You are on page 1of 106

mỞA

VÀ DANH NHÂN
LÀNG KHOA BẢNG
VIẼT NAM

SÔNG LAM (BIÊNSOẠN)

NHÀ XUÁT BẢN THANH NIÊN


h a ìig lõ n g
2 Bis Nguyễn Thịli Minh Khai
Khai-0.1 -TPHCM
- Q.l -TRHCM
01:08^3 910 2062 / FAX: 08.3 910 2063
E-mail; nsthangiong@hcm.fpt.vn
Website: //www.thanglong.com.vn
uiHUiịinouỵauoHHoyHi
UHHUHUHO
Biên mục trỄn xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Sông Lam
Làng khoa bảng và danh nhân làng khoa bảng Việt
Nam / Sông Lam b.s. - H. : Thanh niên, 2016. - 227tr. ;
21cm
Thư mục: tr. 226S-227
1. Lịch sử 2. Làng 3. Khoa bảng 4. Danh nhân
5. Việt Nam
959.7 - dc23
TNL0002P-CIP
Những thư viện mua sách của Nhà sách Thăng Long được biên mục
chuẩn Marc 21 miễn phí.
'TDữ liệu được Nhà .sách Thăng Long chép vào đĩa mềm, hoặc gửi
emaiỉ đến thư viện, hoặc clownloacl từ trang \veh:thanglong.com. vn
LÀnGKHOíìBnnGuiỆĩnniỉi
SỒNG LAM
(Biên soạn]

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN


^iM đ thiỆẢ

>uốt c h iều d à i lịch sử c h ế độ p h o n g k iế n V iệt


N am , giáo d ụ c và khoa cử N ho h ọ c g iữ m ộ t vị trí vô
cùng quan trọng trong v iệ c đào tạo n h â n cách, rèn
giũa tà i n ă n g cho b iế t bao con người, bao vị quan
lại, trong đó, n h iề u người về sau trở th à n h nh â n tài,
đ em h ế t tài năng, trí tuệ p h ụ n g sự triều chính và đố t
nước; n h iề u người trở th à n h n iề m tự h à o của gia
đ ình, trở th à n h “biểu tư ợ ng” của làng xã...
M ột trong những đặc đ iể m n ổ i bật trong truyền
thống h iế u h ọ c và khoa bảng của n h iề u vùng quê Việt
N am ỉà, nhữ ng người đỗ đạt thường tập trung trong
m i't s ố gia đình, dòng họ, n ê n gọi ỉà các ĩia đình,
dòng họ khoa bảng, từ đó là m hình thành các làng
khoa bảng.
Làng khoa bảng là là n g của các cộng dồng dân
cư người V iệt ở nông tịĩôn (chủ y ế u ở vùng c h â u th ổ
B ác bộ) có n h iê u người đỗ đ ạ t cao qua các k ỳ th i
của N hà nước p h o n g k iế n .
T heo tiê u chí, có 10 người trở lê n đỗ đ ạ i khoa
th ì s ẽ được công n h ậ n là “L àng k h o a b ả n g ” n ê n
trước đ â y con s ố “Làng k h o a b ả n g ” trên cả nước là
23. T u y n h iê n , th ờ i gian gần đ â y, đã có n h ữ n g tư
liệ u đ iề n dã tin cậy, đ ặ c b iệ t ỉà tư liệ u của PG S.TS
B ù i X u â n Đ ính cho th ấ y m ộ t s ố tài liệ u trước đ â y đã
có n h ữ n g sự n h ầ m ỉẫn^^) giữa là n g và x ã n ê n con s ố
“Làng khoa bảng" là chưa chính xác. Cụ th ể các làng
như: N ộ i D uệ, Vọng N g u yệt (Bác N inh), Thượng Y ên
Q u yết (Hà N ội) k h ô n g đủ s ố lượng 10 vị đ ạ i khoa.
Bởi vậy, hiện n a y thực tế trên ch ỉ có 20 làng khoa
bảng tiêu biểu được ghi nhận, là những làng có từ 10
người trở lên đỗ đại khoa (từ Phó bảng trở lên):
- T hành p h ố Hà N ộ i có 6 làng: là n g Đ ông N gạc,
T ừ L iêm (20 người); làng Tả T ha n h Oai, Thanh Trì
(12 người); Hạ Y ê n Q uyết, T ừ L iê m (11 người);
N g u yệt Á ng, Thanh Trì (11 người); Phú Thị, Gia Lâm
(10 người); Chi N ê, Chương M ỹ (10 người);
- Tỉnh B ốc N inh có 4 làng: K im Đôi, Kim Chân,
B ấc N in h (21 người); Tam Sơn, T ừ Sơn (17 người);
H ương M ạc, T ừ Sơn (11 người); Vĩnh K iều, T ừ Sơn
(10 người);

1) Xem thêm bài “Về quê quán của một .sô' Tiến s ĩ thời phong kiến
(TBHNH2001)”- Bùi Xuân Đính (http://hannom.vass.gov.vn).
- Tỉnh H ưng Y ên có 3 làng: X uân cầu, Nghĩa Trụ,
Văn Giang (11 người); Lạc Đạo, Vân Lâm (11 người);
T h ổ H oàng, Â n Thi (10 người);
- T ỉnh H ả i Dương có 2 làng: M ộ Trạch, Bình
Giang (36 người); N h â n Lý, N am Sách (11 người);
- Tĩnh Thanh H óa có 2 làng: c ổ Đôi, N ông c ố n g
(11 người); N g u yệt V iên, H oằng Quang, H oàng Hóa
(11 người);
- T ỉnh V ĩnh P húc 1 làng: Q uan Tử, Sơn Đông,
Lập Thạch (12 người);
- Tỉnh B ắc Giang có 1 làng: Y ên N inh, V iệt Y ên
(10 người);
- Tỉnh Hà Tĩnh có 1 làng: Đ ông Thái, Tùng Ả n h ,
Đức Thọ (10 người).
Trên cơ sở đô, ch ú n g tôi đã tiế n h à n h sưu tầm ,
b iên soạn cuốn sách m a n g tê n “L àn g kh oa b ả n g
và danh n h ân là n g kh oa b ả n g V iệt N a m ” này. M ỗi
làng khoa bảng bao gồm p h ầ n giới th iệ u sơ lược về
làng và p h ầ n giới th iệ u m ộ t s ố danh n h â n tiêu biểu
của làng. R iên g p h ầ n “M ột s ố danh n h â n tiêu b iể u ”,
ngoài m ộ t s ố vị đại khoa, ch ú n g tôi đã m ở rộng đ ể
giới th iệ u n h ữ n g danh n h â n k h ô n g thuộc s ố người
đỗ đ ạ i kh o a như ng lạ i có n h ữ n g đ ó n g góp to lớn,
m a n g lạ i danh tiế n g cho là n g như: Giáo sư H oàng
M inh Giám (làng Đ ông Ngạc); nhà văn H oàng Ngọc
Phách (làng Đ ông Thái); n g u yên p h i V Lan, danh sĩ
Cao Bá Q uát (làng P hú Thị); danh tướng Trần
N guyên H ãn (làng Quan Tử)...
M ặc dù đã rất c ố gổng trong quá trình sứu tầm ,
đ ố i c h iế u các nguồn tư liệ u về tê n là n g xã , tê n tuổi,
chứ c vị của các vị đ ạ i khoa từ n h ữ n g nguồn ch ín h
th ố n g song cuốn sách k h ó có th ể tránh k h ỏ i n h ữ n g
th iế u sót... Bởi vậy, c h ú n g tôi rấ t m o n g m u ố n n h ậ n
được những ý k iế n x â y dựng của các nhà n g h iên cứu
và đ ông đảo độc giả đ ể n h ữ n g lần tái bản sau cuốn
sách sẽ hoàn th iệ n hơn!
Trân trọng câm ơn và giới th iệu !
NHÓM BIÊN SOẠN

Q
lÀIRCHINÊ .
( o im ie m . hiI dỉi)
_a c_

f ^ ù n g đ ấ t C hương M ỹ có từ cổ xưa với tên gọi


là h u yện C hương Đức, dưới triều vua Lê Thánh Tông
từ th ế kỷ 15, trải qua các triều Mạc, Lê Trịnh, Tây Sơn
và đ ến đ ầ u triều N guyễn. Đ ến năm Đ ồng K hánh thứ
3 m ù a hạ th á n g tư, triều đình nhà N guyễn đã chia
đạo Mỹ Đức làm hai vùng. V ùng người M ường nhập
vào tm h Phương Lâm (H òa Bình) còn v ù n g người
Kữih thì chia thành hai huyện. H uyện Yên Đức là Mỹ
Đức ngày nay và h u y ện C hương Mỹ. Đ ầy là mốc đ ầu
tiên th àn h lập huyện. Kể từ th án g 4 năm 1888 đến
năm 2013, vừa tròn 125 năm . Hơn m ột th ế kỷ, trải qua
bao biến cố thăng trầm của lịch sử, tuy có m ột số thay
đổi ở câ'p xã nhưng cơ bản về địa danh, địa giới của
huyện v ẫn giữ ổn định.
Chương M ỹ là huyện nổi d an h bởi truyền thống
khoa bảng trong các triều đại. Sách Người Hà Tây trong
làng khoa bảng đã thống kê, trong 12 làng của hu y ện
C hương M ỹ, từ năm 1247 đ ế n 1849 có 26 ngư ờ i đỗ
Tiến sĩ, T hám hoa, Phó bảng. Riêng làng C hi N ê có
tới 10 vị Tiến sĩ, Thám hoa.
D ường như, long m ạch tạo n ên m ộ t v ù n g áắ ì địa
linh n h ân kiệt m à nổi tiếng n h ấ t là địa d an h C hi N ê
(xã Trung H òa). Thời phong kiến Chi N ê có bô"n họ
có người dỗ đ ạ i khoa là họ Trần, họ N gô, họ N guyễn,
họ Lê.
Trong đó, họ Trần có 3 người có tên trong làng
khoa bảng là Trần Khải (1472), Trần Phỉ (1479) và Trần
Phủ (1634). H ọ N gô cũng có 3 vị đỗ T iến sĩ, m à đ iều
đặc biệt là ba ôn g cháu: N gô C ung (1557), N gô Khuê
(1633), N gô C ầu (1638). H ọ N gu y ễn có 3 vị đỗ Tiến
sĩ là: N g u y ễ n N h u ậ n , N g u y ễn H y Tải và N g u y ễn
Quô"c Bảo - cả 3 đ ề u được ghi d an h ở V ăn M iếu -
Quô'c Tử giám . C òn họ Lê thì có người đỗ đ ạ i khoa
đó là Lê H iếu T rung - ông được xếp vào h à n g công
th ần tiết nghĩa, tên tuổi ông được ghi tro n g bia V ăn
M iếu, hiện n ay v ẫ n còn.
N gày nay, thôn C hi N ê thuộc xã T rung H oà,
Chương M ỹ, H à Nội. Đ ây là khu vực có khá n h iều lễ
hội được tổ chức dịp đ ầ u năm .
N hư thườ ng lệ, cứ đ ến m ù n g 10 th án g G iêng (âm
lịch), người d â n làng Chi N ê lại tưng bừ n g m ở lễ hội
rước kiệu khai xuân. Tuy cách trung tâm H à N ội chỉ
20km nhưng lễ hội làng Chi N ê v ẫn giữ được n hữ ng
nét v ăn hoá tru y ền thống từ xa xưa đ ể lại.


íĩiỌ ĩsốD nnH nH nnĩiẼU B É:

Ngô Cung (1557- ?)


N gô C ung tự là C ẩn Trai, hiệu Phục H iên Tiên
sinh, ngườ i họ N gô làng N ứ a, xã C hi N ê, h u yện
C hương Đức, nay là th ô n C hi N ê, xã Trung H oà,
h u y ện Chương Mỹ, th àn h p h ố Hà Nội.
N gô C ung đỗ H oàng giáp năm Q uý M ùi niên hiệu
D iên T hành th ứ 6, đời Mạc M ậu H ợp (1583). N ăm đó,
ô n g trò n 27 tuổi. Sau đó, ôn g ứng ch ế và thi khoa
Đ ông các đ ề u đứ ng hàng đ ầ u rồi làm quan tới chức
Đ ông các Đ ại học sĩ triều M ạc, tước N am , sau theo về
nhà Lê - Trịnh.

Ngô Khuê (1633 - ?)


Tiến sĩ N gô Khuê sinh năm 1633-?, người xã Chi
N ê, h u yện Chương Đức, nay là thôn Chi N ê, xã Trung

11
H òa, h u y ện Chương M ỹ, th àn h phô' H à Nội. ô n g là
cháu của cụ N gô C ung và là anh trai của N gô c ầ u .
N ăm 29 tu ổ i ông đỗ Đệ tam g iáp Tiến sĩ cập đệ Đệ
tam d a n h (tức Thám hoa) khoa T ân Sửu, n iên h iệu
Vĩnh Thọ th ứ 5 (1661) đời Lê T hần Tông.
Theo sách Tam khôi bị lục, ôn g được m ộ t lần cử
sang sứ nhà Thanh, sau lại được cử lên b iên giới tiếp
sứ nhà Thanh, được sứ giả nhà T hanh ca ngợi ông là
bậc giai sĩ của nước N am . ô n g làm q u an đ ến chức
Bồi tụ n g , Tả Thị lang bộ H ộ, tước Lam Phái nam , về
trí sỹ.
N hữ ng thông tũì về Tiến sĩ N gô K huê còn được
skể đ ế n trong Bia V ăn m iếu, hay các sách như; Đỉnh
khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (quyển 3, tờ 21b),
Đại Việt lịch đại đăng khoa, (quyển 3, tờ 56a), Liệt huyện
đăng khoa bị khảo, (quyển 3, tờ 54a), và Tam khôi bị lục
(tờ 31a).

Ngô Cầu (1638 - ?)


ô n g N gô C ầu là cháu của H oàng giáp N gô C ung,
em của Thám hoa N gô K huê, người xã C hi N ê h u yện
C hương Đ ưc, nay là th ô n Chi N ê, xã T rung H òa,
h u y ện C hương Mỹ, th àn h phô' H à N ội.
N ăm 1670 ông đỗ Đệ tam g iáp Đ ồng Tiến sĩ xuất
thân, khoa C anh Tuâ't, niên hiệu C ảnh Trị th ứ 8, đời
Lê H uyền Tông. Sau đó, ông giữ chức Tham Chm h.
N gô C ầu mâ't trước khi lên đườ ng đ i sứ nhà Thanh.

12
Lê Hiếu Trung (? - ?)
V ăn thần Lê H iếu T rung đời Lê H iến Tông, ô n g
quê làng Chi Nê, h u y ệ n C hương Đức, nay là thôn Chi
N ê, xã Trung H òa, h u y ệ n Chương M ỹ, thàiùi p h ố Hà
N ội. K hông rõ năm sinh, năm m ất của ô rg .
N ăm N hâm TuâT (1502), ông đỗ Đ ồng Tiến sĩ, làm
G iám sát n gự sử. Trong năm Đ m h M ão (1507), ông
được cử làm Phó sứ sang nhà M inh (Trung Quô"c) khi
về th ăn g làm Tư nghiệp Quô"c Tử giám .
C hm h sự hỗn loạn, nhóm Trịnh Tuy b ắt Lê Chiêu
Tông ở h àn h cung T hượng Y ên Q uyết (trước thuộc
tỉnh H à Đ ông, nay là phư ờ ng Yên H òa, c ầ u Giấy, Hà
N ội) đưa về Thanh H óa. N hóm T rần Cao cũng dâ'y
q u ân làm loạn, đ á n h cướp kứvh thành năm Bứửi Tý
(1516). Trong cơn nước biến, các phe nhóm dều có ý
m uốn d ù n g ông, lớp cám dỗ, lớp hăm dọa. ô n g cương
quyết không k h u ất p h ụ c các nhóm p h ả n loạn, tự tử
chết, được người đương thời khen ngợi tiết nghĩa.

13
n j« - T r- n

LẢNG c í oùl u
r [nãnG
[n 6 n G Ccínt
Ín e.ĩH n n H H ô í)]l

uT#i— 3

xưa, v ù n g N ông C ông có không ít người học


giỏi đỗ cao. Chỉ tm h từ năm 1247 đ ến năm 1870 riêng
h u yện N ông Cô"ng cũ có 27 người đỗ đ ại khoa (Trang
233 tập 2, Đại Nam nhất thống chí"- N hà xuâ^t b ản Khoa
học xã hội, Hà N ội, 1970). So với trong tm h T hanh
Hoá thì sô" người đỗ đ ạ i khoa ở đ â y đứ n g h àn g th ứ
nhì (sau huyện H oằng H oá). Trong các kì thi hương
từ trước đ ến nay v ù n g N ông C ông có tới 62 người đỗ
cử nhân (Theo Đăng khoa ỉục Thanh Hoá: n g u y ên b ản
"Thu tỉ đề danh kí". Số 78/Đ C - 3086. D ịchĩ N gô Đức
Thọ). N hững xã có tru y ền thông v ăn hoá từ lâu đời,
nhiều người đỗ đ ạ t cao là: Lan Khê, c ổ Đôi, c ổ Định
và Hương Khê.
Riêng làng c ổ Đ ôi được xem là làng khoa b ản g
của xứ Thanh. N gôi làng này đã sinh ra bao nhiêu anh

14
hùng hào kiệt công hiến cho đ ấ t nước.
Trong d â n gian vẫn còn truyền câu tục ngữ: " ô n g
công, ông nghè c ổ Định, c ổ Đ ôi" (vùng c ổ Định và
Cổ Đôi, tức v ù n g xã Tân N inh, Triệu Sơn và xã H oàng
Giang b â y giờ). Riêng c ổ Đ ôi (H oàng Giang ngày
nay), từ năm G iáp Thìn 1544 đ ế n năm Ấ t Sửu 1685,
có tới 11 người đỗ Tiến sĩ, được ghi danh tại Văn bia
Văn M iếu...
Đ iều đặc b iệt là trong 11 tiến sĩ, đỗ rải rác từ năm
1554 đ ến năm 1685, họ Lê có 7 vị, họ Đỗ có 4 vị; có
gia đình cả ba bố, con, cháu đ ều đỗ tiến sĩ, đó là ông
Lê H ữu Trạch (bô) đỗ năm 1565, ông Lê N hâm Triệt
(con) đỗ năm 1640 và ông Lê Sỹ C ẩn (cháu) đỗ năm
1680. Có gia đìn h cả 2 bố, con đ ề u đỗ Tiến sĩ, chỉ cách
nhau có 26 năm , đó là ông Lê Chí Đạo (bố) đỗ năm
1659 và ông Lê C hí T uân (con) đỗ năm 1685...
Tại nhà thờ họ Lê Sĩ ở xã c ổ Đôi vẫn còn đô i câu
đôì b ằn g chữ N ôm n h ư sau:
Tiến sĩ ba đời lừng đất Việt
Công hầu một họ sánh trời Nam.

15
niOTsãDnnHnHãnTiẼUBÉ,

Đỗ Phi Tán (1508 - ?)


ĐỖ Phi T án sinh năm 1508, ngườ i xã c ổ Đôi,
hu y ện N ông c ố n g (nay thuộc xã H oàng G iang, h u yện
N ông C ông, tỉn h T hanh H óa), ô n g là an h của Đỗ
D anh Đại (đỗ Tiến sĩ năm 1554).
N ăm 37 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ
xuất thân, khoa G iáp Thìn, niên hiệu Q uảng H òa năm
thứ 4 (1544), đời M ạc Phúc Hải. Sau đó, ông làm quan
nhà M ạc, sau theo về nhà Lê, được th ăn g đ ế n Thượng
thư, hàm Thiếu bảo, tước Văn Trường bá. Sau khi m ất,
ông được tặng h à m T hái bảo, tước N ông Q u ậ n công.

ĐỖ Danh Đại (1514 - ?)


Đổ Danh Đ ại (có tài liệu ghi là Đỗ Tâ't Đ ại) sinh
năm 1514, người xã c ổ Đôi, huyện N ôn g cống (nay

10
thuộc xã H oàng Giang, huyện N ông Cống, tửih Thanh
H óa). Ô ng là em củ a Đỗ Phi Tán (đỗ Tiến sĩ năm
1544), cha của Đỗ Tế Mỹ (đỗ Tiến sĩ năm 1565).
V ăn bia đề d a n h C h ế khoa G iáp D ần, n iên h iệu
T h u ậ n Bình n ăm th ứ 6 (1554) có đ o ạn chép n h ư sau:
"...B ấy giờ n h ữ n g d ũ n g tư ớ ng n an h vuôT xông pha
ở nơi tê n đ ạ n th ì n h iề u m à m ư u th ầ n tầ m p h ú c
g iú p v ậ n trù ở nơi m à n trư ớ n g thì ít. Bèn v ào năm
G iá p D ần, n iên h iệ u T h u ậ n Bình th ứ 6 b ắ t đ ầ u đ ặ t
C h ế khoa, đích th â n ra đề thi v ă n sách h ỏ i về đạo
trị nước xưa nay... Sai các quan Đề đ iệ u , Tri C ông
cử, G iám thí v â n g m ện h khảo thí, trú n g tu y ể n được
13 n g ư ờ i, v â n g m ệ n h d â n g lên đ ể H o à n g th ư ợ n g
n g ự lãm , đ ịn h th ứ bậc cao th ấ p , s ắ c b an cho b ọn
Đ inh B ạt T ụy 5 n g ư ờ i đỗ Đệ nhâT g iáp C h ế khoa
x u ấ t th â n ...".
Trong số 5 người này, Đỗ D anh Đại đỗ th ứ 5, tiếp
sau là 8 người đỗ Đệ nhị giáp, Sau đó, ông làm quan
Đ ông các Đại học sĩ, tước V ăn H oành bá.

ĐỖ Tế Mỹ (1535- 1597)
Đỗ T ế M ỹ sinh năm 1535, người xã c ổ Đôi, huyện
N ông C ông (nay thuộc xã H oàng Giang, huyện N ông
C ống, tỉnh Thanh Hóa).
V ăn bia đề danh Tiến sĩ C hế khoa Ấ t Sửu, niên
hiệu C hm h Trị năm thứ 8 (1565) chép: "H oàng thượng
đích thân ngự ở h iên điện ra đề thi, định thứ bậc cao

17
thấp. Ban cho bọn Lê K hiêm 4 người đỗ Đệ n h ấ t giáp
C hế khoa xuất thân...". Trong 4 người này thì Đỗ Tế
M ỹ dỗ thứ 3. Khoa thi này, ngoài Đỗ T ế M ỹ đỗ Đệ
nhâ't giáp còn có 1 người làng c ổ Đ ôi đỗ Đệ nhị giáp
là Lê Nghĩa Trạch.
Sau khi đỗ đ ạ t, ông ra làm q u an và sau được
th ăn g dến chức Tả Thị lang Bộ H ộ, tước Sùng Lĩnh
h ầu . Khi m ất, ông được tặng Thượng thư, gia phong
Thái bảo, tước Q u ận công.

