You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ BÀI

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ V VÀ BA BƯỚC ĐỘT PHÁ TƯ


DUY ĐỔI MỚI KINH TẾ (1979 – 1986). LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

Họ và tên SV: Nguyễn Thanh Huyền


Lớp: Quản trị kinh doanh 63E
Mã SV: 11217092
Lớp: LLDL1102(222)_38

GVHD: TS NGUYỄN THỊ THẮM

Hà Nội, 2023

1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3

NỘI DUNG ................................................................................................................................ 4

PHẦN 1: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ V VÀ BA BƯỚC ĐỘT PHÁ TƯ DUY ĐỔI
MỚI KINH TẾ (1979 – 1986). .............................................................................................. 4

I. Đại hội đại biểu lần thứ V ........................................................................................... 4

II. Ba bước đột phá tư duy đổi mới kinh tế của đảng từ sau đại hội V (1982) đến trước
đại hội VI (1986). ............................................................................................................... 5

PHẦN II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở
VIỆT NAM ............................................................................................................................ 8

I. Cơ sở liên hệ ................................................................................................................... 8

II. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta giai đoạn 2016 - 2021 .. 8

III. Khó khăn, thách thức đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .............................. 10

IV. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ổn định, bền vững
.......................................................................................................................................... 11

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................. 13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 14

2
LỜI MỞ ĐẦU

Trong 5 năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, được
ghi đậm nét vào lịch sử vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Nhân dân ta đã vượt qua
nhiều khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa.

Đây cũng chính là thời kỳ Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức
nghiêm trọng. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà
nước phạm nhiều khuyết điểm. Xuất hiện tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thực
trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, chính sách, đánh
giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp
giải quyết đúng những vấn đề quan trọng cấp bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V diễn ra trong hoàn cảnh đầy khó khăn, thách
thức như vậy, đã nêu ra được những bước đi, nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tuy còn nhiều hạn chế, sai lầm
nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng, trong đó có ba bước đột phá tư duy đổi mới
kinh tế, làm tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế đất nước sau này.

Do vậy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V có ý nghĩa vô cùng to lớn, đã đánh
dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất
cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.

3
NỘI DUNG

PHẦN 1: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ V VÀ BA BƯỚC ĐỘT PHÁ TƯ DUY
ĐỔI MỚI KINH TẾ (1979 – 1986).

I. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ V:

Sau năm năm kể từ Đại hội lần thứ IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội diễn
ra trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Đông Âu gặp khó khăn, từng bước lâm vào khủng hoảng. Ở Đông Nam Á, các
thế lực phản động quốc tế tăng cường tìm cách can thiệp nhằm chi phối, tạo ảnh hưởng,
đặc biệt là tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Kinh tế đất nước
sau 5 năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Bên cạnh đó
Việt Nam đang đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm
1979 và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc
1979. Trung Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường
xuyên. Và Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam.

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm, sai lầm của Đảng, phân
tích nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình
thế nơi khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội
lần thứ IV đề ra. Cùng với việc để ra các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đổi ngoại, xây dựng Đảng... Đại hội
V đã bổ sung đường lối chung và để ra những quan điểm mới, cụ thể là:

Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; đó là thời kỳ khó
khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng đường trước mất bao
gồm thời kỳ 5 năm 1981 – 1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có
tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là giữ ổn định, tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng

4
cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.

Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau: “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm
vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Nội dung, bước đi, cách làm để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường đầu tiên là: tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng
quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.

Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại; tiếp tục nâng cao tính giai cấp công
nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, thực sự trong sạch,
có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.

Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đại hội chưa thấy hết sự cần
thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan điểm kết hợp kế
hoạch với thị trường, về công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ trương
hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp
tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng một cách tràn
lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp
hàng tiêu dùng…

II. BA BƯỚC ĐỘT PHÁ TƯ DUY ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG TỪ SAU
ĐẠI HỘI V (1982) ĐẾN TRƯỚC ĐẠI HỘI VI (1986).

