You are on page 1of 28

Chuyên đề 8

PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN


KHÔNG GIANG MẠNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


1. An ninh mạng 
a) Khái niệm an ninh mạng
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, an ninh mạng trở
thành một bộ phận cấu thành không  thể thiếu, đóng vai trò quan trọng trong xây
dựng xã hội thông tin và phát triển kinh tế tri thức. An ninh mạng thay đổi theo sự
phát triển của khoa học công nghệ và không gian mạng. Nhiều quốc gia đã nhận
thức rõ về những mối đe dọa đối với an ninh mạng, ban hành nhiều văn bản chính
sách, văn bản pháp luật như luật nhằm tạo ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại
các nguy cơ, thách thức từ không gian mạng. Một số quốc gia coi an ninh mạng là
an ninh quốc gia, không thể có an ninh quốc gia nếu không có an ninh mạng. Một
số quốc gia coi an ninh mạng là hoạt động bảo vệ tính toàn vẹn, bảo mật, sẵn sàng
của thông tin.
Theo đó trên thế giới có 5 quan điểm về an ninh mạng. Cụ thể như sau:
Một là, an ninh mạng là tập hợp chủ trương, chính sách, học thuyết, biện
pháp, lực lượng, quy tắc, sự bảo đi bảo vệ không gian mạng quốc gia, tài sản của
các tổ chức cá nhân. 
 Hai là, an ninh mạng là tập hợp các công nghệ, quy trình và thông lệ
được đưa ra nhằm bảo vệ các mạng lưới, máy tính, chương trình và dữ liệu tránh
bị tấn công, phá hủy hoặc truy nhập trái phép.
Ba là, an ninh mạng là an ninh công nghệ thông tin là hoạt động bảo vệ
các máy tính, mạng lưới, chương trình và dữ liệu tránh bị truy cập trái phép,
không có chủ đích, thay đổi hay phá hủy.
Bốn là, an ninh mạng liên quan đến việc bảo vệ thông tin và các hệ
thống thông tin tránh khỏi các mối đe dọa từ không gian mạng, như: Khủng bố
mạng, chiến tranh mạng và gián điệp mạng.
Năm là, an ninh mạng là một bộ quy tắc hay tập hợp các công nghệ
nhằm thực thi chính sách liên quan đến các khía cạnh khác nhau của việc sử
dụng máy tính và liên lạc điện tử.
Ở nước ta, khoa học công nghệ và không gian mạng đã được ứng dụng
sâu rộng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Bên cạnh
đó, không gian mạng cũng đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức, như: Chuyển hóa
chính trị, tấn công mạng, khủng bộ mạn, gián điệp mạng, chiến tranh mạng, mất
kiểm soát về an ninh mạng...
Thực trạng, nguy cơ trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng và
ban hành văn bản luật về an ninh mạng để phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các
2

hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật số
24/2018/QH14 về an ninh mạng, với 7 chương, 43 điều quy định những nội
dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an
ninh quốc gia, phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng, triển khai
hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Theo đó, khái niệm an ninh mạng được xác định là: Sự bảo đảm hoạt
động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Khái niệm an ninh mạng trong Luật An ninh mạng thể hiện được tầm
nhìn chính sách chiến lược, coi không gian mạng là một không gian mới, bên
cạnh đất liền, vùng biển, vùng trời, không gian. Không gian mạng phản ánh hoạt
động của con người, tạo ra lợi ích và cũng mang tới nguy cơ, thách thức, tác
động tới an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. An ninh mạng không chỉ giới hạn trong phạm trù bảo
vệ an ninh quốc gia, an ninh mạng lấy con người làm trung tâm, bảo vệ con
người trước các nguy cơ, thách thức tới từ không gian mạng.
b) Đặc điểm của an ninh mạng 
Tính toàn cầu
Tính toàn cầu của an ninh mạng xuất phát từ tính chất không biên giới
của không gian mạng, hoạt động trên không gian mạng không giới hạn bởi địa
giới lãnh thổ và hành chính, có khả năng tác động đến toàn cầu, một quốc gia
đơn lẻ không thể giải quyết hết được các nguy cơ, thách thức an ninh mạng. 
 Trên thực tế, những năm qua các nguy cơ, thách thức tới từ không gian
mạng, như: Tấn công mạng nghiêm trọng, khủng bố mạng, gián điệp mạng,
chiến tranh mạng hầu hết đều không tới từ bên trong lãnh thổ quốc gia. Các hoạt
động tương tác trên không gian mạng được thực hiện trên các dịch vụ xuyên
biên giới, có tính chất toàn cầu, có khả năng liên kết và xử lý dữ liệu lớn, máy
chủ xử lý dữ liệu được đặt tập trung ở một số địa điểm trên thế giới, cho phép
công dân toàn cầu truy cập và sử dụng. Do đó, hợp tác quốc tế đối phó với
những mối đe dọa đến từ không gian mạng đã trở thành một trong những ưu tiên
hàng đầu của nhiều quốc gia. 
 Tính phi chính phủ
Nguy cơ, thách thức từ không gian mạng không xuất phát từ đường lối,
chính sách của chính quyền mà có thể do một nhóm người, một tổ chức, cá nhân
gây ra. Với tính toàn cầu, các nhóm tin tặc có thể được tập hợp từ nhiều nơi trên
thế giới, hoạt động không giới hạn về thời gian. Ví dụ: Nhóm tin tặc
Anonymous đã tấn công, xâm nhập thành công vào thông mạng của Bộ Quốc
phòng Pháp, đánh cắp các thông tin nhạy cảm nhằm phản đối chính sách tăng
cường xuất khẩu vũ khí của Chính phủ Pháp, đánh sập 20 trang web của Chính
3