Lê Nghĩa Trạch (1536 -1614)


Lê Nghĩa Trạch sinh năm 1536, người xã c ổ Đôi
h u yện N ông c ố n g (nay thuộc xã H oằng Giang, huyện
N ông C ông, tửih Thanh H óa), ô n g nội của Lê N hân
Triệt, cao tổ của Lê Sĩ Cẩn.
Văn bia đề danh Tiến sĩ C h ế khoa Ấ t Sửu, niên
h iệu Chữih Trị n ă m th ứ 8 (1565) có đ o ạ n chép:
"...H oàng thượng đích th ân n gự ở h iên đ iện ra đề thi,
định thứ bậc cao thấp. Ban cho b ọ n Lê K hiêm 4 người
đỗ Đệ n hất giáp C hế khoa xuất thân, b ọ n Lê Nghĩa
Trạch 6 người đỗ Đệ nhị giáp Đ ồng C hế khoa xuất
thân. C họn ngày xướng d an h yết bảng, tỏ cho sĩ tử
thây kết quả tốt đẹp...".
Theo n hư V ăn bia thì Lê N ghĩa Trạch đỗ đ ìu trong
sô" 6 người đỗ Đệ nhị giáp Đ ồng C hế khoa xuất thân.
Sau khi đỗ, Lê N ghĩa Trạch ra làm quan rồi được
thăng tới chức Tả Thị lang Bộ Hộ. Khi mâ"t (1614), ông

1B
được tặng Thượng thư Bộ Binh, Thái bảo, tước N ham
Q u ận công, gia phong Kiệt tiết Tuyên lực công thần.

Lê Thất Dục (1570 - ?)


Lê Thất Dục (có tài liệu ghi là Lê Trất Dục) sinh năm
1570, người xã c ổ Đôi, huyện N ông Cống (nay thuộc xã
H oằng Giang, huyện N ông cống, tỉnh Thanh Hóa).
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh M ùi, niên hiệu
H oằng Định năm thứ 8 (1607) có đoạn chép: "Mặc dầu
đang gấp việc d ụ n g birửì nhưng vẫn lây việc thi chọn
sĩ tử làm đầu. N ăm Đ inh M ùi m ở khoa thi H ội, đặc
sai Đề điệu là H ữ u đô đô"c Xuyên Q uận công Đỗ Thế
Vmh, Tri cống cử là H ình bộ Thượng thư N ghĩa Khê
h ầ u N guyễn Lễ, G iám thí là Định Lương bá H oa H ữu
Mô cùng trăm quan chia giữ các việc. Vâng tiến h àn h
p h ép thi, chọn được h ạn g xuất sắc 5 người. Lại vâng
vào Điện thí, ban cho Lưu Đình C hất 1 người đỗ Đệ
n h ị giáp Tiến sĩ x u ất th ân , bọn N gô N h ân T riệt 4
người đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất thân...".
Theo V ăn bia này thì Lê Thất D ục đỗ th ứ 2 trong
số 4 người dỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất thân.
Ô ng làm quan H àn lâm H iệu thảo.

Lê Nhân Triệt (1 6 1 2 -? )
Lê N hân Triệt (có tài liệu ghi là Lê Sĩ Triệt) sinh

ig
năm 1612, người xã c ổ Đôi, huyện N ô n g C ông (làng
CỔ Đôi nay thuộc xã H oằng Giang, huyện N ông Cống,
tỉnh Thanh Hóa)...
V ăn bia đề d a n h T iến sĩ khoa C anh Thìn, n iê n
hiệu Dương H òa n ă m th ứ 6 (1640) chép: "...Đ ến khi
dâng quyển lên đọc, H oàng thượng xét d u y ệ t và định
th ứ bậc. Cho bọn Phí V ăn T huật 2 người đỗ Tiến sĩ
xuất thân, bọn H o àn g V m h 20 người đỗ Đ ồng Tiến
sĩ xuất thân...".
Trong sô" 20 người đỗ Đ ồng Tiến sĩ xuâ"t th ân thì
Lê N hân Triệt đứ n g th ứ 9. Sau đó, ông ra làm quan,
rồi được thăng đ ế n chức Tả Thị lang Bộ Hìrửi, tước
Q u ế H ải hầu. Sau khi mâT, ông được tặng chức Tả Thị
lang Bộ Bmh.


r LẢNG
T r-

p ĐỒNG NGẠC
Ị [Q.BlỉcTtfuẼn).HDnOi]
^ ^^ —IM

e S ô n g N gạc còn được gọi là làng Vẽ hay Kẻ Vẽ


nay là 2 p hư ờ ng Đ ông N gạc và Đức Thắng nằm cách
tru n g tâm H à N ội khoảng lOkm. Đ ông N gạc là m ột
trong n h ữ ng ngôi làng cổ n h ấ t của Hà N ội với tên gọi
là "Làng Tiến sĩ" do có rấ t nhiều vị Tiến sĩ N ho học
và Tây học là người làng.
Làng Đ ông N gạc là nơi xuất thân của 18 vị Tiến
sĩ N ho học (với 1 Thái học súìh, 1 Bảng nhãn, 2 H oàng
giáp và 14 Đ ồng Tiến sĩ; gồm : Phan Phu Tiên - 1429,
Phạm Lân Đ ịnh (Luân Định) - 1514, Phạm Thọ Chỉ -
1577, Phạm H iển D anh - 1646, Phạm Q uang Trạch -
1683, P han Vinh Phúc - 1685, Phạm Q uang H o àn -
1694, P h ạm Q uang Dung-1706, Phạm Q uang N inh
(N guyên Nừứi) - 1731, Phan Lê Phiên - 1757, N guyễn
Đ ình Thạc - 1779, H oàng T ế Mỹ - 1826, Phạm Gia
C h u y ên - 1831, N gu y ễn V ăn T ùng - 1838, N g u y ễn
H ữ u Tạo - 1844, P hạm Q uang M ãn - 1849, H oàng

21
Tướng H iệp - 1865, N guyễn D ự - 1879), 2 Phó b ản g
N ho học (N guyễn V ăn H ội - 1849, H oàng T ăng Bí -
1910), 6 vị đỗ Sĩ v ọ n g (tức thi hội chỉ vào đ ế n tam
trường nhưng nổi tiếng là h iền tài n ên cũng coi n h ư
tiến sĩ), 7 Tiến sĩ thời P háp, và thời nay đã có tới hơn
50 Tiến sĩ.
Xưa phư ờ ng Đ ông N gạc có câu n g ạn n g ữ "Đâ't Kẻ
G iàn, quan Kẻ Vẽ" đ ể bày tỏ niềm tự hào có n h iều
người thành đ ạ t trong khoa bảng. Trong các d ò n g tộc
ở đây, họ nào cũng có người đỗ đ ại khoa, ít n h ấ t là
m ột người. N hiều họ n h ư họ Phạm có 16 người. Gia
đình H oàng giáp H oàng Tế Mỹ từ khi định cư ở Đ ông
N gạc có 3 đời nôT tiếp n h au đỗ Tiến sĩ và 1 Phó bảng
(H oàng N g u y ễn T hự , H oàng T ế M ỹ, H oàng Tướng
H iệp, H oàng T ăng Bí); cũng n h ư gia đình Bảng n h ãn
Phạm Q uang Trạch có tới 7 người đỗ đại khoa (từ Tiến
sĩ Phạm L uân Đ ịnh, H oàng giáp Phạm Thọ C hỉ đến
Tiến sĩ P hạm Q u an g N inh) trong khoản g 217 n ăm
(1514 - 1731)...
về kiến trúc, Đ ông N gạc có nhiều công trình nổi
tiếng. Đ ầu tiên p h ải kể đến đình làng Đ ông N gạc, m ột
ngôi đình có quy m ô to lớn, nhiều h ạn g m ục với các
thành p h ần kiến trú c cổ kúìh và chuẩn m ực đ ã tồn
tại từ th ế kỷ 17. Đ ình được xây d ự n g trên m ột th ế đ ấ t
cao ráo, đắc địa ở p hía Bắc làng, sá t với đê sông
H ồng. Tương tru y ề n , thời xưa đ ình vô'n là m ộ t toà
m iếu cổ có từ thời Đ ường vào th ế kv 7. N ăm 1635,
d ân làng đã xây lại và m ở rộng th àn h đình đ ể thờ
th àn h hoàng làng. Đ ình thờ 3 vị thần tượng trư ng cho

22
cả T hiên - Địa - N hân.
N goài ra đình còn thờ tiến sĩ Phạm Q uang Dung
là người làng có công đứng ra trùng tu đình năm 1718
và P h ạm Thọ Lý, người đã cung tiến đ ấ t làm đình lần
d ầ u n ăm 1635. Trong đình hiện còn lưu giữ nhiều hiện
v ậ t qu ý , có giá trị, n h ư bia đá và bộ tranh sơn m ài
th ờ i Lê.
Đ ô n g N gạc cổ c h ù a Tư K h án h vớ i p h o n g cách
n g h ệ th u ậ t th ế kỷ 18 - 19. C h ù a có quả ch u ô n g đ ú c
n ă m D iên H ự u th ứ 2 (1315). T rong ch ù a h iệ n còn
tâ'm bia có n iê n đ ạ i T hịnh Đ ức ghi rõ công đ ứ c của
v ợ c h ồ n g N g u y ễ n P h ú c N in h , c ú n g gia tư d iề n sản
đ ể tu bô’, d ự n g lại c h ù a, và đư ợ c d â n là n g tô n làm
H ậ u P h ậ t.
N hắc đ ế n làng cổ Đ ông N gạc không thể không
n h ắc đ ế n nhữ ng ngôi nhà thờ của các dòng họ nổi
tiến g tại đ ây như dòng họ Phạm , họ Đỗ với kiến trúc
cổ km h còn đến ngày nay.
N gôi nhà thờ tổ của dòng họ Đỗ, thờ cụ Đỗ Thế
Giai là m ột võ quan cao câ'p thời Lê - Trịnh. N gười
được phong Vương (Đỗ Đại Vương) từ khi còn sống
và tôn làm Thần (Thượng đẳng phúc thần) khi qua đời.
N gôi nhà này có niên đ ạ i trên 300 năm và được
coi là ngôi đình thứ hai của làng. Đ ây là m ột trong ít
các ngôi nhà cổ trong làng còn có nhiều đồ đạc và
n h ữ n g vã>^ phẩm liên quan đ ến công đức to lớn cùa
vị d a n h nhân này.
Q ua 3 th ế kỷ, dòng họ Đỗ v ẫn lưu giữ được tất cả

23
các hoành phi, câu đối, các hương án, giường thờ, bộ
kiệu, v ậ t d ụ n g tế lễ ngày xưa... Trước nhà tiền tế có
các bức "Thiết thạch tinh trung" (trung th àn h n h ư sắt
đá), "Thượng đ ẳn g phúc thần" (phong thần), b ên trái
là bức "Vạn phúc d u đồng", b ê n p hải là "N gũ p h ú c
lâm môn". N goài ra, còn có thêm hai bức "Long m ã"
thể hiện ý chí ngang dọc trời đất.
Giá trị của ngôi nhà dễ n h ậ n thấy n h ấ t qua đô i
hạc đứ ng trên m ình hai con rù a và hai tấm bia ở gian
d ĩ tòa nhà tiền tế. Đôi hạc đ ứ n g trên m ai rù a b ằn g gỗ
quý, có chiều cao hơn 2m.
N hìn chung, n hữ ng ngôi n h à cổ ở Đ ông N gạc có
sự hòa trộ n giữa hai trư ờ ng p h á i kiến trú c Đ ông -
Tây. Đ an xen giữa n hữ ng ng ô i từ đường, nhà thờ họ
theo lôi kiến trúc truyền thông phương Đông là những
biệt th ự được xây dự ng từ đ ầ u th ế kỷ 20 theo lối kiến
trúc của Pháp. N hững ngôi nhà cổ này được xây dựng
từ n hữ ng năm 1739 và tấ t cả đ ề u có m ột điểm chung
là làm toàn bằng gỗ lim và lợp ngói m ũi h ài...
Bên cạnh tru y ề n th ố n g khoa bảng, v ă n hóa, kiến
trúc..., làng Đ ông N gạc còn là m ộ t địa b àn quan trọng
trong kháng chiến chống P h áp ở Thủ đô H à N ội, là
cơ sở y tế cứu chữa thương b inh trong trậ n chiến bảo
vệ H à N ội n ăm 1946, và đã n u ô i giấu n h iều cán bộ
k h áng chiến trong n h ữ n g n ă m P h áp chiếm đóng.

24
niQ ĩsíD nnH nH nnT iẼ uB É :

Phan Phù Tiên (? - ?)


Phan Phù Tiên (hay Phan Phu Tiên), tự Tm Thần,
hiệu Mặc H iền là đời thứ 6 của Trần Triều Vương - Phó
sư Phan Hách. Cụ thân sinh Phan Phu Tiên là Phan
Q uang Mũìh, cháu đời thứ 5 của ngài Phan Hách. Phan
Q uang Mũứi tự H ữu Mặc, hiệu Trang Tiết sinh khoảng
1345 - 1350. Sau m ột thời gian làm gia thần cho một
tước vương thời Trần thì chuyển sang con đường bữih
nghiệp, vào thời nhà H ồ làm đến chức Thông lĩnh Đại
tướng quân. Phan Q uang M ữih sinh được 6 con trai,
con trưởng là Phan Phu Tiên, sinh khoảng 1370 - 1372,
năm lên 10 tuổi sông ở Đ ông Ngạc, sau trưởng thành
m ở ra dòng họ Phan ở đây. Có 3 người em là Phan Viết
Bảo, Phan Viết Ngư, Phan Viết N ổi thì cũng đ ều làm
lên sư nghiệp lớn, vừa tham gia công cuộc chông ngoại
xâm, \ ừa chuyển cư vào Thừa Thiên khai hoang lập
ấp, về sau được các triều vua nưđc ta phong sắc là
Tiền vị khai canh.

25
Theo sử sách, ôn g thi đỗ T hái học sinh (tương
đương Tiến sĩ) năm 1396, cũng là khoa thi cuối cùng
của nhà T rần (đời vua T rần T h u ận Tông). Sau đó nhà
T rần bị H ồ Q uý Ly soán ngôi (1400), rồi đ ấ t nước bị
giặc M m h xâm chiến và đô hộ (1407 - 1427).
Trong giai đoạn này, có lẽ n h ư m ọi nhà yêu nước
khác, Phan Phù Tiên chọn th á i độ bâ't hỢp tác với nhà
M inh, ở nhà m ở trư ờng d ạ y học, tìm kiếm và đ ào tạo
người tài cho đ ấ t nước, gó p p h ầ n vào cuộc k h áng
chiến chống M inh của Lê Lợi. Sau ngày kháng M inh
toàn thắng, năm 1429, vua Lê T hái Tổ cho m ở khoa
thi đ ầ u tiên, gọi là M inh kinh bác học, để chọn n h ân
tài và xây dự ng lại đ ấ t nước. Với m ong m u ô n được
góp tài h èn sức m ọn ra d ự n g xây đ ấ t nước, g ạt bỏ
ngoài tai lời gièm pha (đỗ Tiến sĩ thời Trần), Phan Phù
Tiên đã ra d ự thi và đỗ th ứ ba của kỳ thi này.
Ô ng được bổ làm việc ở Q uốc Sử viện và Q uốc
Tử giám , hai cơ quan nghiên cứu học thuật và đ ào tạo
n h ân tài quan trọng bậc n h ấ t đương thời. Từ đ ây bắt
đ ầ u m ở ra con đường vừ a d ạ y học vừa nghiên cứu,
biên soạn sách vở của nhà giáo dục. Tuy n h iên đến
năm 1433, triều đình thiếu người nên điều Phan Phù
Tiên vào làm An Phủ sứ ở Thiên Trường (Nam Định
ngày nay), rồi ở H oan C hâu (N ghệ An - Hà Tĩnh ngày
nay). Việc d ạy học và n ghiên cứu học th u ật củ a ông
đ à n h p h ải gián đoạn khoảng 15 năm . Đ ến năm 1448,
dưới thời vua Lê N h ân Tông, Phan Phù Tiên lại được
triệu về kinh trở lại với công việc giảng d ạy ở Quốc
Tử giám và nghiên cứu ở Quô"c Sử viện.

20
T hân th ế và sự nghiệp Phan Phu Tiên nổi b ật lên
hai đặc điểm lớn: Đ óng góp cực kỳ to lớn và có giá
trị vào n ền giáo dục, nền v ăn hóa, v ăn hiến của dân
tộc; p h ẩm chất đ ạo đức trong sáng, n h ân phẩm , nhân
cách cao thượng của kẻ sĩ Bắc H à, của con người Việt
N am yêu nước, thương nòi.
Phan Phù Tiên là người có tài biên soạn lịch sử,
vừa có phương p h áp nghiên cứu và phương pháp luận
sử đã đ ể lại cho đời m ột công trình sử học xuất sắc
đó là tác p h ẩm Đại Việt sử ký tục biền, tập Việt âm thi
tập, bộ Quô'c triều luật lịch mà sử chép là H ình luật
nước Đ ại N gu và tác phẩm Bản thảo Thực vật Toản yếu
là m ột cuô"n sách y học ra đời ở nước ta vào loại sớm
n h ất sau Nam duợc thần liệu và Hồng nghĩa giác tư y của
Tuệ Tĩnh... N goài 4 công trình khoa học kể trên, Phan
Phù Tiên còn đ ể lại m ột sô" di cảo thơ văn đặc biệt
quý giá là n hữ ng bài thơ chữ N ôm n hư bài thơ vịnh
V ăn m iếu th àn h Thăng Long.

Lê Đức Mao (1462- 1529)


Lê Đức M ao là danh sĩ đời vua Lê Uy M ục, quê
Đ ông N gạc, h u y ệ n Từ Liêm, nay là phư ờ ng Đ ông
N gạc, quận Bắc Từ Liêm, th àn h phô" H à N ội, về sau
dời sang xã Dương Hô"i, h u yện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh
Y ên (nám 1977, h u yện Yên Lãng đ ổ i tên thành Mê
Linh thuộc H à N ội. Giai đ o ạn 1991-1996 thuộc Vĩnh
Phú. Giai đoạn 1996-2008 thuộc Vĩnh Phúc. Từ 2008,

27
Mê Linh thuộc H à Nội).
N ăm G iáp Tý (1504) ông đỗ Hưcíng công, năm sau
đỗ Tiến sĩ.
Ô ng nổi tiến g về tà i v ă n chương. Thơ v ă n ông
n ặn g p h ầ n trào lộng, châm biếm . Với ngôn n g ữ sắc
bén khiến giới cầm quyền đương thời không ưa.
Tác p h ẩm của Lê Đức M ao h iện chỉ còn Bát giáp
thuồng dào văn (N ghĩ hộ tám giáp giải thưởng h á t ả
đào) bằng quô'c âm (chữ N ôm ), viết trước 1504, khi
ông còn ở Từ Liêm. Đ ây là m ột bài ca trù cổ n h ấ t còn
lại hiện nay, viết đ ể ả đào h á t trong hội xuân, tế th ần
cầu phúc; gồm 128 câu, 9 đ oạn, phô'i hỢp các th ể thơ
song th ất lục bát. Lời v ăn lưu loát, tuy có lửiiều điển
cố, sáo ngữ. Trong quyển Thi văn Việt Nam của GS.
H oàng Xuân H ãn có trích 3 đoạn, kèm theo chú thích
và biện m inh đ ạ i ý.
Theo GS. P h ạm T h ế N g ũ , thì qua á n g v ă n n ày
cho người đọc "thấy đ iệ u song thâ't lục b á t lúc m anh
nha, đ ồ n g thời cũ n g cho th ấy tục h á t ả đ à o đ ã có từ
thời Lê".
N ăm Kỷ Sửu (1529), ông m ất, thọ 67 tuổi.

Phạm Thọ Chỉ (1539 - ?)


H oàng giáp Phạm Thọ Chỉ sinh năm 1539, tạ i xã
Đ ông N gạc, Từ Liêm , nay là p h ư ờ n g Đ ông N gạc,
q u ận Bắc Từ Liêm, H à N ội. ô n g là cháu họ Phạm Lân

25
Đ ịnh, ông nội P hạm H iển Danh.
N ăm 39 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
(H oàng giáp) khoa Đ m h Sửu, niên h iệu Sùng Khang
10 (1577), đời M ạc M ậu Hợp. ô n g làm quan đ ến chức
G iám sát n gự sử.
H oàng giáp Phạm Thọ Chỉ là người đã soạn bài
v ăn bia Đông Ngạc xã thị bi (Bia chợ xã Đ ông Ngạc).
Bài v ă n bia n ày được chép trong sách Đông Ngạc xã
chí - m ộ t tập tư liệu về lịch sử, địa chí, kinh tế, văn
hóa của làng Đ ông N gạc, m ột làng cổ điển hình của
v ù n g ven Thăng Long.

Phạm Gia Chuyên (1791 - 1862)


Phạm Gia C huyên sinh ngày 5 tháng 9 Tân Hợi
(1791, tại Đ ông N gạc, huyện Từ Liêm, tm h H à Đông
nay là phường Đ ông N gạc, quận Bắc Từ Liêm, thành
phô" H à N ội, là ch áu 5 đời của Bảng n h ã n Phạm
Q uang Trạch, cháu 4 đời của Tiến sĩ Phạm N guyên
N inh, đỗ Tam giáp Đ ồng tiến sĩ xuâ"t th ân năm 1832.
Ô ng Phạm Gia C huyên làm quan thời nhà N guyễn,
đã từ n g giữ các chức Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình),
Lễ bộ viên ngoại lang, Đô"c học tm h N inh Bình, Tư
nghiệp Quô"c Tử giám , ô n g tham gia soạn cuốn Quô'c
sử lược biền.
N ãtn Tân M ão (1831), M inh M ệnh th ứ 12, năm 41
tu ổ i, ông m ới thi H ương, đỗ ngay cử n h â n th ứ 14.
N ăm sau N hâm Thìn (1832) thi H ội, thi Đình đêù

20
đứng hàng th ứ 8, đỗ Tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất thân.
N ăm Q uí Tỵ (1833) được b ổ chức Tri p h ủ Kiến
Xương (Thái Bình). N ăm Ấ t M ùi (1835) th ăn g chức
Lễ bộ viên n g o ại lang. N ăm Đ inh D ậu (1837) b ổ Đốc
học từih N inh Bình. N ăm Kỷ H ợi (1839) th ăn g chức
Tư nghiệp Q uốc Tử giám . N ăm T ân Sửu (1841) lâm
b ện h xin về quê an dưỡng.
N ăm Đinh M ùi (1847) lại p h ụ n g chỉ về kinh nhậm
chức H àn lâm v iện Q uốc sử lược biên, h iện còn lưu
trữ m ộ t b ả n ở V iện H án - N ôm , gồm 452 trang, ký
h iệ u A1517, tro n g đó lược ch ép về q u â n đ ộ i, tà i
chừih, khoa cử, quan lại từ thời đờ i Đirửi đ ế n đời Lê
C hiêu Thông.
Cụ là m ộ t nhà N ho uyên bác về n h iều m ặt. Trong
cuô"n Danh thần di cảo ( k h u y ết danh) lưu trữ ở Viện
H án - N ôm , ký h iệu MP353 có chép v ă n thơ các danh
n h ân triều N g u y ễn n hư Phạm Gia C huyên, H à Tôn
Q uyền. Sách Nhàn trai thi tập của H u y ề n Khê (Thư
viên H án - N ôm , ký hiệu VH 2344) có ghi chép m ột
số đối liễn của Phạm Gia C huyên. Sách Đại Thành toán
học chỉ minh (thư viện H án - N ôm , ký h iệu A1555, 114
trang, có h ìn h vẽ m inh hoạ) do P hạm G ia Kỷ khởi
thảo, Tư nghiệp Quô"c Tử giám Phạm Gia C huyên hiệu
đửih, trong đó có các bài m ẫu về cách tm h thể tích
các v ật n h ư đ ô n g thóc, đ ố n g đâ't, kho vự a, đ ắ p đê,
đào sông, cách đo lường trọng lượng thuyền, cách tứứi
cân lạng đ ể p h a ch ế vàng bạc...
Cụ P hạm Gia C huyên mâ't ngày 5 th à n g 7 năm
N hâm T uất (1862), thọ 72 tuổi.

