ bản của lý luận tích lũy tư bản và khả năng vận dụng vào
thực tiễn.
3. Vai trò cơ bản của lợi nhuận và lợi nhuận bình quân, phân biệt các phạm
trù lợi nhuận, lợi tức và địa tô.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Giá trị thặng dư và các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư?
2. Tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy?
3. Nội dung và khả năng vận dụng lý luận lợi nhuận, lợi tức, địa tô?
TÀI LIỆU HỌC TẬP:
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2020). Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị)

39
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Chương 4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc quyền
a. Nguyên nhân hình thành độc quyền và độc quyền nhà nước
* Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền
- Khái niệm độc quyền: Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn,
có khả năng thâu tóm việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định
ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao
- Nguyên nhân hình thành độc quyền:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện một mặt
làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có quy mô
lớn; mặt khác thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy và tập trung
sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn.
Cùng với sự tác động của các quy luật của nền kinh tế thị trường như: quy luật
giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy tư bản … đã làm biến đổi cơ cấu kinh
tế xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Hai là, do tác động của cạnh tranh:
Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, các doanh nghiệp
lớn tồn tại được, nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục phát triển họ phải tăng cường
tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh nghiệp với quy mô ngày
càng to lớn hơn.
Lênin khẳng định: “…tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trụng
sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền"7
Ba là, do khủng hoảng và sự phát triển hệ thống tín dụng:
Các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn cuối thế kỷ 19, đầu hế kỷ 20 làm phá sản
hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn còn tồn tại buộc phải
thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các doanh nghiệp có
quy mô lớn.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập
trung sản xuất, nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho
sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

7
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t.27, tr.402.
40
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thực chất nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao vẫn do công nhân làm việc
trong các xí nghiệp độc quyền tạo ra; ngoài ra còn có lao động không công của công
nhân các xí nghiệp ngoài độc quyền; giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhỏ mất đi do
thua thiệt trọng cạnh tranh; lao động thặng dư của công nhân, người lao động, nhân
dân ở các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Giá cả độc quyền hình thành do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán
hàng hóa. Nhờ chiếm được vị thế độc quyền về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nên các
tổ chức độc quyền áp đặt được giá cả độc quyền.
Giá cả độc quyền gồm có giá cả độc quyền thấp khi mua và giá cả độc quyền
cao khi bán.
* Độc quyền nhà nước và nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước
- Khái niệm độc quyền nhà nước: Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền
trong đó nhà nước thực hiện nắm giữ vị thế độc quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của
các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức
mạnh vật chất cho sự ổn định của chế độ chính trị xã hội tương ứng với điều kiện phát
triển nhất định trọng các thời kỳ lịch sử.
- Nguyên nhân ra đời của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất càng cao sinh ra những cơ cấu kinh tế to
lớn đòi hỏi phải có một sự điều tiết từ nhà nước đối với toàn bộ quá trình sản xuất và
phân phối.
Sự phát triển của LLSX, quá trình xã hội hóa sản xuất dẫn tới yêu cầu khách
quan là nhà nước tham gia với tư cách là đại biểu cho toàn bộ xã hội để quản lý nền
kinh tế. Mâu thuẫn giữa sự phát triển của LLSX với chế độ sở hữu tư nhân về TLSX
đòi hỏi phải có một hình thức mới của QHSX để mở đường cho LLSX tiếp tục phát
triển. Hình thức mới của QHSX đó chính là độc quyền nhà nước.
Thứ hai, công lao động làm xuất hiện một số ngành mới cso vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng các tổ chức độc quyền không muốn kinh doanh
hoặc không có khả năng đầu tư như: hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, giáo dục
đào tạo .... Do đó nhà nước phải đứng ra thực hiện đầu tư để đảm bảo phát triển kinh tế
xã hội và tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền đầu tư vào các ngành có lợi hơn.
Thứ ba, do sự thống trị của độc quyền tư nhân dẫn tới phân hóa giàu - nghèo
giữa các giai cấp, tầng lớp dân cư trong xã hội ngày càng sâu sắc. Vì vậy nhà nước cần
can thiệp thông qua hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội để duy trì sự ổn
định của chế độ chính trị và trật tự xã hội tạo điều kiện cho độc quyền phát triển.
Thứ tư, quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên
minh độc quyền vấp phải các rào cản quốc gia, dân tộc, sự xung đột lợi ích kinh tế

41
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
giữa các tập đoàn độc quyền xuyên quốc gia đòi hỏi nhà nước phải tham gia để điều
tiết các hoạt động kinh tế, chính trị quốc tế.
Ngoài ra việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cách mạng khoa
học và công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
- Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi ích
của giai cấp tư sản và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản trong điều kiện mới.
Độc quyền nhà nước là sự thống nhất giữa sức mạnh kinh tế của độc quyền tư
nhân với sức mạnh chính trị, quân sự của nhà nước tư sản để hình thành một cơ chế
thống nhất nhằm: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế và làm cho nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Nhà nước trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước càng thực hiện mở rộng
phạm vi sở hữu đối với tư liệu sản xuất bao nhiêu thì nó càng biến thành nhà tư bản tập
thể thực sự bấy nhiêu.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là hình thức vận động mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất đã làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi
với điều kiện lịch sử mới và do đó vẫn tiếp tục phát triển.
b. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
- Những tác động tích cực
+ Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ở mức độ cao.
Do đó các tổ chức độc quyền có khả năng huy động những nguồn lực khổng lồ về tài
chính để triển khai nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật từ đó thúc
đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
+ Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh
của bản thân tổ chức độc quyền.
Các tổ chức độc quyền khi liên minh sẽ tạo ra ưu thế về vốn để triển khai ứng
dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật, áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến để
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao năng lực cạnh
tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Độc quyền tạo ra sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng sản xuất lớn, hiện đại.
Với ưu thế về vốn, các tổ chức độc quyền có thể đầu tư vào các lĩnh vực trong
tâm của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng tập trung, quy
mô lớn, hiện đại.
42
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Lênin viết: “… nhưng trước mắt chúng ta cạnh tranh tự do biến thành độc
quyền và tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn
bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa”8
- Những tác động tiêu cực.
+ Độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và xã hội.
Độc quyền xuất hiện do cạnh tranh, nhưng khi hình thành độc quyền lại tận
dụng ưu thế về sản xuất để tìm kiếm lợi nhuận độc quyền cao. Do đó, dù nâng cao
năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất nhưng độc quyền không giảm giá cả hàng
hóa mà lợi dụng ưu thế của mình để mua yếu tố đầu vào với giá thấp, bản sản phẩm
đầu ra với giá cao. Kết quả là độc quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
+ Độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển
kinh tế, xã hội.
Độc quyền nhờ sức mạnh về kinh tế nên có khả năng triển khai các hoạt động
nghiên cứu, phát minh sáng chế. Tuy nhiên, các phát minh này chỉ được đưa vào ứng
dụng khi vị thế độc quyền bị lung lay (nguy cơ bị các đối thủ cạnh tranh vượt qua làm
mất vị thế độc quyền), điều này dẫn tới kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi các nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi độc
quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội sẽ làm tăng sự phân hóa giàu - nghèo.
Để bảo vệ lợi ích của mình, độc quyền có khả năng và không ngừng can thiệp vào
lĩnh vực chính trị - xã hội. Khi các tổ chức độc quyền can thiệp vào nhà nước sẽ chi phối
đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia dẫn tới các chính sách của nhà nước không
hướng tới số đông nhân dân lao động, gây bất bình đẳng và phân hóa giàu – nghèo.
2. Quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các chủ thể sản
xuất kinh doanh nhỏ mà còn có thêm các loại canh tranh giữa các tổ chức độc quyền
thể hiện qua các nội dung sau:
- Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền.
- Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau.
- Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền.
Kết luận: trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh và độc quyền luôn
tồn tại song hành với nhau. Mức độ khốc liệt của canh tranh và mức độ độc quyền hóa
phụ thuộc vào hoành cảnh cụ thể của mỗi nền kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật
khác nhau.

8
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t.27, tr.488

43
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
II. LÝ LUẬN CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐỘC QUYỀN VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM
KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỂN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
a. Các tổ chức độc quyển có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, tích tụ và tập trung sản xuất cao
đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Nguyên nhân bởi một mặt do
số lượng xí nghiệp trong một ngành sản xuất còn ít nên dễ thỏa thuận về giá cả và sản
lượng; mặt khác doanh nghiệp có quy mô lớn, trình độ kỹ thuật cao dẫn tới cạnh tranh
gay gắt làm cho mọi xí nghiệp đều thiệt hại, do đó xu hướng thỏa hiệp để nắm địa vị
độc quyền dẫn tới hình thành các tổ chức độc quyền.
Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm: Cartel,
Syndicate, Trust, Consortium.
- Cartel: là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký
kết các hiệp nghị thỏa thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu
thụ, kỳ hạn thanh toán …
- Syndicate: là hình thức tổ chức độc quyền phát triển cao hơn cartel, các xí
nghiệp tham gia syndicate vẫn giữ độc lập trong sản xuất, nhưng trong lưu thông do
ban quản trị của Syndicate đảm nhận nhằm thống nhất khâu mua, bán để đảm bảo lợi
nhuận độc quyền cao.
- Trust: là hình thức tổ chức độc quyền đã thống nhất toàn bộ sản xuất và lưu
thông do hội đồng quản trị điều hành, các xí nghiệp tư bản tham gia trust trở thành cổ
đông và hưởng lợi nhuận theo tỷ lệ đóng góp cổ phần (thực chất trust là một dạng của
công ty hợp danh hay công ty cổ phần). Trust chỉ hoạt động trong một ngành, một lĩnh
vực sản xuất của nền kinh tế.
- Consortium: là sự kết hợp của các syndicate, trust của nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực khác nhau trên cơ sở có liên quan về kinh tế, kỹ thuật và thường do các tập đoàn
tài chính, các nhóm nhà tư bản lớn chi phối.
b. Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài
phiệt chi phối.
- Cạnh tranh làm cho các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản, bị mua lại hoặc phải
sát nhập, từ đó hình thành những ngân hàng lớn dẫn tới ra đời độc quyền trong ngân
hàng.
- Sự kết hợp giữa độc quyền ngân hàng với độc quyền công nghiệp cho ra đời
loại hình tư bản mới – Tư bản tài chính.
- Tư bản tài chính là sự hợp nhất giữa tư bản độc quyền ngân hàng và công
nghiệp. V.I.Lênin viết: "Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân
44
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc
quyền các nhà công nghiệp" 9.
- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn tới hình thành một nhóm nhỏ các nhà tư
bản tài chính có khả năng chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội
gọi là tài phiệt. Các tài phiệt thông qua chế độ “tham dự” và “ủy thác” để khống chế
nền kinh tế thông qua thị trường tài chính …
+ Chế độ tham dự: bằng việc mua cổ phiếu để đầu tư vào một tổ chức độc
quyền (công ty mẹ) tư bản tài chính có quyền tham gia vào hội đồng quản trị để đưa ra
các chiến lược kinh doanh, kiểm soát hoạt động của công ty mẹ, từ đó khống chế hoạt
động của các công ty con và chi nhánh trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, chỉ với một
lượng tư bản nhỏ, tư bản tài chính có thể chi phối hoạt động trên phạm vi rộng lớn của
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất trên phạm vi toàn cầu.
+ Chế độ ủy thác: Thông qua việc phát hành cổ phiếu với mệnh giá rất nhỏ để
nhiều người đều có thể mua được, tư bản tài chính đã thu hút được lượng vốn khổng lồ
từ xã hội và phân tán quyền nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông. Như vậy, chỉ cần nắm
giữ một lượng cổ phiếu khống chế, tư bản tài chính có thể khống chế quyền nắm giữ cổ
phiếu của vô số cổ đông nhỏ lẻ khác. Để tham dự đại hội cổ đông, các cổ đông nhỏ
không đủ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu buộc phải ủy thác cho người có đủ tỷ lệ cổ phiếu theo
quy định. Việc thực hiện ủy thác sẽ làm giảm quyền của cổ đông nhỏ và tạo điều kiện để
tư bản tài chính thỏa hiệp, khống chế cổ động nhỏ nhằm thực hiện mục đích của mình.
c. Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến.
- Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản
ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận
khác các nước nhập khẩu tư bản.
- Hình thức xuất khẩu tư bản
+ Xét về hình thức đầu tư có các hình thức sau:
Đầu tư trực tiếp FDI (Foreign Direct Investment): là hình thức xuất khẩu tư bản
để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở
nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao.
Đầu tư gián tiếp FPI (Foreign Portfolio Investment): là hình thức đầu tư thông
qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá
khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà
nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
+ Xét về chủ thể xuất khẩu có các hình thức sau:

9
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.27, tr.489
45
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện.
Hình thức này có đặc điểm cơ bản là thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có
vòng quay vốn ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt
động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.
Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ
ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư
bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh
tế, chính trị và quân sự nhất định của chúng.
- Tác động của xuất khẩu tư bản
+ Đối với nước xuất khẩu tư bản: mở rộng phạm vi hoạt động của tư bản; tăng
cường sự thống trị về kinh tế, chính trị; bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và chủ nghĩa
tư bản…
+ Đối với nước nhập khẩu tư bản:
Thời cơ: có điều kiện thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế; thực hiện cách mạng
công nghiệp; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế …
Thách thức: nguy cơ phụ thuộc về kinh tế, chính trị gia tăng; nguy cơ trở thành
bãi rác thải công nghiệp; nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường; nguy cơ
phân hóa giàu nghèo …
d. Cạnh tranh để phân chia thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền
- Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản luôn gắn với thị trường ngoài nước.
Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với các nước tư bản. V.I.Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia nhau thế
giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ
buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"10.
- Khi các tổ chức độc quyền cạnh tranh trên thị trường quốc tế tất yếu dẫn đến
xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong
những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc
quyền quốc tế dưới dạng Cartel, Syndicate, Trust quốc tế.
e. Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh
hưởng là cách thức để bảo vệ độc quyền
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân
chia thế giới về lãnh thổ. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển càng
cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các

10
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.27, tr.472
46
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc
địa càng quyết liệt hơn" 11.
Vào đầu thế kỷ XX, các nước tư bản đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới.
Sự phân chia này phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của từng nước tư bản. Nước Anh
chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (hoàng) và Pháp.
2. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước
trong chủ nghĩa tư bản
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với
công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp
với chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ
ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng" 12 .
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái. Chính các đảng
phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và
trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
b. Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước.
- Khái niệm: Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản,
của tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền
nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Biểu hiện của sở hữu nhà nước ở chỗ: sở hữu nhà nước tăng lên cùng sự tăng
cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân. Hai loại sở
hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.
- Cách thức hình thành sở hữu nhà nước:
+ Nhà nước bỏ tiền từ ngân sách đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp để hình
thành vốn sở hữu của nhà nước trong nền kinh tế.
+ Nhà nước mua cổ phiếu từ các tập đoàn độc quyền để hình thành vốn sở hữu
của nhà nước trong nền kinh tế.
+ Nhà nước mua lại các doanh nghiệp của tư nhân không muốn kinh doanh
trong các lĩnh vực có lợi nhuận thấp thông qua hình thức quốc hữu hóa.
+ Nhà nước phát hành công trái chính phủ để vay tiền xây dựng nhà máy để
hình thành vốn sở hữu của nhà nước trong nền kinh tế.
- Chức năng của sở hữu nhà nước:
Thứ nhất là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

11
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.27, tr.481.
12
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.31, tr.272.
47
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thứ hai là, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ
chức độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn một cách
dễ dàng, thuận lợi.
Thứ ba là, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những
chương trình nhất định.
c. Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ để điều tiết nền kinh tế, trong đó có
công cụ độc quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một
tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước, bao gồm bộ máy quản lý nhà
nước gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội.
Nhà nước điều tiết dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn
những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý, bằng cả
ưu đãi và trừng phạt; bằng những chiến lược dài hạn, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội …; bằng cả các chính sách ngắn hạn.
Nhà nước điều tiết bằng các công cụ chủ yếu như: ngân sách, thuế, hệ thống
tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình kinh tế và
các công cụ pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về
mặt nhân sự có sự tham gia của cả các nhà tư bản độc quyền.
Cơ chế điều tiết của nhà nước là sự kêt hợp của cả ba cơ chế: thị trường, độc
quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm tận dụng các ưu điểm của từng cơ chế
này để đảm bảo cho sự phát triển ổn định.
III. BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN, ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG ĐIỀU KIỆN NGÀY NAY; VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN
1. Biểu hiện mới của độc quyền
a. Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Sự xuất hiện của các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển
của các xí nghiệp vừa và nhỏ. Sự phát triển của KHCN dẫn tới các liên kết diễn ra cả
theo chiều dọc và chiều ngang hình thành nên các tổ chức độc quyền mới như Concern
và Conglomerate.
- Concern: Là hình thức độc quyền đa ngành gồm hàng trăm xí nghiệp được
phân bố ở nhiều nước trên toàn thế giới. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hình thành độc
quyền đa ngành là do cạnh tranh gay gắt dẫn tới việc di chuyển vốn giữa các ngành và
việc kinh doanh đa ngành còn cho phépcác tổ chức độc quyền theo hình thức này lách
luật chống độc quyền.
48
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Conglomerate: Là sự kết hợp của nhiều hãng nhỏ và vừa không có liên quan
trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu của hình thức này là
liên kết để đầu tư chứng khoán kiếm lợi.
Ngoài ra ở các nước tư bản phát triển còn xuất hiện các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhưng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nguyên nhân hình thành các doanh
nghiệp này là do:
- Sự phát triển của KHCN cho phép tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, vì vậy
các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia vào chuỗi sản xuất để gia công các chi
tiết cho các hãng lớn. Giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các Concern,
Conglomerate có mối quan hệ giàng buộc về vốn, công nghệ và liên kết sản xuất.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại nhờ những thế mạnh như: do vốn và quy mô
sản xuất nhỏ nên dễ thay đổi công nghệ đáp ứng sự phát triển của cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay. Ngoài ra, việc phân tán sản xuất cũng góp phần phân tán rủi ro và
tối đa hóa lợi nhuận của tư bản tải chính.
Ở các nước chậm phát triển cũng bắt đầu hình thành các tổ chức độc quyền do
các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia thâm nhập vào kết hợp với quá trình ứng dụng
các thành tựu khoa học – công nghệ dẫn tới hình thành các tập đoàn kinh tế lớn ngay
tại các nước chậm phát triển.
b. Biểu hiện về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn tư bản độc
quyền
- Tư bản tài chính mở rộng ra nhiều ngành, dưới nhiều hình thức: công – nông –
thương – tín- dịch vụ hay công nghiệp – quân sự - dịch vụ quốc phòng…
- Chế độ tham dự cũng có sự biến đổi, số cổ phiếu mệnh giá nhỏ được phát
hàng rộng rãi, nhiều tầng lớp dân cư có thể trở thành cổ đông. Kéo theo chế độ tham
dự dần được thay thế bằng “chế độ ủy nhiệm”.
- Các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia cũng lần lượt xuất hiện nhằm
thực hiện việc điều tiết và sâm nhập vào nền kinh tế của quốc gia khác. Sự ra đời của
các trung tâm tài chính thế giới là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế.
c. Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
- Tư bản chủ yếu được đầu tư qua lại giữa các nước tư bản phát triển do những
thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ dẫn tới lợi nhuận được tạo ra nhiều hơn
ở các ngành công nghệ cao, các ngành sản xuất phụ thuộc vào tài nguyên dần mất đi
sức cạnh tranh và lợi nhuận giảm sút không hấp dẫn các nhà đầu tư tài chính.
- Chủ thể của xuất khẩu tư bản có sự thay đổi, trong đó vai trò của các công ty
xuyên quốc gia ngày càng to lớn.
- Hình thức xuất khẩu đa dạng, đan xen giữa xuất khẩu tư bản với xuất khẩu
hàng hóa.
49
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Sự áp đặt mang tính chất thực dân dần được thay thế bằng nguyên tắc đầu tư
cùng có lợi.
d. Biểu hiện mới của phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc
quyền
- Sức mạnh và phạm vi bành chướng của các công ty xuyên quốc gia tăng lên
đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và sự phân chia ảnh hưởng giữa các
TNCs với nhau, đồng thời thúc đẩy chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Cùng với đó là xu hướng khu vực hóa nền kinh tế, hình thành nhiều liên minh
khu vực như EU, OPEC, NAFTA…
e. Biểu hiện mới của sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của
các tập đoàn độc quyền
- Tranh giành phạm vi ảnh hưởng bằng biên giới mềm, biên giới kinh tế, chi
phối các nước và tăng phạm vi ảnh hưởng bằng sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đến lệ
thuộc về chính trị
- Chiến tranh thương mại thay thế cho chiến tranh nóng, lạnh trước kia, nguy cơ
chiến tranh lạnh phục hồi trở lại.
2. Biểu hiện mới của độc quyền nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản
a. Những biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự
- Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ biến.
- Xuất hiện cơ chế thỏa hiệp để cùng tồn tại, phân chia quyền lực giữa các tổ
chức độc quyền không cho một thế lực tư bản nào độc tôn, chuyên quyền ở các nước
tư bản phát triển.
- Ở một số nước trọng tâm quyền lực thuộc về một thế lực trung dung có vị thế
cân bằng giữa các thế lực đối địch nhau tạo nên thể chế kinh tế, chính trị, xã hội ôn
hòa, ít cực đoan.
b. Những biểu hiện mới về sở hữu nhà nước
- Chi tiêu ngân sách thuộc quyền của giới lập pháp, giới hành pháp bị chi phối
và kiểm soát bởi luật ngân sách nhà nước. Việc chống lạm phát, chống thất nghiệp
được ưu tiên. Dự trữ quốc gia trở thành nguồn vốn chỉ được sử dụng trong những
trường hợp đặc biệt; cổ phần của nhà nước nằm trong các công ty lớn trở nên phổ biến.
- Nhà nước đầu tư để khắc phục những chi phí tốn kém trong nghiên cứu khoa
học cơ bản, xây dựng kết cấu hạ tầng và giải quyết các nhu cầu mang tính xã hội ngày
càng tăng. Các lĩnh vực nhiều rủi do nhà nước đầu tư, các lĩnh vực nhiều lợi nhuận cho
tư nhân đầu tư.
- Các tập đoàn độc quyền nhờ ưu thế về vốn có thể tham gia đấu thầu các dự án
kinh tế, công nghiệp quốc phòng khổng lồ để thu lợi nhuận dựa trên các đơn đặt hàng
của nhà nước.
50
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô thông qua thu chi - ngân sách, kiểm soát lãi
suốt, trợ cấp và trợ giá, kiểm soát tỷ giá hối đoái, mua sắm công. Trong một số trường
hợp như khủng hoảng kinh tế, ngân sách nhà nước còn được dùng để hỗ trợ các tập
đoàn lớn khỏi nguy cơ phá sản (mua lại nợ xấu giúp cho các tập đoàn lớn có vốn tái cơ
cấu lại sản xuất).
- Ở một số nước, chi ngân sách được định hướng ưu tiên cho các vấn đề xã hội:
an sinh xã hội, bảo vệ môi trường.
c. Biểu hiện mới trong vai trò công cụ điều tiết kinh tế của độc quyền nhà
nước.
- Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay tập trung
trong một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Sự tham dự của các đảng đối lập, kể
cả đảng cộng sản được chấp nhận ở mức không gây đe dọa tới sự tồn vong của nhà
nước tư sản. Từ đó hình thành nên cơ chế đa nguyên để xoa dịu mâu thuẫn giai cấp
trong xã hội.
- Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng, viện trợ cho
nước ngoài của chính phủ trở thành một bộ phận của điều tiết kinh tế trong nước để
giải quyết các vấn đề về hàng hóa tồn đọng, công nghệ lỗi thời cần chuyển giao đẻ
giảm chi phí xử lý …
3. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
a. Vai trò tích cực của chủ nghĩa tư bản
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng: Quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển với trình độ kỹ thuật và
công nghệ ngày càng cao.
- Chủ nghĩa tư bản có vai trò quan trọng trọng việc chuyển nền sản xuất nhỏ
thành nền sản xuất lớn hiện đại: Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt sự tồn tại
của nền nền kinh tế tự nhiên, chuyển sản xuất hàng hóa từ giản đơn lên sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất
hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là
quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu.
b. Những giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
- Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu là vì lợi ích của thiểu số
giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao động:
Việc đẩy mạnh phân công lao động, thực hiện các cuộc cách mạng công nghiệp để
phát triển lực lượng sản xuất suy cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp tư sản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất với tính chất xã hội hóa ngày càng cao đã mâu
thuẫn với quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và biến mối quan hệ này trở
51
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
thành mâu thuẫn không thể vượt qua được của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển nhanh
chóng và sự trì trệ là hai xu thế cùng song song tồn tại trong nền kinh tế của chủ nghĩa
tư bản độc quyền.
- Chủ nghĩa tư bản đã và đang gây ra các cuộc chiến tranh và xung đột ở nhiều
nơi trên thế giới: Vì sự tồn tại và phát triển của mình, các nước tư bản đi đầu trong
cách mạng công nghiệp đã ra sức chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thuộc địa để hình
thành nên thị trường độc quyền. Việc đấu tranh đòi phân chia lại thị trường thế giới và
phân chia lại hệ thống thuộc địa là nguyên nhân dẫn tới các cuộc chiến tranh khu vực
và chiến tranh thế giới.
- Sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp, giai cấp ở các nước tư bản chủ
nghĩa ngày càng sâu sắc: Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội tư bản chủ nghĩa xuất
hiện ngay trong quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản. Việc đẩy mạnh quá trình
tích tụ và tập trung tư bản cùng với khối lượng giá trị thặng dư mà giai cấp tư sản thu
được ngày càng cao là nguyên nhân dẫn tới phân hóa giàu nghèo ở các nước tư bản
ngày càng gia tăng.
Chủ nghĩa tư bản với mâu thuẫn chủ yếu là sự phát triển cao của lực lượng sản
xuất với tính chất xã hội hóa sản xuất ngày càng cao đã mâu thuẫn với quan hệ dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong xã hội tư bản hiện đại, những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn
tồn tại. Bản thân chủ nghĩa tư bản không tự giải quyết được vì càng thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển thì mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất càng
trầm trọng. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị thay thế bởi một quan hệ
sản xuất tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lương sản
xuất. Đồng thời chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội tiến
bộ hơn trong lịch sử.
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
1. Chủ nghĩa tư bản phát triển qua những giai đoạn nào? Phân tích đặc điểm của
từng giai đoạn.
2. Phân tích biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản. Ý nghĩa?
3. Có luận điểm cho rằng: Chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng. Hãy phân tích và
nhận xét luận điểm trên.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích nguyên nhân ra đời của độc quyền trong nền kinh tế các nước tư
bản.
2. Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của độc quyền đối với nền kinh
tế. Ý nghĩa?