phủ Angola nhằm phản đối việc bỏ tù 17 nhà vận động hòa bình trẻ; tiến hành
chiến dịch chúng tôi là những tin tặc tốt hơn “#OpISIS tấn công Thổ Nhĩ Kỳ vì
cho rằng nước này đang hỗ trợ Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS.
Tính tương đối
Các hành vi gây mất an ninh mạng có tác động tới nhiều lĩnh vực khác
nhau. Hành vi tấn công mạng vào hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia có thể
dẫn tới tình trạng khẩn cấp. Tháng 6 năm 2017 đã xảy ra vụ tấn công mạng bằng
mã độc vô cùng phức tạp với trên 2.000 cuộc tấn công nhằm vào các cơ quan, tổ
chức của Nga và Ukraine, Ba Lan, Ý, Anh, Đức, Pháp, Mỹ và nhiều quốc gia
khác... Về tính chất, các cuộc tấn công này đã gây nguy hại đến an ninh quốc
gia, những mục đích thực sự chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản với giá trị tiền chuộc là
300 USD thanh toán bằng Bitcoin cho dữ liệu đã bị mã hóa.
Tính chuyển hóa
An ninh mạng có thể chuyển hóa từ vấn đề an ninh phi truyền thống trở
thành vấn đề an ninh truyền thông. Vũ khí mạng có thể được sử dụng vào các
hoạt động vũ trang và có sức sát thương không khác gì bom đạn truyền thống.
An ninh mạng có quan hệ tác động qua lại với các vấn đề an ninh, truyền thống,
như: An ninh chính trị và an ninh quân sự.
 Ở chiều ngược lại, xuất phát từ lợi ích chính trị, quân sự, các quốc gia
không chỉ quan tâm bảo đảm an ninh mạng bằng năng lực công nghệ, chính
sách, chiến lược mà còn quan tâm đến hoạt động tình báo mạng, gián điệp
mạng, “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng, chiến tranh mạng.
An ninh mạng có quan hệ tác động qua lại, chồng lấn, chuyển hóa với
các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, như an ninh kinh tế, an ninh thông tin,
an ninh tư tưởng - văn hóa, đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia,
khủng bố. Nguyên nhân xuất phát từ thực trạng dịch chuyển dần các hoạt động
kinh tế, xã hội và đời sống con người lên không gian mạng. 
 Tính khó xác định
Đến thời điểm hiện tại, chưa thể dự đoán được các mối đe dọa an ninh
mạng sẽ xảy ra ở đâu, khi nào và hậu quả ra sao. Đặc tính ẩn danh và lan tỏa cực
nhanh của không gian mạng khiến cho đến nay, việc truy nguồn các cuộc tấn
công rất khó khăn. Ngay các cường quốc về an ninh mạng trên thế giới như Nga,
Mỹ cũng chỉ dừng lại ở các cáo buộc đối phương thực hiện các hoạt động tấn
công mạng, gián điệp mạng mà không thể đưa ra được bằng chứng cụ thể.
2. Bảo vệ an ninh mạng 
a) Khái niệm bảo vệ an ninh mạng
Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi
xâm phạm an ninh mạng (khoản 2 Điều 4 Luật An ninh mạng).
4

Hành vi xâm phạm an ninh mạng là các hoạt động được thực hiện trên
không gian mạng gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 
 Công tác bảo vệ an ninh mạng là hoạt động tổ chức lực lượng và sử dụng
tổng hợp các biện pháp theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, xử lý hành vị trên không gian mạng gây phương hại đến an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 
 Biện pháp bảo vệ an ninh mạng bao gồm hệ thống các biện pháp bảo vệ
an ninh quốc gia, biện pháp nghiệp vụ, biện pháp hành chính, hình sự theo quy
định của pháp luật do lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử
dụng công nghệ cao tiến hành. 
 Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng là lực lượng được quy
định trong Luật An ninh mạng, chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
mạng theo chức năng, nhiệm vụ được giao, bao gồm: Cục An ninh mạng và
phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an; Cục Bảo vệ
an ninh Quân đội, Tổng cục Chính trị và Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng
thuộc Bộ Quốc phòng; Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao thuộc công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
b) Nội dung công tác bảo vệ an ninh mạng 
 Tham mưu ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật và các giải pháp
bảo vệ an ninh mạng.
 Nắm tình hình, tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện các chủ trương,
biện pháp để loại bỏ những điều kiện, phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh làm thất
bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tội phạm sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 
 Hướng dẫn, thực hiện công tác bảo vệ an ninh mạng phòng, chống hoạt
động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh mạng. Tổ chức thanh tra, kiểm tra,
phát hiện, kiến nghị xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trên
lĩnh vực an ninh mạng; thẩm định, đánh giá, chứng nhận an ninh mạng đối với hệ
thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; tham gia thẩm định quy hoạch, kế
hoạch, dự án phát triển thông tin liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội. 
 Tổ chức bảo vệ an ninh mạng cho hệ thống mạng thông tin quốc gia,
bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Phát hiện, ngăn chặn,
đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động xâm nhập mạng thông tin xâm phạm an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Hướng dẫn, kiểm tra công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng.
5

 Bảo đảm an ninh thông tin mạng: Phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động sử
dụng không gian mạng tuyên truyền, tán phát thông tin xấu độc. Tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về an ninh mạng, vận động quần
chúng tham gia bảo vệ an ninh mạng. Tổ chức tấn công, phản bác các luận điệu
tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch, phản động vạch trần âm mưu, thủ
đoạn, hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
 Thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, biện pháp nghiệp vụ
chuyên biệt, thu thập, phân tích dữ liệu điện tử và các biện pháp khác theo quy
định của pháp luật để bảo vệ an ninh mạng. 
 Đào tạo, nâng cao nhận thức, kiến thức, trình độ về an ninh mạng.
Hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học về an ninh mạng.
c) Đặc điểm công tác bảo vệ an ninh mạng
Công tác bảo vệ an ninh mạng là công tác đặc thù kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chính trị, nghiệp vụ, kỹ thuật, hợp tác quốc tế. 
 Công tác bảo vệ an ninh mạng không giới hạn về thời gian. Do múi giờ
trên Trái Đất khác nhau và để hạn chế sự phát hiện của cơ quan chức năng, nên
thời điểm nghỉ ngơi của ta là thời gian tội phạm hoạt động. Yêu cầu phá án rất
nhanh, cơ quan an ninh thường xác lập ngay chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ để
đấu tranh với đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật. 
 Công tác bảo vệ an ninh mạng có yếu tố công nghệ hàm lượng khoa học
cao, yêu cầu chuyên sâu về kỹ thuật, hoạt động đấu tranh bảo vệ an ninh mạng
chủ yếu diễn ra trên không gian mạng, tài liệu, chứng cứ phục vụ công tác đấu
tranh tồn tại dưới dạng dữ liệu số.
Công tác bảo vệ an ninh mạng đòi hỏi có sự phối hơn chẽ giữa lực lượng
Công an nhân dân với cơ quan chủ quản hệ thống thông tin và tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động môi trường mạng.
d) Mục tiêu, yêu cầu 
Mục tiêu của công tác bảo vệ an ninh mạng là:
Bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân tham gia hoạt động trên
không gian mạng; xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, trở thành
nguồn lực mạnh mẽ cho xây dựng và phát triển đất nước.
Yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh mạng là: 
- Tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Coi trọng công tác phòng ngừa là chính. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
các lực lượng công an, quân đội, thông tin và truyền thông, tuyên giáo, đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong bảo vệ an ninh mạng
quốc gia. Nâng cao nhận thức và kiến thức về bảo vệ an ninh mạng quốc gia cho
6