30
Hoàng Tăng Bí (1883 - 1939)
Phó b ảng H oàng T ăng Bí quê ở Đ ông N gạc, phủ
H oài Đức, nay là phư ờ ng Đ ông N gạc, quận Bắc Từ
Liêm, Hà Nội. T hân p h ụ ông là H oàng Hy Thuần, đời
th ứ 4 của gia tộc họ H oàng Đ ông N gạc, tửih từ cụ tổ
H oàng N guyễn Thự.
Ô ng đỗ C ử n h â n với vị trí Á nguyên (đứng thứ
nhì) tại Trường thi N am H à năm 1906. Sau đó, ông
cù n g với Phan C hu Trinh, Lương V ăn Can, N guyễn
Q uyền, D ương Bá Trạc, N gu y ễn V ăn Vĩnh, N guyễn
H ữ u Tiến... sáng lập T rường Đ ông Kmh N ghĩa Thục
và tổ chức h oạt động phong trào D uy Tân ở Hà N ội
đ ầ u th ế kỷ 20.
G iảng d ạ y k h ắp các v ù n g C hèm , Vẽ, Hà Đ ông,
ô n g H oàng T ăng Bí còn đ i d iễ n th u y ết, cổ đ ộ n g duy
tâ n , học vâ'n đ i đ ô i với thực n g h iệp , km h doanh, mở
m an g công thương, làm cho d â n g iàu nước m ạnh.
N h ữ n g d iễ n giả P han C hu T rinh, N g u y ễ n Q uyền,
H o à n g T ăng Bí, D ương Bá T rạc được công ch úng
h â m mộ và n ổ i tiếng về tài d iễ n th u y ết đ i vào lòng
ngư ờ i. Vì v ậ y th ơ k h u y ế t d a n h m ớ i có cầu: "Buổi
d iễ n th u y ế t người đ ô n g n h ư h ộ i/K ỳ bình v ă n khách
đ ế n n h ư m ưa".
Làm gương cho d â n chúng và cũng là đ ể gây quỹ
h o ạ t động cho nhà trường, các sĩ ph u đã h ù n vô'n làm
ăn. ỏ n g H oàng T ăng Bí m ở C ông ty Đ ông Thành
Xương ở tư gia của ông ngoại - cụ N gu y ễn Trọng
H iệp, Kinh lược sứ triều N guyễn và là thầy d ạy vua

31
T hành T hái - trên phô' H àn g Gai, chuyên b u ô n bán
hàng nội và m ở xưởng d ệ t xuyến hoa, làm trà ướp, in
tài liệu... Diễn ca Nam thiên phong vận ca ngợi: "Xã
Đ ông N gạc H oàng q u â n T ăng B í/T á n h th ô n g m inh
tu ổ i trẻ khác th ư ờ n g /T ư ớ n g m ôn d ò n g d õ i họ
H o à n g /Á m ôn giá cũng xem thường nhẹ k h ô n g /Đ ê m
ngày dô'c m ột lòng vì n ư ớ c /Đ ô n g T hành Xưcmg đứng
trước ra b u ô n ... Cho hay n hữ ng bậc tài d a n h /V ì giang
sơn p hải d ấ n m ình bước ra " ...
Sau vụ H à th à n h đ ầ u độc, trư ờ n g Đ ông Kinh
N ghĩa T hục bị đ ó n g cửa, ô n g cũ n g bị chính q u yền
thực d â n Pháp b ắ t và đưa về giam lỏng tại H uế. N ăm
1910, ông tiếp tục thi H ội, đỗ Phó bảng, n hư ng không
ra làm quan, mà m ở trư ờ n g tư d ạ y học, V'iết báo
"Trung Bắc tân văn" và soạn m ộ t sô' vở tu ồ n g kêu gọi
lòng yêu nước.
Sau ông được về H à N ội, viết báo và làm sách,
dịch m ột sô' tiểu th u y ết P háp ra tiếng Việt.
Ô ng qua đời tháng 3 năm 1939 tại H à N ội, hưởng
dương 56 tuổi.

Hoàng Minh Giám (1904 -1995)


Giáo sư H oàng M inh G iám sm h ngày 4-11-1904 tại
Đ ông N gạc, Từ Liêm (nay là p h ư ờ n g Đ ông N gạc,
q u ậ n Bắc Từ Liêm), H à N ội. T hân sinh ông là cụ Phó
b ản g H oàng Tăng Bí, m ộ t trong n h ữ n g sáng lập viên
v à giảng viên của Đ ông Kinh N ghĩa Thục. T hân m ẫu

32
ông là con gái của T hượng thư Bộ học Cao Xuân Dục
(triều vua Thành Thái và D uy Tân).
Thời niên thiếu, H o àn g M inh G iám học ở H uế,
sau đó ông ra Hà N ội học. Sau khi tôT nghiệp Trường
Cao đ ẳn g Sư p h ạm Đ ông Dương khóa II, ông bị Sở
M ật thám Pháp xếp vào loại người không nên đ ể ở
H à N ội nên cử đi d ạ y ở Trường Trung học Sisovath
(Cam puchia). về Sài G òn, ông dạy học ở các trường
tư thục và tiếp tục v iế t cho các báo như: La Cloche
Pélée (C huông Rè) củ a N gu y ễn An N inh, L"Annam
(Nước N am ) của Phan V ăn Trường, Le Nhaqué (Người
N hà quê) của N guyễn K hánh Toàn.
N ăm 1932, ông về H à N ội dạy học ở Trường Tư
thục Gia Long. N ăm 1935, ông cùng nhiều trí thức yêu
nước và tiến bộ n h ư P han Thanh, Đ ặng Thai Mai,
Phạm Vũ N ũìh m ở T rường Tư thục Thăng Long và
ông là hiệu trưởng.
C ách m ạng th á n g T ám năm 1945 th àn h công,
H oàng M inh G iám giữ n h iề u chức vụ quan trọng
trong bộ m áy chính q u y ền , Quô"c hội và đoàn thể
n h ân dân. ô n g trở th à n h m ộ t cộng sự gần gũi của
C hủ tịch Hồ Chí M inh và Đ ại tướng Võ N guyên Giáp
lúc vận nước "n g àn cân treo sỢi tóc".
N gay khi từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, Đại
tướng Võ N gu y ên G iáp đã m ời ông H oàng M inh
G iám tham gia C hính p h ủ Lâm thời và ngày 30-8-
1945, Đại tướng đã ký sắ c lệnh sô" 1 cử ông làm Đổng
lý Văn phòng Bộ N ội vụ. C ùng ngày, ông cùng Chủ
tịch Hồ Chí M inh tiếp Thiếu tá tình báo Mỹ

33
A rchim edes L.A .Patti, T rưởng p h á i bộ o s s . ô n g đã
được Bác H ồ tin tư ở n g giao cho n h ữ n g n h iệ m v ụ
đ ô i ngoại quan trọ n g , có m ặ t b ê n Bác tro n g n h ữ n g
th ờ i khắc lịch sử liê n q u an đ ế n v ậ n m ệ n h d â n tộc,
n h ư đ à m p h á n v ớ i Jean S ainteny, đ ạ i b iể u C h ín h
p h ủ P háp, c h u ẩ n bị cho việc ký k ế t H iệp đ ịn h sơ bộ
6-3-1946.
Ô ng cũng là người tháp tùng Bác H ồ hội kiến với
Đô đốc kiêm Cao ủ y P háp ở Đ ông Dương, G eorges
Thierry DArgenlieu ở vịnh H ạ Long, đ ể đi đ ến quyết
đữửì triệu tập hội nghị trù bị Việt - Pháp tại Đà Lạt,
chuẩn bị cho hội nghị chúứi thức ở Pontainebleau và là
thành viên của Chửih p h ủ trong H ội nghị này tại Pháp.
Trong cuộc kháng chiến chông P háp, là nhà ngoại
giao lão luyện, ông đã tham m ưu cho Đ ảng, N hà nước
những chủ trương lớn trong hoạt động đôì ngoại, thực
hiện thành công chủ trương "phá vây", thiết lập q u an
hệ ngoại giao giữa nước ta với Trung Quô"c, Liên Xô
và các nước XHCN khác, m ở đư ờ ng cho V iệt N am
vươn ra th ế giới... Với phong cách m ộ t nhà trí thức,
nhà ngoại giao lịch lãm , ông có m ặt ở nh iều h ộ i nghị
quô"c tế lớn, cùng th áp tù n g C hủ tịch H ồ C hí M inh
trong nhiều chuyến đ ố i ngoại đặc biệt.
Sau ngày hòa bình lập lại, ông tiếp tục đ ạ i d iện
cho Việt N am tham d ự nhiều hội nghị quốc tế, th ăm
nhiều nước châu Á, Â u, Phi, Mỹ La tmh...
Hơn 20 năm (1954 - 1976) trên cương vị Bộ trư ởng
Bộ Tuyên truyền sau đó là Bộ trưởng Bộ V ăn hóa (nay
là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), Bộ trư ởng H oàng

34
M inh G iám đã có công lao xây dự ng ngành văn hóa
với n hữ ng tư tưởng và chưcttìg trình hành động m ang
tầm chiến lược. ,
Ô ng là m ột trong n hữ ng Đại biểu Quốc hội đ ầu
tiên của nước Việt N am D ân chủ C ộng hòa, liên tục
là d ại biểu Quô"c hội khóa I đ ến khóa VII và đến năm
1987, khi tuổi cao sức yếu m ới nghỉ.
Ô ng từng giữ các cương vị là Phó Chủ tịch ủ y ban
Liên Việt toàn quốc (tháng 3-1951); ủy viên Đoàn Chủ
tịch ủ y ban T rung ương M ặt trận Tổ quô"c Việt Nam
(1955-1976). Sau đó, ông tiếp tục được cử vào Đ oàn
C hủ tịch ủ y ban Trung ương M ặt trận D ân tộc Thống
n h ấ t (th áng 1-1977) và là ủ y viên d an h dự ủ y ban
Trung ương M ặt trậ n Tổ quô"c Việt N am tại Đại hội
M ặt trận Tổ quô"c lần th ứ IV, năm 1994...
Ô ng qua đời n g ày 12 th án g 1 n ăm 1995 tại Hà
N ội, thọ 91 tuổi.

35
- ------------- 3 c --------------- n n

r


LÀNG
ĐỒNG THÁI :
1

[BỮCĨHO.HnĩlnH]

, ^ ô n g Thái là m ột làng thuộc xã T ùng Ả nh, huyện


Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nổi tiếng về khoa bảng và danh
n h ân nhiều đời. Thời phong kiến, làng Đ ông Thái có
10 người đỗ Tiến sĩ, là m ột trong 20 làng khoa bảng
Việt N am .
Trong th ế kỷ 19, làng Đ ông T hái đuỢc m ù a Cử
nhân, Tiến sĩ. Thời kỳ này, lối xóm họ Phan, làng Đông
Thái được gọi là "Ô y hạng"(i'. Q uan cả nh à, quan cả
họ, nhưng không ai có th ế lực lớn, vì h ầ u h ết đ ề u chức
nhỏ, nhà nghèo. Mở đ ầ u cho kỷ n g u y ên n à y là ông
Phan Văn N hã đ ậu Phó bảng khoa Kỷ Sửu (1829) làm
q u an đ ế n chức H ồng lô Tự Thiếu k h an h Q u ản phu

1) Ô \ hạng: Là ngõ, lối xóm áo đen, do tích trong thành Nam kinh
(Trung Quốc) xa, con cháu hai dòng họ Vưcĩng, Tạ đều mặc áo đen,
nên ngõ vào nhà họ gọi là "Ngõ áo đen ", sau dùng chỉ nhà quyền quý.

3B
Quô"c Sử quán. Phan Văn Phong đ ậu 2 khoa Cử nhân,
Phan Đ ình Tuyển đ ậ u Phó bảng khoa thi năm Giáp
Thìn (1844), làm quan đến chức Tán lý Q uân vụ. Phan
Tam Tm h đ ậ u Tiến sĩ năm 1842 làm quan Giám sát
N g ự sử, Phan Công Du đ ậu Tiến sĩ năm 1875 làm quan
Tri p h ủ Q uảng Trạch (Q uảng Bình) sau đó đi sứ nhà
Thanh. Phan Trọng M ưu đ ậ u Tiến sĩ đồng khoa 1879
với Phan Đ ình N h u ậ n là con em chú đuỢc vua nhà
N g u y ễ n phong chức Tam b iện N ội các (sau này đã
c ù n g với Phan Đình P h ù n g p h ấ t cao cờ khởi nghĩa
chông thực d ân Pháp). N gười con ưu tú nhất của làng
Đ ông Thái là Phan Đình Phùng. Sau khi đỗ Đình
n guyên Tiến sĩ năm 1877, ông được phong chức N gự
sử Đô Sát viện. Phan Đình Phùng là nguời văn võ song
toàn, giỏi m ưu lược, sau n à y hưởng ứng Chiếu c ầ n
vương, ông đã dự ng cờ khởi nghĩa chông thực dân
P háp tại núi rừng Vũ Q uang (Hương Khê, Hà Tĩnh).
Từ năm 1954, sau m ấy chục năm dồn sức cho sự
nghiệp giải phóng d ân tộc nhữ ng người con trai, con
gái của làng Đông Thái từ các m ặt trận trở về lại treo
gươm , súng để vừa bắt tay vào xây dựng quê hương,
v ừ a khôi phục lại "Đ ạo học". N hiều người con của
làng Đ ông Thái đã khắc phục khó khăn, thiếu thốn để
học tập vươn lên nắm giữ đm h cao của tri thức. Làng
Đ ông Thái đã có 19 người con là Giáo sư, Phó giáo sư,
Tiến sĩ có nhiều công lao đóng góp trên các lĩnh vực:
Thiên văn học, vật lý học, hoá học, y học, dược học,
q u ả n lý kinh tế và v ăn học nghệ thuật...

37
môĩsốDHnHnHÂnĩiêuBÉ:

Phan Văn Nhã (1806 - ?)


Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam thì Phan
V ăn N hã sinh năm 1806, ngư ờ i xã Y ên Đ ồng, tổ n g
Việt Yên, huyện La Sơn, nay là làng Đ ông Thái, xã
T ùng Ả nh, huyện Đức Thọ, tm h H à Tĩnh, ô n g là bác
của Phan Đình Vận, Phan Đ ình Phùng, Phan Đình Dư,
Phan Đ ình T huật; chú của P han Đ ình Du; anh của
Phan Đình Tuyển và Phan V ăn Phong đ ề u là n h ữ n g
người đỗ đ ạt cao của làng Đ ông Thái.
Theo Việt Nam gia phả thì Phan V ăn N hã tự Thiếu
k h anh giữ chức H ồng lô, sung làm Quô"c sử q u á n
T oản tu. Ô ng tên chữ là C hính P hủ, h iệu là T hận Trai
tiên sinh Phan phủ quân (tên h u ý là Giám)... ô n g sinh
n ăm N hâm T uất (1802), mâ't v ào n g ày 15 th án g hai
n ăm Đinh Sửu (1877), hưởng thọ 76 tuổi, ô n g là người
kứih yêu cha m ẹ, nhường nhịn anh em , chuyên cần
học tập. Khoa M ậu Tý (1828), ôn g từ Tú tài đỗ C ử
nhân; khoa thi H ội năm Kỷ Sửu (1829), ông đỗ Phó

30
bảng. Trải qua các chức Tri p h ủ ph ủ Q ui Nhơn, Lang
tru n g Bộ Lễ, án sát Q u ản g Trị. Rồi vì phạm lỗi, bị
p h á t vãng đi A n G iang, sau được trên ban ơn chuẩn
cho khôi phục, b ổ làm G iáo thụ phủ Thọ Xuân, tm h
Thanh H oá, quyền Đốc học Thanh Hoá. Bởi có mẹ già,
ông làm đơn xin nghỉ đ ể về p h ụng dưỡng mẹ. Sau khi
mẹ m ất, ông lại được bổ làm Sử quán Toản tu, thăng
H ồng lô tự Thiếu khanh, nhưng vẫn sung làm Toản
tu. Được ít lâu, ông nghỉ dưỡng bệnh, rồi do có tuổi
mà m ất ở nhà.

Phan Tam Tỉnh (1816 - ?)


Phan Tam Tỉnh trước tên là N hật Tmh, sau vua
Thiệu Trị đổi tên là Tam Tửìh, tự Hy Tăng, người làng
Đ ông Thái, xã An Đ ồng, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
(nay là làng Đ ông Thái, xã Tùng Ánh, huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh).
N ăm Thiệu Trị th ứ n h ất (Tân Sửu, 1841), ông thi
đỗ Cử nhân, năm sau (N hâm Dần, 1842), đỗ Tiến sĩ
cập đệ. Ban đ ầu , ông được bổ làm H àn lâm Biên tu
(biên chép sử sách), sau đổi làm Tri phủ Gia Định.
N ăm Tự Đức th ứ n h ất (1847), ông được triệu về
kinh (H uế) làm G iám sát N gự sử. ở chức này, ông
"thường bàn việc, và từng xin ban khen những bề tôi
tu ẫn tiết cuôl đời Lê".
N ăm 1851, ông được câ't làm Thị giảng học sĩ ở
viện Tập hiền, sung chức Khởi cư chú ở tòa Kữih diên.

30
Làm m ột thời gian, ông được đ iều ra làm Á n sát sứ ở
Phú Yên vậ Bình Thuận.
N ăm 1853, vua Tự Đức chọn những người có v ăn
học về thi ở điện K hâm văn. Bài đôi sách của ông
được vua khen và chấm đ ứ n g đ ầ u vì có "kiến v ă n
rộng". G ặp lúc nhà vua coi trọng việc học, b è n cho
ông làm T ế tử u (tương đương chức H iệu trư ở n g
trường Đại học ngày nay) ở Quô"c Tử giám (H uế). Sử
nhà N guyễn chép: "Sĩ tử nghe thấy tranh nhau khuyến
khích cổ lệ, (đồng thời nhờ) Tam Tỉnh sấn lòng chăm
siêng dạy bảo, thi h àn h đ ề u có phép tắc, nên v ă n học
không có phù hoa m à thành đ ạ t được nhiều, sau này
ai cũng nói không lúc nào v ăn học được thịnh n h ư
lúc bấy giờ".
Sau đó, ông được cử làm Q uang lộc Tự khanh,
lĩnh chức Bô" C hánh sứ ở H ải Dương, rồi về triều làm
Tả thị lang Bộ Hộ.
N ăm 1862, nghe tin Tạ V ăn Phụng đang d ẫ n q u ân
uy hiếp thành tỉnh H ải Dương, nhà vua liền cử ông
làm Hộ lý Tổng đô"c H ải An (H ải Dương và Q u ản g
Yên). Đ ến đây, ông cùng với Trương Quô"c D ụ n g và
Đ ào Trí d ẫ n q u â n đ i đ á n h , lây lại được p h ủ Bình
Giang và thành tỉnh H ải Dương. Khi xét công trạn g ,
ông được th ăn g chức T u ần p h ủ , n h ư n g v ẫ n làm
nhiệm vụ cũ.
N ăm 1868. ông cùng với H ải p h òng sứ Phan Bân
xin đ ặ t các việc tuần phòng, nên sau đó đổ i ông làm
H ồng lô Tự khanh sung H iệp lý đ ể lo việc tu ần p h ò n g
ở ngoài biển. Đang làm thì ông bị ô'm p h ải xin về, rồi


m ất (không rõ năm).
Sử nhà N guyễn là Đại Nam chính biên liệt truyện
khen ông là người "nhớ dai, đoan trang kứi đáo, thanh
liêm chăm chỉ, có tiếng là lương mục".

Phan Đình Tuyển (? - ?)


D anh sĩ Phan Đ ình Tuyển sông vào đời Thiệu Trị,
quê ở làng Đ ông Thái, xã Yên Đ ồng, huyện La Sơn,
tỉnh H à Tĩnh nay là làng Đ ông Thái, xã Tùng Ảnh,
h u y ện Đức Thọ, tm h Hà Tĩnh.
N ăm Q uý M ão (1843), ông đỗ Cử nhân, năm sau
G iáp Thìn (1844) đỗ Phó bảng, làm Á n sát tm h Bắc
N inh, Phủ doãn Thừa Thiên, sau đổi ra làm Tán lý
m iền Bắc. O ng có d ự vào việc hợp soạn bộ Khâm định
Việt sử thông giám cương mục triều N guyễn (viết tắt là
Khâm định Việt sỉỉ).
Ô ng hy sinh trong khi chống ngoại xâm và được
thờ trong Đ ền Trung nghĩa (Hà Nội).
Ba người con ông là Phan Đình Vận, Phan Đình
P h ù n g , Phan Đ ình Thông đ ề u nổi tiếng anh tài, hy
sinh vì nước.

Phan Trọng Mưu (1851 - ?)


Theo V ăn bia đề danh Tiến sĩ ân khoa Kỷ Mão,
niên h iệu Tự Đức năm thứ 32 (1879) thì Phan Trọng
M ưu sinh năm 1851, người thôn Đông Thái, xã Yên

41
Đ ồng, tổng Việt Yên, h u y ện Sơn La, p h ủ Đức Thọ,
tủìh Hà Tĩnh, ô n g đỗ Cử n h ân năm Bứih Tý (1876),
từng làm Đốc học Q uảng Ngãi, sau ông tham gia cuộc
khởi nghĩa c ầ n vương chông P h á p củ a Phan Đ ình
P hùng, n ên bị đục tên trên bia Tiến sĩ.

Phan Huy Nhuận (1844 - ?)


Theo Văn bia đề danh Tiến sĩ â n khoa Kỷ M ão,
n iên h iệu Tự Đức n ăm th ứ 32 (1879) th ì Phan H uy
N h u ận sinh năm 1844, người th ô n Đ ông Thái, xã Yên
Đ ồng tổng Việt Yên, huyện La Sơn, p h ủ Đức Thọ, tủứi
Hà Tĩnh, ô n g đỗ Cử nhân năm M ậu D ần (1878), từng
làm Thị lang Bộ Công.
Còn theo gia phả họ Phan Ung Dữih thì ông tên húy
là H oán, thuộc đời thứ 12, chi thứ nhâ't. ô n g sũứi vào
năm Đmh M ùi (1847) (văn bia Tiến sĩ ghi ông sừih năm
Giáp Thìn - 1844), song thân ông là Tú tài Phan H uy Tế
(có tài liệu chép là Phan N hật Chương) và bà Phan Thị
Phương, người xã Việt Yên, con Tiến sĩ Phan Bá Đạt.
Bác ruột ông là Tiến sĩ Tổng đốc Phan Tam Tĩnh.
Ô ng đỗ Cử nhân năm M ậu D ần (1878). N ăm Kỷ
M ão (1879), niên hiệu Tự Đức th ứ 32, ông đỗ Đ ồng
Tiến sĩ xuất thân, đứ ng thứ 5 /6 Tiến sĩ tân khoa khi
m ới 36 tuổi. N gười anh họ ông là Phan T rọng Mưu
(con Phan Tam Tĩnh) đỗ đồng khoa, trên ông 3 bậc.
Trước đó 2 năm , m ột người anh bên ng o ại ông (anh
con dì) là Phan Đình Phùng đỗ Đ ình ng u y ên Tiến sĩ.