1. Bước đệm quan trọng cho các bước đột phá sau này:

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IV (8-1979) đã bàn

5
những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách và đường lối giải quyết. Trong đó tư tưởng nổi
bật của hội nghị, cũng là bước đột phá đầu tiên trong quá trình tìm tòi và đổi mới của
Đảng ta là “làm cho sản xuất bung ra”, nghĩa là ưu tiên khắc phục những hạn chế, sai
lầm trong quản lý kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, chấn chỉnh lại những chủ trương,
chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản cho những hình thức sản xuất mới. Đó là tư
tưởng vô cùng đúng đắn và xuất hiện vào thời điểm vô cùng thích hợp, nhưng cùng với
tư tưởng ấy những giải pháp được đề ra song song lại chưa đủ sức giải quyết hết những
khó khăn trước mắt và những khó khăn tiềm tàng.

2. Bước đột phá đầu tiên trong tư duy đổi mới kinh tế sau Đại hội V (1982) đến
trước Đại hội VI (1986)

Tháng 5/1981, Bộ Chính trị đã đề ra Chỉ thị số 109 để “điều chỉnh lại hệ thống
giá cả và tiền lương” song không quán triệt được quan điểm xóa bỏ quan liêu bao cấp,
cải tiến giá và lương một cách nửa vời, đơn độc, chấp vá và không gắn với cải cách
quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất làm cho tình hình giá cả chuyển biến ngày càng xấu
hơn. Nắm bắt được tình hình cấp bách đó mà tư tưởng đổi mới về tiền của Hội nghị lần
thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa V là bước đột phá đầu tiên sau Đại hội V.

Về giá cả, Đảng ta chia rõ ràng từng chủ trương cấp thiết phải đổi mới như: “Giá
mua lương thực và nông sản; các yếu tổ chi phí, giá thành công nghiệp cần được tính
đủ, tính đúng; giá buôn hàng công nghiệp; giá bán lẻ; cơ chế quản lý giá”. Về lương,
Hội nghị nêu ra nguyên tắc: “Quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động” , “xóa bỏ
bao cấp, dần khắc phục chênh lệch bất hợp lý và tính chất bình quân; phải cải thiện đời
sống của công dân và các lực lượng vũ trang; khôi phục lại trật tự về lương, thưởng”.
Về tài chính và tiền tệ, Hội nghị xác định các chủ trương là: “Phấn đấu hạ giá thành và
phí lưu thông, giữ chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước
trên cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý; Thực hiện chế độ tự chủ tài chính;
Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thực hiện
chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ; Cải tiến lưu thông tiền tệ;
kiểm soát thông qua việc sử dụng đồng tiền và kỷ luật tài chính”.

Đảng ta thấy rõ nền kinh tế bao cấp không còn phù hợp và thấy được tiềm năng
của nền kinh tế thị trường, cũng như có cái nhìn mới, đúng đắn về con đường quá độ

6
lên xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước nhà phát triển lên một
bước.

3. Bước đột phá thứ hai trong tư duy đổi mới kinh tế sau Đại hội V (1982) đến
trước Đại hội VI (1986)

Tình hình kinh tế trở nên khủng hoảng hơn sau việc tổ chức và triển khai những
chiến sách trong Hội nghị lần thứ 8 khóa V một cách non nớt khi thực tiễn vẫn chưa sẵn
sàng cho sự “vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá lương”. Từ đó, Hội nghị Bộ Chính
trị đã đưa ra kết luận “Về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế” – bước đột phá thứ
hai sau Đại hội V trong đổi mới tư duy.