toàn xã hội, tranh thủ sự ủng hộ và huy động các lực lượng trong nhân dân tham
gia đấu tranh phản bác các thông tin xấu độc.
- Nắm chắc tình hình, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với
chủ động tấn công, xử lý kịp thời mọi tình huống trên không gian mạng xâm
phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Mọi âm mưu, hoạt động sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội phải được
phát hiện sớm và tổ chức ngay các biện pháp đâu tranh, vô hiệu hóa.
- Các đối tượng có hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của
pháp luật; đảm bảo phân hóa tội phạm. Các biện pháp xử lý phải được áp dụng
phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân đối tượng
phạm tội.
- Ngăn chặn, vô hiệu hóa kịp thời các trang thông tin xấu, độc hại, hạn
chế tối đa tác động xấu tới tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân.
e) Biện pháp bảo vệ an ninh mạng
- Phân loại theo hình thức, có 4 nhóm biện pháp bảo vệ an ninh mạng gồm:
+ Biện pháp an ninh mạng, với 7 biện pháp chủ yếu: Thẩm định an ninh
mạng; đánh giá điều kiện an ninh mạng; kiểm tra an ninh mạng; giám sát an
ninh mạng, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh
mạng; sử dụng mật mã để bảo vệ thông tin mạng.
+ Biện pháp hành chính: 
 Ngăn chặn, yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng; đình
chỉ, tạm đình chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng viễn thông,
mạng Internet, sản xuất và sử dụng thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến; yêu cầu
xóa bỏ, truy cập xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật; phong
tỏa, hạn chế hoạt động đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của
hệ thống thông tin; thu hồi tên miền.
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính vi phạm pháp luật về
an ninh mạng có thể bị cảnh cáo phạt tiền; áp dụng các hình phạt bổ sung: tước
quyền sử dụng giấy phép, tịch thu tang vật vi phạm; buộc ngừng hoạt động đình
chỉ, tạm đình chỉ, buộc khôi phục tình trạng cũ, buộc xóa bỏ, tháo gỡ, tiêu hủy
thông tin, nội dung thông tin.
+ Biện pháp điều tra, truy tố: Thu thập dữ liệu điện tử liên quan đến hành
vi vi phạm; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
+ Các biện pháp khác, gồm: Các biện pháp cơ bản bảo vệ an ninh quốc
gia, vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật,
nghiệp vụ, vũ trang theo Luật An ninh quốc gia.
7

- Phân loại theo nội dung, có biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng
ngừa nghiệp vụ.
+ Biện pháp phòng ngừa xã hội: Thực hiện quản lý nhà nước về an ninh
mạng; tham mưu ban hành các chủ trương, chính sách, pháp luật và các giải
pháp bảo vệ an ninh mạng; hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh
mạng, đầu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về an ninh mạng; vận động quần
chúng, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ
bí mật nhà nước.
+ Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ: Tổ chức các biện pháp nghiệp vụ cơ
bản, nhất là công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình, chủ động phát hiện, đề xuất
khắc phục các yếu tố đe dọa xâm phạm đến an ninh mạng, thực hiện các biện
pháp bảo vệ an ninh quốc gia, biện pháp pháp luật, nghiệp vụ và tố tụng hình sự.
II. THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG
HIỆN NAY
1. Sử dụng không gian mạng tuyên truyền phá hoại tư tưởng 
 Không gian mạng được coi là không gian chiến lược để các thế lực thù
địch, phản động, chống đối tuyên truyền, phá hoại tư tưởng đối với nước ta.
Nội dung tuyên truyền phá hoại tư tưởng tập trung vào việc phủ định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; tuyên truyền các học thuyết
chính trị đối lập; tác động đến quá trình ban hành các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền,
kêu gọi ủng hộ, can thiệp, đòi trả tự do cho các đối tượng chống đối bị xử lý; bôi
nhọ, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phá hoại nội bộ. 
 Hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng được các thế lực thù địch,
phản động, chống đối đẩy mạnh khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của
đất nước. Các bài viết thường pha trộn thông tin thật giả, thông tin thật nhiều
hơn giả nhưng thông tin giả là những điểm quan trọng, tác động vào tư tưởng,
nhận thức của người đọc. Nhiều bài viết sử dụng thông tin thu được từ nguồn
công khai, vấn đề nội bộ, trích dẫn rõ ràng, lồng ghép thông tin bịa đặt hoặc có
sửa làm người đọc khó phân biệt được thật giả, gây hoang mang trong dư luận.
 Thủ đoạn thực hiện ngày càng tinh vi, có sự ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ:
- Tán phát các địa chỉ liên kết đến các bài viết có nội dung bôi nhọ lãnh
đạo Đảng, Nhà nước được thực hiện qua nhiều hình thức, như: Viết báo, viết
blog, lập trang mạng xã hội tham gia nhóm trên mạng xã hội, gửi địa chỉ liên kết
(link) qua email, tin nhắn điện thoại di động, chiếm đoạt tài khoản trực tuyến
của các thuê bao di động Vinaphone, MobiFone, Viettel hoặc sử dụng dịch vụ
8