42
Q uan nghiệp của ông từng làm đến Bố chứih tỉnh
Phú Y ên rồi làm C ông bộ Thị lang. N ăm Thành Thái
th ứ 10 (M ậu T uất 1898), do tran h chấp với Á n sát
N g u y ễn Đôc N h u ậ n n ên bị triều đình p h ạ t giáng
xuống 4 cấp rồi về hưu.
Ô ng mâT n g ày 14 th án g m ộ t năm Tân H ợi (tức
n g ày 2 th áng 1 năm 1912), thọ 65 tuổi.

Phan Đình Phùng (1847 - 1895)


Phan Đình Phùng sinh ngày 4 tháng 4 năm Đinh
M ùi (6-6-1847) tại làng Đ ông Thái, xã Việt Yên Hạ,
tổ n g Việt Yên, h u yện La Sơn nay là làng Đông Thái,
xã T ùng Ả nh, huyện Đức Thọ, tm h Hà Tĩnh, vùng quê
n ổ i tiến g có nhiều người th àn h đ ạ t trên con đường
khoa b ả n g và làm quan, ô n g là con của Phó bảng
P han Đ ình Tuyển; là em ru ộ t các ông Tú tài Phan
Đình Thông, C ử nhân Phan Đình T huật và là arứi ruột
Phó b ản g Phan Đình Vận.
Phan Đình P hùng thi đỗ C ử nhân năm 1876; năm
sau, 1877, đỗ Đình nguyên Tiến sĩ, nên nhân d ân dịa
phương cũng gọi là cụ Đình; được bổ Tri huyện Yên
K hánh (N inh Bình), sau đó ông được đổi về kinh đô
H uế, sung chức N gự sử Đô sát viện.
Phan Đình P hùng nổi tiếng về tứih cương trực và
khảng khái. Tại triều, ông tô" cáo nhiều vụ khuât tâ"t,
n ên có lần được vua Tự Đức khen là "thử sự cửu bâ"t
p h át, p h ù n g Phùng nải phát" (việc này đã lâu không

43
ai p h á t giác ra, nay gặp P hù n g m ới p h á t hiện được),
nên càng nổi tiếng về tm h cưomg trực.
N ăm 1882, ông d â n g sớ đ à n hặc T hiếu bảo
N guyễn C hánh về tội "ứ ng b inh bâT biến" (cầm quân
ngồi yên không đi tiếp viện) khi giặc Pháp tiến công
thành N am Định. N ăm 1883, vì thấy Tôn T hất T huyết
p h ế Dục Đức lập H iệp H òa, ông đứ ng lên p h ả n đối,
và vì th ế bị Tôn ThâT T huyết đ u ổ i về làng.
N ăm 1884, Phan Đ ình P h ù n g được ph ụ c chức, rồi
được bổ làm Tham biện Sơn p h ò n g Hà Tĩnh.
Lúc này triều đình H u ế chia làm 2 phe chủ hoà
và chủ chiến, p hái chủ chiến do Tôn Thất T huyết cầm
đ ầu chuẩn bị lực lượng p h ả n công, nhưng cuộc tấn
công q u ân P háp vào th á n g 7-1885 bị thâ't bại. Vua
H àm N ghi xuất bôn đ ế n H ương Khê, Phan Đình
Phùng và các sĩ ph u yêu nước đ ế n yết kiến và ông
được giao cho chức Thông đô"c q u â n vụ đ ại th ần lãnh
đạo phong trào chông Pháp 4 tỉnh Thanh H oá, N ghệ
An, Hà Tĩnh và Q uảng Bình. C uộc khởi nghĩa b ắt đ ầu
từ cuôi năm 1885, nghĩa q u â n đã tự tạo được súng
trư ờ ng kiểu 1874 của P h áp , tra n g bị được hơn 500
khẩu với số đ ạn dược đ ầ y đ ủ , con số nghĩa q u ân lên
đến 1.000 người chia th àn h 15 q u â n thứ. Dựa v ào địa
th ế n ú i rừng hiểm trở đ ể p h ò n g thủ và chống giặc
càn q uét và đ án h thắng n h iều trậ n lớn ở Phủ Q uỳ,
C ầu G iát (10-1890), đ ồ n Q uy H ợ p - H ương Khê (3-
1891) thị xã Hà Tĩnh (8-1890) gây cho quân địch nhiều
tổn thâ”t, hoang m ang lo sỢ.
Kể từ sau năm 1893 q u â n P háp và tay sai N am

44
Triều tập tru n g lực lượng bao vây và tiến công khu
căn cứ Vũ Q uang, trong m ột trậ n càn Phan Đình
P hù n g đã bị thương sau đó hy sinh vào ngày 28-12-
1895 thọ 49 tuổi. Thi hài ông được chôn dưới chân núi
Q uạt nhưng tên Việt gian N guyễn Thân đã tìm được
mộ ông và cho q u ật lên đôT thành tro rồi nhồi vào
thuôc súng b ắ n xuông dòng sông La.
Phong trào chống Pháp của Phan Đình Phùng đã
khẳng định sự b iểu hiện hào h ù n g của tữih thần độc
lập d â n tộc, của cơ sở văn hóa cổ truyền d ân tộc.
Di tích m ộ Phan Đình Phùng nằm trên ngọn đồi
Nê Sơn, cạnh đường quốc lộ 8A, thuộc làng Đông Thái,
xã Tùng Á nh, h u yện Đức Thọ. Đây là nơi tưởng niệm
vị anh h ù n g d â n tộc, biểu tượng cho tinh th ần yêu
nước, từih thần d â n tộc trong phong trào chông thực
d ân Pháp xâm lược thời kỳ c ầ n Vương cuối thế kỷ 19.

Hoàng Ngọc Phách (1896 - 1973)


H oàng N gọc Phách tên huý là Tước, ông còn có
b ú t h iệu Song An, sinh năm 1896, quê ở làng Đ ông
Thái, xã T ùng Ả nh, h u yện Đức Thọ, tm h Hà Tĩnh.
Ô ng xuáT th â n trong m ột gia đình có tru y ền thống
h iế u học, y ê u nước, cha ông từ ng tham gia phong
trào C ần Vương. Thuở nhỏ, ông theo học chữ H án
rồ i học trư ờ n g P háp - V iệt. Sau khi tôT n g h iệp
T rường C ao đ ẳ n g T iểu học ở Vinh, ôn g ra học
T rường Bưởi, H à N ội.

45
V ào n ă m 1916, khi m ới học xong n ă m th ứ hai
trư ờ n g Bưởi, H o à n g N g ọ c P h á c h đã trú n g g iả i 8
tro n g 20 giải c ủ a cuộc thi thơ do Ban Q u ả n trị rạ p
Sán N h iên Đ ài tổ chức. C ũ n g tro n g th ờ i gian học ở
trư ờng Bưởi, ông tham gia và chỉ đ ạ o các p h o n g trào
b ã i khóa, th à n h lậ p H ộ i H ọc sinh tương tế chô^ng
b ọ n giám thị kh in h rẻ, bạc đ ã i học sinh ng h èo .
N ăm 1919, H o à n g N gọc P hách đỗ cả h ai b ằ n g
Cao đ ẳn g tiểu học Pháp và bằng T hành C hung. C ùng
n ăm đó, ông trú n g luôn kỳ thi tu y ển v ào trư ờ n g Cao
đ ẳ n g Sư p h ạm , Ban v ă n chương. N ăm cuôl khóa học
ở đ ây , H oàng N gọc Phách h o àn th à n h tiể u th u y ế t Tô'
Tăm. Với tác p h ẩm này, ông là người m ở đ ầ u cho nền
tiểu th uyết h iện đ ạ i V iệt N am .
N ăm 1922, H o à n g N gọc P hách tôT n g h iệ p Cao
đ ẳ n g Sư p h ạm và được b ổ làm giáo sư trư ờ n g T h àn h
C hung, N am Đ ịnh. Ba n ă m sau ôn g ch u y ển về H à
N ội làm T ổng T hư ký trư ờ n g Cao đ ẳ n g Sư p h ạ m .
Thời gian đ ó , p h o n g trà o đ ể tang P han C hu T rinh,
đ ò i thả Phan Bội C h âu d iễ n ra sôi nổi, n h ấ t là tro n g
học sinh, sinh viên. Do có liên can tới các h o ạ t đ ộ n g
chính trị này, H o àn g N gọc P hách bị đ ổ i xuô"ng K iến
An rồi xin ch u y ển sang d ạ y ở trư ờ n g C ao đ ẳ n g tiể u
học Bonnal H ả i P hòng.
Tại H ải P h ò n g , H o àn g N gọc P hách còn làm H ội
trư d n g h ộ i Trí Tri H ả i P hòng, ô n g th ư ờ n g tổ chức
n h ử n g b u ổ i d iễ n th u y ế t, tổ chức đ ộ i kịch mà đ ạ o
d iễn , d iễn v iên là th ầ y trò trư ờ n g Bonnal.
N ăm 1931, H o à n g N gọc P h ách lê n d ạ y h ọ c ở

4B
trư ờ n g C ao đ ẳ n g tiểu học L ạng Sơn. N ẩm 1935, ông
về d ạ y h ọ c ở Bắc N in h cho đ ế n n g à y T ổng khởi
n g h ĩa, ở đ â y , ôn g c ũ n g tham gia tổ chức H ội
K h u y ến học, H ộ i T ru y ền bá QuôTc n g ữ tỉnh và giữ
chức H ộ i trư ở n g hai tổ chức xã h ộ i này.
Sau cách m ạn g th án g Tám đ ế n năm 1959, H oàng
N g ọ c P h á c h g iữ n h iề u chức v ụ tro n g n g à n h giáo
dục: G iám đô"c học khu Bắc N inh kiêm H iệu trư ởng
trư ờ n g tru n g học H àn T huyên, G iám đô"c giáo dục
c h iến k h u 12, L iên k h u 1, G iám đôc Cao đ ẳ n g Sư
p h ạ m T ru n g ương, T hanh tra h ọ c vụ to à n quôc,
H iệ u trư ở n g trư ờ n g p h ổ th ô n g P han Đ ình P h ù n g ,
rồ i về b a n tu th ư Bộ G iáo d ụ c , tham gia n h ó m
n g h iê n cứ u Lê Q uý Đ ôn. N ăm 1959, ô n g ch u y ển
sang V iện v ă n học làm công tác n g h iên cứ u cho đ ến
n ă m 1963 thì n g h ỉ hưu.
N ăm 1973, ô n g qua đời, thọ 78 tuổi.

Hoàng Ngọc Hiến (1930 - 2011)


G iáo sư H oàng N gọc H iến sm h ngày 21 tháng 7
n ăm 1930 tại p h ố H àng N âu, thành p h ố N am Định
nhưng quê gốc ở làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện
Đ ức Thọ, H à Tĩnh. Sinh ra trong m ộ t gia đình có
tru y ền th ông N ho học kết hợp với Tây học, có lẽ vì
th ế m à ông có thể tiếp cận m ột cách dễ dàng những
kiến thức từ cả lý trí của phương Tây và trực giác
cũng n h ư tâm Imh của phương Đông.

47
Sau Kháng chiến chống Pháp, năm 1959, ông là m ột
trong năm người được cử đi làm luận văn tiến sĩ về
văn học N ga tại trường Đại học tổng hỢp M atxcova,
Liên Xô cũ; và ông cũng là m ột trong năm người đã
bảo vệ thàrứi công luận án Tiến sĩ v ăn học lúc bấy giờ.
N ăm 1979, ông thành lập Trường Viết văn N guyễn
Du và giữ cương vị H iệu trưởng trong nhiều n ăm liền
tại đây. Đ ến tận lúc gần cuô"i đời, ô n g còn cùng với
giáo sư N guyễn Khắc M ai th àn h lập n ên Trung tâm
N ghiên cứu M inh triết Việt năm 2007.
Ô ng cũng từng giảng d ạ y ở các trư ờng Đại học
Sư p h ạm Vinh, Đại học V ăn hóa. ô n g là người nổ i
tiếng nhiệt tình cổ suý cho sự đ ổ i m ới sáng tác văn
học ở Việt N am , có nhiều đóng góp quan trọ n g cho
nghiên cứu văn học, văn hóa và triết học, góp p h ầ n
đ ào tạo nhiều th ế hệ nhà văn, n h à thơ nổi tiếng và
nhà nghiên cứu, nhà giáo uy tm.
Tác phẩm chúìh: Ngọn gió thổi những chiếc lá bay
qua đại dWng, Tập ký; Maiacôpxki - Con người, cuộc đời
và thơ (khảo cứu. Tuyển dịch.1976); Văn học Xô Viết
đWng đại (khảo cứu, 1987); Văn học - học văn (tiểu luận
và p hê bình, 1992); Văn học và học văn (tiểu luận và
phê bình, 1997); Văn học gần và xa (tiểu luận, 2000);
Triết lí văn hóa và triết luận văn chương (Khảo cứu, 2006);
Văn hóa và văn minh - Văn hóa chân lý và văn hóa dịch
lý (2007); Hoàng Ngọc Hiền - Tuyển tập chọn lọc (2008);
Và m ột sô" công trình dịch th u ậ t có giá trị khác.
Ông mâ"t do bạo bệnh vào ngày 24 tháng 1 năm 2011.

40
n j « --------- 3 c--------- n _ n

: HẠ YÊN QUYẾT
1 [cnuGÉ.Hnnội]
U ~Ln_^ t I.I .1 n ỉ [j

^ à n g H ạ Yên Q uyết là tên chữ H án của làng Cót


hay Kẻ Cót, là v ù n g cửa ngõ yết hầu của kinh thành
T hăng Long xưa. L àng C ót nay thuộc phườ ng Yên
H òa, C ầu Giấy, Hà N ội. Kẻ Cót có địa th ế thiên nhiên
râl đẹp - nằm ngay cửa ngõ phía Tây của Kinh thành
cổ, là nơi giao lưu trực tiếp giữa vùng ven đô với nội
thành được cách bởi con sông Tô Lịch.
Con sông Tô Lịch, m ột phân lưu của sông Nhị Hà
(sông H ồng) chảy d ài từ Hà K hâu (khu H àng Buồm,
chợ G ạo ngày nay) qua Bưởi, N ghĩa Đô xuông hết
v ù n g Yên H òa để rồi xuôi về đ ấ t Thanh Trì đ ổ vào
con sông N huệ ở H à Liễu (Thường Tm) rồi thông sang
sông Đáy đã tạo cho vùng đất cổ m ột sắc thái trữ tình
và d u y ên dáng. C âu ca dao xưa n h ư còn đọn g lại
trong lòng người vẻ thơ m ộng của m ột thời xa xưa ấy:
"Nước sông Tô vừa trong vừa m á t/ Em ghé thuyền
đỗ sát thuyền anh"

49
Yên H òa là m ột v ù n g đ â t cổ, cái tên Kẻ C ót đã
chứng tỏ điều đó, tên gọi n ày đã được các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ học, sử học, khảo cổ học và d â n tộc
học khẳng định về sự ra đời và tồn tại của làng từ
trước thời Bắc thuộc. Thêm vào đó, ngôi mộ cổ b ằn g
th ân cây khoét rỗng cùng nh iều di v ậ t có n iên đ ạ i
cách n g ày nay hơn 2.000 n ă m được khai q u ậ t n ăm
1978 ở trong lòng sông Tô Lịch thuộc địa p h ậ n của
làng đã chứng m inh người Việt cổ đã từng ở đ â y đ ể
xây d ự n g xóm làng. Đ ến th ế kỷ th ứ 6 nhà Tiền Lý
cũng đã về đ ây xây d ự n g đ ồ n luỹ trên bờ sông Tô đ ể
chông giặc Lương xâm lược (cho nên ở khu vực Dịch
Vọng, Yên Hồ hiện nay có nhiều nơi thờ các vua Lý
N am Đế, Lý Phật Tử cùng các tướng của hai vị như:
Lý Thiên Bảo, Triệu C hí T hành...).
Trong sô" các làng khoa bảng của Thăng Long - Hà
N ội, Yên H òa là m ột làng có nhiều thành tự u về khoa
cử (cả đại khoa, trung khoa và tiểu khoa). C hẳng th ế
mà vùng Tây kữih thành có câu ca về "tứ danh hương"
(Mỗ, La, Canh, Cót). Làng Hạ Yên Q uyết, từ xa xưa
coi việc khuyến học là m ộ t trong n hữ n g công việc
trọ ng đại của cộng đ ồ n g làng xã, quê hương: làng
dành ra 3 m ẫu ruộng "Độc thư điền" (ruộng học), cùng
100 quan tiền, để làm phần thưởng cho người đỗ Tiến
sĩ thời xưa. Ngoài ra theo lệ làng, dân làng còn thưởng
ruộng cho cả những người đỗ cử nhân nho học, tú tài
nho học. N hững người đang đi học không p h ải phu
phen tạp dịch. Trong đình làng có ba bậc chiếu, trong
đó chiếu nhất dành cho các bậc khoa trường, chức sắc...

50
N gay từ b u ổ i đ ầ u dự ng nước, các triều đ ại Lý -
Trần đã chăm lo việc học hành khoa cử đ ể tuyển chọn
người tà i g á n h vác việc nước. Quê hương H ạ Yên
Q uyết thời T rần có H oàng Q uán Chi đỗ Đệ n h ất giáp
kỳ thi Thái học sinh khoa Q uý Dậu, niên hiệu Q uang
Thái th ứ 6 (năm 1393), đời vua T huận Tông, được
tham d ự triều chm h làm tới chức Thẩm hình viện, mở
đ ầ u cho n ền khoa cử của đ ấ t Yên Q uyết xưa kia và
phường Yên H òa ngày nay. Cụ cũng là người đỗ đại
khoa đ ầ u tiên của h u yện Từ Liêm. Đến triều nhà Hồ,
m ặc d ù chỉ tồn tại có 7 năm với hai triều vua nhưng
cũng đã kịp tổ chức hai kỳ thi tuyển. Và ngay trong
khoa thi đ ầ u tiên, khoa thi Thái học sinh năm Canh
Thìn, n iên h iệu T h án h N guyên (năm 1400) đời Hồ
Q uý Ly, làng C ót có cụ N guyễn Q uang M inh đỗ Thái
học sinh, làm quan tới chức N ội thị hành khiển, cùng
khoa với các darứi nho nổi tiếng m ột thời như N guyễn
Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ M ộng N guyên.
Khoa thi n ăm Kỷ Sửu (1469) đời vua Lê Thánh
Tông, ở làng có cụ N guyễn N hư U yên đã ứ ng thi và
đỗ Đệ nh ị g iáp T iến sĩ xuất thân (H oàng giáp). Sau
đó cụ làm quan tới chức Lại bộ Thượng thư, C hưởng
Lục Bộ, kiêm T ế tử u (H iệu trưởng) QuôTc Tử giám .
Từ đ â y k ế tiế p n h a u trong các d ò n g họ, các sĩ tử
m iền quê Yên Q u y ết thi nhau lều chõng đ ể đ u a tài
trong các khoa thi của các triều Lê sơ, triều M ạc và
triều Lê T rung hưng. Tiêu biểu có dòng họ 5 đời nôl
tiếp n h au bảng v àn g bia đá n h ư d ò n g họ cụ H oàng
g iáp N g u y ễn N h ư U yên, các con, cháu, ch ắt của cụ
là: N g u y ễn X uân N ham , Tiến sĩ năm 1499; N guyễn

51
K hiêm Q uang, T iến sĩ n ă m 1523; N g u y ễ n N h ậ t
T ráng, Tiến sĩ n ăm 1595; N g u y ễn V ĩnh T hịnh, Tiến
sĩ n ăm 1659.
Truyền thông h iếu học, khoa bảng của Y ên Hòa
luôn trường tồn và gắn kết với n hữ ng di tích lịch sử
v ăn hóa của làng như: đình, đền, nhà th ờ h ọ ... nơi
lưu giữ và p h á t h u y nhữ ng truyền thống v ă n h ố của
làng. Việc p h ụ n g thờ các vị tổ của d ò n g họ th ể hiện
tấm lòng ngưỡng m ộ tri ân của người d â n với n hữ ng
người có công với đ ấ t nước và với tổ tiên.

52
lỉìỌ ĨSỐ D H nH nH H nĩlCU BÉ:

Hoàng Quán Chi (? - ?)


H oàng Q uán Chi (chưa rõ năm smh, năm m ất) là
vị khai khoa đ ầ u tiên của làng Hạ Yên Q uyết. Cụ đỗ
th ủ khoa Thái học sinh khoa Q uý D ậu, năm Trần
T h u ận Tông Q uang Thái thứ 6 (1393), làm quan đến
Thượng th ư bộ H ình và bộ Lễ.
Theo H ội đồng dòng tộc, họ H oàng & H uỳnh Việt
N am thì: "Cụ Thái Tổ làm quan Thượng thư đời Trần,
cụ họ H oàng tên là Q uán Chi, tự là cội rễ ở tại làng
H ạ Yên Q uyết, h u yện Từ Liêm, Phủ Q uốc Oai, từih
Sơn Tây.
N ăm Q uý D ậu, n iên hiệu Q uang Thái th ứ sáu
(1393) đời vua T huận Tông nhà Trần, Cụ đi thi khoa
Thái Học sinh, được đỗ đ ầ u làm quan đ ến Thẩm hình
V iện, H ình bộ T hượng thư, tặng phong làm Lễ bộ
T hượng thư rồi được về hưu. Cụ m ất ngày m ồng 9
th án g m ười m ột, táng ở xứ Thiên Tôn.

53
Họ ta tưcíng truyền rằng: Cụ Thượng sinh ra được
b ố n con trai, cho ở bôn giáp b ên Đ oài (làng ta có tám
giáp); b ô n g iáp b ê n Đ oài là: T iền Nhâ't, T iền N hì,
Đ ồng Thượng và Đ ồng Hạ.
Trong b ản Lịch triều đăng khoa lục có chép: "Tục
tru y ề n rằng: tả n g sáng, th â n m ẫu cụ đ i g á n h nước
(bản phả Đ ôn c ẩ n có nói là gánh nước ở giếng thiên
tôn), bỗng thấy ngôi sao sa vào th ù n g nước bèn lâ'y
giải bịt m iệng th ù n g lại, đem về uô"ng m ộ t m ình, rồi
ra có thai sinh được C ụ".
Tiến sĩ ở h u y ệ n Từ Liêm , chm h cụ khai khoa
trước n h ấ t (xét lời bổ d i trong v ă n phả h à n g hu y ện ,
thì còn có hai cụ Tô H iến T hành và Đỗ Kừih Tu đ ều
đ ậ u khoa M inh Kinh triều nhà Lý. Đ ây theo b ản đăng
khoa lục, n ên kể cụ là người khai khoa tiến sĩ trong
h u yện ta).
Trong q u yển Bạch liên khảo chí (do ô n g N g u y ễn
V ăn Địch người làng ta làm ra) có chép: "C ụ H oàng
Q uán Chi theo điềm sao sáng m à ra đời, hay chữ hơn
cả thiên hạ. H ồi năm Q uang T hái nhà T rần, thi đỗ
đ ầu , đi trước m ở khoa Tiến sĩ cho h u yện ta".