52
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
3. Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền,
đặc điểm nào giữ vai trò quyết định nhất? Vì sao?
4. Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản .
5. Phân tích những đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư
bản.
6. Phân tích những biểu hiện mới của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.
7. Phân tích những biểu hiện mới của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư
bản.
8. Phân tích thành tựu, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.
TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2020). Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị)

53
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Chương 5
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
* Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước
xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự
điều tiết của nhà nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Về thực chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hộp 5.1. Quá trình hình thành nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Khi băt đầu đổi mới (1986) Đảng ta quan niệm kinh tế hàng hóa có những mặt tích
cực cần vận dụng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trong quá trình đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Đảng ta đã nhận
thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây
dựng chủ nghĩa xã hội; từ áp dụng cơ chế thị trường đến phát triển kinh tế thị trường; đưa ra
quan niệm và từng bước cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Tổng kết thực tiễn đổi mới kinh tế, Đại hội IX khẳng định “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta”.
- Đại hội XI khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Đại hội XII của Đảng có sự phát triển mới bằng việc đưa ra quan niệm: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Đại hội XIII của Đảng “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt

54
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác
không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội”
Nguồn văn kiện các đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu, phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.
+ Do Việt Nam đang tồn tại những yếu tố khách quan cho phát triển KTTT.
+ Mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mong
muốn của mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, Việt Nam định hướng tới xác lập những
giá trị đó trong nền kinh tế thị trường là phù hợp với quy luật phát triển của nhân loại.
+ Do hạn chế của mô hình KTTT của chủ nghĩa tư bản chỉ đem lại lợi ích cho
thiểu số là giai cấp tư sản. Những mâu thuẫn vốn có của phương thức sản xuất TBCN
tự nó không thể khắc phục được. Sự điều chỉnh về QHSX đang tạo ra những tiền đề
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó là phương tiện để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội một cách có hiệu quả.
+ Kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực tối ưu, hiệu quả: Do tác
động của các quy luật của nền kinh tế thị trường, các nguồn lực được phân bổ một
cách tối ưu vào các lĩnh vực của nền kinh tế, cho phép sử dụng và khai thác hiệu quả
nhất các nguồn lực này để thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh, hiệu quả: do tác động của các
quy luật kinh tế, nhất là quy luật cạnh tranh nên các doanh nghiệp luôn phải thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, đào tạo tay nghề cho lao động để nâng cao năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Với nghĩa
này, kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy LLSX phát triển và điều này hoàn toàn phù
hợp với mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong TKQĐ lên CNXH.
+ Những khuyết tật của kinh tế thị trường cần có sự điều tiết kịp thời của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Do chạy theo lợi nhuận nên trong hoạt động kinh

55
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
doanh khi không đủ khả năng cạnh tranh lành mạnh, một số doanh nghiệp sẽ thực hiện
các biện pháp cạnh tranh tiêu cực như: trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng kém chất
lượng… Vì vậy cần có sự quản lý của nhà nước.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng,
mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của người Việt Nam.
+ Trên thế giới có nhiều mô hình KTTT như: mô hình KTTT tự do kiểu Mỹ,
mô hình KTTT xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức… tuy nhiên các mô hình này
không đem lại sự phát triển cho toàn thể nhân dân lao động, vẫn còn những bất bình
đẳng xã hội. Do đó phát triển KTTT ĐHXHCN là tất yếu khách quan.
+ Phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là phù hợp vì
trong nền kinh tế còn những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó quy định.
+ Phát triển kinh tế thị trường sẽ phá vỡ tính chất tự túc, tự cấp lạc hậu của nền
kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển… thúc đẩy tích tụ và tập trung
sản xuất, sử dụng các nguồn lực hiệu quả.
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a. Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
b. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế.
- Sở hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và
kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều
kiện lịch sử nhất định.
Đề cấp tới sở hữu bao giờ cũng phải làm rõ chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và
lợi ích từ đối tượng sở hữu. Trong đó mục đích của chủ thể sở hữu bao giờ cũng là tìm
kiếm lợi ích từ đối tượng sở hữu.
- Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý:
Về nội dung kinh tế, sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Nội dung của sở
hữu biểu hiện ở khía cạnh lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế mà chủ sở hữu sẽ nhận
được khi xác lập được quan hệ sở hữu đối với đối tượng sở hữu trong quan hệ với các
chủ thể khác. Khi có sự thay đổi phạm vi, quy mô của đối tượng sở hữu thì địa vị của
chủ thể sở hữu cũng có sự thay đổi.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật
về quền hạn, nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
56
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ.
c. Về quan hệ quản lý nền kinh tế.
Nền kinh tế thị trường ĐHXHCN ở Việt Nam có đặc trưng riêng đó là: Nhà
nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự
giám sát của nhân dân.
Đảng lãnh đạo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thông qua cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và các quyết sách lớn trong
từng thời kỳ phát triển của đất nước; là yếu tố quan trọng bảo đảm tính định hướng
XHCN của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước giữ vai trò quản lý trực tiếp nền kinh tế thông qua pháp luật, các
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế, chính sách và công cụ kinh tế trên cơ sở
tôn trọng những nguyên tắc của thị trường phù hợp với yêu cầu xây dựng XHCN ở
Việt Nam. Thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ quản lý kinh tế, nhà nước tác
động vào thị trường nhằm đảm bảo tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc
phục những khuyết tật cả kinh tế thị trường, khủng hoảng kinh tế … ngoài ra nhà nước
hỗ trợ thị trường, hỗ trợ các nhóm dân cư có thu nhập thấp, gặp rủi ro trong cuộc sống
… nhằm giảm bớt sự phân hóa giàu – nghèo và sự bất bình đẳng trong xã hội mà kinh
tế thị trường mang lại.
d. Về quan hệ phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối
công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển
của mọi chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều
giàu có. Đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
e. Về tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện
gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa – xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là cào bằng hay bình quân,
chia đều các nguồn lực và của cải làm ra bất chấp chất lượng, hiệu quả và sự đóng góp
sức lao động của mọi người cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Thực hiện công
bằng xã hội không chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội mà còn phải tạo ra điều kiện, tiền đề cho người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội
57
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
cơ bản như: y tế, giáo dục, việc làm … để họ tự đảm bảo cho cuộc sống và góp phần
xây dựng đất nước.
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản
chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn
minh. Tuy nhiên, nó đang trong quá trình hình thành và phát triển, tất yếu sẽ còn bộc
lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
II. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
a. Thể chế và thể chế kinh tế
* Thể chế:
Thể chế là những quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm
điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội.
Thể chế bao gồm ba bộ phận: (1) các luật lệ, quy tắc, chuẩn mực (kể cả tập
quán và chuẩn mực xã hội…) do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận; (2) các tổ chức có
chức năng xây dựng và đảm bảo thực hiện một loại thể chế nhất định; (3) cách thức,
biện pháp được vận dụng để thực thi thể chế.
* Thể chế kinh tế: Là hệ thống quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế
vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh
doanh và các quan hệ kinh tế.
Các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế bao gồm: Hệ thống pháp luật về kinh tế
của nhà nước và các quy tắc xã hội được nhà nước thừa nhận; hệ thống các chủ thể
thực hiện các hoạt động kinh tế; các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện các quy
định và vận hành nền kinh tế.
b. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
* Khái niệm: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ
thống chủ chương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế
vận hành, điều chỉnh chức năng, hoạt động, mực tiêu, phương thức hoạt động, các
quan hệ lợi ích của các tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ
các yếu tố thị trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng góp phần thúc đẩy dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* Lý do phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt nam
- Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam còn chưa đồng bộ.
58
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Do nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hình
thành và phát triển nên tất yếu phải hoàn thiện bổ sung cho theo kịp với những biến
đổi của thực tiễn.
+ Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế bằng các công cụ: Pháp luật, chính
sách, chiến lược, quy hoạch … do đó cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để
phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực.
- Thứ hai, do hệ thống thể chế chưa đầy đủ.
+ Thể chế kinh tế là sản phẩm của nhà nước để quản lý và tạo lập môi trường ch
nền kinh tế hoạt động và phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta
mới hình thành thì biểu hiện của nó cũng chưa đầy đủ, do đó cần tiếp tục hoàn thiện,
bổ sung cho đầy đủ.
+ Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam là hướng tới phục vụ lợi ích của nhân
dân. Bản chất của nền kinh tế thị trường nước ta khác hẳn với nền kinh tế thị trường ở
các nước tư bản. Do đó cần phải hoàn thiện để đảm bảo thực hiện mục tiêu của nền
kinh tế.
- Thứ ba, do hệ thống thể chế kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các yếu tố thị
trường và các loại thị trường.
+ Thực tế cho thấy thể chế kinh tế thị trường của nước ta còn nhiều khiếm
khuyết, hệ thống thể chế vừa chưa đủ mạnh và chưa hiệu quả trong việc quản lý nền
kinh tế. Vì vậy việc hoàn thiện là tất yếu khách quan.
+ Các loại thị trường ở nước ta mới chỉ là sơ khai, do vậy cần tiếp tục hoàn
thiện thể chế để thúc đẩy các loại thị trường này phát triển toàn diện, đầy đủ.
2. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
a. Hoàn thiện thể chế về sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của nhà nước, tổ chức và cá nhân.
+ Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng hiệu quả đất
đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí.
+ Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Nhà nước giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp theo nguyên tắc thị
trường, kinh tế hóa ngành tài nguyên – môi trường.