nhắn tin trên mạng do Google, Apple để che giấu nhân thân, tránh sự truy dấu
vết của cơ quan chức năng.
- Phát động chiến dịch vận động gửi kiến nghị, lấy ý kiến nhân dân để
gây sức ép với chính quyền về dân chủ, nhân quyền và xây dựng pháp luật,
thông qua các hình thức “kiến nghị”, “thư ngỏ”. Nhiều đối tượng giả mạo chữ
ký của cá nhân có uy tín để khuếch trương thanh thế, đánh lừa quần chúng nhân
dân. Chúng tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các đồng chí lãnh đạo cấp cao hạ uy tín,
tác động, chống phá những chính sách, quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước.
- Lợi dụng sở hở trong quản lý các trang mạng tên miền gia (.vn) để phát
tán nội dung phản động, lồng ghép nội dung tuyên truyền phá hoại tư tưởng trong
các cuộc thi có thưởng trên không gian mạng, sáng tác nhiều bài hát có nội dung
phản động đã được đăng tải trên các website, ứng dụng có số lượng người truy
cập lớn.
- Sử dụng nickname để tạo dựng, điều hành các trạng mạng, blog, tham
gia diễn đàn, mạng xã hội, tán phát thông tin lên mạng hoặc cung cấp thông tin
cho bên ngoài; chỉnh sửa và che giấu thông tin thiết bị; sử dụng các ứng dụng
OTT bảo mật cao để tán phát thông tin, tài liệu, soạn thảo và lưu trữ tài liệu trực
tuyến; sử dụng kỹ thuật giấu địa chỉ IP và các dấu vết trên đường truyền.
2. Sử dụng không gian mạng phát triển tổ chức phản động lưu vong
người Việt ở hải ngoại vào trong nước
Các tổ chức phản động lưu vong coi không gian mạng là phương tiện
chiến lược, thường xuyên sử dụng các ứng dụng trên không gian mạng để liên
kết, móc nối phát triển lực lượng, huấn luyện, hỗ trợ hoạt động chống phá; đồng
thời, cử thành viên trực tiếp xâm nhập để chỉ đạo hoạt động, công khai hóa tổ
chức ở trong nước. 
 Các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài sử dụng Internet tuyên
truyền về tổ chức kết hợp với các luận điệu chiến tranh tâm lý tác động tư tưởng
để thu hút, lôi kéo người vào tổ chức, tìm chọn, phát hiện đầu mối dự tuyển. Các
tổ chức này tìm cách phát hiện, chấm chọn đầu mối dự tuyển trong số những
người chủ động liên lạc với tổ chức phản động lưu vong, chủ yếu là những
người đã bị chuyển hóa, biến chất. Chúng sử dụng không gian mạng để chuyển
tiền, huấn luyện, chỉ đạo cơ sở nội địa, chuyển phương thức luyện từ “gặp mặt -
huấn luyện” sang “vừa huấn luyện vừa hoạt động” thông qua mạng Internet.
Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong đều lập website, mạng xã hội
giới thiệu về tổ chức, công khai thông tin liên lạc, sử dụng các diễn đàn, nhóm
trên mạng xã hội tìm kiếm các đối tượng đồng quan điểm chính trị phản động để
móc nối, lôi kéo tham gia tổ chức.
 3. Sử dụng không gian mạng tập hợp lực lượng, hình thành tổ chức
chính trị đối lập 
 Các thế lực thù địch, phản động, chống đối thông qua các website, blog,
diễn đàn, mạng xã hội để tập hợp lực lượng. Chúng tổ chức đội ngũ biên tập nội
9

dung, tán phát thông tin, quảng cáo chính trị nhằm gây sự chú ý, tác động tư
tưởng, lôi kéo những người cùng quan điểm, thái độ chính trị và mục đích. Từ
đó, tạo dựng những luồng dư luận trái chiều để phục vụ cho mục đích chống phá
hoặc huy động quần chúng, trong đó có cả tầng lớp trí thức, lão thành cách
mạng, sinh viên, học sinh tham gia vào những hoạt động chống phá gây áp lực
với chính quyền. 
 Các tổ chức phản động lưu vong công khai thành lập tổ chức, phong
trào đối lập trên không gian mạng để tập hợp lực lượng, thông qua các website,
mạng xã hội, blog hội nhóm, cá nhân. Những năm gần đây, một số tổ chức, nhen
nhóm thành lập tổ chức phản động và hoạt động trên không gian mạng dưới các
danh xưng, như hội, nhóm, phong trào, diễn đàn.
4. Sử dụng không gian mạng kích động biểu tình, phá rối an ninh,
gây bạo loạn 
 Kích động biểu tình, phá rối an ninh, gây bạo loạn là phương thức hữu
hiệu nhất thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Các thế lực thù
địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước đã ra sức tuyên truyền, huấn
luyện phương thức đấu tranh “bất bạo động”, cổ vũ các hành động chống đối mà
chúng gọi là “bất tuân dân sự”. Sau sự kiện “Mùa xuân Ả rập” tại Trung Đông,
Bắc Phi, các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước ảo
tưởng về thời cơ lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam theo kịch bản tương tự đã đến,
liên tục kích động biểu tình, gây bạo loạn.
Các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước lợi dụng
lòng yêu nước, tâm lý bức xúc của nhân dân đối với các vấn đề nổi lên trong xã
hội để kích động biểu tình trái pháp luật. Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tuyên
truyền tinh vi và triệt để khai thác các ưu thế của Internet để lôi kéo, tập hợp lực
lượng tham gia biểu tình, như ra các loại “tuyên cáo” mang những nội dung mị
dân như phản đối, lên án chủ thể xác định. Thông qua các cuộc biểu tình, các thế
lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước tìm chọn, xây dựng “ngọn
cờ” và tạo dựng, xác lập ảnh hưởng đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.
Các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước tổ chức
truyền trực tiếp diễn biến các cuộc lên Internet để khuếch trương thanh thế, lôi
kéo, kích người tham gia và xuyên tạc, vu cáo lực lượng chức năng. Khi diễn ra
biểu tình, chúng sử dụng điện thoại di động, máy tính bảng, máy ảnh, camera,
flycam ghi âm, quay phim, chụp ảnh diễn biến biểu tình và tải trực tiếp lên
Internet qua kết nối 3G, sử dụng tính năng Live Stream của Facebook tường
thuật trực tiếp cuộc biểu tình để tiếp tục lôi kéo người tham gia; đồng thời, sử
dụng những tư liệu này để vu cáo chính quyền khi bị trấn áp.
 Chúng tìm cách duy trì biểu tình để tập hợp lực lượng tập dượt quần
chúng và tạo tình trạng bất ổn về an ninh trật tự trong nước, tìm thời cơ tiến
hành “cách mạng đường phố” tại Việt Nam. Đồng thời, sử dụng nhiều phần
10