Nguyễn Như Uyên (1 4 3 6 - ?)


T ế tử u Q uốc Tử giám N g u y ễn N h ư U yên sinh
n ăm 1436 tại làng H ạ Y ên Q u y ết (tên n ô m là làng
Cót), H à N ội, là T hủy tổ và cũng là người m ở đ ầu
cho truyền thống hiếu học, khoa bảng của d ò n g họ

54
N guyễn ở H ạ Yên Q uyết.
Khoa thi Kỷ Sửu, năm Q uang Thuận thứ 10 (1469),
N g u y ễn N h ư U yên đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (H oàng
giáp), là người khai khoa Tiến sĩ của dòng họ N guyễn
ở Hạ Yên Q uyết. Sau đ ó, ông từng làm quan tới chức
Thượng th ư Bộ Lại, C hưởng lục Bộ Sự (đứng đ ầ u 6
Bộ) kiêm T ế tử u Quô"c Tử giám (Hiệu trưởng trường
Q uốc Tử giám ), N hập thị Kinh Diên.
Theo các tư liệu n h ư Bạch Liên khảo ký, Đăng Khoa
bị khảo, Đại Việt sử ký toàn thư ửù N guyễn N hư U yên
đã trải qua nhiều chức d an h quan trọng dưới triều Lê
n h ư Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, chưởng Lục bộ
sự, Quô"c Tử giám T ế tử u (bảng ghi danh sách các Tế
tửu, Tư nghiệp Quô'c Tử giám có tên ông được treo
trang trọng ở nhà Thái học Q uốc Tử giám ), N h ập thị
Kừih diên, hàm chánh n h ấ t phẩm , khi về trí sĩ được
phong Thái bảo Liêm q u ậ n công.
K hông chỉ là người khai khoa m ột dòng họ Tiến
sĩ, với tài kừih bang tế thế, N guyễn N hư U yên còn là
đ ạ i th ần trụ cột triều đình, có nhiều công lao giúp
vua trị nước. Lê Thánh Tông nổi danh sử sách là dâng
m inh quân, với 38 năm trị quốc, xung quanh nhà vua
n h iều bề tôi giỏi, h à n g n g u y ên lão đ ạ i th ần có
N guyễn Xí, nhữ ng trí thức trẻ có Thân N hân Trung,
Đỗ N h u ận, Lương T hế Vinh,... N guyễn N hư U yên là
m ột trong sô" đó.
Trong nhữ ng thành tự u vẻ vang mà vua Lê Thánh
Tông xây dự n g n hư giữ yên biên thùy, m ở m ang bờ
cõi, xây dự ng luật H ồng Đức, vẽ bản đồ H ồng Đức,

55
đ ào tạo các bậc h iền tài - "n g u y ên khí quô"c gia"...
N guyễn N hư U yên đ ề u có công lao.
N ăm 1479, tù trư ở ng xứ Bồn M an là c ầ m C ông
làm phản, xui người Lão Q ua sang đ án h nước ta. Vua
Lê T hánh T ông đ iề u đ ộ n g q u â n sĩ chinh p h ạt...
N guyễn N hư U yên được vua phong chức Ký lục có
nhiệm vụ theo dõi ghi chép: "Trên từ tướng soái, dưới
xuống quân lính, người nào chăm chỉ được việc hay
lười biếng... Kẻ nào n h ú t nhát, hết thảy p h ải ghi cho rõ
đ ể tâu lên". 5 đạo quân ra trận đã toàn thắng trở về.
Với kiến thức uyên thâm của mình, N guyễn N h ư U yên
được vua phong làm T ế tử u Q uốc Tử giám (H iệu
trưởng); N hập thị Kinh Diên (được vào cung giảng sách
cho vua).
N guyễn N hư U yên là người có công trị nước và
đào tạo nhân tài trong thời kỳ thịnh trị n h ấ t của ch ế
độ phong kiến.
H iện chưa rõ N g u y ễ n N hư U yên mâ't n ăm nào,
chỉ biết cuôl đời ông làm quan tới chức Thượng thư
Bộ Lại, C hưởng lục Bộ Sự (đứng đ ầ u 6 Bộ). Khi về trí
sĩ (nghỉ hưu), ông được phong tước Thái bảo, Liêm
Q uận công....

Nguyễn Nhật Tráng (? - ?)


N guyễn N h ật T ráng là cháu nội N guyễn K hiêm
Q uang, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (H oàng giáp)
khoa  t M ủi - n iên h iệ u Q uang H ưng n ăm th ứ 18

50
(1595). Theo văn bia Quô"c Tử giám thì đây là khoa
Tiến sĩ th ứ 5 đời Trung H ưng, m ột khoa thi lớn, sĩ tử
về Bộ Lễ d ự thi có trên 3.000 người, nhưng chỉ lâ'y đậu
có 6 người (trong đó có hai vị H oàng giáp là N guyễn
N h ậ t T ráng và N gu y ễn Thực). N guyễn N hật Tráng
làm quan tới chức Đô cấp sự trung, Tá lý công thần,
Đặc tiến Kim tử V inh lộc đ ại phu. ở Trung Kính
Thượng trước đ ây có ngôi m iếu thờ ông gọi là Q uán
ông N ghè.
Theo chính sử, n ă m C anh Tý, n iên h iệu T h u ận
Đ ức (1600), khi P han N g ạ n và Bùi V ăn Khuê làm
p h ả n , Vua Lê Kính T ông p h ải quay về Thanh H oá,
N g u y ễ n N h ậ t T ráng xin về quê chăm sóc cha mẹ.
Vì bị coi là trá i lệnh vua, không theo xa giá n ên ông
bị giết. Sau vua n ghĩ lại, thâ'y N guyễn N h ậ t T ráng
bị g iết oan, lâ'y làm thương tiếc, tru y phong là Tá lý
công th ần .
Theo gia phả và lưu truyền d â n gian thì ông bị
giết vì m ột lần, ông d â n g sớ xin về thăm mẹ ô"m.
Trong triều có kẻ ghen g hét ông nên được dịp tâu
rằng, ông tự tiện bỏ về nhà.
V ua n ô i g iậ n , ra lệ n h cho m ộ t tổ"p lính đ u ổ i
theo đ ể b ắ t. Khi N g u y ễ n N h ậ t T rá n g về đ ế n bờ
sô n g Tô Lịch, g iá p c á n h đ ồ n g là n g T rung K ính
T hư ợ n g , th ấ y to á n lính chạy lại với tấ m b iển "Tiền
trả m h ậ u tấu ", b iế t c h u y ệ n k h ô n g là n h , b è n rú t
gươm tự vẫn. L át sau, lạ i có v iên tư ớ ng phi n g ự a
đ ế n tru y ề n lện h c ủ a v u a k h ô n g được chém ô n g vờ
đã tìm th â y tờ sớ xin p h é p n g h ỉ c ủ a ô n g thì đã

57
m u ộn! V ua Lê th â y ô n g bị o an b è n x u ô n g c h iế u
m inh oan, tru y p h o n g làm Đ ại vương, T h ư ợ n g đ ẳ n g
p h ú c th ầ n và cho p h é p là n g T rung K ính lậ p m iế u
thờ n g ay tạ i nơi ô n g h o á.

5Q
n r* J •• “Lp

[ LÀNG ]
; HƯ0 NGMẠC :
[Tùís(in.BiịcninH]
u l n _____ 3 r n j u

í:;^ ư ơ n g M ạc (còn có tên là làng Me) hiện nay là


tên làn g mà cũng là tên xã, thuộc thị xã Từ Scfn, tỉnh
Bắc N inh. Phía Bắc làng g iá p xã V ăn M ôn, Yên
Phong; phía T ây g iáp xã V ân H à (Đ ông A nh, Hà
N ội); phía N am giáp xã Phù Khê (cùng huyện); phía
Đ ông giáp thôn M ai Đ ộng (cùng xã) và giáp xã Tam
Sơn (cùng huyện).
H ương Mạc trước đ ây còn gọi là Cổ Mạc phường.
Đ ến đời Trần thì đổi tên là T rung Mi phường: gồm 12
th ô n là: N gô Tiền, N gô Trực, Tây ứ n g , Bảo Tháp,
Đ ông Tiến, Thọ Triền, Phú H ậu , Thôn Vân, Thôn
N hiễm , Thôn N ùi, Thôn N ga, Thôn Tập. Đời Lê lúc
đ ầ u lại đổi Trung Mi phường th àn h ô n g Mạc xã, sau
lại chia thành 2 với các thôn N gô Tiền, N gô Trực, Tây
ứ n g , Bảo Tháp, Đ ông Tiến Thọ Triền, còn các thôn
khác gọi là làng H oa Thiều. Đ ến triều N guyễn đời
vua M inh M ệnh thì ô n g M ạc đ ổ i Hương Mạc, Hoa
Thiền đổi là Kim Thiều (tên N ôm là làng Mức) và lúc

50
ấy H ương M ạc thuộc tổ n g N ghĩa Lập, h u y ện Đ ông
N gàn, phủ Từ Sơn trâ n Kinh Bắc - m ột trong tứ trân
p h ên d ậ u của km h th àn h Thăng Long.
H ương Mạc là nơi có nền giáo dục p h á t triển từ
râT sớm , có truyền thống h iếu học tiêu biểu, đã sản
sinh ra nhiều danh n h â n khoa bảng nổi tiếng của đâ't
nước. Nơi đây đặc biệt có nhiều vị râ't tài hoa lỗi lạc
và từng nắm giữ nhiều chức quan trọng trong triều
đ ìn h thời phong kiến trước kia. Ví n h ư ông N guyễn
G iản Thanh, thi đ ậu T rạng nguyên khoa M ậu Thìn
(1508), hai lần đi sứ sang Trung Quô'c, tương truyền do
có tài ứng đôì nên được vua nhà M inh phong là Trạng
nguyên; ông Đàm Thận H uy đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến
sĩ khoa Canh Tuất (1490) là hội viên hội Tao Đàn và
được vua Lê Thánh T ông từ ng n gự b ú t khen rằng:
"Thiên hạ đệ n hất thi n h ân " (là người giỏi thơ n h ất
trong thiên hạ), ô n g còn là thầy dạy cho nhiều vị đỗ
đại khoa trong vùng (đặc biệt khoa thi năm M ậu Thìn
(1508) ông đã đào tạo được 3 vị đỗ đại khoa, chiếm đủ
tam khôi đó là ông N guyễn G iản Thanh đỗ Trạng
n g uyên, ông H ứa Tam Tm h đỗ Bảng n h ã n và ông
N guyễn H ữu N ghiêm đỗ Thám hoa. Còn như ông Đàm
C ông H iệu (là cháu 6 đời của Đàm Thận Huy) nổi tiếng
và là thầy dạy học của A n Vương Trinh Cương...
T ruyền thông văn h iến m à nổi b ật là khoa cử và
con đườ ng làm quan của người H ương M ạc th ật hiếm
thấy, nó th ật xứng đ á n g với lời ca ngợi của người xưa
" đ ấ t m ực thơm có tiếng của vùng".


mộĩsốDAnHnHnnĩiêuBÉ:

Đàm Thận Huy (1462 - 1526)


Đ àm T hận H uy sinh năm 1462, hiệu Mặc Trai,
sinh ra trong m ột gia đình có truyền thông hiếu học
và khoa cử ở làng ô n g Mặc, huyện Đ ông N gàn, nay
thuộc xã Hương Mạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Khoa thi năm C anh Tuất, H ồng Đức thứ 21 (1490)
Đ àm Thận H uy tham d ự kỳ thi H ội đã trúng cách,
khi vào thi Đình đã đỗ Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuâ4
thân. Khoa thi ấy, vua Lê Thánh Tông thân ra đề văn
sách; Q uan Binh bộ Thượng thư Lê N ăng N hượng làm
Đề điệu; Q uan N gự sử đài Phó đô N gự sử Quách H ữu
N ghiêm làm G iám thí; Đ ông các Đ ại học sĩ Thân
N hân Trung và Lại bộ Thượng thư N guyễn Bá Ký làm
Độc quyển.
Sau khi thi đỗ, Đ àm Thận H uy ra làm quan phụng
sự đ ất nước, trải sáu đời vua Lê: Lê Thánh Tông, Lê
H iến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy M ục, Lê Tương Dực,

BI
Lê C hiêu Tông. Vì là ngư ờ i nổi tiếng giỏi thơ, n ê n
năm Ấ t m M ão (1495) ông tham gia hội Tao đ à n N hị
thập b át tú và được v u a Lê Thánh Tông ban khen là
"Thiên hạ đệ n h ất d an h thi nhân" (là người giỏi thơ
nhâT trong thiên hạ).
N ăm 1510 đời Lê Tương Dực, ông đã từ ng được
triều đ ình cử đ i sư sang T rung H oa thời nhà M inh.
Ô ng làm quan đ ế n chức T án trị công th ầ n Lễ bộ
Thượng thư, TU Lâm C ục kiêm H àn lâm viện thị độc
trưởng H àn lâm viện sư, Thiếu bảo N hập thị kinh d iên
tước Lâm X uyên bá.
N ăm 1522, Lê C hiêu T ông trô n khỏi tay q u y ề n
th ần M ạc Đ ăng D ung ra ngoài tập hỢp tướng sĩ các
trấn cần vương, ông n h ận được huyết chiếu lui về Bắc
G iang mộ b inh khởi nghĩa. Đ àm T hận H uy và các
tướng tập hỢp được 6.000 nghĩa binh ở v ù n g Bắc
Giang chông lại M ạc Đ ăng D ung đ ể giúp C hiêu Tông.
Đã có lúc các lực lượng cần vương áp chiếm được
ưu th ế trước họ M ạc, n hư ng vì sau đó nộ i bộ các
tướng lại chia rẽ tranh giành quyền lực. Tướng T rịnh
Tuy cướp lấy vua C hiêu Tông chạy vào Thanh H óa.
Các tướng chông họ M ạc ở Bắc Bộ bị chia cắt và cô
lập dần. N ăm 1525, vua C hiêu Tông bị Đ ăng D ung
b ắt từ Thanh H óa m ang về giam lỏng ở kinh th àn h .
Đ àm Thận H uy cầm q u ân ở Bắc Giang, v ì'q u ân ít, th ế
yếu ông đã không địch nổi họ Mạc nên đã tu ẫ n tiết
ở v ù n g Y ên Thế, Thương Hạ (Bắc Giang). N ăm đó
Đ àm T hận H uy 64 tuổi.
Sau n ày nhà Lê T rung H ưng xếp ông vào h à n g

B2
tiết liệt, Dực v ậ n tán trị công thần, tước phong Thiếu
bảo Lâm X uyên H ầu, cho lập m iếu thờ tự ở làng và
ban cho b iển đề là "Tiết nghĩa từ " cho quê hương
H ương M ạc m ãi m ãi thờ phụng.

Nguyễn Giản Thanh (1482 - ?)


N g u y ễn G iản Thanh người làng Hương Mạc (làng
Me), h u y ện Đ ông N gàn, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (nay
là xã H ương M ạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
N guyễn G iản Thanh đỗ Trạng nguyên khoa M ậu Thìn
- Đoan K hánh th ứ 4 (1508) đời Lê Uy Mục. C ùng khoa
với ông có H ứa Tam Tủứi đỗ Bảng nhân, N guyễn H ữu
N ghiêm đỗ Thám hoa.
N g u y ễn G iản Thanh là con trai cùa Tiến sĩ
N guyễn G iản Liên, nhưng cha m ất sớm. N gay từ nhỏ,
G iản Thanh đã có phong tư tài m ạo sáng sủa, thông
m inh đĩnh ngộ.
Sau khi đỗ đạt, ông được tin d ù n g giao cho chức
H àn Lâm viện thị th ư kiêm Đ ông các Đại học sĩ thời
Lê. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc và được cử
đi sứ sang nhà M inh đ ể cầu pho n g cho Mạc Đ ăng
Dung. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lễ
kiêm H àn Lâm viện thị độc, C hưởng viện sự, tước
Trung Phụ bá. Khi mâT được ban cho tước hầu.
N g u y ễn G iản Thanh là tác giả cùa bài Phụng
Thành xuân sắc phú. Theo gia phả họ Đàm (do Tiến sĩ
Đàm T hận H uy chép) thì đây là m ột bài phú khoa cử

B3
làm vào khoa M ậu Thìn (1508), chính nhờ tác phẩm
này m à N gu y ễn G iản Thanh được chọn làm T rạng
nguyên. P h ụ n g T hành, tức Phượng th àn h . K inh đô
T hăng Long từ đờ i T rần đã có thêm tê n là P h ụ n g
Thành. C hỉ với bcài phú này, N guyễn G iản Thanh đã
tỏ ra m ộ t tài năng thi ca xuất chúng.
N gày nay ở xã H ương Mạc, Từ Sơn, nơi có Trạng
n g u y ên từ (Đền thờ T rạng n g u y ên N g u y ễn G iản
Thanh), phía trước đ ền v ẫn còn m ột ngôi nhà cổ lợp
ngói, trê n đ ỉnh nóc có bôn chữ Phụng Thành d an h
tru y ề n (Bài p h ú về Phụng thành nổi tiếng, còn lưu
tru y ền m ãi). Bài ph ú có nh iều đ o ạ n tả cản h T hăng
Long trá n g lệ:
Điện ngọc thâm nghiêm
Cửa vàng ngang ngửa
Liễu Chương Đài mây ngọc dờn dờn
Đào thượng uyển má hồng rờ rỡ...
về chuyện học hành, khoa cử của ông có giai thoại
như sau:
Bâ'y giờ Tiến sĩ Đàm Thận H uy nổi tiếng hay chữ,
là th àn h viên của Tao Đ àn N hị thập b át tú của vua
Lê T hánh Tông, cáo quan mở lớp dạy học trò. N guyễn
G iản Thanh m ay m ắn được nhận vào học.
M ột hô m học xong thì trời đ ổ m ưa, học trò không
về được. N h ân đ ây cụ N ghè ra câu đôl th ử tài học
trò của m ình, v ế đôi ra là: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu
khách (Mưa không khóa cửa mà giữ được khách ở lại).
M ây trò đ ề u đưa câu đôi d ân g lên thầy, tro n g đó có

B4
câu của G iản Thanh: sắc bất ba đào dị nịch nhân (Sắc
đ ẹp không p hải sóng gió mà làm đắm được người).
Cụ N ghè tỏ ý khen rấ t tài hoa, đôl râT chỉnh, sau
n ày đỗ đ ạt, nhưng cậu học trò này có tính đa tình,
say m ê sắc đẹp.
Sau đ ó, vào Khoa thi đ ại khoa năm M ậu Thìn đời
v ua Lê Uy M ục, các quan giám khảo chấm được hai
ngư ờ i xuâT sắc n h ấ t là H ứ a Tam Tỉnh (người làng
V ọng N g u y ệ t (tục gọi là làng N gọt), h u y ện Yên
Phong, Bắc N inh) và N guyễn G iản Thanh. Cả hai ông
đ ề u n g ang sức cân tài, xem ra N guyễn G iản Thanh
V 'ã n hay, bay bổng hơn, nhưng H ứa Tam Tửih thâm
trầm , sâu sắc hơn. Các quan trường có ý chọn Tam
Từửi đứ n g đầu, nhưng vẫn còn khâu cuối cùng do nhà
vua trực tiếp sát hạch.
Tại b u ổ i sát hạch, có cả H oàng thái hậu, mẹ nuôi
củ a v u a. H oàng th á i h ậ u th ấy H ứa Tam Tỉnh lù n
th ấp , đen đ ủ i, trong khi N guyễn G iản Thanh người
cao ráo, trắn g trẻo thư sinh, bà chỉ ngay mà nói: "Ô,
đ â y h ẳ n là Trạng nguyên tân khoa. Xứng đán g quá
đi rồi!".
V ua cũ n g đã xem các v ă n b ài của cả 2 người và
th ấ y b à i củ a H ứ a Tam Tỉnh n h ỉn h hơn cả, nhưng
th á i h ậ u làm cho bị đ ộ n g , đ à n h cho tiến h à n h thêm
m ộ t b ư ớ c th ử tà i n ữ a . N hà v u a ban g iấy b ú t và
p h á n b ả o cả 2 ngư ờ i làm b à i ph ú Phụng thành xuân
sắc (tả cản h sắc m ù a x u ân ở th à n h Phượng) ngay
ta i chỗ.

B5
H ứ a Tam Tm h uyên th âm làm m ộ t bài p h ú b ằn g
H án văn. Trong khi đó G iản T hanh p h ó n g b ú t v iết
b à i p h ú b ằn g tiếng N ôm , vô"n là th ế m ạn h của m ình.
Q uả nhiên, nghe Tam Tm h trầ m trầ m đọc b ài p h ú ,
th á i h ậ u không h iểu gì cả. Đ ến lượt G iản Thanh cất
tiến g đọc sang sảng, tả cản h p h ồ n hoa của chôn đ ế
đ ô có n h ữ n g đ o ạ n râT bay bướm , T hái h ậ u nắc nỏm
khen hay. Bởi vậy, vua Uy M ục b è n chấm cho G iản
T hanh đỗ Trạng.
C ũng từ đó, trong d ân gian lưu tru y ề n câu "Trạng
Me đè T rạng Ngọt".