Về cơ cấu kinh tế, Hội nghị cho rằng, một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có
thể phát triển ổn định, và việc bố trí cơ cấu ngành kinh tế, sản xuất, đầu tư là những vấn
đề quan trọng hàng đầu. “Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, đồng thời phát triển
công nghiệp nhẹ và vừa” trong đại hội V là quan điểm đúng đắn, nhưng chúng ta đã
mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, đầu tư và không thực
hiện được những mục tiêu tại Đại hội V đã đề ra. Hậu quả là “sản xuất dẫm chân tại
chỗ, năng suất lao động giảm, chi phí sản xuất tăng cao, kinh tế - xã hội càng không ổn
định”. Cần thực hiện các điều chỉnh lớn đối với cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư: “Lấy
nông nghiệp làm đầu tàu và tập trung vào định hướng thực sự của ngành, phát triển
công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng phải có chọn lọc. Tập trung toàn lực, trước hết là
kinh phí, vật lực, đầu tư và thực hiện ba kế hoạch quan trọng nhất về lương thực, thực
phẩm, mặt hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính
trị cho rằng, ta chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là việc cần
phải thực hiện thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Bởi vậy, nên chúng ta
cần đi dần dần, không cần vội vàng, nhảy bước; và cần nhận thức đúng đắn nền kinh tế
của chúng ta lúc này là nền kinh tế nhiều thành phần, từ đó mới có thể tiến thành đúng
đắn những chiến sách, chiến lược để tận dụng và phát triển nguồn nhân lực; cải tiến
quản lý và phân phối. Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, việc đổi mới và bố
trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi, phù hợp với nhau thì mới tạo ra động lực lớn nhất thúc
đẩy nền sản xuất phát triển.

7
PHẦN II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH
TẾ Ở VIỆT NAM

I. CƠ SỞ LIÊN HỆ:

Từ bước đột phá thứ hai trong tư duy đổi mới kinh tế sau Đại hội V (1982) đến
trước Đại hội VI (1986), Hội nghị đã cho ta thấy rằng một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý
mới có thể phát triển ổn định, và việc bố trí cơ cấu ngành kinh tế, sản xuất, đầu tư là
những vấn đề quan trọng hàng đầu. Theo từng hoàn cảnh, thời điểm mà ta có những
điều chỉnh về cơ cấu kinh tế riêng, tại thời điểm đại hội V diễn ra, ta tập trung “lấy nông
nghiệp làm đầu tàu, phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng phải có chọn lọc.
Tập trung toàn lực, trước hết là kinh phí, vật lực, đầu tư và thực hiện ba kế hoạch quan
trọng nhất về lương thực, thực phẩm, mặt hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Từ một
nền kinh tế lúa nước lạc hậu với khoảng 90% lao động làm nông nghiệp, sau 35 năm
đổi mới và đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nền kinh tế Việt
Nam đã có chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được
một số thành tựu quan trọng như: Kinh tế liên tục tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp giảm và
lạm phát được kiểm soát trong giới hạn cho phép... Đóng góp vào những thành tựu này
là nhờ quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để tận dụng hiệu quả các nguồn lực
quan trọng của xã hội.

II. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2016 - 2021

Qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước
được hiện thực hóa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong đó nền kinh tế Việt
Nam đã đạt được những kết quả tăng trưởng ấn tượng và từng bước hội nhập sâu rộng
vào kinh tế khu vực và toàn cầu.

Sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế của nước ta đi theo hướng hiện đại, giảm dần
nguồn lực khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực 1), nguồn lực phân
bổ cho khu vực công nghiệp, khai khoáng, xây dựng (khu vực 2) và khu vực dịch vụ
8
(khu vực 3) tăng dần. Giai đoạn năm 2016-2021, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế,
đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, hoàn thành
được cơ bản các mục tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, năng suất lao động được cải thiện, huy động vốn đầu tư phát
triển tăng; quản lý nợ xấu, nợ công có nhiều tiến bộ, hiệu quả sử dụng vốn được cải
thiện; thể chế luật pháp, kinh tế, môi trường đầu tư, kinh doanh, xếp hạng năng lực cạnh
tranh được cải thiện đáng kể. Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được
tăng lên rõ rệt, từ đó tạo tiền đề thuận lợi cho những đổi mới và đột phá trong tăng
trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.