mềm chuyên dụng, hướng dẫn cài đặt và sử dụng các ứng dụng kết nối không
cần dùng Intenret để tuyên truyền, kích động biểu tình.
5. Sử dụng không gian mạng hoạt động tình báo, gián điệp
Hệ thống mạng thông tin nước ta trở thành mục tiêu tấn công của hàng
loạt hoạt động gián điệp mạng quy mô lớn, tiến hành thu thập thông tin tình báo,
trong đó có nhiều tài liệu, cả tài liệu bí mật nhà nước, tài liệu có nội dung nhạy
cảm của các bộ, ngành trọng yếu của Việt Nam. Qua khảo sát đã phát hiện nhiều
thiết bị phần cứng có xuất xứ nước ngoài bị cài đặt mã độc gây nguy cơ bị
khống chế từ xa và định vị người sử dụng, một số điện thoại thông minh nước
ngoài sản xuất chứa mã độc cho phép định vị, lấy trộm danh bạ, tin nhắn và ghi
âm bí mật, một số thiết bị lưu trữ di động có chứa sẵn mã độc cho phép tin tặc
lấy cắp dữ liệu. Nhiều công ty bảo mật trên thế giới liên tục phát hiện, công bố
các dòng mã độc được chế tạo tinh vi, được ví như vũ khí mạng với các khả
năng xâm nhập, thu thập gián điệp. 
 Cơ quan đặc biệt nước ngoài sử dụng không gian mạng móc nối, tuyển
lựa, liên lạc gián điệp, tạo lập nhiều biệt danh (nickname) khác nhau thâm nhập
các diễn đàn, mạng tuyển dụng, mạng xã hội để gây quan hệ, tìm chọn đầu mối,
tuyển dụng nhân sự, chủ động làm quen, tiếp cận nhiều người trong nước, giao
nhiệm vụ thử thách cho người ứng tuyển, từng bước bộc lộ nhu cầu cộng tác bí
mật, mua thông tin bí mật nhà nước, bí mật nội bộ, sử dụng mã độc để kiểm soát,
chiếm đoạt tài liệu lưu trữ trên máy tính và sử dụng làm bàn đạp tấn công các
quan hệ của đối tượng dự tuyển, lây nhiễm mã độc sang máy tính của lực lượng
chức năng khi kiểm tra, khám xét, thu giữ, xử lý tài liệu trong máy tính đối tượng.
 6. Làm lộ bí mật nhà nước qua không gian mạng 
 Tình hình lộ, lọt bí mật nhà nước tại các bộ, ngành, địa phương diễn
biến phức tạp, nhiều vụ việc có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Nhiều tài liệu
thuộc danh mục “tuyệt mật”, “tối mật” bị lộ trên mạng. 
 Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chủ quản thiếu trách nhiệm trong
việc kiểm soát nội dung thông tin đăng tải trên các trang, cổng thông tin điện tử
thuộc đơn vị mình quản lý; cán bộ, công chức, viên chức nhận thức hạn chế,
thiếu hiểu biết trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên môi trường Internet, ý
thức trách nhiệm về việc chấp hành quy định bảo mật chưa nghiêm. Nhiều cơ
quan, đơn vị chưa chấp hành tốt các quy định về soạn thảo, lưu trữ, truyền đưa
tài liệu có nội dung thuộc bí mật nhà nước. Việc sử dụng các thiết bị lưu trữ
ngoài như thẻ nhớ hoặc USB còn tràn lan. chưa được quản lý chặt chẽ dẫn đến
lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật nhà nước.
7. Hoạt động tấn công mạng để phá hoại
Các nhóm tin tặc tấn công chủ yếu vào hệ thống hạ tầng mạng của các
cơ quan, doanh nghiệp trọng yếu; sử dụng các dòng mã độc nguy hiểm, liên tục
được nâng cấp, ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tiến hành tấn công, xâm nhập, đánh
cắp thông tin, tài liệu bí mật nhà nước. Hàng chục nghìn trang thông tin của
11

nước ta bị tấn công, hàng nghìn địa chỉ IP của khách hàng các nhà cung cấp dịch
vụ Internet trong nước bị nhiễm mã độc. Số lượng các trang, cổng thuộc quản lý
của cơ quan nhà nước bị tấn công mạng tăng mạnh.
Tình trạng tin tặc tấn công, chiếm quyền quản trị các trang thông tin điện
tử của tổ chức, cá nhân nhằm mục đích phá hoại ngày càng phổ biến, như: Tấn
công mã hóa dữ liệu, tấn công chiếm đoạt tên miền, làm thay đổi giao diện, xóa
bỏ một phần cơ sở dữ liệu; tấn công hệ thống, trang thông của nhiều cơ quan,
doanh nghiệp để chiếm dụng, đánh cắp, làm lộ lột bí mật thông tin, dữ liệu, làm
tê liệt hệ thống máy tính; thay đổi nội dung thông tin, phá hoại hệ thống máy
chủ, hệ thống điều khiển của các nhà cung cấp dịch vụ... 
 Về phương thức, thủ đoạn, tập trung khai thác các lỗ hổng bảo mật, tấn
công từ chối dịch vụ, tán phát virus, mã độc, tin nhắn rác, tạo các trang tin, blog
giả mạo có gắn mã độc để thu hút người dùng hoặc sử dụng các công cụ tấn
công mạnh, khó phát hiện và không để lại dấu vết. Một số tin tặc đã tự tạo các
công cụ tấn công, xây dựng hệ thống, cung cấp mã độc hoặc cung cấp miễn phí
thông tin tài khoản thẻ tín dụng để lôi kéo, tập hợp thành viên tham gia. Một số
tổ chức, cá nhân lập ra các đường dây tấn công mạng theo mục đích của người
thuê nhằm tấn công, trộm cắp dữ liệu, gây gián đoạn, ngưng trệ hoạt động cho
hệ thống thông tin của doanh nghiệp, cá nhân khác. Đối tượng bị nhắm tới chủ
yếu là đối thủ kinh doanh, cá nhân có mâu thuẫn về kinh tế, tình cảm. Nhiều vụ
việc bị đe dọa và tống tiền với số lượng lên tới hàng chục tỷ đồng.
8. Tội phạm sử dụng công nghệ cao
Tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản qua mạng thời gian qua diễn biến
phức tạp, nghiêm trọng, chuyên nghiệp, có tổ chức và gây bức xúc trong quần
chúng nhân dân. Thủ đoạn chủ yếu của loại tội phạm này này là tìm cách đánh
cắp tài khoản mạng xã hội Facebook, zalo,...), sử dụng để lừa đáo các nạn nhân
thông qua việc nhờ nạp thẻ điện thoại, thẻ game, chuyển tiền; mạo danh cơ quan,
cán bộ thực thi pháp luật gọi điện yêu cầu công dân nộp tiền để chiếm đoạt; lập
các website giả mạo website của các doanh nghiệp, tổ chức để lừa đảo; lập các
website rao bán hàng chính hãng giảm giá nhưng gửi hàng kém chất lượng; thỏa
thuận mua hàng hóa qua mạng xã hội, yêu cầu chuyển tiền trước vào tài khoản
nhưng không chuyển hàng hoặc bán hàng giả, hàng kém chất lượng; xâm nhập,
chiếm đoạt tài khoản email của doanh nghiệp để theo dõi các giao dịch kinh
doanh rồi thay đổi thông tin người nhận tiền để chiếm đoạt số tiền trong hợp đồng
kinh tế do đối tác của doanh nghiệp gửi; sử dụng SIM khuyến mãi dịch vụ 3G,
4G, 5G để phát tán tin nhắn lừa đảo. 
 Làm giả thẻ tín dụng để chiếm đoạt tài sản: Các đối tượng chủ yếu thuộc
các nước và vùng lãnh thổ như: Đông Âu, Trung Quốc, Đài Loan thuộc Trung
Quốc, Malaysia và một số quốc gia châu Phi, hình thành những đường dây gồm
nhiều đối tượng cả trong lẫn ngoài nước và có sự phân công thực hiện từng giai
đoạn trong quá trình phạm tội. Các đối tượng sử dụng các thủ đoạn xâm nhập
12