BB
---------3 c--------- « | _ p

LÀNG ]
p KIM ĐỔI :
[ [ĩP.BÌcninH]
□ ~ ln _ _ _ 3 c_____ r j ~ u

•=>^ng Kim Đôi nằm bên bờ nam sông c ầ u , thuộc


xã Kim C hân, huyện Q uế Võ, tủih Bắc Ninh (nay thuộc
thành p h ố Bắc N inh, tủứi Bắc Nữứi). Trước đây, làng
Kim Đôi còn có tên gọi d ân gian là Dủi Quan. Có tên
gọi đó là do d ân làng sông bằng nghề dủi tôm dủ i cá
nhưng vẫn có nhiều người đỗ đ ạt làm quan. Kinh Bắc
là nơi smh thành, nuôi dưỡng, cung cấp số lượng lớn
nhân tài cho đ ất nước trên nhiều lĩnh vực. Đóng góp
vào truyền thống đáng tự hào đó phải kể đến làng Kim
Đôi với 21 vị đỗ Tiến sĩ qua các triều đại phong kiến.
Tạo dự ng n ê n kỳ tích về khoa cử cho làng Kim
Đ ôi p h ả i kể đ ế n 2 dòng họ: Phạm , N guyễn. Họ
N guyễn ở Kim Đ ôi là dòng họ duy nhâ't tại Việt Nam
có tới 13 đời liên tiếp đỗ đ ại khoa, trong đó có 9 anh
em, chú cháu cùng làm quan đ ại thần m ột triều. Ca

07
ngỢi tài năng của con cháu họ N guyễn làng Kim Đôi,
Vua Lê T hánh Tông đã ban cho 8 chữ vàng: "Kim Đôi
gia th ế chu tử m ãn triều" (dòng họ Kim Đôi áo đỏ áo
tía đ ầy triều). 2 vị Tiến sĩ là N guyễn N h ân Bỉ (có tài
liệu ghi là Bị) \'à N guyễn N h ân Phùng còn tham gia
H ội Tao đ àn do vua Lê Thánh Tông làm chủ hội, được
khắc tên vào bia V ăn M iếu Thăng Long.
M ột đ iều gây ngạc nhiên khi tìm hiểu về tru y ền
thống khoa bảng tại làng Kim Đôi đó là có gia đình 5
anh em ru ộ t đ ề u đỗ Tiến sĩ và làm quan dưới triều
vua Lê T hánh Tông, giữ n hữ ng trọng trách Quô'c gia
(N guyễn N hân Bỉ, N guyễn N hân Thiếp, N guyễn N hân
Phùng, N guyễn N hân Đạc, N guyễn N h ân Dư). Trong
các dòng họ ở Việt N am không họ nào đ ạ t được thành
tích vẻ vang đ ế n thế.
Họ N g u y ễn làng Kim Đ ôi cũng là d ò n g họ có
n h iều ngườ i đỗ đ ạ i khoa khi tu ổ i còn trẻ. N g u y ễn
N hân Thiếp đỗ Tiến sĩ lúc 15 tuổi, N guyễn N h ân D ư
đỗ Tiến sĩ lúc 17 tuổi. C òn Tiến sĩ tuổi từ 18-21 có đ ến
hơn chục vị.
Với tru y ền thông khoa cử rực rỡ cùng với 18 vị
Tiến sĩ ghi danh bảng vàng, nhà thờ tổ họ N g u y ễn ở
Kim Đôi đã vinh d ự được N hà nước công n h ận di tích
Lịch sử v ăn hoá.
Xưa kia dân gian cho rằng: Kũn Đôi khoa bảng rực
rỡ bởi: 'Tong mạch V'ượng". Hai họ Phạm, N guyễn đều
dựng đền thờ hưéfng Tây, phía trước trông xa hơn là ngọn
Tam Thai giống văn b ú t chấm mực xuống sông c ầ u .
Cổng đền họ Phạm đề "Tiến sĩ Thượng thư từ" cổng đền

00
họ N guyễn ghi "Khoa bảng môn" và hai câu đối:
"Kim Bảng thạch bi truyền vọng tộc
Hiền xa tứ mã xứng cao môn"
(Bảng v àn g bia đá được lưu truyền về sau
Kiệu xe tứ m ã được xứng cửa cao này)
M ột trong những nguyên nhân dẫn đến công thành
darửi toại của các Tiến sĩ là truyền thống giáo dục của gia
đình, dòng họ. Điều đó có thể thấy trên tấm bia (hình
trang sách hai mặt) đặt ở mộ cụ Nguyễn Lung, người sữih
5 con trai đỗ Tiến sĩ, mở đầu dòng khoa bảng Nguyễn
Kữn Đôi. Trạng nguyên Lương Thế Vinh đã khắc bia nói
về sự quan tâm của các bậc phụ huynh: "Con đi học xa,
áo chưa rách đã bảo người nhà may sẵn cho, sỢ bị cảm
lạnh mà tổn hại đến việc học. Thức ăn chưa hết đã bảo
người nhà m ang đến sỢ bị đói mà tổn hại đến việc học.
Các con cảm động vì tình nghĩa giáo huấn của cha mẹ mà
dốc lòng tu chí về nghiệp học mà thành danh".
Tục lệ làng xã động viên người thi cử cả về \'^ật chất
lẫn tũứi thần: Kim Đôi có ruộng khuyến học dàrửi cho
người từ Tiến sĩ trở lên. Văn chỉ hàng huyện có quy đừủi:
Của tế và người dự tế phải có chức danh học vị. Nếu
không dù quan chức gì cũng không được về đây tế:
"Trúng trường quan chi đích tử
Triều quí quan chi đích tôn!"
Truyền thống hiếu học còn biểu hiện ở sự tôn sư
trọng đạo. Làng có lệ "tết thầy" vào m ồng 5 /5 , rằm
tháng 8 và m ồng 10/10 âm lịch.

09
môĩsốDnnHnHnnTiẼUBỂu,

Nguyễn Nhân Bỉ (1448 - ?)


N g u y ễ n N h â n Bỉ sinh n ăm M ậu T hìn, T hái H òa
th ứ 6 (1448), k h ô n g rõ năm mâ't. 19 tu ổ i, đ ỗ đ ồ n g
T iến sĩ, khoa Bính T u ất, Q uang T h u ậ n th ứ 7 (1466).
K hoa ấy có 27 ngư ờ i đ ỗ , trong đó có Đỗ N h u ậ n sau
có th am gia H ộ i Tao đ àn . N h â n Bỉ lú c n h ỏ râT d ĩn h
dị, th ư ờ n g tự p h ụ rằ n g m ình sẽ đỗ th ủ khoa. Đ ến
khi k h ô n g đư ợ c n h ư ý, b è n xin về quê học lại. Đ ến
khoa T ân Sử u, H ồ n g Đ ức th ư 12 (1481), N h â n Bỉ đi
th i lầ n th ứ hai, n h ư n g cũ n g chỉ đỗ đ ổ n g T iến sĩ.
K hoa n à y có 40 ng ư ờ i đ ỗ , tro n g đ ó có Lưu H ưng
H iếu, N gô V ăn C ảnh sau có tham gia H ộ i Tao đ àn .
Lúc n à y N h â n Bỉ đã 34 tuổi, các em tro n g n h à, trong
họ đ ề u th à n h đ ạ t, q u y ề n cao chức trọ n g , n ê n k h ô n g
từ chôl q u an chức nữ a. N h ân Bỉ là m q u a n đ ế n H àn
lâm h iệ u lý, th ă n g đ ế n Binh bộ T hư ợ n g thư.
N g u y ễ n N h â n Bỉ đ ể lại tác p h ẩ m k h ô n g n h iều .


hiện còn có m ột số sáng tác n hư sau:
- Được chép trong Quỳnh uyển cửu ca có 9 bài thơ
họa thơ Lê T hánh Tông.
- C hùm thơ ba bài, đồng tác giả, trong đó có đủ ba
bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông: Họa Ngự chế Tư gia tiứng
sĩ, Họa Ngự chê' Anh tài tử, Họa Ngự chế Lục vân động.

Nguyễn Xung Xác (1451 - ?)


N g u y ễn Xung Xác người làng Kim Đôi, huyện Võ
G iàng (nay thuộc xã Kim C hân, thành phô" Bắc Ninh).
Ô ng là anh của N guyễn N hân Thiếp, N guyễn N hân
Dư, N g u yễn N hân Dịch và là em của N guyễn N hân
Bỉ. Ô ng là thân p h ụ của N guyễn Đ ạo Diễn.
Thưở nhỏ, ông tên là N guyễn N hân Phùng, sau đổi
là Trọng Xác, đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuâ"t thân,
khoa Kỷ Sửu niên hiệu Q uang Thuận thứ 10 (1469), đời
vua Lê Thánh Tông. Được vua Lê Thánh Tông b ú t phê
đổ i tên là N guyễn Xung Xác. ô n g làm quan đến chức
Tả Thị lang bộ Lễ, C hưởng H àn lâm viện Thị độc,
Thượng thư và là thành viên Hội Tao đàn.
Theo Đại Việt lịch đại tiến sĩ khoa thực lục (A.2040 tờ
17a), N guyễn Xung Xác làm quan đến Tả Thị lang bộ Lễ
kiêm H àn lâm viện, sau mắc lỗi bị biếm xuông Tế tửu.
Theo Toàn Việt thi lục của Lê Q uý Đôn (A.132/2
tờ 18a), N guyễn Xung Xác là người giỏi thơ N ôm , bài
Tiêu Tương bát cảnh hiện chép trong Hồng Đức quô'c âm

71
thi tập là của ông.
về trước tác, N guyễn Xung Xác để lại khá nhiều,
nhưng nằm rải rác ở các sách. Chứih tác giả và con
cháu cũng chưa có đ iều kiện tập hỢp các sáng tác ấy
th àn h thi tập, văn tập, hoặc thi v ăn tập. C ũng vì vậy,
không trán h khỏi sự thâ't lạc. H iện tập hỢp được m ột
sô" sáng tác n hư sau; Quỳnh uyển cửu ca, đồ n g tác giả,
trong đó có đ ủ 9 b ài thơ h ọ a thơ Lê T h án h Tông;
C hùm thơ ba bài, đồng tác giả, có đ ủ ba bài thơ họa
thơ Lê T hánh Tông; Văn minh cổ xúy, đ ồ n g tác giả,
trong đó có đủ 6 bài thơ họa thơ Lê Thánh Tông; c ổ
kim bách vịnh, đồng tác giả, h ọ a thơ Lê T hánh Tông;
Thứ vận tông Đàm Hiệu thư Văn lễ Bắc stí; Họa Ngự chế
Quan giá đình trung thu ngoạn nguyệt; Tiêu Tương bát
cảnh (thơ N ôm ); Văn bia Hồng Đức nhị thập niên, Tân
Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký...

Nguyễn Nhân Thiếp (1452 - ?)


N guyễn N hân Thiếp người làng Kim Đôi h u yện
Võ G iàng, nay thuộc xã Kim C hân, th à n h phô" Bắc
N inh, từih Bắc N inh.
N gay từ nhỏ, N guyễn N h ân Thiếp đã thông m inh
ham học. N ăm 1466 đời Lê Thánh Tông, ông cùng anh
là N guyễn N hân Bỉ đỗ Đ ồng Tiến sĩ khi m ới 15 tuổi.
Sau đó ông được cử làm Tri h u y ện Lập Thạch.
N ăm 1467 khi m ới 16 tuổi, ông lại thi đỗ H oành
từ, được vào làm việc ở Bí th ư giám .

72
Sang thời Lê H iến Tông (1498-1504), ông làm Học
sĩ Đ ông các kiêm T ế tử u Quô"c Tử giám . Tài văn
chương của ông được vua H iến Tông và người đương
thời coi trọng.
Sau đó N guyễn N hân Thiếp làm tới chức Thượng
th ư Bộ Lại. K hông rõ ông m ất năm nào.
Gia đình ông có nhiều người đỗ đạt và làm quan,
các anh của ông là N guyễn N hân Bỉ, N guyễn Xung
Xác (N guyễn N hân Bồng), và em ông là N guyễn N hân
Dư, N g u y ễn N h â n Đạc đ ều đỗ và làm quan trong
triều với ông.
Các con ông là N guyễn H oành K hoản, N guyễn
Kính, N g u y ễn H u ân , các cháu của ông là N guyễn
D ũng Nghĩa, N guyễn Đạo Diễn, N guyễn C ủng Thuận,
N guyễn Lý Q uang, N guyễn N ăng N hượng, N guyễn
Lượng, N guyễn QuôL Q uang, N guyễn Vũ... đều học
h àn h có tiếng và đỗ đạt.

73
n p*----- 1 c—

LÀNG
p LẠC ĐẠO
Ị [uỉínLAin.HưnGVÊn]
u~lrv_^_3 f rJ t j

« ià n g Lạc Đ ạo xưa thuộc xã Dương Xá, h u y ện Gia


Lâm, trân Km h Bắc, tỉnh Bắc N inh, nay là làng Lạc
Đ ạo, xã Lạc Đ ạo, h u y ệ n V ăn Lâm , tỉnh H ưng Yên.
Nơi đ ây là v ù n g quê v ăn vật, có tru y ền th ô n g khoa
bảng của xứ K inh Bắc xưa. Đ úng n hư lời Phan H uy
C hú n h ận xét tro n g Lịch triều hiến chiứyng loại chí:
"K inh Bắc đó là nơi có m ạch n ú i cao vót, n h iề u sông
vòng quanh, là m ạn trên của nước ta. Phong cảnh thì
p h ủ Bắc H à, L ạng G iang là đẹp hơn cả. V ăn học thì
p h ủ Từ Sơn, T h u ậ n A n nh iều hơn. M ạch đ ấ t tôT tụ
vào nên sinh ra n h iều danh thần. Vì là h ồ n khí trọng
ở phương Bắc p h á t ra n ên khác với m ọi nơi".
Có lẽ chửih vì lẽ đó, m à thời phong kiến, làng Lạc
Đạo có tới 11 tiến sĩ, trong đó, dòng họ D ương đã có
tới 8 vị...

74
iiìpĩsốDnnHnHHnĩiẼUBÉ:

Dương Phúc Tư (1505 - 1563)


D ương Phúc Tư sinh năm 1505, người làng Lạc
Đ ạo, h u y ện Gia Lâm , ph ủ Thuận An, trân Kinh Bắc
(nay là xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, từih H ưng Yên).
Ô ng đỗ Trạng nguyên khoa Đm h M ùi, niên hiệu Vĩnh
Đ ịnh th ứ nhâT (1547), đời Mạc Phúc N guyên. C ùng
khoa n ày có Phạm Du đỗ Bảng nhãn, N guyễn Tế đỗ
Thám hoa.
D ương Phúc Tư vốn thông m inh và hiếu học,
nhưng gặp buổi nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê, ông đắn
đo về lẽ xuâ't xử. M ãi tới khi ngoài 40 tuổi ông mới ra
d ự thi. Khoa Đ ũìh M ùi đời Mạc Phúc N guyên, ông đỗ
T rạn g nguyên. Làm quan nhà Mạc đ ến chức Tham
chữứi, sau quy th u ận nhà Lê, vẫn giữ chức cũ. Được
m ột thời gian ông cáo quan về dạy học, học trò nhiều
người thàiửi đ ạt trong đó có Trạng nguyên Phạm Trấn.
Trong lĩnh vực văn chương, Dương Phúc Tư đã

75
sáng tác n h iều thơ, p h ú bằng chữ H án. Tư chất, tm h
tình và hình ả n h của ông thể hiện trong v ă n chương,
trung thực đôn hậu, khoan dung độ lượng, quý sự học
hành thi thư lễ nhạc. Thơ ông ca ngợi công ơn người dạy
dân làm ruộng, trồng dâu dệt lụa, ca ngỢi người thục
nữ đảm đang, ca ngợi những ông vua nhân từ, chăm lo
vỗ về dân chúng, phê phán lôì sống xa xỉ, sa đoạ...
Sau n ày con cháu Trạng nguyên D ương Phúc Tư
di cư lập nghiệp ở nhiều nơi, đến đ â u họ đ ề u làm ăn
thịnh đ ạt, học h à n h đỗ đ ạ t cao, n h iều ng ư ờ i th àn h
danh. Có th ể kể n h ư Dương C ông Thiện ở xã Vĩnh
Mộ, Sơn Tây, nay thuộc Tam N ông, Phú Thọ, đỗ cử
nhân, mở trư ờng d ạy học đào tạo được n h iều n h ân
tài cho đ ấ t nước, ở xã Dương Xá, h u y ện Gia Lâm có
hai cha con D ương Đ ôn, Dương H iệu đ ều đ ỗ Tiến sĩ
V'à làm qua th ư ợ n g th ư cùng triều , lại có anh em
Dương Sử và D ương Khiêm đỗ Tiến sĩ cù n g khoa, ở
xã Phú Thị, h u y ệ n C hâu G iang (nay là xã Mễ Sở
huvện Văn G iang) có chi Dương D uy T hanh (đỗ cử
nhân) từng làm Đô"c học Hà N ội và các cháu chắt là
Dương Bá Trạc, D ương Q uảng H àm , D ương Tụ Q uán,
Dương Bích L iên... đ ều là dòng họ D ương Phúc Tư.
Trạng n g u y ên Dương Phúc Tư m ất năm 1563, thọ
58 tuổi.
H iện nay, n h ữ n g chứng tích v ăn h ó a về T rạng
nguyên D ương Phúc Tư tại thôn N gọc Q uả, xã Lạc
Đạo, huyện V ăn Lâm , H ưng Yên n hư nhà thờ Trạng
nguyên, khu lăng mộ và nhà bia tưởng n iệ m ... vẫn
được con cháu họ D ương trông nom và tu sửa qua

70
n h iều th ế hệ. N hà thờ Trạng nguyên Dương Phúc Tư
là m ột ngôi nhà cổ kính, giản dị nằm ẩn m ình dưới
n h ữ n g lùm cây. Trong nhà thờ có nhiều hoành phi,
câu đôi, bảng lưu danh cung tiến. Nơi đây được d ù n g
đ ể tập hỢp con cháu họ Dương vào những ngày giỗ,
tết, h ọ p họ hay nhữ ng ngày báo công...
K hông biết tự bao giờ, nhà thờ Trạng N guyên trở
th àn h không gian tâm linh, khơi d ậy trong tâm tưởng
con cháu họ Dương về truyền thống của đạo học, về
sự th à n h đạt... N ăm 2010, N hà thờ T rạng n guyên
D ương Phúc Tư đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn
h ó a cấp tmh.

Dương Hoàng (? - ?)
Dương H oàng tên tự là N hã Chm h, tiểu danh là
T rừng. Đỗ Đ ồng Tiến sĩ khoa Đ inh Sửu, niên hiệu
D ương H òa (1637) đời Lê.
Ô ng là người khỏe m ạnh, nhanh nhẹn, vừa giỏi
v ă n lại giỏi võ, từng được cử đi quản lý quân ở Cao
B ằng và T huận Q uảng, lập công lớn, được vua ban
khen, sau khi mâT được vua câ'p tiền, lệnh cho nhân
d â n địa phương làm lễ m ai táng.
Dương H oàng làm tới chức Tả thị lang Bộ Công,
tước Thọ Lâm hầu, tặng là Thượng thư. ô n g là cháu
của Dương Phúc Tư, là em Dương Thuần và là chú
của Dương Hạo.

77
Dương Hạo (? - ?)
Dương H ạo h iệ u là M ân G iản, đỗ Đ ồng Tiến sĩ
khoa C anh Thìn, n iên h iệu Dương H òa (1640) đời Lê.
Ô ng làm quan trải qua nh iều chức: G iám sát N g ự sử
H ải Dương, Thanh H óa. N ăm  t M ùi thăng chức H ình
khoa cấp sự trung, Đô"c đ ồ n g T hanh H óa, H iến sát sứ
tỉnh N ghệ An.
D ương H ạo n h iề u lầ n được cử đ i giám sá t các
trường thi n h ư Sơn Tây, Sơn N am . Khi ông m ấ t được
vua sửa lễ p h ú n g 250 quan tiền, ô n g là cháu đời th ứ
6 của Dương Phúc Tư, là con của D ương T huần, là
cháu Dương H oàng.

Dương Công Thụ (? - ?)


Dương C ông Thụ đỗ Đ ồng Tiến sĩ khoa Tân H ợi
(1731), niên hiệu Vĩrửi K hánh, đời Lê. Làm đ ến Tả thị
lang Bộ Lại, tặng T hượng thư, tước Đ ạo Q uận công.
Ô ng được bao phong là Phúc thần, gia tặn g là "Văn ý
Đoan chửih, T huần tú y Khoa n hân, N hã thực đức độ,
Trung hòa uyên bác, Q uảng hóa hoằng hiến, H ù n g tài
vĩ liệt, Thuận A n Lạc Đ ạo đ ạ i vương"
H iện nay trên m ộ của Dương C ông Thụ v ẫ n còn
m ột tâm bia thần đ ạo ca ngợi công lao của ông, nội
dung có đoạn: "...Nay cụ họ Dương tên h uý là Thụ,
hiệu là N hu Độn, được b an tên thuỵ là ô n N hã, người
xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, là cháu cụ Trạng nguyên,
đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi, niên hiệu Vĩnh K hánh. Tiếng

7Q
tăm tô"t đ ẹp của cụ vang dội khắp nơi, cụ được nhiều
lần cất nhắc. Sau lên tới hàm Kim tử Vinh lộc đại phu,
chức N h ập thị Bồi tụ n g Tả tư giảng, H ữu thị lang Bộ
Lại, kiêm Tư nghiệp Q uốc Tử giám, tước Đạo Phái bá.
Cụ là người thân tm trong phủ chúa, được p h ân giúp
đ ỡ T hế tử học tập trau dồi. Văn chương đạo đức của
cụ đ ứ n g h àn g đ ầ u m ộ t thời. N hà nghèo m à trách
nhiệm thì nặng, cụ càng thêm gắng gỏi và chuyên cần.
C ụ hưởng thọ 58 tuổi. Triều đình b àn định, phong cụ
chức Tả thị lang Bộ C ông, truy phong chức Thượng
th ư Bộ C ông, tước Đ ạo Phái hầu".
C ũ n g theo nội d u n g v ăn bia thì Dương Công Thụ
rấ t được coi trọng, còn được m ời làm thầy của Thế
tử. Vì có nhiều công lao với triều đình, n ên n hữ ng
ngư ờ i th â n của ông c ũ n g được ban tặng sắc: ô n g
D ương C ông H ãn (là ông nội) được phong là Thừa
chỉ; bà T rần Thị P h ấn (là bà nội) tặng là Liệt p h u
nhân, ô n g Dương C ông H iển (là cha) được phong là
Tự khanh, bà Lý Thị Loan (là mẹ) được phong là Liệt
p h u nhân. Bà Trần Thị Lưu (là v Ợ cả) được ban là Phu
nhân; bà T rần Thị N gao (là v Ợ lẽ) được ban là Tự p hu
nhân. N gười con nuôi là Dương Công Tôn được phong
là H oằng tm đại phu. Bản thân ông Dương C ông Thụ
trước sau cũng được ban 20 đạo sắc...
Tiến sĩ Dương C ông Thụ xứng đáng là "danh hiền
đâ't Bắc, hy vọng của trời Nam , lúc sông tiêu biểu ở
chôn điện quế, công lớn thành tài, khi m ất d ấu tích
linh th iên g còn lưu lại quê nhà, nơi từ đườ ng nghi
n g ú t thơm hương, cứu d â n giúp nước, chm h khí m ãi

79
cùng đâ't trời, n é t đ ẹ p còn lại với cổ kim ". Tên tu ổ i
ông được ghi trong bia V ăn M iếu đ ể lưu d an h m u ô n
thuở. Tóm lại, với n h â n cách và n hữ ng cống h iến của
m ình ông xứng đ á n g được trân trọng và tô n thờ.

Dương Sử (1707 - 1764)


Dương Sử tê n th ụ y là M ẫn Đ ạt, sinh n ă m Đ m h
H ợi (1707). Ô n g đỗ Đ ồng Tiến sĩ, khoa G iáp Tuâ't
(1754), niên h iệu C ảnh H ưng, đời Lê. ô n g là ngườ i
học rộng v ăn tài, từ ng giữ chức Tự khanh Đ ông các
Đại học sĩ.
Thời đó, d â n gian có câu tục ngữ: "Dục tảo khoa
danh cử, tâT đ ã i D ương Sử công", ô n g là anh em của
Dương Khiêm, anh em cùng đỗ m ột khoa.
Ô ng mâ't n ăm G iáp T hân (1764) khi m ới 58 tuổi.


n r “ -------- J e-------- * q _ p

^ LÀNG
MỆ TRẠCH :
[BlnHGIRnG.HHIDưữllG]
đ T y i— — 3 r ■ ■f i j u

-^óàng Mộ Trạch xưa thuộc tổng Thì Cử (đời Tự


Đức vì kị huý vua đổi thành Tuyển Cử 1848), ở huyện
Đ ường An (kị huý gọi là N ăng An), Phủ Bình Giang,
trân H ải Dương (Đời Trần Hồ trở về trước gọi là H ồng
Lộ hay H ồng Châu). N ay là thôn Mộ Trạch, xã Tân
H ồng, h u y ện Bình Giang, tỉnh H ải Dương. Mộ Trạch
là làn g tiến sĩ, trong chữ H án gọi là "tiến sĩ sào". Sào
có nghĩa là tổ chim , với ý nghĩa làng Mộ Trạch giông
n h ư m ộ t tổ chim ủ trứ ng ấp, nở ra nhiều người học
giỏi, đ ạ t được học vị cao quý là T rạng nguyên, Tiến
sĩ, H o à n g giáp. Đức T hần Tổ vị Thành h o àn g làng
Mộ T rạch đ ồ n g thời là T hủy Tổ dòng họ Vũ là ngài
Vũ H ồ n (804 - 853). N gài cũng là người m ở lớp dạy
v ăn , g ây dự n g đức tính hiếu học cho các th ế hệ con
ch áu ở Mộ Trạch. Từ cái nôi đ ầ u tiên đó cùa thầy
Vũ H ồ n , các sĩ tử Mộ Trạch k ế tiếp nhau lưu danh
v ào b ả n g vàng.