59
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, sử dụng có hiệu quả các tài
sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện mục tiêu
chính sách xã hội.
+ Hoàn thiện hệ thống thể chế liên quan đến sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến
khích đổi mới, sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy, bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ.
+ Hoàn thiện khung pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo
hướng thống nhất, đồng bộ. Phát triển hệ thống đăng ký các loại tài sản, nhất là bất
động sản.
+ Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao
chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia.
- Hoàn thiện thể chế cho sự phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp. Cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
+ Thực hiện nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các
loại hình doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
+ Hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, đảm bảo đầy đủ quyền tự do kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xóa
bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh.
+ Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, xử lý dứt
điểm tình trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh.
+ Rà soát, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đầu tư công và các quy định pháp
luật có liên quan. Kiên quyết xóa bỏ các quy định bất hợp lý đối với doanh nghiệp.
+ Hoàn thiện thể chế về các mô hình sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả
các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp, các nông lâm trường.
Trong đó:
-> Thể chế hóa việc cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào các lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa
bàn chiến lược và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác không đầu tư. Quản lý chặt chẽ vốn nhà nước tại các DN.
-> Hoàn thiện thể chế huy động các nguồn đầu tư và đối mới cơ chế quản lý của
nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển có hiệu quả.
-> Thể chế hóa nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể. Tăng
cường các hình thức hợp tác, liên kết, hỗ trợ cho nông dân trong sản xuất, bảo quản,
chế biến, tiêu thụ nông sản.

60
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy các thành phần kinh tế, các khu vực
kinh tế phát triển đồng bộ để góp phần xác lập trình độ phát triển dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tạo điều kiện để phát triển khu vực kinh tế tư
nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và
phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại và năng lực quản
trị tiên tiến.
+ Hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo hướng chủ
động lựa chọn các dự án đầu tư có chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện
đại, có cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam.
b. Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại
thị trường
- Một là: Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường:
Yếu tố chủ thể tham gia vào thị trường: (chủ thể là người mua, bán; khách thể
là những lợi ích, kết quả mà các chủ thể muốn có được, giá cả)
+ Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu. Hoàn
thiện các quy định pháp luật về phí, lệ phí theo hướng chuyển sang áp dụng giá dịch
vụ phù hợp với cơ chế thị trường.
+ Cải cách chính sách tài chính về đất đai theo hướng đơn giản, ổn định, công
khai, minh bạch và công bằng. Hoàn thiện khung khổ pháp lý về thuế sử dụng tài sản,
nhất là về đất đai.
+ Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường vào những
ngành, lĩnh vực và vùng đạt hiệu quả cao, có tác động lan tỏa.
+ Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế
bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản; không hình sự hóa các mối quan hệ
kinh tế và dân sự.
Hai là: Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các
loại thị trường.
+ Thị trường hàng hóa và dịch vụ: Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ ,
gồm cả xuất nhập khẩu; phát triển hạ tầng thương mại.
+ Thị trường vốn: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo phát triển ổn định thị trường
chứng khoán, thị trường trái phiếu và hoạt động của các ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng để huy động vốn cho phát triển nền kinh tế.
+ Thị trường khoa học, công nghệ: Phát triển và đồng bộ thị trường khoa học,
công nghệ. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu
61
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Xác định doanh nghiệp là lực lượng chính trong phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
+ Thị trường bất động sản và quyền sử đụng đất: Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách để phát triển và vận hành thông suốt thị trường bất động sản
nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây
dựng thể chế và các mô hình phù hợp để gắn kết quá trình công nghiệp hóa với đô thị
hóa và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng chính sách xã hội về nhà ở.
+ Thị trường sức lao động: Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng
bộ, liên thông thị trường sức lao động cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề;
có cơ chế, chính sách để định hướng chuyển dịch sức lao động, phân bổ hợp lý sức lao
động theo vùng. Lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã
hội. Hoàn thiện thể chế về tiền lương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng năng xuất
lao động và tăng tiền lương.
c. Hoàn thiện thể chế đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ
và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế
thị trường hiện đại với mục tiêu phát triển là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Những khuyết tật và thất bại của thị trường luôn dẫn đến những hệ
quả tiêu cực đối với việc phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Theo
đó, xây dựng và hoàn thiện thể chế về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt nam hiện nay
cần tập trung vào các nhiệm vụ;
- Một là: Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và các thể chế
liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
- Hai là: Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong
hợp tác kinh tế quốc tế, không để bị lệ thuộc vào một số ít thị trường. Nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước.
d. Hoàn thiện nâng cao năng lực hệ thống chính trị
Xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
phát huy vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của nhà nước, phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ĐHXHCN.
Để phát triển thành công kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải
phát huy được sức mạnh và trí tuệ, nguồn lực và sự đồng thuận của toàn dân tộc. Muốn
vậy cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của nhân dân.

62
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
III. CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
a. Lợi ích kinh tế
* Khái niệm lợi ích kinh tế:
- Khái niệm lợi ích: là sự thỏa mãn nhu cầu của con người, mà sự thỏa mãn nhu
cầu này phải được nhận thúc và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát
triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó
- Khái niệm lợi ích kinh tế: là lợi ích vật chất và các lợi ích khác mà con người
thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế.
* Bản chất, biểu hiện của lợi ích kinh tế:
- Bản chất: Lợi ích kinh tế phản ảnh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa
các chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Ph. Ănghen viết: “những quan hệ kinh tế của
một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi ích”13. Các quan hệ
kinh tế luôn mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản
ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
- Biểu hiện: gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng:
lợi ích của chủ doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi ích của người lao động là thu nhập (tiền
công).
+ Xét về lâu dài đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích
quyết định. Do vậy, nếu không thấy được vai trò của lợi ích kinh tế sẽ làm giảm động
lực hoạt động của các cá nhân.
+ Nghiên cứu tới lợi ích kinh tế còn góp phần làm rõ lợi ích đó được xác lập
trong quan hệ nào? Vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó là gì? (chủ sở hữu hay
nhà quản lý; lao động làm thuê hay trung gian trong hoạt động kinh tế; ai là người thụ
hưởng lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đó …).
* Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội.
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội:
Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất
phụ thuộc vào mức độ thu nhập. Thu nhập càng cao thì khả năng thỏa mãn nhu cầu vật
chất càng được đáp ứng đầy đủ. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để
nâng cao thu nhập của mình.
Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể đều hành động trước hết vì lợi ích chính
đáng của mình. Lợi ích này phải đảm bảo trọng sự liên hệ với các chủ thể khác trong
xã hội. Khi theo đuổi lợi ích chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

13
C.Mác – Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, H, tr.376.
63
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thứ hai, lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
+ Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và
thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội.
+ Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế - xã hội. Các Mác chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là quá
trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là các lợi ích kinh tế của
con người”14.
+ Lợi ích kinh tế khi thống nhất sẽ trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển, ngược lại nó sẽ cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đối với nước ta hiện nay, quan điểm của Đảng thể hiện rõ: Coi lợi ích kinh tế
là động lực của các hoạt động kinh tế; phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều
này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa qua.
b. Quan hệ lợi ích kinh tế
* Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế: Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập
những tương tác giữa con người với con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ
chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, giữa con người với các tổ
chức kinh tế hoặc giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập
các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
* Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
- Sự thống nhất: là do một chủ thể có thể là một bộ phận cấu thành của một chủ
thể khác. Khi lợi ích của chủ thể này được thực hiện thì lợi ích của chủ thể khác cũng
trực tiếp hoặc gián tiếp được thực hiện
- Sự mâu thuẫn: là do các chủ thể có phương thức hành động khác nhau với
mục đích khác nhau, đến một độ nhất định thì hình thành mâu thuẫn
* Các nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ lợi ích kinh tế?
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lợi ích kinh tế chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố sau:
- Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao sẽ đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt và quan
hệ lợi ích kinh tế có điều kiện thống nhất với nhau chặt chẽ hơn. Do đó phát triển lực
lượng sản xuất là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia.
- Thứ hai, địa vị chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội: QHSX, trước
hết là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi
chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó không có lợi ích

14
C.Mác: Phê phán kinh tế chính trị. C. Mác – Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 13. Tiếng Nga. Nxb Tiến Bộ. Tr 5,6.
64
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
kinh tế nằm ngoài quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản phẩm của những quan hệ
sản xuất, trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của quan hệ sản xuất.
- Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước: trong các chính sách xã
hội, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thanh đổi mức thu nhập và tương
quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập bị điều tiết sẽ ảnh hưởng tới
tổng thu nhập của các chủ thể kinh tế và theo đó lợi ích kinh tế của chủ thể cũng có sự
thay đổi.
- Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế: Khi nền kinh tế mở cửa hội nhập với nền
kinh tế khu vực và quốc tế sẽ tạo cơ hội cho các chủ thể kinh tế gia tăng lợi ích kinh tế,
đồng thời cũng tạo ra những thách thức do tác động của cạnh tranh từ các chủ thể kinh
tế từ nước ngoài. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế có tác động mạnh mẽ, nhiều chiều
tới lợi ích kinh tế của các chủ thể.
* Một số quan hệ lợi ích căn bản trong nền kinh tế thị trường
- Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
+ Người lao động là còn người hiện thực với đầy đủ thể lực, trí lực (tức là có đủ
điều kiện để lao động). Lợi ích kinh tế mà người lao động nhận được là phần thu nhập
từ quá trình bán sức lao động.
+ Người sử dụng lao động là chủ doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ
gia đình, cá nhân có đủ tư cách pháp nhân có sử dụng lao động làm thuê theo hợp
đồng. Lợi ích kinh tế mà người sử dụng lao động thể hiện ở mục tiêu trong hoạt động
kinh tế của họ (lợi nhuận đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình…; các lợi ích
khác đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân).
+ Lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau:
Sự thống nhất thể hiện ở chỗ: người lao động và người sử dụng lao động đều
hướng tới kết quả của quá trình sản xuất để đảm bảo thu nhập cho cá nhân.
Sự mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: tại một thời điểm xác định, nếu thu nhập của người
lao động tăng lên thì lợi ích của người sử dụng lao động giảm xuống và ngược lại.
Ngày nay, để bảo vệ lợi ích của mình, người lao động thông qua hoạt động của
tổ chức công đoàn; còn người sử dụng lao động thông qua các hiệp hội nghề nghiệp.
Việc đấu tranh giữa người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo các
quy định của pháp luật.
- Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa
là đối thủ của nhau, mối quan hệ đó thể hiện sự thống nhất và mâu thuẫn giữa những
người sử dụng lao động.