bất hợp pháp vào các website bán hàng, thanh toán trực tuyến để trộm cắp thông
tin thẻ tín dụng, sau đó sử dụng trái phép thông tin thẻ tín dụng đó để đặt mua
hàng hóa trực tuyến có giá trị cao chuyển về Việt Nam tiêu thụ; sử dụng thiết bị
lấy cắp thông tin thẻ tín dụng và thiết bị làm thẻ giả để làm thẻ tín dụng giả, thực
hiện các giao dịch khống qua POS.
Lợi dụng các dịch vụ thanh toán trực tuyến để chiếm đoạt tài sản: Các đối
tượng thường xuyên sử dụng các dịch vụ thanh toán trực tuyến quốc tế như
Liberty Reserve, Paypal, E-gold, E-pasport, U-kash, Webmoney... và các dịch vụ
thanh toán trực tuyến của ngân hàng, doanh nghiệp viễn thông trong nước như
Internet banking, Mobi banking, Saving Pay, QR Code để phạm tội. Chúng
thường sử dụng thủ đoạn thuê mở tài khoản, mua lại tài khoản ngân hàng, tài
khoản thẻ, tài khoản ghi nợ quốc tế để nhận, chuyển tiền có được do hành vi lừa
đảo trên mạng, tổ chức đánh bạc, cá độ, quảng cáo trái phép. Trong khi đó, nhiều
cổng thanh toán thẻ cào, cổng thanh toán điện tử do doanh nghiệp tự phát hành
phục vụ trò chơi trực tuyến, cá cược hoạt động công khai với doanh số, giá trị cao
nhưng chưa có quy định để quản lý, giám sát, gây khó khăn cho công tác điều tra,
xử lý tội phạm. Thời gian gần đây, các đối tượng đã lập và tạo nhiều sàn giao dịch
các loại tiền “ảo” như Onecoin, Bitcoin, Ilcoin, Gemcoin... để thu hút các nhà đầu
tư nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hoạt động “tín dụng đen” qua mạng diễn biến phức tạp, nổi lên là hình
thức cho vay ngang hàng (P2P Lending), lãi suất trung bình từ 90 đến
100%/tháng, thậm chí lên tới 700 đến 1.000%/tháng. Hàng chục công ty, hàng
trăm ứng dụng cho vay trực tuyến, có yếu tố người nước ngoài đứng sau quản lý.
Tội phạm có tổ chức hoạt động trong lĩnh vực thanh toán thẻ, thanh toán
điện tử, tài chính, ngân hàng tiếp tục được phát hiện với nhiều thủ đoạn mới tinh
vi hơn. Xuất hiện thủ đoạn “hủy đảo giao dịch”, lợi dụng hoạt động thanh toán
hàng hóa, dịch vụ qua POS của một số ngân hàng thương mại có lỗi để thực hiện
giao dịch không, chiếm đoạt tài sản. Hoạt động thanh toán xuyên biên giới chưa
được quản lý chặt chẽ, tiềm ẩn nguy cơ lợi dụng vào hoạt động phạm tội, gây
mất an ninh tài chính tiền tệ. Hoạt động lắp đặt thiết bị skimming tại các máy
ATM nhằm trộm cắp thông tin làm giả thẻ ngân hàng để rút tiền giảm mạnh thời
gian qua.  Hoạt động thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến diễn biến phức
tạp và gia tăng trong khi Nhà nước và các địa phương áp dụng các biện pháp
phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Việc sử dụng mạng xã hội, sàn thương mại
điện tử để chào bán sản phẩm hàng giả, hàng nhái ngày càng nhiều. Quy mô
kinh doanh trực tuyến các hàng hóa vi phạm pháp luật ngày càng lớn. 
 Các sàn giao dịch tiền ảo, vàng, ngoại hối, chứng khoán quốc tế bất hợp
pháp có số vốn huy động lên tới hàng nghìn tỷ đồng mỗi tháng. Thủ đoạn chủ
yếu là tổ chức các buổi giới thiệu sản phẩm, đưa ra lợi nhuận lên tới hàng trăm
phần trăm để thu hút nhà đầu tư, sau đó tác động vào hệ thống làm thay đổi tỷ lệ
chênh lệch giữa lệnh mua và bán nhằm chiếm đoạt tài sản.
13

Sử dụng dịch vụ điện thoại trên nền Internet (VoIP) để lừa đảo: Đối
tượng chủ yếu là người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, sử dụng thủ đoạn thuê
địa điểm và đường truyền Internet tốc độ cao, thiết lập và sử dụng hệ thống dịch
vụ cuộc gọi thoại trên nền Internet (VoIP) để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tình trạng trộm cắp cước viễn thông quốc tế tiếp tục gây ra những thiệt
hại lớn. Các đối tượng thường thiết lập hệ thống đường truyền viễn thông từ
nước ngoài về Việt Nam sau đó bán lưu lượng đường truyền cho các đối tượng ở
nước ngoài để các đối tượng ở nước ngoài thực hiện các cuộc gọi quốc tế về
Việt Nam với giá cước rẻ hơn so với quy định, gây thiệt hại nghiêm trọng cho
các doanh nghiệp viễn thông trong nước.
Sử dụng không gian mạng để cá độ, đánh bạc và tổ chức đánh bạc: Các
đối tượng trong và ngoài nước móc nối với nhau hình thành các đường dây tổ
chức đánh bạc, cá độ bóng đá trực tuyến dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi.
Đối tượng trong nước cấu kết với đối tượng nước ngoài xây dựng mạng lưới
hoạt động đánh bạc rộng khắp các tỉnh, thành phố thu hút số lượng lớn người
tham gia. Số tiền chuyển ra nước ngoài lên đến hàng nghìn tỷ đồng, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội,
tác động tiêu cực đến sự ổn định, phát triển của đất nước, nhất là an ninh tài
chính, tiền tệ.
  Trao đổi, mua bán, hướng dẫn chế tạo, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công
cụ hỗ trợ trên không gian mạng: Các đối tượng đã lập ra hàng trăm trang web,
chuyên trang mạng xã hội để công khai rao bán, hướng dẫn chế tạo, sử dụng các
loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Việc mua bán các loại công cụ hỗ trợ và
hung khí nguy hiểm hiện nay khá dễ dàng và khó kiểm soát khi thực hiện qua
không gian mạng, tác động không nhỏ tới tình hình an ninh, trật tự, làm gia tăng
các hành vi vi phạm pháp luật. 
  Truyền bá, phát tán ấn phẩm đồi trụy qua không gian mạng gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục. Đặc biệt, tình trạng truyền bá
phim, ảnh khiêu dâm trẻ em đã và đang gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm, sinh lý của trẻ em, làm gia tăng tình trạng lạm
dụng trẻ em. Nhiều nhóm đồi trụy được tạo lập trên mạng xã hội, thu hút nhiều
thành viên tham gia, chia sẻ nhiều phim ảnh và cung cấp thông tin liên quan
dịch vụ đồi trụy.
 Kinh doanh trái phép trò chơi điện tử trực tuyến ngày càng gia tăng, tác
động xấu đến an ninh, trật tự. Một phần không nhỏ trò chơi trực tuyến có hình
ảnh bạo lực, kích dục, gây ra những tác động tiêu cực cho xã hội. Nhiều người
chơi bị nội dung của các trò chơi điện tử kích động, mất kiểm soát hành vi, gây
nên những vụ án nghiêm trọng.
Các diễn đàn, “thế giới ngầm - under ground” có số lượng lớn đối tượng
người Việt Nam tham gia, thường xuyên trao đổi, chia sẻ phương thức, thủ
14