81
Trong lịch sử khoa bảng, Mộ Trạch được xem n h ư
ngôi làng "sô" 1" của nước ta về con đư ờ n g học vân.
N g ô i làn g d u y nhâ"t trong cả nước được D ực Tông
A nh H oàng đ ế (vua Tự Đức) vốn thông m inh hay chữ
ban tặng lời vàng: "M ộ Trạch nhâ"t gia b á n thiên h ạ"
(Mộ Trạch tài n ăn g bằng nử a thiên hạ). Trong 82 v ăn
bia còn lại tại V ăn M iếu - Quô"c Tử giám đ ã có đ ến
18 bia có khắc tê n 25 T iến sĩ làn g M ộ T rạch. C òn tạ i
V ăn M iếu M ao Đ iền, h u y ệ n c ẩ m G ià n g , tỉn h H ả i
Dưcfng thì có đ ủ tên của 36 tiến sĩ làn g M ộ T rạch (có
tà i liệu ghi 34 T iến sĩ). Làng cũng là nơi xuâ"t th ân
của ông trạn g nổi danh: T rạng cờ Vũ H uy ên , Trạng
to án Vũ H ữ u, T rạng v ậ t Vũ Phong, T rạn g chạy Vũ
Cương Trực và T rạng chữ kiêm Trạng ă n Lê N ại.
M ở đ ầ u trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng Mộ
Trạch là hai anh em ru ộ t Vũ N ghiêu Tá và Vũ H án
Bi, cùng đỗ Thái học sinh năm G iáp Thìn (1304) triều
vua T rần A nh Tông.
Đ áng nhớ nhâ"t là khoa thi năm Bmh T hân (1656)
dưới triều vua Lê T hần Tôn, triều đìn h có 300 th í sinh
d ự thi n h ư n g chỉ lấy có 6 người. V ậy m à làn g Mộ
Trạch đã chiếm tới 3 người và cả 3 người n à y cùng
râ t trẻ chỉ từ 21 đ ến 23 tuổi đó là: Vũ Trác Lạc, Vũ
Đ ăng Long và Vũ C ông Lương. Sau đó 3 n ăm , khoa
thi n ăm Kỷ H ợi, 4 trong sô" 6 tiến sĩ đ ề u được vua
trọ n g d ụ n g làm quan to trong triều đ ìn h là: Vũ C ông
Đ ạo, Vũ Bật H ài, Vũ c ầ u Hối và Lê C ông Triều đều
là người làng Mộ Trạch.
Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có 17 người

Q2
đ ỗ đ ạ t làm quan trong triều, nên có câu: "Mộ Trạch
h ọ p việc làng giữa kừih đô". Làng Mộ Trạch còn nổi
tiến g với gia đình ông Vũ Quô"c Sĩ có 5 người con làm
q u an cho triều đình, trong đó có 3 người đỗ Tiến sĩ.
ớ làng còn có trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ
T iến sĩ và làm quan. Đó là Vũ Bạt T ụy (ông), đ ậ u
Đ ình n g u yên và lãnh học vị H oàng giáp lúc 33 tuổi,
khoa G iáp T uất (1634) n iên hiệu Đức Long thứ 6 đời
Lê T hần Tông, làm quan tới chức Lại khoa Đô câ'p sự
trung; Vũ D uy Đ oán (cha), lãnh học vị Tiến sĩ lúc 21
tu ổ i khoa G iáp Thìn (1664), niên hiệu C ảnh Trị thứ 2
đ ờ i Lê H uyền Tông. L àm quan tới chức C ông bộ
T hượng thư; Vũ D uy K huông (cháu), đ ậ u Tiến sĩ năm
27 tu ổ i khoa C anh T uất (1670), niên hiệu C ảnh Trị thứ
8 đ ờ i Lê H uyền Tông, làm quan đ ến Lễ khoa Đô câ'p
sự trung.
Tiến sĩ làng Mộ Trạch làm quan có nhữ ng người
râ't giỏi ngoại giao, đã có công giúp nước như: Vũ H uy
Tấn - triều Tây Scfn, Vũ D uy Đ oán - triều Lê... N goài
25 tiến sĩ, làng Mộ Trạch còn có rấ t nhiều người chỉ
đ ỗ Thám hoa, H oàng giáp, C ử n h ân nhưng cũng làm
q u a n to, nhỏ, làm thầy giáo giỏi, thầy thuôc tài và
b u ô n b á n giàu có ở n h iều nơi. N gày nay, Làng Tiến
sĩ Mộ Trạch vẫn p h á t triển và nhân rộng nhiều vùng
k h ắp đâ't nước. Trong kháng chiến chống giặc ngoại
xâm và công cuộc xây d ự n g đâ't nước, có nhiều người
con của làng Mộ Trạch đã "tỏa sáng" n hư truyền
th ô n g h iếu học và tài giỏi của Làng Tiến sĩ.

Q3
íiìQ ĩsố D R n H n H n n ĩô B É :

Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi
Vũ N ghiêu Tá và Vũ H án Bi là hai người khởi đ ầ u
cho bảng vàng khoa cử của làng Mộ Trạch. H ai ô ng
là con trai của tướng q u ân Vũ N ạp (m ột phó tướng
của H oàng tôn T rần Quô"c Bảo, ba lần tham gia đ á n h
quân N guyên trên sông Bạch Đằng).
Vũ N ghiêu Tá và Vũ H án Bi cùng đ ậ u Thái học
sinh năm G iáp Thìn (1304), đời T rần A nh Tông (1293
- 1314). Vũ N g h iêu Tá làm tới chức N ội thị H à n h
khiển Tả bộc xạ (Tể tướng). Đến đời Trần H iến Tông
(1329 - 1341) giữ chức Phụ chánh cho nhà vua (Trần
H iến Tông lên ngôi m ới m ười tuổi).
Vũ H án Bi (Vũ N ông) sau đó nôl chức anh làm
N ội thị H ành Khiển Tả bộc xạ vào cuô3 đời T rần H iến
Tông, đ ầu đời,T rần Dụ Tông.

64
Vũ Hữu (1443 - 1530)
Vũ H ữu sinh năm 1443 (có tài liệu ghi smh năm
1437) tại làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường
An, p h ủ Thượng H ồng, trấn H ải Dương (nay là làng
Mộ Trạch, xã Tân H ồng, huyện Bình Giang, tm h H ải
Dương). Ô ng là m ột nhà toán học và cũng là m ột
d an h th ầ n dư ớ i triều đ ạ i Lê T hánh Tông, Lê H iến
Tông. Vũ H ữ u đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân tức
Tiến sĩ năm 1463, đời vua Lê Thánh Tông. Vũ H ữu là
m ột trong hai nhà toán học nổi tiếng thời phong kiến
ở Việt N am cùng với Lương T hế Vinh.
Từ bé Vũ H ữu sớm thể hiện năng khiếu về tính
toán. Trong làng trong xóm có sự tranh châ'p gì về
chia chác ru ộ n g đ ấ t đều nhờ cậu tính toán, phân xử
giúp. Tiếng đồ n về tài toán của cậu lan ra khắp vùng
Đ ường An, trâ^n H ải Dương.
M ột lần, Vũ H ữu theo cha là ông Vũ Bá Khiêm
sang nhà b ạn chơi. Chủ nhà có m ột chiếc điếu cày
được n ạm bạc rấ t đ ẹp nhưng cái nõ lại bằng đồng.
M uôn thay nhưng chưa biết phải ứng ra bao nhiêu bạc
bèn nhờ Vũ H ữu tm h hộ.
Vũ H ữ u xin đem đến m ột chiếc đĩa, cậu đ ặt chén
nước vào trong lòng đĩa, rồi nhẹ nhàng rót nước đầy
đến m iệng chén, nhưng không để trào ra m ột giọt nào.
Sau đó cậu n h ú n g chìm chiếc nõ điếu vào chén nước.
Nước bị chiếc nõ choán chỗ trào ra ngoài, chảy xuô"ng
bát. Đ ong số nước trào ra trong b át chính là thể tích
của chiếc nõ. ô n g chủ cứ theo đó đ ể xuâ't bạc nén cho

05
thợ làm nõ đ iếu thì vừ a vặn.
Sách Công dư tiệp ký còn ghi lại câu ch u y ện Vũ
H ữu sửa chữa các cổng th à n h Thăng Long. Trong khi
các viên quan Bộ C ông lú n g tú n g không tứữi ra đưỢc
khối lượng v ật liệu và d ự toán kinh phí, thì V ũ H ữ u
d ẫ n m ấy thợ cả đ ế n thị sát và đo đạc tỉ m ỉ từ n g cửa
thành, rồi tứih ra sô" lượng gạch râ't cụ thể. Thượng
thư Bộ C ông có ý nghi ngờ.
T hây vậy, Vũ H ữ u đ ứ n g lên thưa: Bẩm th ầ n dã
tửih toán kỹ, không thừ a không thiếu m ộ t viên . M ột
viên quan khác được dịp xúc xiểm: Bẩm tâ u , đ ã vậy
xm quan Lang tru n g làm cam kết n ế u sai lệch sẽ b ị trị
tội. Vua hỏi: Các quan có ý n h ư vậy, k h an h có d ám
n h ận không? Vũ H ữ u đáp: Tâu bệ hạ, th ầ n xin lĩnh ý.
N gay hôm ấy, Vũ H ữ u sai m ua gạch xếp từ n g chồng
ngay n g ắn bên cổng th àn h Đ ông Hoa. H ô m sau, khi
công việc đã h o à n tâ"t, m ộ t viên quan tỏ vẻ đ ắ c ý,
m ách với vua: T âu bệ hạ, ở đ ây v ẫ n còn th ừ a m ột
viên ạ.
Vũ H ữ u đỡ viên gạch và tâu: Bẩm bệ hạ và các vị
đ ạ i th ần , v iên gạch n ày không th ừ a đ â u . T ại m ặ t
tường phía Đ ông bên kia ở trên cao có m ộ t v iên gạch
bị m ủ n vỡ, th ần đã cho thửa riêng viên gạch n à y đ ể
thay thế. M ọi người b án tm, b á n nghi, Vũ H ữ u d ẫ n
vua sang bên kia tường thành, sai thợ trèo lên gỡ viên
gạch vỡ ra và đem trám viên gạch m ới v ào th ì vừ a
khít. V ua Lê râ"t h à i lòng.
N ếu như, Lương T hế Vinh để lại cho đ ờ i cu ố n Đại
thành toán pháp, thì Vũ H ữ u là tác giả cuốn Lập thành

QQ
toán pháp. Cả hai cuô"n ấ y đ ề u trở thành sách giáo
khoa về toán cho học trò nước ta hàng m ấy th ế kỷ.
Lập th à n h toán p h áp bao gồm những kiến thức cơ bản
về h ìn h học và sô" học, hướ ng d ẫ n cách đo lường
ru ộ n g đâ^t theo các đơn vị m ẫu, sào của nước ta, tm h
to án các công trình xây dựng, kiến trúc, đào dắp kênh
m ương, đ ê điều...
V ũ H ữ u làm quan đến năm 70 tuổi rồi về trí sĩ tại
quê n h à , rủ\ưng m ỗi khi vua cần đ ế n lại cho m ời ông
ra h ỏ i ý kiến, ô n g mâ"t năm 1530.

VŨ Quỳnh (1452 - 1516)


Vũ Q u ỳ n h tự là Thủ Phác, Viên ô n , hiệu là Đốc
Trai, Trạch Ô, Yến Xương, ô n g sinh năm 1452 tại làng
Mộ T rạch, h u y ệ n Đ ường An, nay là xã T ân H ồng,
h u y ệ n Bình G iang, tỉnh H ải Dương, ô n g là m ột vị
q u an n h à Lê sơ và đồng thời cũng là m ột trong những
người đ ó n g góp xây dựng bộ quô"c sử Việt Nam .
N ă m 1478, Vũ Q uỳnh đỗ Tiến sĩ dưới triều vua
Lê T h á n h Tông. Sau đó, ôn g từ ng giữ các chức vụ
T hượng th ư các bộ: Bộ C ông, Bộ Bmh, Bộ Lễ và Tư
n g h iệp Q uốc Tử giám và Sử quan Đô tổng tài
N ă m 1511, dưới thời vua Lê Tựơng Dực với cương
vị Sử q u an Đô tổng tài soạn xong bộ Đại Việt thông
giám thông khảo thường được gọi tắt là Đại Việt thông
giám, chép từ thời H ồng Bàng đ ến năm đ ầ u Lê Thái
TỔ, g ồ m 26 quyển.

07
v ề n ộ i d u n g và thời gian thì bộ Đại V iệt thông
giám của Vũ Q uỳnh cũng tương tự bộ Đại Việt sử ký
toàn thư do N gô Sĩ Liên soạn trước đ ó, tu y n h iên về
m ặt p h â n kỳ lịch sử, p h ân ranh giới giữa ngoại kỷ và
b ả n kỷ thì Vũ Q uỳnh có quan điểm khác với N gô Sĩ
Liên. Theo ghi chép của Phạm C ông T rứ sau n ày cho
biết, bộ sử của Vũ Q uỳnh chép từ thờ i H ồ n g Bàng
đ ế n đ ế n thời 12 sứ q u ân là ngoại kỷ và từ thời Đinh
Tiên H oàng đ ến đ ầ u thời Lê Thái Tổ là b ả n kỷ và sau
này P hạm C ông Trứ cũng đã ản h hư ở ng q u an điểm
này của Vũ Q uỳnh và chép m ở đ ầ u p h ầ n b ản kỷ cũng
từ triều Đinh
T rên cơ sở của bộ Đại Việt thông giám thông khảo,
năm 1514 vua Lê Tương Dực sai Lê T ung soạn bài Đại
Việt thông giám tổng luận.
Có th ể nói, Vũ Q uỳnh là m ột học giả lớn thời Lê,
ông vừ a giỏi viết sử lại tài thơ văn, là con người đức
hạnh, trọng tiết nghĩa. Vũ Q uỳnh còn có công với văn
học d â n gian. N ăm 1492, ông đã chm h lý lại cuốn Lĩnh
Nam chích quái của T rần Thế P háp, trong đó ô ng có
b àn về ý nghĩa của 22 tập tru y ện cổ tích Việt N am ,
th ể h iện được tinh thần dân tộc. Khi làm quan ở H ải
Đ ông (H ải Dương) ông được d â n v ù n g n à y rấ t m ến
trọ n g vì tứih thanh liêm và lòng cương trực.

VŨ Cán (1475 - ?)
Vũ C án có tên h iệu là T ùng H iên, con trai của

BQ
nhà sử học Vũ Q u ỳnh, quê ở làng Mộ Trạch, huyện
Đ ường An, nay là xã Tân H ồng, h u yện Bình Giang,
từih H ải Dương.
Vũ C án đỗ H oàn g giáp khoa N hâm T uất (1502).
N ă m 1510, ôn g đ i sứ Trung Quô"c với chức Thị thư,
khi về được th ă n g Thị giảng ở H àn lâm viện. N ăm
1522, M ạc Đ ăng D ung lập C ung H oàng làm vua ở
Gia P h ú c, ở H ả i D ương, ôn g theo về, được th ăn g
chức H ữ u thị lang Bộ Lễ. Khi nhà M ạc cướp ngôi
v u a Lê, ông v ẫn ở lại giữ chức trong triều, th ăn g tới
T hư ợng th ư Bộ Lễ, tước Lễ độ bá. ô n g có quan hệ
th â n h ữ u với n h iều danh sĩ, đặc biệt Là với N guyễn
Bửìh K hiêm .
N ăm ngoài 70 tuổi, Vũ C án về trí sĩ rồi m ất nơi
quê nhà.
Vũ C án có tư châT ông thông m inh, học rộng, nhớ
lâu, n ổ i tiếng là người có văn tài. Theo Lê Q uang Bí,
thì "văn chương, đức nghiệp của ông được người đời
bấy giờ tôn trọng n h ư bậc thầy".
Ô ng đ ể lại nhiều tác phẩm : Tùng Hiên thi tập (Tập
thơ T ù n g H iên), Tùng Hiên văn tập (Tập văn Tùng
H iên), v ă n bia và tám b ài Tiêu tương bát cảnh chép
trong tập Phẩm vựng và Tứ lục bị lãm.
Sách Lịch triều hiến chương nói ông là người: "Văn
chương đức h ạ n h được thời bấy giờ suy tôn. Nhà vô"n
th an h bần, nhưng v ẫn vui vẻ tự nhiên, gặp cảnh vật
gì có cao hứng thì ngâm vịnh, vẫy b ú t thành thơ".

QQ
Lê Nại (1479 - ?)
Lê N ại (còn gọi là Lê Đỉnh) quê làng M ộ Trạch,
Tân H ồng, Bình G iang, H ải Dương, ô n g đ ỗ T rạng
nguyên khoa  t Sửu, n iên hiệu Đ oan K hánh th ứ n h â t
(1505), đ ờ i Lê U y M ục. C ù n g khoa với ô n g có Bùi
N guyên đỗ Bảng n hãn, T rần Phỉ đỗ T hám hoa.
Làng Mộ T rạch quê hương của Lê N ạ i là L àng
Tiến sĩ độc nhâ't vô nhị của nước ta, với 36 tiến sĩ đ ại
khoa, kể từ thời nhà T rần đ ế n th ế kỷ XVIII. Làng Mộ
Trạch từng được vua Tự Đức khen "M ộ Trạch n h ấ t
gia bán thiên h ạ " (có nghĩa là: m ột làng M ộ Trạch tài
bằng nửa cả nước).
N hiều d a n h sĩ làn g Mộ Trạch đã đ ể lại n h ữ n g
sách, tác phẩm văn học có giá trị cho đời sau: Lê C ánh
T uân có Vạn ngân thư vầ 12 bài trong Toàn Việt thi lục,
Lê Thiếu Đình có Tiệt trại thi tập, Vũ H ữu có Đại thành
toàn pháp, Vũ Q u ỳ n h có Đại Việt thông giám và Lĩnh
Nam chích quái, Vũ C án có Tùng niên thỉ tập và Tứ lục
bi lăm, Vũ Phương Đề có Công dư tiếp ký 43 tập , Vũ
H uy Tấn có Văn tế quân Thanh và Lê N ại có Việt sử
thông giám.
Thuở nhỏ, nhà nghèo nên Lê N ại vừa học vừa phải
d ạy thêm trẻ em trong làng để lấy tiền ă n học. ô n g
học giỏi, đỗ T rạng nguyên đời Lê Uy M ục (1505), làm
quan đến chức Tả thị lang Bộ Hộ, tước Đ ạo Trạch bá.
Ô ng là m ột rửià sử học với tác phẩm Việt sử thông giám.
Về Trạng ng u y ên Lê N ại có nhiều giai th o ại song
giai thoại về tài ăn của ông được lưu tru y ề n rộ n g rãi


hơn cả. C ũng chm h vì tài ăn, ăn khỏe, n ên ông còn
được gọi là T rạng Ả n hay Trạng nguyên Cơm.
Trong d â n gian còn lưu truyền câu chuyện như
sau: Q uan Thượng th ư Vũ Q uỳnh, người cùng làng
nghe biết tin tài học của Lê N ại bèn gả con gái và cho
ở rể đ ể có điều kiện học hành. N hưng từ khi về nhà
b ố vỢ, Lê N ại ngồi thừ suốt ngày, không chịu học cũng
chẳng m ó m áy việc gì. Vũ Q uỳnh lấy làm lạ, bèn quyết
định đ ến nhà thông gia hỏi b ố đẻ của Lê N ại cho rõ
n guyên do. Được hỏi, ông b ố của Lê N ại trả lời;
- C on nhà học trò nghèo, được nương th ân vào
cửa cao quý, lại đội ơn n u ô i dưỡng dạy dỗ, có lẽ nào
cháu nó lại xao n h ãng việc học được? N hưng có điều
n à y h ỏ i khí không phải: m ỗi ngày Tướng công cho
cháu ăn th ế nào?
C ụ Thượng th ư đáp:
- Theo lôì thanh đạm của nhà N ho thì m ỗi bữa ăn
cũ n g chẳng m ấy tí.
Phụ th ân Lê N ại cười đáp:
- Sức ăn của cháu nó khác với người thường, thế
m à tướng công cho ăn ít ỏi như vậy, hoặc giả cháu
chưa vừa lòng m à không dám nói?
Cụ Thượng thư nghe ông thông gia thực thà nói
vậy, n ên về nhà d ặ n vợ cứ m ỗi bữa tăng gấp đôi suất
ă n cho rể. Bắt đ ầ u từ đâ'y Lê N ại m ới cầm sách đọc
qua v ài lượt. Khi n ấu lên nồi ba thì Lê N ại học đến
n ứ a đ êm . Bây giờ, cụ Thượng m ới biết con rể của
m ình quả là người khác thường, từ đó cụ bắt người

gi
nhà cứ lấy nồi năm đê n ấ u cho con rê ăn. Q uả nh iên
Lê N ại ăn đ ủ , nên học suô't đ êm không hề chợp m ắt,
lại thường ngâm nga tán tụ n g m ình rằng;
Mộ Trạch tiêu sinh, ăn khoẻ nổi danh
Muời lănt bát cơm, mười hai bát canh
Khôi nguyên chiếm bảng, trên cả quần anh
Bởi nhiều súc tích, nên phát tung hoành
Thế rồi đến khoa thi Ấ t Sửu (1505) niên hiệu Đoan
K hánh triều Lê Uy M ục, Lê N ại thi H ội chiếm bảng,
vào thi Đ ình liền đỗ Trạng nguyên.