65
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Người sử dụng lao động ngoài việc cạnh tranh với nhau trong việc tìm kiếm
nguồn lao động chất lượng cao, giá rẻ còn cạnh tranh với nhau trong việc tìm kiếm
điều kiện sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm và các nguồn lực cho sản xuất… sự
cạnh tranh giữa những người sử dụng lao động trong cùng một ngành là nguồn gốc
hình thành giá trị thị trường của hàng hóa; sự cạnh tranh di chuyển vốn giữa các ngành
sản xuất sẽ hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
- Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, người lao động để thực hiện lợi ích kinh tế của
mình người lao động phải quan hệ với nhau, mối quan hệ này thể hiện ở chỗ:
Họ cạnh tranh với nhau trong trường hợp thị trường cung lao động lớn hơn cầu
lao động, điều này dẫn tới giá cả của hàng hóa sức lao động bị giảm xuống, một bộ
phận người lao động đang có việc làm với thu nhập cao có nguy cơ bị sa thải.
Để hạn chế mâu thuẫn, người lao động thông qua tổ chức công đoàn để thống
nhất với nhau về yêu sách đối với người sử dụng lao động dựa trên những quy định
của pháp luật.
- Bốn là, mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, cá nhân tồn tại dưới hình thức người lao động và
người sử dụng lao động, họ đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có những
lợi ích cá nhân. Nếu người lao động và người sử dụng lao động đều tuân theo các quy
định của pháp luật để thực hiện lợi ích cá nhân thì một mặt họ thực hiện được lợi ích
của mình, mặt khác họ đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Ngược lại, sẽ làm tổn
hại tới lợi ích của xã hội.
Cá nhân tồn tại trong môi trường xã hội và môi trường xã hội quyết định sự
phát triển của mỗi cá nhân, do đó lợi ích xã hội giữ vai trò định hướng cho lợi ích cá
nhân trong các hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội biểu hiện sự thống
nhất lợi ích của nhiều cá nhân để từ đó tạo sự thống nhất trong hoạt động của các chủ
thể khác nhau trong xã hội. Ph. Ănghen khẳng định: “Ở đâu không có lợi ích chung thì
ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và cũng không thể có sự thống nhất về
hành động được”15.
Khi các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực liên kết
với nhau để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng sẽ hình thành “Lợi ích nhóm”, đó là các tổ
chức hiệp hội ngành nghề, tổ chức chính trị, xã hội, sở thích …
Các cá nhân, tổ chức hoạt động trọng các ngành, các lĩnh vực khác nhau có mối
liên hệ, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng mình hình

15
C. Mác – Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995, tr. 28.
66
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
thành nên “Nhóm lợi ích”, đó là sự liên kết như: nhà nông – nhà doanh nghiệp - nhà
khoa học – nhà tư vấn - nhà nước …
“Lợi ích nhóm” hay “Nhóm lợi ích” nếu hoạt động tuân thủ pháp luật và phù
hợp với lợi ích quốc gia và không làm tổn hại tới các quan hệ lợi ích khác của xã hội
thì cần được tôn trọng và thúc đẩy phát triển. Ngược lại cần ngăn chặn.
Trong thực tế “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” khi có sự tham gia của công
chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức nhà nước thường tác động tiêu cực tới lợi
ích xã hội và các quan hệ lợi ích kinh tế khác do quyền lực nhà nước sẽ bị lợi dụng để
phục vụ cho “lợi ích nhóm” và lợi ích cá nhân.
* Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
- Thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường:
Các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích kinh tế đa dạng, song để thực hiện được
lợi ích của mình thì cần căn cứ vào các nguyên tắc của thị trường và tuân theo các quy
luật kinh tế của nền kinh tế thị trường.
- Thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ
chức xã hội:
Trong nền kinh tế thị trường, nếu chỉ tuân theo các nguyên tắc và quy luật của
nền kinh tế thị trường thì các chủ thể yếu thế sẽ khó đảm bảo được lợi ích của mình.
Vì vậy, nhà nước cần thực hiện các chính sách để hỗ trợ những người yếu thế trong xã
hội để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Bên cạnh các chính sách của nhà nước còn có sự tham gia của các tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp…
2. Vai trò nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích.
- Khái niệm hài hòa lợi ích kinh tế: Hài hòa lợi ích kinh tế là sự thống nhất
biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế
để tránh các xung đột, mặt tích cực được tạo điều kiện phát triển cả về chất và lượng
từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi
ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Vai trò của nhà nước thể hiện thông qua các nội dung sau:
a. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế luôn được thực hiện trong môi trường vĩ mô do nhà nước
quản lý. Môi trường vĩ mô không tự hình thành mà phải thông qua hoạt động xây dựng
của nhà nước, trong đó quan trọng nhất là sự ổn định về chính trị. Cụ thể:
- Phải xây dựng được môi trường pháp luật thông thoáng, vừa bảo vệ được các
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các hoạt động kinh tế, vừa bảo vệ được
lợi ích của quốc gia.
67
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Phải xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ đảm bảo cho
các hoạt động kinh tế diễn ra thuận lợi.
- Tạo lập môi trường văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường (hình thành sự
năng động, sáng tạo, tôn trọng pháp luật, đạo đức nghề nghiệp …)
b. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội.
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật
trong nền kinh tế thị trường làm cho một bộ phận dân cư khó thực hiện được lợi ích
kinh tế của mình. Vì vậy cần có sự tham gia của nhà nước để điều tiết quan hệ lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể. Thông qua chính sách điều tiết phân phối thu nhập và các
chính sách xã hội khác, nhà nước tác động tới các chủ thể để đảm bảo hài hòa giữa lợi
ích cá nhân – lợi ích doanh nghiệp – lợi ích xã hội.
c. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực tới sự
phát triển xã hội.
- Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Do vậy, phân phối
thu nhập công bằng, hợp lý sẽ góp phần quan trọng để đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế.
- Hiện nay công bằng trong phân phối thu nhập có hai hình thức chủ yếu:
+ Công bằng theo mức độ (căn cứ vào thu nhập mà mối chủ thể nhận được);
+ Công bằng theo chức năng (căn cứ vào đóng góp trọng việc tạo ra thu nhập).
Mỗi hình thức đều có ưu và nhược điểm riêng nên trong thực tiễn cần kết hợp
cả hai hình thức này. Trước hết, nhà nước cần thực hiện các chính sách để đảm bảo
cho mọi người có được mức sống tối thiểu, khuyến khích người dân làm giàu hợp
pháp để nâng cao thu nhập dựa trên sức lao động của bản thân. Bên cạnh đó phải thực
hiện các nguyên tắc phân phối của nền kinh tế thị trường để lợi ích kinh tế trở thành
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Để lợi ích kinh tế trở thành động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, gn]ời lao
động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh vực
phân phối thu nhập. phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình để đảm bảo
Ngoài ra, nhà nước cần đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật, quản lý có hiệu
quả các hoạt động của các chủ thể khi tham gia thị trường để ngăn chặn các hoạt động
trái pháp luật như: buôn lậu, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, tham nhũng,
chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, từ đó đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế của
các chủ thể trong nền kinh tế.
d. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa các chủ thể trong quan hệ lợi ích kinh tế là khách quan, không
giải quyết được mâu thuẫn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới động lực để phát triển kinh tế.
Việc giải quyết mâu thuẫn phải tôn trọng thực tiễn, tuân theo các quy luật khách quan và
tuân theo các quy định của pháp luật, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết.
68
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
1. Tại sao nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa
mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù?
2. Có ý kiến cho rằng: “Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là
đối lập nhau”. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao Việt Nam lại lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN?
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc
trưng gì? So sánh với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
3. Những nhiệm vụ cần phải thực hiện để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa?
TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2020). Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị)

69
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Chương 6
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
I. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
a. Khái quát về cách mạng công nghiệp
* Khái niệm: Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về
chất trình độ của tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và
công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại, kéo theo sự thay đổi căn bản về
phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát triển về năng suất lao động cao hơn
hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật – công nghệ
đó vào đời sống xã hội.
* Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới
Cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và đang bắt
đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0).
- Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ
đầu thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
+ Tiền đề của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở Anh bắt đầu từ sự phát triển của
ngành công nghiệp nhẹ mà trước hết là ngành dệt, tiếp theo tới cách ngành công
nghiệp nặng và cuối cùng là ngành nông nghiệp.
+ Nội dung của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Thứ nhất, chuyển từ lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, thực
hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước.
Phát minh máy móc trong ngành dệt như "thoi bay" của John Kay (1733),
xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt vải của Edmund Cartwright (1785)… tạo điều kiện cho
ngành công nghệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy động lực, đặc biệt là phát minh
máy hơi nước của James Watt (1784) là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa sản xuất. Các
phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry Cort, Henry Bessemer về lò luyện gang,
công nghệ luyện sắt là những bước tiến lớn đáp ứng nhu cầu chế tạo máy móc… sự phát
triển của ngành giao thông vận tải.
Thứ hai, ba giai đoạn của CMCN gắn với sự phát triển của LLSX và hoàn thiện
quan hệ sản xuất TBCN.
Thứ ba, ba giai đoạn của CMCN gắn với chuyển biến từ sản xuất nhỏ sang sản
xuất lớn, tập trung, hiện đại
+ Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:

70
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Một là, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, thực hiện
cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi nước từ đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Hai là, chuyển nền sản xuất hàng hóa nhỏ thành sản xuất hàng hóa lớn tư bản
chủ nghĩa mở rộng quy mô sản xuất.
Ba là, nâng cao năng suất lao động góp phần chấm dứt thời kỳ quá độ từ chế độ
phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa về mặt kinh tế.
C.Mác và Ph.Ănghen đã nhận xét rằng: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”16.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ hai: diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX.
Nội dung cơ bản của cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sử dụng năng lượng
điện và động cơ điện, để tạo ra các dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hoá cao
chuyển nền sản xuất cơ khí sang điện-cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ
trong sản xuất.
Những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến như
điện, xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ luyện thép
Bessemer trong sản xuất sắt thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm chi phí và giá
thành sản xuất. … Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát triển của ngành in
ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ô tô, điện thoại, sản phẩm cao su cũng được
phát triển nhanh.
Sự ra đời của phương pháp quản lý tiên tiến của H.Fayol và F.W.Taylor đã thúc
đẩy phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất được ứng dụng rộng dãi đã thúc
đẩy nâng cao năng suất lao động. CMCN lần thứ hai cũng tạo ra những tiến bộ vượt
bậc trọng giao thông và thông tin liên lạc.
+ Vai trò của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai:
Một là, nâng cao hơn nữa năng suất lao động, tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, thực hiện tự động hóa cục bộ trong sản xuất.
Hai là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, từ nông nghiệp sang
công nghiệp - dịch vụ, thương mại, đồng thời dẫn đến quá trình đô thị hoá, chuyển
dịch dân cư từ nông thôn sang thành thị.
Ba là, làm thay đổi về sức mạnh và tương quan lực lượng giữa các nước Đức,
Ý, Nhật so với các nước Anh, Pháp Mỹ.