đoạn, công cụ tấn công mạng, trao đổi, mua bán, sử dụng trái phép thông tin thẻ
tín dụng của người khác nhằm mục đích trục lợi, chiếm đoạt tài sản.
III. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC
PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG
1. Cơ sở chính trị
Chủ trương nhất quán của Đảng ta là thúc đẩy phát triển công nghệ
thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đi đối với quản lý, ngăn chặn, hạn
chế các tác động tiêu cực từ những thông tin trên không gian mạng.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay, trong các văn kiện, nghị quyết,
Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh chủ trương phát triển công nghệ thông tin, gắn
với mục tiêu bảo đảm quốc Phòng, an ninh, bảo đảm an ninh mạng, thể hiện rõ
trong Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 1 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2013
của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22 tháng 6 năm
2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
đảm an ninh trật tự trong tình hình mới; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16 tháng 9
năm 2013 của Ban Bí thư về tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin
mạng; Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 25 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị về phát
triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền
thông khác trên Internet; Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2014 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông
tin mạng trong tình hình mới; Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 1 tháng 7 năm
2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Ngày 25 tháng 7 năm 2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
30-NQ/TW về Chiến lược An ninh mạng quốc gia, xác định mục tiêu chung là
bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng:
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hiệu quả các hành vi xâm phạm an ninh
mạng quốc gia, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia; xây
dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, trở thành nguồn lực mạnh mẽ cho
xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Chiến lược an ninh mạng quốc gia xác định các quan điểm chỉ đạo trong
bảo vệ an ninh mạng, gồm:
 - An ninh mạng có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị, của toàn dân,
của các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của
Nhà nước, trong đó lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân giữ vai trò
nòng cốt.
15

- Huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của
toàn xã hội trong công tác bảo đảm an ninh mạng.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh mạng.
- Đầu tư cho bảo vệ an ninh mạng là đầu tư cho phát triển và bảo vệ đất
nước, ưu tiên đầu tư cho an ninh mạng; ứng dụng công nghệ thông tin trong các
lĩnh vực phải gắn với đầu tư cho bảo vệ an ninh mạng, bảo đảm theo kịp sự phát
triển khoa học và công nghệ của thời đại.
- Xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại, ngang tầm khu vực và quốc tế. Huy động, phát huy hiệu quả các
nguồn lực trong nước đi đôi với tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo
đảm an toàn, an ninh thông tin và an ninh mạng. 
 Chiến lược an ninh mạng quốc gia đặt ra 7 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của cả hệ thống
chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng quốc gia, xây dựng thế trận an ninh
nhân dân trên không gian mạng.
- Xây dựng, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về an ninh
mạng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh mạng.
- Kiện toàn tổ chức và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực lượng
chức năng trong bảo vệ an ninh mạng.
- Bảo đảm các nguồn lực đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh mạng.
- Triển khai các chương trình và biện pháp kỹ thuật bảo vệ an ninh mạng
đối với các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
- Tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả đấu tranh bảo vệ an ninh
mạng, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên không gian mạng.
- Tăng cường, mở rộng quan hệ và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
bảo vệ an ninh mạng.
 Bộ Chính trị chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc
gia do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban Chỉ đạo, Bộ Công an làm Cơ quan
Thường trực để thống nhất chỉ đạo trong phạm vi toàn quốc. Hiện nay, Chính phủ
đã chỉ đạo thành lập Văn phòng Ban Chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia tại
Trung ương và Tiểu ban an toàn, an ninh mạng tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động bảo vệ an ninh mạng.
2. Cơ sở pháp lý
Các quy phạm pháp luật về công nghệ thông tin, an toàn thông tin mạng:
Ngay từ khi Internet chưa chính thức được kết nối vào Việt Nam, Bộ Nội
vụ (nay là Bộ Công an) đã có Quyết định số 848/1997/QĐ-BNV(A11) ngày 23
tháng 10 năm 1997 quy định về biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát
bảo đảm an ninh quốc gia trong hoạt động Internet tại Việt Nam. Sau hai lần điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung, ngày 15 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị
16

định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin trên mạng. Ngày 19 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua và ban hành Luật
An toàn thông tin mạng (Luật số 86/2015/QH13). Để triển khai thực hiện Luật An
toàn thông tin mạng 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2016/NĐ-CP
ngày 1 tháng 7 năm 2016 về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ,
Nghị định số 142/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2016 về ngăn chặn xung
đột thông tin trên mạng.
Các quy phạm pháp luật về an ninh mạng:
Ngày 29 tháng 7 năm 2016, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị quyết
số 22/2016/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và năm
2017, trong đó giao Chính phủ xây dựng Luật An ninh mạng. Thực hiện Nghị
quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1840/2016/QĐ-TTg
ngày 23 tháng 9 năm 2016 phân công cơ quan chủ trì soạn thảo và thời hạn trình
các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết được bổ sung vào Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017,
giao Bộ Công an chủ trì xây dựng Luật An ninh mạng. Ngày 12 tháng 6 năm
2018, Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng với tỷ lệ 86,86% đồng ý, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2019.
Luật An ninh mạng gồm 7 chương 43 điều, quy định những nội dung cơ
bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo
vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 
 Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm, gồm: hành
vi xâm phạm an ninh quốc gia; hành vi xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; hoạt
động phạm tội, hướng dẫn phạm tội trên không gian mạng; sản xuất các công cụ
thực hiện hành vi phạm tội trên không gian mạng, chống lại, cản trở lực lượng
chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thực thi pháp luật, lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt
động bảo vệ an ninh mạng để phạm tội. Người nào có hành vi vi phạm quy định
của Luật An ninh mạng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị: xử lý kỷ
luật, xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường.
Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về an ninh
mạng, gồm: Nghị định số 04/2019/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2019 của
Chính phủ quy định trình tự, thủ tục áp dụng một số biện pháp đảm bảo an ninh
mạng, Nghị định số 101/2016/NĐ-CP ngày 1 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ
quy định chi tiết về trách nhiệm thực hiện và các biện pháp ngăn chặn hoạt động
sử dụng không gian mạng để khủng bố; Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 7
tháng 4 năm 2014 quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
khác có sử dụng công nghệ cao.
Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng, với trọng tâm là: Nghị
17