Lê Quang Bí (1 5 06-?)
Lê Q uang Bí hiệu là H ôi Trai, là con của T rạng
n g u y ên Lê N ại, cháu bôn đời của Lê C ảnh Tuân, ô n g
sinh năm 1506, tại làng Mộ Trạch, h u yện Đ ường An,
nay là thôn Mộ Trạch, xã T ân H ồng, h u y ệ n Bình
G iang, tủìh H ải Dương.
Lê Q uang Bí sinh ra trong gia đình có truyền thống
N ho học. C ũng như cha, Lê Q uang Bí là người rất thông
m inh và học giỏi. Đến năm 20 tuổi, ông d ự khoa thi
Đình được tổ chức vào tháng tư, năm Bmh T uất (1526)
- niên hiệu Thống N guyên n ăm thứ 5, đời Lê C ung
H oàng. Đề bài thi Đình là m ột bài văn sách hỏi về các
bậc thánh nhân trị thiên hạ. Khoa thi n ày lấy đỗ 20
người. Lê Q uang Bí đã đỗ H oàng giáp, đứ n g thứ tư.
N ăm M ậu T hân, n iên h iệ u C ản h Lịch th ứ n h ấ t

92
(1548), Mạc Phúc N guyên là con cả của Mạc Phúc Hải,
cử Lê Tiến Q uy làm C hánh sứ và Lê Q uang Bí làm
phó sứ, sang sứ nhà M inh cầu phong. Vua M inh nghi
ngờ là giả dôì, giam Lê Q uang Bí ở N am N inh suôT
19 năm mới được về nước. Sở dĩ có sự trắc trở đó là
vì khi vua Mạc tiếm ngôi, m ột sô" bề tôi nhà Lê và sau
đó là N guyễn Kim sai người sang tố cáo với vua nhà
M inh, và nhà M inh có lúc đã định đánh Mạc.
Trong suôT 18 năm đi sứ bị giam giữ, Lê Q uang Bí
v ẫn luôn giữ gìn phẩm h ạn h và kỷ cương phép nước,
không làm ô danh cho Tổ quốc mình.
N ăm Bmh D ần, niên hiệu Sùng Khang thứ nhâ"t
(1566), đời M ạc H ậu HỢp ông về nước. N gày 25 tháng
G iêng n ăm â"y, họ nhà M ạc sai Lại bộ Thượng thư
kiêm Đ ông các Đại học sĩ K ế Khê bá G iáp H ải, và
Đ ông các H iệu thư là Phạm Duy Q uyết lên tận đầu
địa giới Lạng Sơn để đón sứ thần Lê Q uang Bí.
Trở về đâ"t nước, Lê Q uang Bí được Mạc H ậu Hợp
phong cho chức Thượng thư, lại phong cho tước Tô
Xuyên hầu, ví ông V'ới vị trung thần nhà H án là Tô Vũ.
N goài tác phẩm chính, gồm m ột sô" bài thơ trong
cuốn Tư lương vận lục (ông viết theo đề tài lịch sử và
hoài cổ), thì tương truyền trong thời gian bị giữ lại ở
N am N inh, Lê Q uang Bí còn sáng tác tập thơ Tô Công
Phụng sứ, gồm 24 bài Đường luật, th u ật lại chuyện Tô
Vũ đời nhà H án đi sứ sang H ung Nô, để gửi gắm tâm
sư của m m h.

93
Vũ Công Đạo (1629 -1714)
Vũ C ông Đ ạo sinh n ă m 1629 tạ i làng M ộ T rạch,
h u y ệ n Đ ường An, p h ủ T hư ợng H ồng , trấ n H ả i
Dương, nay là th ô n Mộ Trạch, xã T ân H ồng, h u y ệ n
Bình G iang, H ả i D ương, ô n g là đ ạ i th ầ n n h à Lê
T rung hưng.
Từ n h ỏ Vũ C ô n g Đ ạo đã n ổ i tiế n g là th ô n g
m inh, học v ấ n rộ n g rã i. N ă m 1658, ô n g lên đ ư ờ n g
đ i th i H ương n h ư n g n ử a đ ư ờ n g đư ợ c tin m ẹ m â't
liề n q u a y về quê ch ịu tan g . Đ ầu n ă m 1659, triề u
đ ìn h m ở khoa thi H ộ i n h ư n g vì có việc n ê n lạ i h o ã n
đ ế n m ù a đ ông.
Lúc n ày chúa T rịnh C ăn xuông chỉ cho p h é p
n hữ ng người V'ắng m ặt n ế u có v ăn chương, học giỏi
thì đ ề u tha cho cả đ ể thu d ụ n g n h ân tài. Vì th ế Vũ
C ông Đ ạo được m iễn lệ (người chịu tang không được
thi) và vào thi H ội. Khoa đó triều đ ình lấy đ ỗ 20
người, trong đó có Vũ C ông Đạo...
Được cử đi sứ N hà Thanh (1673), khi về ông được
thăng chức Thượng th ư Bộ Hộ, tước Thọ Lĩnh bá.
Vũ C ông Đ ạo làm quan đ ế n chức Đô n g ự sử,
N hập thị kinh diên. Vì trái ý chúa, bị bãi chức (1683).
Sau Trịnh C ăn nghĩ đ ế n sự thẳng th ắn của ô ng n ên
lại khởi d ụ n g làm H ữ u thị lang Bộ H ình (1691), H ữ u
thị lang Bộ Lại (Theo Đại Việt sử ký lục biên).
Vũ Công Đạo còn là m ột thầy giáo xuất sắc d ạy
dỗ rất nhiều anh tài, học trò của ông có người đỗ đ ến
Bảng nhãn, Thám hoa, H ội nguyên. Đó là: Phạm Q uang

Q4
Trạch ở Đ ông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội) đỗ Bảng nhãn,
Vũ Thạnh ở Đan Luân đỗ Thám hoa, N guyễn Danh Dự
ở Dương Liễu (Đan Phượng, Hà Nội) đỗ Hội nguyên...
N ăm 1714, đời Lê Dụ Tông, Vũ Công Đạo qua đời,
thọ 86 tuổi.
Liên quan đ ến ông, trong d ân gian hiện vẫn m ột
còn giai thoại thú vị... Giai thoại kể rằng, Vũ Công
Đ ạo đ i thi nửa đường được tin mẹ mâT p h ải trở về
chịu tang. Trong lòng ông râT lo buồn. Trên đường về,
đêm đ ó ông vào ngủ nhờ tại chùa Vô N gại (nay thuộc
thôn Vô N gại, xã N gọc Lâm, huyện Mỹ Hào, Hưng
Yên) và m ộng thấy có tiếng gọi:
Tiến sĩ đ i đ â u đấy!?
Ô ng v ào gặp người giữ cửa và hỏi rằng;
Có quan nào trong ấy?
N gười giữ cửa nói;
M ặc áo vàng ngồi giữa là Ngọc H oàng thượng đế,
m ặc áo đỏ và m ặc áo xanh ngồi hai bên tả h ữ u là
N am Tào, Bắc Đ ẩu đấy!
Ô ng liền tiến vào sâu yết kiến và hỏi việc thi cử
của m ình, bỗng nghe tiếng nói:
N ăm nay thi đỗ.
Bất giác Vũ C ông Đ ạo giật m ình tủih giâ'c, ông
nghĩ th ầm chưa hết tang, lại vắng m ặt không được thi
thì còn trô n g m ong gì việc đỗ. N hưng sau đó triều
đình h o ãn việc thi cử sang m ùa đông năm sau và chúa
Trịnh chiếu xuông cho phép những người vắng m ặt

95
nếu có v ăn chương, học giỏi thì đ ề u tha cho cả. Vì th ế
Vũ C ông Đ ạo được d ự thi và đỗ Tiến sĩ.

Vũ Huyên (1670 - ?)
Vũ H uyên thi H ương đỗ G iải nguyên, 43 tu ổ i đỗ
Tiến sĩ khoa Nhâna Thìn (1712), n iên h iệu Vĩnh Thịnh
thứ 8, đời Lê D ụ Tông. Làm quan đ ế n chức Đ ông các
h iệu thư. Thuộc d ò n g d õ i H o àn g g iáp Vũ Đ ôn,
ng u y ên q u á n làng Mộ Trạch, trú q u á n làng Đ an Luân
cùng huyện, ô n g có tiếng về thi v ă n và x u ất ch úng
V'ề m ôn cờ tướng nên còn được gọi là Trạng cờ.
Tương truyền viên chánh sứ Trung Hoa sang nước
ta quen thói hông hách, lại tự phụ giỏi cờ, thách đấu
với vua nước ta. Vua theo kế của Vũ H uyên, hẹn với sứ
giả đâu cờ tại sân rồng vào đ ầu giờ ngọ, m ỗi bên chỉ
đ ể m ột tên Imh cầm lọng đứng hầu. Vũ H uyên giả làm
tên Imh dứng hầu nhà vua, trên tàn lọng xoi m ột lỗ rất
nhỏ đ ủ cho tia nắng xuyên qua làm hiệu, lựa lúc chiếu
vào các quân cờ để mách nước cho vua. N hờ kế â'y, V'ua
nước ta thắng ba ván liên tiếp, viên chánh sứ Trung Hoa
rất khâm phục và không dám hống hách nữa.
N hờ công lao ấy, ông được vua ban cho danh hiệu
"Đấu kỳ T rạng nguyên" và trong d â n gian còn có câu
ca dao tru y ền tụng:
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghê
Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành.

06
q j « -------- J c-------- « q n

1 LẢNG
p NGUYỆT ÁNG :
Ị [ĩHonHĩRlHDnOi]
□ ~ L n _ J C _ _ rJ~ D

^ ^ u y ệ t Á ng (làng N guyệt) là làng quê chiêm


trũ n g thuộc xã Đ ại Á ng, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Đ ây là m ộ t làng cổ, tương tru y ề n có từ thời H ù n g
V ương d ự n g nước. Làng thờ C ông Ba đ ại vương, theo
th ầ n p hả là người em thứ 3 của vua H ùng Vương thứ
n h ất, có công g iúp d â n mở m ang làng xóm.
Thời p h o n g kiến, N guyệt Á ng n ổ i danh là làng
khoa b ả n g với 11 người đỗ đ ạ i khoa, gồm 1 Trạng
n g u y ên , 1 Thám hoa, 9 Tiến sĩ, trong đó có 5 người
th u ộ c d ò n g họ N guyễn Đình là N guyễn Đình Trụ (đỗ
n ă m 1656), anh ru ộ t là N guyễn Quô"c T rm h (Trạng
n g u y ên , 1659) và hai con là N guyễn Đình Bách (1683),
N g u y ễ n Đ ình ú c (Thám hoa, 1700) cùng cháu tằng
tô n c ủ a N g u y ễ n Quô'c Trinh là N g u y ễ n Đ ình Q uỹ
(1715); 3 người họ Lưu là Lưu Tiệp (1772) và em ru ộ t

97
Lưu Đ ịnh (1775) c ù n g c h á u n ộ i là Lưu Q uỹ (1835).
L àng còn có 29 người đỗ tru n g khoa (H ương công,
C ử n h ân ), gồm 17 người họ N g u y ễn Đ ình, 8 người
họ Lưu và 4 người họ N g u y ễ n D anh. N h iều trư ờng
h Ợ p , cha con, anh em, bô" con cù n g đ ỗ , tiêu b iểu nhâ"t
là gia đ ìn h T rạn g n g u y ê n N g u y ễ n Quô"c Trinh: 4
ngườ i con của ông đ ề u đỗ H ương công; còn Sinh đồ,
Tú tài thì râ"t nhiều.
Trong n hữ ng người đỗ đ ạ t của làng N g u y ệt Á ng,
n h iều người th ậ t sự có tài, đem h ế t tà i n ăn g p h ụ n g
sự đâ"t míớc. Tiêu b iểu nhâ"t là N g u y ễn Quô"c Triiứi
(1625 - 1674). N ăm 1667, ôn g d ẫ n đ ầ u đ o à n sứ bộ nhà
Lê sang đàm p h án th àn h công với nhà Thanh cho gộp
h ai !;ỳ tiến công (3 năm m ộ t kỳ) làm m ột, giảm được
p h ầ n lớn sự tô"n kém cho triều đ ìn h và nỗi vâ't vả cho
các đ o à n sứ bộ. Sau ông làm quan đ ế n Bồi tụ n g (Phó
Tể tướng), là người tin cẩn của chúa Trịnh Tạc. Tuy
v ậ y ông là người khẳng khái, d á m chỉ ra đ iều p h ải
trá i của chúa trước triều thần.
N gười th ứ hai là N gu y ễn Đ ình T rụ (1627 - 1703).
Sau khi về hưu, ông về m ở trư ờng d ạ y học, học trò
đ ô n g tới hàng nghìn. Hơn 70 ngườ i sau đó đỗ Tiến sĩ
và H ương công, th àn h đ ạ t trên đư ờ ng h o ạn lộ. Thời
b ây giờ coi ông là m ột "công p h á i th ầy học".
N gười th ứ ba là Lưu Q uỹ (1811 - ?). ô n g nổ i tiếng
ô n g là người thẳng thắn, d á m tâ u việc can n g ăn vua
n ên bị giáng chức. T háng 2 n ăm T ân Sửu (1841), vma
T h iệu Trị lên ngôi, Lưu Q uỹ đ ã cù n g Khoa đạo
N g u y ễn Bừih Đức d ân g sớ k h u y ên vua lưu ý đ ế n 10

QB
điều sách lược trị nước, trong đó, 2 điều được vua tâm
đắc n h ấ t là thận trọng trong sự ham chuộng và cẩn
thận trong d ù n g người.
N g ày nay, làng N g u y ệt Á ng v ẫn giữ được hệ
th ô n g đ ình, chùa và v ă n chỉ. V ăn chỉ do Trạng
n g u y ê n N g u y ễ n Quô'c T rinh cùng em là Tiến sĩ
N g u y ễn Đ ình Trụ lập năm 1667, trước khi ông đi sứ.
Tại đ â y còn 2 tầm bia đá quý (dựng năm 1667,1876),
ghi tên n h ữ n g người đỗ đ ạ t của làng, biểu tượng cho
tru y ền thống hiếu học và khoa bảng, là niềm tự hào
của d â n làng.

QQ
môĩsốDnnHnHHnĩiỀUBÉ:

Nguyễn Quốc Trinh (1625 -1674)


N g u y ễ n Q uốc T rinh sm h n ă m 1625, người làn g
N g u y ệt Á ng, h u yện T hanh Trì, p h ủ Thường Từi, trấ n
Sơn N am T hượng (nay th u ộ c xã Đ ại Á ng, h u y ệ n
T h an h Trì, th à n h phô" H à N ội), ô n g thi đỗ T rạn g
n g u y ên khoa Kỷ Hợi, n iên h iệu Vĩnh Thọ th ứ 2 (1659),
đ ờ i Lê T hần Tông. C ùng khoa này, có N guyễn V ăn
Bích đỗ Bảng nhãn, N gu y ễn V ăn Thực đỗ Thám hoa.
N guyễn Quô"c Trm h m ồ côi cha m ẹ từ nhỏ. ô n g
và em trai là N guyễn Đ m h T rụ p h ả i sống nhờ vào sự
chu câp của người chị gái cùng ông anh rể tên Thọ, ở
c ù n g làng.
N ăm ông lên 17 tuổi, em trai Đ ình Trụ 15 tuổi m à
cả hai v ẫ n chưa biết chữ. Bị người anh rể khích bác,
cả hai p h ẫ n chí, q u y ết tâ m lập th ân , cùn g n h au bỏ
sang làng bên, kiếm thầy đồ th ụ giáo.
H ọ chăm chỉ học h à n h , đ ê m thì chăn g đ è n đọc

1ŨŨ
sách đ ế n h ế t canh ba. N g ày thì đem sách ra ruộng, hễ
nghỉ tay cày, lại cầm đ ế n sách.
Khoa thi n ăm Bmh T hân (1656), niên hiệu Thịnh
Đức 4 đ ờ i vua Lê T hần Tông, hai anh em cùng đi thi,
trả i qua tứ trường. N ăm 35 tuổi, N guyễn Quô"c Trinh
thi đỗ H ộ i n g u y ên , Đ ình n g u y ên , rồi đỗ T rạng
n g u y ê n khoa Kỷ H ợi, n iên h iệu Vĩnh Thọ (1659), đời
Lê T hần Tông.
Tháng 3 âm lịch năm C ảnh Trị thứ 2 (1664) đời Lê
H uyền Tông ông làm H ình bộ H ữu thị lang.
C ảnh Trị năm thứ 5 (1667) ông được cử làm C hánh
sứ sang nhà Thanh (Trung Quô'c). Tháng 2 năm 1669,
đoàn sứ thần N guyễn Q uốc Trmh, N guyễn Công Bích,
Lê Vinh về nước. Trong lần đi sứ này, Trạng nguyên
N guyễn Quô"c Trinh đã đ àm phán thành công với nhà
Thanh cho gộp hai kỳ tiến công (3 năm m ột kỳ) làm
m ột, giảm được p h ần lớn sự tô"n kém cho triều đình
và nỗ i v ấ t vả cho các đ o àn sứ bộ.
Sau đó, xét công đi sứ, ông được giao làm Lễ bộ
Tả thị lang, tước N gọc Trì tử.
Tháng 4 năm C ảnh Trị thứ 8 (1670) ông cùng Lại
bộ H ữ u thị lang Đ ặng C ông C hất vào h ầu kinh điện.
Sau khi vua Lê Gia Tông lên ngôi, vào tháng 3
năm Dưcíng Đức thứ 2 (1673) ông được giao làm Hộ
bộ H ữ u thị lang.
Tháng 12 năm 1673, ông được giao làm Lại bộ Tả
thị lang. N gày 9 tháng 5 âm lịch năm Dương Đức thứ
3 (1674), Bồi tụ n g Lại bộ H ữ u thị lang Liên Trì tử

1Ũ1
N guyễn Q uốc T rm h chết. Tin cáo phó đến, Tây Đ ịnh
vương Trịnh Tạc thương tiếc lắm , truy tặng ông chức
Binh bộ T hượng thư, tước Trì Q u ận công, b an th ụ y
hiệu là Cương Trung...
H iện nay ở V ăn M iếu - Quô"c Tử giám , tấ m bia
khoa thi năm Kỷ H ợi (1659) tên của T rạng n g u y ê n
N guyễn Q uốc T rinh đứ n g đ ầ u trong số 20 Tiến sĩ v ẫ n
còn m ãi với thời gian.

Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703)


N guyễn Đ ình Trụ sinh năm 1627 tại làng N g u y ệt
Á ng, h u yện Thanh Trì, nay là thôn N guyệt Á ng, xã
Đại Á ng, h u yện Thanh Trì, H à Nội. ô n g là em của
Trạng nguyên N gu y ễn Quô'c Trinh, cha N g u y ễn Đ ình
Bách và N guyễn Đ ình ú c .
N ăm 30 tuổi, ông đỗ H ội nguyên, Đình n g u y ên ,
Đệ tam giáp Đ ồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bửửi T hân
niên hiệu Trịnh Đức 4 (1656), đời Lê Thần Tông. Sau
đó, ông làm quan đ ến chức H àn lâm H iệu thảo...
N ăm G iáp T uất n iên h iệu C hính H òa 15 (1694),
ông bị triều đìn h biếm chức nên về quê m ở trư ờng
d ạy học. Học trò của thầy Đ ình Trụ có tới h àn g ngàn,
trong đó, có 70 vị đ ại khoa. Thầy có hai người con trai
theo học trư ờ ng của th ầy là N g u y ễn Đ ình Bách và
N guyễn Đ ình ú c .
Trong tác p h ẩm Lịch triều tập ký, tác giả N gô Cao
Lãng viết về thầy: "Đ ình Trụ được các bậc h ọc giả

1Ũ2
đương thời coi là m ột công p h ái thầy học". Còn Phan
H uy C hú ca ngợi thầy là "bậc khuôn m ẫu trong làng
N ho, n g ư ờ i ta gọi là bậc Tôn sư - người T hầy cao
q u ý ". Các tác giả của Đại Nam nhất thông chí n h ận xét
về thầy: "ham khuyến dụ bọn h ậ u tiến".

Lưu Quỹ (1811 - ?)


Lưu Q uỹ sinh năm 1811, người làng N guyệt Á ng
h u y ệ n T hanh Trì, nay là thôn N g u y ệt Á ng, xã Đ ại
Á ng, h u y ệ n Thanh Trì, Hà N ội. ô n g đỗ Tiến sĩ khoa
thi Ấ t M ùi, đời M inh M ệnh năm thứ 16 (1835) khi mới
25 tuổi.
Sau khi đỗ đạt, lúc đ ầ u ông được bổ chức Tri phủ
N am Sách (H ải Dương) rồi được về kinh đô làm Giám
sát N g ự sử. Sách Đại Nam thực lục chép, ông là người
th ẳn g th ắn , d ám tâu việc can n g ă n vua nên bị vua
M inh M ệnh đổi xuống làm Binh khoa C hưởng ấn Câ'p
sự trung. Tháng 2 năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị
lên ngôi, Lưu Q uỹ vừa tròn 30 tuổi. Là vị quan trong
triều tuổi còn rất trẻ, con đường công danh đang rộng
m ở, lẽ ra, khi vua m ới lên ngôi, Lưu Q uỹ p h ả i có
n h ữ n g b ài chúc tụ n g để được vua "để ý" đến. N hưng
không, ông đã cùng Khoa đạo N guyễn Bỉnh Đức dâng
sớ trình bày xin vua lưu ý đ ến 10 diều sách lược trị
nước. N ội d u n g tóm tắ t của 10 đ iều đó n hư sau:
1 - T hận trọng trong sự ham chuộng bởi sự ham
chuộng của vua ảnh hưởng đến triều thần.

1ŨB
2 - M ở rộng lòng th àn h tm; chân thực trong d ù n g
chứứi lệnh, sắc lệnh (chmh sách) ban ra p h ả i chắc n h ư
v à n g đ á , p h ả i thi h à n h đ ú n g n hư quy lu ậ t của bô'n
m ù a thì mới không có người sai trái.
3 - Biết rõ trị thể: cần p h ả i khoan d u n g , nghiêm
khắc trong việc d ạy bảo các quan và cai trị d â n thì
m ới giữ được hòa h Ợ p .
4 - C ẩn thận trong d ù n g người: p h ả i loại bỏ kẻ
gian tà, tìm người tài giỏi trung thực ra g iú p nước.
5 - C hăm sóc đời sống n h â n dân: v ì d â n là gốc
của nước, gôc có vững thì nước m ới yên, việc nào ản h
h ư ở n g xâ'u tới sức dân, của cải của d â n thì không n ên
v ộ i làm đ ể d â n được yên nghiệp.
6 - C ẩn thận về tài lợi: việc thu của d ân , lo tích
lũ y của cải cho triều đình p h ả i có đư ờ ng lối và p h á p
chế, làm tổn đ ến sức d ân đ ể có n h iều của thì không
th ể gọi là nước giàu.
7 - K hông d ù n g v ật lạ: tiền của của triều đình là
d o d â n khó nhọc đóng thuế, nay đem ra tiêu ph í thì
k h ổ dân; đừ ng lấy v ật h ữ u d ụ n g đổi lấy v ậ t vô d ụ n g ,
lấy th ứ vô ích làm h ại v ật có ích.
8 - Thận trọng và công bằng trong d ù n g hình phạt.
9 - Tổ rõ giáo hóa: giáo hóa tốt thì có phong tục tô"t.
10 - Rộng đường ngôn luận: cho ngườ i m u ô n can
n g ă n được n ó i đ iều sai thực, vua cần b à y tỏ lòng
th à n h thực, tiếp thu lời can ngăn, lâ'y tai m ắ t của bốn
phư ơ ng làm tai m ắt của m ình thì đức thừửi càng sáng
rõ, đ ạ o trị nước càng rộng thêm .

1Ũ4
Vua Triệu Trị xem kỹ từ ng đ iều trong tờ sớ, thây
tâ m đắc nhâ't hai điều: th ậ n trọ n g trong sự ham
ch u ộ n g và cẩn th ậ n trong d ù n g người, thưởng cho
Lưu Q uỹ và N gu y ễn Bmh Đức m ỗi người m ột tấm
lụ a. Sau đó, Lưu Q uỹ lạ i có lời đ iều trầ n về việc
p h ò n g thủ bờ biển Bắc Kỳ, được thăng làm H àn lâm
v iện Thị giảng học sĩ, sung Sử quán Toàn tu.

1Ũ5

You might also like