Trong đó, một số kết quả đạt được nổi bật như sau: Củng cố vững chắc cân đối
vĩ mô và kết cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng
trưởng. Các nhiệm vụ trọng tâm trong cơ cấu lại nền kinh tế được thúc đẩy thực hiện và
đạt được nhiều kết quả tích cực. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước đã đạt được những thay
đổi tích cực về quy mô và cơ cấu thu, chi ngân sách, góp phần củng cố nền tảng tài
chính vĩ mô. Khu vực kinh tế tư nhân có những dấu hiệu phát triển tích cực, góp phần
gia tăng vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu lại các ngành
kinh tế được thực hiện theo hướng tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ; tổ chức
lại sản xuất theo chuỗi liên kết, hình thành cơ cấu ngành, nội bộ ngành hợp lý hơn, thúc
đẩy tăng năng suất. Các loại thị trường được hình thành và phát triển. Quy mô và cơ
cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn. Thể chế phát triển thị trường quyền
sử dụng đất từng bước được hoàn thiện. Thị trường lao động được tăng cường thông
qua dự báo, kết nối cung - cầu lao động. Thị trường khoa học, công nghệ sôi động hơn,
giá trị giao dịch và số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng. Nhờ đó, nền kinh tế thu hút
ngày càng nhiều các nguồn lực quan trọng.

Tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá trong những
năm vừa qua, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, tác động
đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, bình quân giai đoạn 2016-2020
đạt mức 6,01% (cao hơn mức bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015). Năm
2021, tốc độ tăng trưởng có xu hướng suy giảm và chỉ đạt 2,58%. Tuy vậy, Việt Nam
vẫn là một trong số rất ít quốc gia duy trì mức tăng trưởng dương trên thế giới, tuy

9
không đạt được mục tiêu đề ra nhưng Việt Nam thuộc nhóm các nước có mức tăng
trưởng cao nhất thế giới.

III. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ TẠI VIỆT NAM:

Mặc dù giai đoạn 2016 -2021 cơ cấu kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển dịch
tương đối tích cực nhưng xu hướng tăng trưởng của các chỉ tiêu vĩ mô chưa thật sự ổn
định, bền vững. Nguyên nhân là do sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn
này còn có những tồn tại, hạn chế nhất định. Cụ thể:

Thứ nhất, mô hình tăng trưởng, chuyển dịch có thay đổi, nhưng chưa thực sự rõ
nét. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn một số rủi ro, nền tảng vĩ mô chưa thực sự vững chắc,
nền kinh tế có độ mở cao và phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu, dịch bệnh
gây đứt gãy nguồn cung khiến việc kiểm soát lạm phát trong nước tiềm ẩn nhiều khó
khăn, thách thức. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ phát triển chưa cân đối. Tốc độ
tăng năng suất lao động còn thấp, tăng năng suất lao động vẫn chủ yếu do tăng cường
độ vốn, đóng góp của tiến bộ khoa học, công nghệ vào tăng trưởng năng suất lao động
còn thấp. Tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành, lĩnh vực, nhất là khu vực công
nghiệp, dịch vụ, gặp rất nhiều khó khăn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Hoạt động
sản xuất gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19, đặc biệt là năm 2020 và 2021. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa đạt yêu cầu.