16
C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 1995, tập 4, Tr 602.
71
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Cách mạng công nghiệp lần thứ ba: Bắt đầu từ khoảng những năm đầu thập
niên 60 đến cuối thế kỷ XX
Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng này là sử dụng công nghệ thông tin để tự
động hoá sản xuất. Cách mạng này diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy
tính và số hoá vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính
(thập niên 1960), máy tính cá nhân (..1970, 1980) và Internet (..1990).
CMCN lần thứ ba đã đưa tới những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nổi bật trong
giai đoạn này là: hệ thống mạng, máy tính cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ
số và robot công nghiệp.
+ Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ ba:
Một là, làm cho lực lượng sản xuất xã hội có những bước phát triển nhảy vọt.
Quá trình tự động hóa được thực hiện phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hai là, Công nghệ kỹ thuật số, Internet đã kết nối các chủ thể kinh tế với nhau
trên phạm vi toàn cầu dẫn tới thị trường được mở rộng nhờ sự ra đời của thương mại
điện tử.
Ba là, tạo điều kiện để chuyển biến các nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức. Khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn
ngày càng được rút ngắn.
Bốn là, tạo điều kiện thực hiện tin học hóa trong quản lý và xây dựng mô hình
“chính phủ điện tử”.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0)
Khái niệm CMCN lần thứ tư được đề cập lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm
công nghệ Hannover (CHLB Đức) năm 2011 và được Chính phủ Đức đưa vào “Kế
hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” năm 2012.
CMCN lần thứ tư được hình thành trên cơ sở cuộc cách mạng số, gắn với sự
phát triển và phổ biến của Internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có biểu hiện đặng trưng là sự xuất hiện của
các công nghệ mới có tính đột phá về chất như trí tuệ nhân tạo, big data, in3D …
Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt
lõi, phát triển nhảy vọt về tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc
đẩy sự phát triển của văn minh nhân loại.
+ Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0):
Một là, làm thay đổi nhận thức của con người trong nhiều lĩnh vực, tái tạo lại thế
giới mà chúng ta đã biết, giúp chúng ta những định hướng đúng đắn trong tương lai.
Hai là, làm thay đổi hệ thống sản xuất, chuyển sản xuất từ tập trung sang phân
cấp. Trí thông minh nhân tạo, robot từng bước thay thế con người trong quá trình sản

72
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
xuất. Làm biến đổi tất cả các ngành công nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ tầng, mang
lại nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực giao thông, y tế, giáo dục.
Ba là, tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực như: gen, công nghệ
nano, năng lượng tái tạo, máy tính lượng tử...
Bốn là, thay đổi hoàn toàn cách con người sinh sống, làm việc và quan hệ với
nhau. Cuộc cách mạng này đã tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí không
đáng kể.
* Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
- Về tư liệu lao động: Cách mạng công nghiệp đã tạo ra hệ thống máy móc thay
thế cho lao động thủ công cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất
sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập
trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
- Về người lao động: Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển
nguồn nhân lực, nó vừa đặt ra những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng
cao nhưng mặt khác lại tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực.
- Về đối tượng lao động: Cách mạng công nghiệp đã đưa sản xuất của con
người vượt quá những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên và các nguồn năng lượng
truyền thống. Các yếu tố đầu vào sản xuất cũng thay đổi căn bản.
- Về khoa học công nghệ: Cách mạng công nghiệp thúc đẩy các nước phát triển
tiếp tục những nghiên cứu để đưa những ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Đồng
thời tạo điều kiện cho các nước kém phát triển tiếp cận với thành tự khoa học công
nghệ của các nước đi trước để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, thu hẹp
khoảng cách với các nước phát triển.
- Từ góc độ người tiêu dùng được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản
phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao, chi phí thấp hơn.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
- Về quan hệ sở hữu: Dưới tác động của cách mạng khoa học công, sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất và yêu
cầu cải tiến kỹ thuật. Vì vậy tư bản buộc phải kết hợp với nhau cho ra đời các hình
thức sở hữu tập thể tư bản và sở hữu nhà nước tư bản dưới các hình thức như: công ty
cổ phần, liên kết giữa nhà nước với tư nhân trong sở hữu. Từ đó hình thành đa dạng
các quan hệ sở hữu (sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu nha nước) trên nền tảng
của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
- Về tổ chức sản xuất: Cách mạng công nghiệp làm cho lĩnh vực tổ chức, quản
lý kinh doanh cũng có sự thay đổi to lớn. Việc quản lý quá trình sản xuất của các

73
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn, thông qua công nghệ: internet, trí tuệ nhân tạo, mô
phỏng, robot…
- Về quan hệ phân phối: Trong lĩnh vực phân phối, cách mạng công nghiệp,
nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động,
làm giảm chi phí sản xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống của người dân.
Mặt khác, nó cũng dẫn tới phân hóa thu nhập và nạn thất nghiệp gay gắt hơn.
Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
- CMCN đã làm cho sản xuất xã hội có bước phát triển nhảy vọt. công nghệ kỹ
thuật số, internet đã kết nối doanh nghiệp với nhau, doanh nghiệp với cá nhân, cá nhân
với nhau trên phạm vi toàn cầu, thị trường được mở rộng, đồng thời dần hình thành
một “thế giới phẳng”. Ngoài ra, CMCN lần thứ ba đã tạo điều kiện chuyển các nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, khoảng cách từ phát minh tới ứng dụng
thực tiễn ngày càng được rút ngắn.
- Phương thức quản trị, điều hành của chính phủ cũng có sự thay đổi hình thành
hệ thống tin học hóa trong quản lý và “chính phủ điện tử”. Sự thay đổi này cho phép
người dân được tham gia rộng dãi hơn vào việc hoạch định chính sách. Đồng thời nhà
nước dựa trên hạ tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và điều hành xã
hội theo mô hình “chính phủ điện tử”, “đô thị thông minh”…
- Thể chế quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp cũng có sự biến đổi với việc
sử dụng công nghệ cao để cải tiến quản lý sản xuất, thay đổi hình thức quản lý, tổ chức
doanh nghiệp. vai trò của các TNCs ngày càng lớn trong hệ thống kinh tế TBCN. Nhà
nước chú trọng hơn đến chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết và phối hợp quốc tế được
tăng cường. Sự hình thành các tổ chức khu vực và quốc tế tạo ra những chủ thể điều
tiết mới.
- Sự thay đổi của công nghệ sản xuất khiến doanh nghiệp phải thay đổi cách
thức thiết kế, tiếp thị và cung ứng dịch vụ theo cách mới, bắt nhịp với không gian số.
Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh xuất phát từ nguồn lực chủ yếu là
công nghệ, trí tuệ, đổi mới và sáng tạo. Phương thức quản trị dựa trên áp dụng các
phần mềm quản lý, số hóa các quán trình quản trị kinh doanh, bán hàng nhằm tiết giảm
chi phí quản lý điều hành. CMCN giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tạo giá trị gia tăng bằng trị thức chứ không phải
bằng tài nguyên, khoáng sản hay lao động phổ thông.
- CMCN tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khởi nghiệp, tham gia thị
trường ngách với nhiều sản phẩm, dịch vụ công nghệ đột phá.
- CMCN lần thứ tư yêu cầu các quốc gia phải có hệ thống thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, chuyển đổi hoạt động sản xuất lên trình độ cao hơn, tạo ra NSLĐ và giá trị cao hơn,

74
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời đáp ứng được yêu cầu khách quan của quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập KTQT.
- CMCN lần thứ tư tạo điều kiện cho sự phát triển nhiều lĩnh vực như: công nghệ
gien, công nghệ nano, năng lượng tái tạo, máy tính lượng tử … đưa thế giới vào giai đoạn
phát triển không bị giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo…làm uy giảm quyền lực
của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và gia tăng quyền lực của cac quốc
gia có nền KHCN phát triển. CMCN còn giúp giải phóng con người khỏi lao động chân
tay để phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động.
Tóm lại, CMCN đã tạo ra nhiều thời cơ và thách thức. Các quốc gia có trình độ
phát triển thấp cần thích ứng hiệu quả với tác động của CMCN lần thứ tư. Đây là
nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp và mọi cá nhân.
b. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
* Khái niệm: Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ
dựa trên lao động thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao
động bằng máy móc nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Các mô hình công nghiệp hóa tiêu biểu trên thế giới:
- Mô hình công nghiệp hóa cổ điển.
Mô hình công nghiệp hóa cổ điển được thực hiện ở các nước đi đầu trong cách
mạng công nghiệp tiêu biểu là nước Anh. Công nghiệp hóa ở nước Anh bắt đầu từ
ngành công nghiệp nhẹ (ngành dệt) từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp (chăn cừu) và
ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp khai khoáng phát triển (các ngành
công nghiệp chế tạo mà chủ yếu là máy động lực để cung cấp động lực cho hệ thống
máy dệt, máy kéo sợi hoạt động).
Thời gian thực hiện cách mạng công nghiệp kéo dài trung bình 60-80 năm.
- Mô hình công nghiệp hóa kiểu Liên Xô.
Liên Xô thực hiện cách mạng công nghiệp từ những năm 1930, sau đó được
nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và các nước đi theo mô hình xã hội chủ nghĩa
tiếp tục thực hiện. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là bắt đầu từ ngành công nghiệp
nặng (công nghiệp cơ khí chế tạo). Để thực hiện được quá trình công nghiệp hóa, Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã huy động mọi nguồn lực trong nước dựa trên mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung để thực hiện các mục tiêu của cách mạng công
nghiệp, nhờ mô hình này Liên Xô đã nhanh chóng thực hiện thành công công nghiệp
hóa. Tuy nhiên, do việc áp dụng quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung dẫn
tới triệt tiêu động lực của nền kinh tế làm cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
lâm vào khủng hoảng và sụp đổ vào những năm 1991.
- Mô hình công nghiệp hóa của Nhật Bản và các nước NICs

75
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Nhật Bản và các nước NICs (Hàn Quốc, Singapor, Hồng Kông, Đài Loan …) là
những nước đi sau trong cách mạng công nghiệp, nhờ rút được kinh nghiệm từ các
nước đi trước (Mô hình CNH cổ điển và mô hình CNH Liên Xô). Nhật Bản và các
nước NICs đã thực hiện cách mạng công nghiệp rút ngắn (thực hiện chuyển giao các
thành tựu khoa học kỹ thuật từ các nước phát triển để rút ngắn quá trình CNH) và tập
trung theo hướng tận dụng các nguồn lực trong nước để tiến hành chiến lược sản xuất
hướng về xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước từng bước thay thế nhập khẩu để
tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Kết quả là sau khoảng thời gian ngắn (20 - 30 năm) các nước này đã thực hiện
thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
* Các nước chậm phát triển có thể thực hiện cách mạng công nghiệp bằng
các con đường cơ bản như sau:
- Một là, thông qua đầu tư nghiên cứu, chế tạo và hoàn thiện dần công nghệ từ
trình độ thấp tới cao.
+ Ưu điểm: Không phụ thuộc vào nước ngoài.
+ Hạn chế: Tốn thời gian, chi phí (tổn thất trong quá trình thử nghiệm, công
nghệ nghiên cứu trong thời gian dài nên khi hoàn thành có thể lạc hậu do các nước
phát triển có kinh nghiệm và nguồn lực nên rút ngắn thời gian nghiên cứu).
- Hai là, tiếp nhận chuyển giao hoàn toàn thành tựu khoa học công nghệ từ
nước ngoài.
+ Ưu điểm: Nhanh chóng hoàn thành quá trình CNH và đạt trình độ tương đối
hiện đại.
+ Hạn chế: Tốn nhiều vốn, phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài (các nước phát
triển thường không bán ngay công nghệ hiện đại nhất, do đó nếu quá trình chuyển giao
công nghệ không được kiểm soát chặt chẽ sẽ trở thành bãi rác thải công nghiệp).
- Ba là, xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ nhiều trình độ khác
nhau, kết hợp công nghệ truyền thống với đi vào công nghệ hiện đại ở những khâu
quyết định tới chất lượng của sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Một mặt thực hiện
chuyển giao khoa học công nghệ ở các ngành then chốt để thực hiện công nghiệp hóa.
Mặt khác đẩy mạnh quá trình nội địa hóa để thay thế nhập khẩu đồng thời xây dựng
các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước phát triển.
2. Tính tất yếu khách quan và nội dung của công nhiệp hóa, hiện dại hóa ở
Việt nam
a. Tính tất yếu khách quan
- Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
76
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”17.
- Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thứ nhất, lịch sử các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã chứng minh rằng:
CNH, HĐH là con đường duy nhất để đưa đất nước từ một nước kém phát triển trở
thành một nước có nền kinh tế phát triển, hiện đại.
CNH, HĐH là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, việc thực hiện thành
công quá trình CNH, HĐH sẽ nâng cao trình độ của LLSX cho các ngành kinh tế,
nâng cao năng suất lao động từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội.
Để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tất yếu phải đẩy
mạnh thực hiện CNH, HĐH để xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên sự phát triển của khoa học và công nghệ
hiện đại.
Thứ hai, đối với các nước thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có
nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam tất yếu phải thực hiện CNH, HĐH để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Quá trình này phải được thực hiện từ đầu:
từ không tới có, từ thấp tới cao. Thông qua thực hiện CNH, HĐH để phát triển LLSX
từ đó tạo điều kiện hoàn thiện QHSX của CNXH, từng bước thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh đó, CNH, HĐH còn hướng tới khai thác hiệu quả những nguồn lực
của đất nước cho phát triển nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh phân công lao động trong nước và quốc tế; thu
hẹp khoảng cánh phát triển giữa các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế; tăng
cường khối đoàn kết liên minh Công – Nông – Trí; tăng cường tiềm lực cho an ninh,
quốc phòng để giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tạo điều kiện về vật
chất để xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
CNH, HĐH ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
- CNH, HĐH theo định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
- CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- CNH, HĐH được thực hiện trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.

17
ĐCSVN, NQTW7 Khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, HN. Tr 65.

77
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đang
tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Thứ nhất, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản
xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ.
CNH, HĐH về thực chất chính là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất
nhỏ, lạc hậu sang nền sản xuất lớn, hiện đại. Để thực hiện được quá trình chuyển đổi
đó cần có những tiền đề, điều kiện trong nước và quốc tế tạo thành môi trường thuận
lợi cho quá trình CNH, HĐH. Cụ thể như:
- Đảm bảo sự ổn định về thể chế chính trị, tạo lập thể chế kinh tế đồng bộ, môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định.
- Xây dựng nguồn nhân lực có trình độ cao, cơ cấu phù hợp, đảm bảo về số
lượng cho quá trình CNH, HĐH.
- Xây dựng nền kinh tế hội nhập sâu, rộng vào thị trường quốc tế.
- Nâng cao trình độ dân trí, xây dựng một xã hội văn minh.
Thứ hai, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất nhỏ, lạc
hậu sang nền sản xuất lớn, hiện đại. Cụ thể:
- Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại.
+ Để thực hiện CNH, HĐH đòi hỏi vừa thay thế lao động thủ công bằng lao
động máy móc cơ khí (công nghiệp hóa), đồng thời ứng dụng công nghệ hiện đại vào
các khâu, lĩnh vực then chốt, quyết định tới nâng cao chất lượng sản phẩm (hiện đại
hóa) để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
+ Để phát triển LLSX từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ cần phát
triển các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất. Lênin đã rút ra quy luật: cần phải ưu tiên
phát triển sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sản xuất.
+ Quá trình thực hiện CNH, HĐH cần chú ý kết hợp giữa công nghiệp – dịch vụ
- nông nghiệp. Trong đó việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiêp, nông thôn được xem
là nhiệm vụ quan trọng của quá trình CNH, HĐH.
+ Ứng dụng KHCN mới phải được tiến hành đồng bộ, cân đối ở tất cả các
ngành, vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế thì mới đem lại hiệu quả cao.
- Quá trình thực hiện CNH, HĐH phải gắn với phát triển nền kinh tế tri thức với
các ngành tiêu biểu như: công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh
học, AI, IoT …
+ Khái niệm: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản
xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá
trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế" (APEC 2000)
+ Những đặc điểm căn bản của nền kinh tế tri thức thể hiện ở chỗ:
78
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
-> Tri thức trở thành nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự tăng trưởng và
phát triển của mỗi quốc gia.
-> Cơ cấu nền kinh tế có những biến đổi sâu sắc, trong đó các ngành dựa vào tri
thức, khoa học công nghệ sẽ có tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế.
-> Công nghệ thông tin giữ vai trò quan trọng kết nối các thiết bị thông minh
(smartphone, smartTV, smarthome …) tạo thành mạng lưới đa phương tiện để từ đó
hình thành một xã hội thông tin.
-> Nguồn nhân lực được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới trở thành yêu cầu bắt
buộc đối với lực lượng lao động trong tương lai; mô hình xã hội học tập hình thành và
phát triển. Phát triển con người trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi quốc gia.
-> Những tác động tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thế giới có tác động trực
tiếp tới mỗi quốc gia và ngược lại.
Từ những đặc điểm đó cho ta thấy, để thực hiện CNH, HĐH gắn với nền kinh tế
tri thức trước hết cần đầu tư phát triển con người, đồng thời tranh thủ tận dụng những
thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để xây dựng nền kinh tế hiện đại, hiệu
quả và phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững
+ Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng và các thành
phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế cũng chính là tổng thể cơ cấu các ngành, cơ cấu các vùng
và cơ cấu các thành phần kinh tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại phải gắn với chuyển dịch cơ
cấu lao động, thực hiện phân công lao động trong nước và phân công lao động quốc tế,
từng bước hình thành các vùng chuyên môn hóa sản xuất để khai thác thế mạnh của
từng vùng, nâng cao năng suất lao động và phát huy nguồn lực của các vùng kinh tế.
+ Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, hiệu quả phải đáp ứng các điều kiện sau:
-> Khai thác, phân bổ và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút
có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển KT-XH.
-> Cho phép ứng dụng các thành tựu KHCN mới, hiện đại và các ngành, vùng
và các lĩnh vực của đời sống kinh tế.
-> Phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế và yêu cầu của toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX.
+ Mục tiêu của CNH, HĐH nước ta là xây dựng CNXH, do đó phải củng cố và
hoàn thiện QHSX.
+ Hoàn thiện quan hệ SH, PP, TCQL, phân bổ nguồn lực theo hướng tạo động
lực cho phát triển, giải phóng sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân.
79
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Sẵn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Để tận dụng tốt thời cơ và vượt qua những thách thức của cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cần thực hiện tốt những nội dung sau:
+ Hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng đổi mới, sáng tạo.
+ Nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
+ Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của
cách mạng công nghiệp lần thứ tư; trong đó gồm:
-> Xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin, truyển
thông, chuẩn bị nền tảng kinh tế số.
Cần huy động các nguồn lực khác nhau gồm nhà nước, doanh nghiệp … vào
phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông.
Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghệ thông tin có chất lượng
cao, cơ cấu phù hợp đáp ứng được những yêu cầu mới của cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Coi phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là khâu đột phá trong cách
mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam.
Tập trung phát triển tạo sự bứt phá về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực CNTT,
truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và đảm bảo an toàn, an ninh mạng, tạo điều
kiện bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp khi tiếp cận nội dung số.
Triển khai các giải pháp để phát triển ngành CNTT thích ứng với CMCN lần
thứ tư … để hình thành hệ thống dữ liệu lớn làm cơ sở cho việc phân tích và xử lý
thông tin để đưa ra những quyết định đúng đắn, có hiệu quả nhằm nâng cao sực cạnh
tranh của nền kinh tế.
-> Thực hiện chuyển đổi số nền kinh tế và quản trị xã hội.
Chuyển đổi số nền kinh tế trên cơ sở nền tảng số hóa đối với phát triển các lĩnh
vực quan trọng như CN năng lượng, CN hóa chất, điện tử, CN vật liệu… phát triển
công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp nhằm nâng cao giá trị
xuất khẩu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành, lĩnh vực công nghiệp hiện đại và có khả
năng tạo tác động lan tỏa trong nền kinh tế.
Xây dựng các khu công nghiệp công nghệ cao, phù hợp với điều kiện và khả
năng thực thế để tạo điều kiện, cơ sở cho việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới.
Thực hiện số hóa quản trị quốc gia và địa phương.
-> Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nhằm khai thác, phát huy tiềm năng của những ngành này. Thông qua
80
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực cho xã hội,
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu,
mở rộng thị trường … góp phần xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải ứng dụng công
nghệ sinh học vào sản xuất; thực hiện cơ giới hóa, thủy lợi hóa, số hóa; phát triển
công, thương nghiệp và dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; từng bước xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
-> Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Một là, đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ lĩnh vực giáo dục – đào tạo theo hướng
coi trọng chất lượng, hiệu quả và coi trọng phẩm chất, năng lực của người học.
Hai là, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
Ba là, tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, trực tiếp nhất là đầu tư
cho giáo dục – đào tạo; coi giáo dục là nền tảng và phương thức tạo ra nguồn lực phát
triển.
Bốn là, tổ chức nghiên cứu khoa học và đào tạo phải thay đổi căn bản phương
thức hoạt động, nâng cao cơ sở, trang thiết bị nghiên cứu, gắn kết giữa nghiên cứu, đào
tạo với doanh nghiệp theo cơ chế hợp tác cùng có lợi, đưa nhanh các tiến bộ khoa học
vào sản xuất kinh doanh.
-> Coi trọng chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài. Có chính sách đãi ngộ
thỏa đáng đối với người tài.
II. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a. Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
* Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình các quốc
gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia
sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
* Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan của toàn cầu hóa kinh tế.
- Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng
giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu.
- Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
trong đó toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm, vừa là cơ sở, động
lực thúc đẩy các lĩnh vực khác.
- Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua
mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong
sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
81
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan vì:
+ Trong toàn cầu hóa kinh tế do phân công lao động và sản xuất diễn ra trên phạm
vi toàn cầu nên nền kinh tế của mỗi nước trở thành một bộ phận hữu cơ không thể tách rời
khỏi nền kinh tế toàn cầu.
+ Trong toàn cầu hóa kinh tế các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn
cầu, do đó nếu không hội nhập kinh tế quốc tế các nước không thể tự đảm bảo các yếu tố
cho sản xuất trong nước.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để các nước giải quyết những vấn đề toàn
cầu, đồng thời cho phép tập dụng thành tựu của CMCN và lợi thế so sánh tương đối của
mình để tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển chủ yếu và phổ biến
của các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
- Đối với các nước đang phát triển và kém phát triển thì hội nhập KTQT là cơ
hội để tiếp cận và sử dụng các nguồn lực như: Tài chính, KHCN, kinh nghiệm TCQL
từ các nước phát triển.
- Hội nhập KTQT là con đường để các nước kém phát triển tận dụng thời cơ thu
hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
- Hội nhập KTQT giúp mở rộng thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy CNH, tăng
tích lũy, tạo việc làm, nâng cao thu nhập …
b. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
- Một là, chuẩn bị các điều kiện để nền kinh tế hội nhập thành công vào thị
trường khu vực và thế giới.
+ Để thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xây dựng lộ trình tối ưu.
+ Cần xây dựng đồng bộ các yếu tố gồm: thể chế kinh tế; nguồn nhân lực cho
hội nhập kinh tế quốc tế; tri thức về hệ thống luật pháp, thông lệ quốc tế; có năng lực
sản xuất đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Hai là, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo đó mức độ tham gia của một nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, các
tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực như: Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu
vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung …
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối
ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế,
hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ…
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
a. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa
học công nghệ, vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước.
82
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường, phân công lao động
quốc tế từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng
trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hợp lý, hiệu quả và hiện đại hơn … nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tăng cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường
quốc tế, vốn, KHCN, phương thức quản trị hiện đại để phát triển và nân cao năng lực
cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để người dân có điều kiện thụ hưởng
hàng hóa dịch vụ đa dạng, phong phú với giá cả cạnh tranh, tạo cơ hội tìm kiếm việc
làm và tiếp thu tri thức của nhân loại.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm
bắt xu thế vận động của thế giới từ đó điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, hiệu quả
cho đất nước phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và
tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập các lĩnh vực
văn hóa, chính trị, củng cố quốc phòng an ninh
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo tiền đề cho hội nhập văn hóa, tạo điều kiện tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú văn hóa dân tộc, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo điều
kiện cho cải cách toàn diện, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để mỗi nước tìm một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế của quốc gia…
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; mở ra khả năng
phối hợp giải quyết các vấn đề chung toàn cầu.
b. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành
kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả
bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Hai là, làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên
ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính
trị, kinh tế và thị trường quốc tế.