Thứ hai, nguồn vốn đầu tư cho các lĩnh vực chưa hợp lý, còn nhiều hạn chế, dẫn
tới những hạn chế nhất định trong hiệu quả sử dụng vốn, hoàn thành mục tiêu và đóng
góp vào GDP. Tuy lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở khu vực 1, nhưng nguồn vốn
phân bổ cho khu vực này rất thấp, thể hiện phương thức sản xuất lạc hậu, nên đóng góp
vào GDP với tỷ trọng thấp. Nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tập trung chủ yếu
vào khu vực và khu vực 3, nhưng đóng góp vào GDP với tỷ trọng chưa đảm bảo mục
tiêu so với khu vực 1, nên hiệu quả sử dụng vốn trong các khu vực chưa đạt kỳ vọng đề
ra. Sự dịch chuyển của lao động và nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giữa các
khu vực, đặc biệt là khu vực 2 và khu vực 3 chưa ổn định và thiếu tính đồng bộ. Điều
này dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các ngành kinh tế Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay. Hơn nữa, tuy khu vực 3 có sự tăng trưởng đều đặn

10
của lao động và vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nhưng tỷ trọng đóng góp vào GDP
của khu vực này chưa có chuyển dịch rõ ràng.

Thứ ba, khu vực kinh tế tư nhân còn chậm phát triển. Doanh nghiệp trong nước
chủ yếu có quy mô vừa, nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp gặp rất nhiều khó khăn dưới
tác động của dịch bệnh Covid-19 kéo dài. Trong giai đoạn 2016-2021, các doanh nghiệp
tư nhân trong nước tăng trưởng khoảng 12%/năm. Tuy vậy, bộ phận quan trọng nhất
của kinh tế tư nhân là kinh tế cá thể chưa đạt tốc độ tăng trưởng tương xứng, dẫn tới tốc
độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong nước nói chung vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Về số lượng doanh nghiệp, thực tế đã không đạt được mục tiêu có ít
nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020. Năm 2021, số doanh nghiệp đăng
ký thành lập mới giảm 13,4%, số doanh nghiệp ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 18%,
số doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể tăng 27,8% so với năm 2020. Cùng với đó, chi
phí sản xuất tăng cao do giá nguyên liệu đầu, chi phí vận chuyển, logistics tăng và phát
sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh. Nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, giảm
đơn hàng, thiếu hụt lao động, doanh thu giảm mạnh. Nhiều doanh nghiệp đã phải chuyển
sản xuất, chuyển đơn hàng tạm thời.

IV. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
THEO HƯỚNG ỔN ĐỊNH, BỀN VỮNG

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ định hướng: Tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm, với mục tiêu phát triển kinh tế trong 5 năm tới, Việt Nam
là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp. Cùng với đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng xác định các chỉ
tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025): Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đến năm 2025
dưới 4%; Sự đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng đạt khoảng
45%; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; Kinh tế số đạt
khoảng 20% GDP; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt
khoảng 25%. Trên cơ sở định hướng về phát triển kinh tế - xã hội và kết quả phân tích,
đánh giá, nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

11
ngành kinh tế ở Việt Nam theo hướng phát triển ổn định, bền vững hơn. Để đạt được
mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, cần triển khai các nội dung sau:

Thứ nhất, giải quyết hiện tượng thất nghiệp thời vụ bằng cách đa dạng hóa sản
xuất nông nghiệp theo hướng xen canh, tăng vụ… Mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm,
nuôi và đánh bắt cá; sử dụng máy móc, thiết bị thay thế lao động, áp dụng công nghệ
sinh học nhằm tăng sản lượng phù hợp khả năng vốn, trình độ kỹ thuật để giải phóng
lao động khỏi khu vực này và chuyển dịch sang các khu vực khác. Để nâng cao năng
suất lao động, cần có sự hỗ trợ của Chính phủ về nhiều mặt như hệ thống thủy lợi, tưới
tiêu, hệ thống vận tải, hệ thống giáo dục và điện khí hóa nông thôn…

Thứ hai, tận dụng lợi thế về nông, lâm, ngư nghiệp để phát triển khu vực này
theo hướng bền vững và ổn đinh, cần tập trung công nghiệp hóa vào các ngành chế biến
lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ…; Một mặt, nhằm nâng cao
giá trị sản phẩm, phát triển các ngành công nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho nông
nghiệp, hạn chế nhập khẩu. Mặt khác, giải quyết công ăn, việc làm cho lao động ở nông
thôn.

Thứ ba, hiện nay, lực lượng lao động và nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
tập trung vào khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây dựng khá cao, nhưng tỷ trọng
đóng góp vào GDP chưa tương xứng, chứng tỏ khu vực này đang thâm dụng lao động
và vốn. Do đó, ngành công nghiệp cần phát triển theo hướng tận dụng các nguyên liệu
có sẵn trong nước thay thế các nguyên liệu nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu; ngành
khai khoáng nên tập trung nâng cao giá trị sản phẩm bằng cách sản xuất, chế biến thành
các thành phẩm, sản phẩm trung gian cung ứng cho ngành công nghiệp và đẩy mạnh
xuất khẩu.

Thứ tư, khu vực 1 và khu vực 2 phát triển bền vững sẽ tạo ra công ăn, việc làm,
thu nhập cho người lao động và tạo ra nhiều sản phẩm nội địa chất lượng cao thì khu
vực dịch vụ sẽ tự phát triển mạnh; đồng thời, hạn chế nhập khẩu và tăng cường xuất
khẩu. Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững, ngoài các dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong
nước cần tập trung khai thác đẩy mạnh vào những ngành “mũi nhọn” của Việt Nam như
du lịch, các sự kiện trong và ngoài nước… nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam đến các nước trên thế giới.

12
PHẦN KẾT LUẬN

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V diễn ra trong hoàn cảnh đầy khó khăn, thách
thức, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tuy còn nhiều hạn chế, sai lầm nhưng đã có nhiều đóng góp
quan trọng, trong đó có ba bước đột phá tư duy đổi mới kinh tế, làm tiền đề cho quá
trình phát triển đất nước ngày một đi lên, có ý nghĩa cho tới tận ngày nay.

Trong đó bước đột phá thứ hai trong tư duy đổi mới kinh tế sau Đại hội V (1982)
đến trước Đại hội VI (1986) đã đưa ra được những lý luận về cơ cấu kinh tế, đóng góp
đáng kể trong việc phát triển nền kinh tế nước ta trong thời buổi hội nhập như hiện nay.
Một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thể phát triển ổn định, và việc bố trí cơ cấu
ngành kinh tế, sản xuất, đầu tư là những vấn đề quan trọng hàng đầu. Chính nhờ những
bước đi đúng đắn trong chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, tận dụng được hiệu quả các
nguồn lực mà nước ra từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu sản xuất nông nghiệp đã có
những bước tiến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng.

Tuy vậy, cơ cấu nền kinh tế nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, dẫn tới việc
sử dụng nguồn lực chưa thực sự tối ưu, nền kinh tế phát triển không đồng đều. Do vậy
việc thay đổi, điều chỉnh các nguồn lực, đề ra mục tiêu, cơ cấu lại nền kinh tế sao cho
hợp lý đang trở thành một thách thức lớn của nước ta hiện nay, hướng tới phát triển đất
nước giàu mạnh, phát triển, có vị thế trong nền kinh tế thị trường thế giới.

13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), “Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XIII”;

3. Tổng cục Thống kê, “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội”.

4. Phí Thị Hồng Linh, Bùi Đức Tuân và Trần Văn Thành (2020), “Chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và định hướng giải pháp giai
đoạn 2021-2030”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4 tháng 01/2020;

5. Chính phủ (2021). Báo cáo số 422/BC-CP, ngày 18/10/2021 về tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2022

6. Chính phủ (2021). Báo cáo số 424/BC-CP, ngày 18/10/2021 về Kế hoạch cơ cấu
lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Báo cáo số 9426/BC-BKHĐT, ngày 31/12/2021


của về tình hình kinh tế - xã hội năm 2021

14

You might also like