83
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Ba là, dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các
nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo
và bất bình đẳng xã hội.
Bốn là, đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do
thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp.
Năm là, tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc
gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự,
an toàn xã hội.
Sáu là, làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam
bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy là, làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội
phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu
quả của chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của hội
nhập kinh tế là vấn đề phải đặc biệt coi trọng.
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
a. Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại
- Trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực tiễn khách quan, là
xu thế khách quan của thời đại, không một quốc gia nào có thể né tránh hoặc quay
lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài dòng chảy của lịch sử, hội
nhập quốc tế không chỉ là “khẩu hiệu thời thượng” mà phải là “phương thức tồn tại và
phát triển” của nước ta hiện nay.
- Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực của
nó vì tác động của nó là đa chiều, đa phương diện. Trong đó, cần phải coi mặt thuận
lợi, tích cực là cơ bản.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của mọi chủ thể (doanh nhân, doanh
nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu), trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng
trong việc dẫn dắt tiến trình hội nhập, hỗ trợ các chủ thể khác tham gia hội nhập.
- Tư duy hội nhập chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác
quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ
chế hợp tác”. Với tầm và quy mô hội nhập hiện nay, các mối quan hệ kinh tế quốc tế
của nước ta không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên kết”.
b. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp

84
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Chiến lược hội nhập kinh tế về thực chất là một kế hoạch tổng thể về phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập
kinh tế phải phù hợp với khả năng điều kiện thực tế:
- Đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh tế, chính trị
thế giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp, các hiệp định thương
mai tự do song phương, đa phương đối với phát triển của nước ta.
- Đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến hội
nhập kinh tế nước ta. Cần làm rõ vị trí của Việt nam để xác định khả năng và điều kiện
để Việt Nam có thể hội nhập.
- Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước để tránh sai lầm.
- Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phải đề cao
tính hiệu quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực
khoa học công nghệ, lao động theo hướng tích cực, chủ động.
- Chiến lược hội nhập kinh tế phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện, có tính
mở và linh hoạt để ứng phó kịp thời với những biến đổi của thế giới và tác động mặt
trái trong quá trình hội nhập kinh tế.
- Chiến lược hội nhập kinh tế cần xác định rõ lộ trình hội nhập một cách hợp lý.
c. Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện
đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
Về hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170
quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh
thuế hai lần. Hiện nay, chúng ta đang nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời
hạn vào 2015 - 2020 nhằm nâng tầm hội nhập quốc tế như: Cam kết xây dựng Cộng
đồng ASEAN, Tầm nhìn ASEAN đến năm 2025; …
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết kinh tế
quốc tế và khu vực để tạo ra sân chơi chung cho các nước. Năm 1995 Việt Nam gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tham gia Khu vực thương mại
tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. ….
Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh
bạch và tự do hóa thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật, thể chế cũng như các
cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ.
Việt Nam đã triển khai đầy đủ, nghiêm túc các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
, đặc biệt là việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình gia nhập WTO từ năm 2014.

85
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các
cam kết đã góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này; tạo
được sự tin cậy, ton trọng và nâng tầm hội nhập quốc tế để đảm bảo các lợi ích cần
thiết trong hội nhập kinh tế.
d. Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
- Hiện nay giữa Việt Nam và các nước có sự khác nhau về mô hình kinh tế, tuy
vậy điều đó không cản trở hội nhập. Hạn chế lớn nhất hiện nay là: cơ chế thị trường
của nước ta chưa hoàn thiện; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, các
chính sách kinh tế vĩ mô chưa phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế; môi trường cạnh
tranh còn nhiều hạn chế. Do vậy cần phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trên các
khía cạnh: đổi mới nội dung sở hữu; coi trọng kinh tế tư nhân; đổi mới sở hữu doanh
nghiệp nhà nước; hình thành đồng bộ các loại thị trường; tạo lập môi trường cạnh
tranh bình đẳng … để từ đó nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước trên cơ sở thực hiện đúng các chức năng
của nhà nước trong định hướng, tạo lập môi trường, hỗ trợ và giám sát hoạt động của
các chủ thể kinh tế.
- Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật liên
quan đến hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài
chính, tín dụng, di trú …Đồng thời hoàn thiện páp luật về tương trợ tư pháp phù hợp
với pháp luật quốc tế để phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế.
đ. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
- Hiện nay nước ta có hạ tầng công nghệ yếu kém, nguồn lao động có chất
lượng thấp, quy mô đầu tư nhỏ bé khiến cho năng lực cạnh tranh thấp, hạn chế về khả
năng cươn ra thị trường thế giới.
- Để đứng vững trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng đến
đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh, đặc biệt phải tiếp cận với
các phương pháp kinh doanh trong bối cảnh mới: tìm kiếm cơ hội kinh doanh; học
cách kết nối cùng cạnh tranh; học cách huy động vốn; học cách quản trị sự bất định;
học cách đồng hành cùng chính phủ; học “đối thoại pháp lý” …
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua thách thức trong thời kỳ
hội nhập. Nhà nước cần chủ động đầu tư triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân lực
chất lượng cao; tổ chức các khóa đào tạo cho doanh nhân về kinh nghiệm, kỹ năng hội
nhập, quản trị, luật pháp… Đồng thời phát triển hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật để giảm chi phí sản xuất, tạo điều kiện thu hút vốn, công nghệ thúc đẩy tăng
năng suất lao động của các doanh nghiệp.
e. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam

86
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
- Khái niệm: Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ
thuộc vào một cá nhân, tổ chức kinh tế, quốc gia nào đó về đường lối, chính sách phát
triển. Không để bị cá nhân, tổ chức, quốc gia nào đó dùng những điều kiện kinh tế, tài
chính, thương mại, viện trợ … để áp đặt, khống chế làm tổn hại chủ quyền quốc gia và
những lợi ích cơ bản của dân tộc.
- Biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tư chủ đi đôi với tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế
Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối về kinh tế nói riêng và đường lối phát
triển đất nước trong thời kỳ mới.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tránh bị tụt hậu
xa hơn nữa về mặt kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, cần tập trung
vào các vấn đề sau:
+ Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang mô hình tăng trưởng theo
chiều sâu.
+ Mở rộng tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư
và đối tác. Tránh phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác để từ đó tạo nền tảng phát
triển bền vững.
+ Quy định chặt chẽ trong đổi mới công nghệ. Một mặt thực hiện chuyển giao
công nghệ từ các nước phát triển, mặt khác tập trung nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu
ứng dụng và triển khai nhằm từng bước tiến tới làm chủ về công nghệ.
Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế đạp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển, đồng thời thông
qua các quan hệ kinh tế quốc tế phát huy vai trò của nước ta trong các tổ chức khu vực
và quốc tế. Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả cần chú ý những
nội dung sau:
+ Tiếp tục đàm phán, ký kết và chuẩn bị các điều kiện thực hiện các FTA ở mức
độ cao hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh
vực kinh tế, thương mại, đầu tư …; tham gia giải quyết các tranh chập quốc tế trong
lĩnh vực kinh tế.
+ Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược: cải
cách thể chế; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.
+ Thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường sản
xuất kinh doanh, môi trường đầu tư để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước tham
gia sản xuất hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
+ Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý
cho quá trình CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế tri thức.
87
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn
thiện thể chế kinh tế, cải cách hành chính, tăng cường áp dụng khoa học công nghệ
hiện đại vào công tác quản trị xã hội, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền
kinh tế.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong hội nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc: bình
đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết tranh chấp bằng thương lượng
hòa bình.
- Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam thể hiện ở chỗ:
Một là, độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Còn hội nhập
kinh tế quốc tế là phương thức để phát triển đất nước. Độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế có mối quan hệ biện chứng, thống nhất và tạo tiền đề cho nhau, trong đó:
+ Độc lập, tự chủ là phát huy sức mạnh bên trong, là nền tảng của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Độc lập không có nghĩa là
“biệt lập”, không thiết lập các quan hệ kinh tế với thế giới. Giữ vững được độc lập tự
chủ thì quá trình hội nhập quốc tế mới đảm bảo không để bị lệ thuộc vào các tổ chức,
quốc gia khác.
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, vừa tích cực, chủ động hội nhập quốc tế còn là
phương thức kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
+ Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
+ Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Càng hội nhập
sâu rộng vàng cần phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hai là, hội nhập quốc tế tạo ra những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ
vững độc lập, tự chủ. Vì:
+ Trong hợp tác kinh tế, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển thường yếu
thế và dễ bị lệ thuộc vào các nước có nền kinh tế phát triển.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế dẫn tới sự phân hóa xã hội dẫn tới trầm trọng thêm
các vấn đề xã hội.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho lợi ích nhóm nổi trội hơn dẫn tới quá trình
đưa ra các quyết sách thêm phức tạp.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế không hiệu quả sẽ dẫn tới suy giảm độc lập, tự chủ,
chủ quyền quốc gia.

88
Trường đại học SPKT Hưng Yên Khoa Lý luận chính trị
Ba là, Để hội nhập có hiệu quả không thể tuyệt đối hóa độc lập tự chủ và quan
niệm về độc lập tự chủ là bất biến:
+ Việc tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ hay quan niệm cứng nhắc sẽ bỏ lỡ những
cơ hội để hội nhập quốc tế từ đó cản trở sự phát triển của đất nước, làm suy giảm độc
lập, tự chủ.
+ Nếu không chủ động sáng tạo tìm ra phương thức mới phù hợp với hoàn cảnh
và các điều kiện hình thành từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì việc đảm bảo độc
lập, tự chủ cũng sẽ gặp nhiều thách thức.
Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhấp
kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng giúp nước ta đạt được những thành tựu to lớn
trong hơn 35 năm đổi mới. Nước ta đã nâng cao được vị thế, quy mô và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cố, năng lực tự chủ quốc gia được
tưng cường.
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
1. Nội dung, tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới. Vai trò
của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với sự phát triển của thế giới.
2. Phương thức thích ứng của Việt Nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
3. Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động hai mặt của hội nhập kinh tế quốc tế
4. Phương hướng nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nội dung và vai trò của các các cuộc cách mạng CN trong lịch sử?
2. Phương thức thích ứng của Việt Nam trước cách mạng công nghiệp 4.0?
3. Hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động tích cực, tiêu cực của hội nhập
kinh tế quốc tế?
4. Những vấn đề cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập KTQT của Việt Nam
hiện nay?
TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin dành cho bậc
Đại học không chuyên lý luận chính trị, Nxb Giáo dục, HN.
2. Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên (2020). Đề
cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học khối
ngành không chuyên lý luận chính trị)

89

You might also like