định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng; Nghị định về bảo vệ
dữ liệu cá nhân; Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an ninh
mạng; Nghị định quy định điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an ninh mạng.
Đồng thời, giao Bộ Công an xây dựng quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Các quy phạm pháp luật hình sự.
Các quy phạm pháp luật trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 như các nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại
Chương XIII (Điều 108 đến cầu 121), nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông , mạng viễn thông (Điều 285 đến Điều 294) là căn cứ pháp lý quan trọng
để lực lượng Công an nhân dân đấu tranh, xử lý các đối tượng có hành vi sử
dụng không gian mạng để phạm tội.
Các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính:  Luật Xử lý vi
phạm hành chính, Nghị định số 174/2013/ NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính,
viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện là căn cứ để lực lượng
Công an nhân dân xử lý các đối tượng có hành vi vi phạm nhưng chưa đến mức
xử lý hình sự hoặc do yêu câu chính trị, nghiệp vụ chưa thể xử lý hình sự.
IV. TỔ CHỨC PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ AN
NINH MẠNG
1. Tổ chức lực lượng 
Bộ Công an giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về an ninh mạng. 
Bộ Công an giao cho lực lượng an ninh mạng và phòng, Chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao thực hiện nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật về
an ninh mạng. Lực lượng này gồm: Cục An ninh mạng và phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an; Phòng An ninh mạng và phòng,
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PA05) công an các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. 
Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao,
Bộ Công an có nhiệm vụ tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Công an thống nhất quản
lý nhà nước về an ninh mạng trên phạm vi cả nước; trực tiếp tiến hành và chỉ
đạo, hướng dẫn công an các địa phương tiến hành các biện pháp phòng ngừa,
phát hiện, điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng và tội phạm
sử dụng công nghệ cao. 
Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(PA05), công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị nghiệp vụ,
trực thuộc công an cấp tỉnh, có chức năng tham mưu Giám đốc Công an tỉnh chỉ
đạo và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý
hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm
phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh trong đó có tội phạm sử dụng công nghệ cao.
18

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, lực lượng an ninh mạng và
phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao phối hợp với các bộ, ban, ngành,
địa phương, công an các đơn vị, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có
liên quan tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ban
hành các chủ trương, chính sách, pháp luật và các giải pháp bảo vệ an ninh mạng;
trao đổi thông về hoạt động sử dụng Internet xâm phạm an ninh quốc gia trật tự,
an toàn xã hội, các yếu tố đe dọa xâm phạm đến an ninh mạng; triển khai các
chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ xác minh, truy tìm, áp dụng các đối sách và thực
hiện các biện pháp tố tụng đối với đối tượng có hành vi sử dụng không gian mạng
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tổ chức bảo vệ an ninh mạng
cho hệ thống mạng thông tin của các cơ quan trọng yếu; bảo vệ bí mật nhà nước
trên không gian mạng; phòng, chống tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp
mạng, chiến tranh mạng.
2. Hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về an ninh mạng
a) Công tác phòng ngừa
Tham mưu lãnh đạo Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, chỉ đạo thực
hiện các giải pháp bảo vệ an ninh mạng
Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ ban hành các chủ
trương, chính sách về an ninh mạng; xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin đồng
bộ, đáp ứng các yêu cầu đảm bảo an ninh mạng, tạo cơ chế, chính sách, pháp
luật thuận lợi cho hoạt động đảm bảo an ninh mạng phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội; củng cố hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh mạng; tăng cường tiềm lực
cho lực lượng chuyên trách, xây dựng nguồn nhân lực có trình độ cao về an ninh
mạng đủ năng lực đối phó với mọi mối đe dọa quốc phòng, an ninh trên không
gian mạng. Chú trọng nâng cao nhận thức, kiến thức về an ninh mạng, gắn trách
nhiệm bảo vệ an ninh mạng cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Các cấp lãnh
đạo trong hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân, khi tham gia vào môi trường
mạng đều có nhận thức, kiến thức về công tác đảm bảo an ninh mạng, đủ sức đề
kháng trước những luồng thông tin xấu và tội phạm mạng.
Tham mưu xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản an phạm pháp luật về
an ninh mạng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh
mạng 
Tham mưu ban hành văn bản pháp luật về an ninh mạng, phòng, chống
tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiến tranh mạng và các hành
vi khác xâm phạm an ninh mạng. Tăng cường quản lý, sử dụng dịch vụ Internet.
Phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng các văn bản pháp luật và vận
dụng cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác quản lý nhà nước đối với dịch
vụ Internet nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh với hoạt động sử
dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia của các thế lực thù địch. 
 Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương phòng ngừa hoạt động sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
19

 Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị triển khai các văn bản của Đảng, Nhà
nước và Bộ Công an liên quan đến bảo vệ an ninh mạng, an ninh thông tin trên
lĩnh vực Internet, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25
tháng 7 năm 2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, Luật
An ninh mạng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thường xuyên thông báo tình hình an ninh mạng trong nước và thế giới,
cảnh báo các chiến dịch tấn công mạng nhằm vào Việt Nam và hướng dẫn các
bộ, ban, ngành, địa phương các biện pháp bảo đảm an ninh mạng, phòng, chống
tấn công mạng và bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng. 
 Tư vấn xây dựng phương án, giải pháp kỹ thuật để phát hiện, khắc phục
các yếu tố gây mất an ninh mạng, ký quy chế phối hợp bảo đảm an ninh mạng. 
 Tích cực phối hợp các cơ quan thông tấn, báo chí tiến hành tuyên truyền
về công tác đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao.
Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trên không
gian mạng
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội trên lĩnh vực viễn thông, Internet, lực lượng Công an nhân dân
thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ Internet, báo chí điện tử, các website tổng hợp, mạng xã hội trong nước để
phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, đăng tải thông tin trái với quan
điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước. 
 Phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức tốt công tác quản lý nhà
nước trên lĩnh vực quản lý, cung cấp, sử dụng Internet và thông tin trên mạng,
trên lĩnh vực báo chí, nhất là báo điện tử; hạn chế việc các đối tượng chống đối
lợi dụng sơ hở, yếu kém của ta để đăng trên trang thông tin điện tử cá nhân các
bài viết có nội dung trái với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước và biến
các trang điện tử cá nhân thành báo tư nhân trá hình. 
 Phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ Internet triển khai các biện pháp
công tác và kỹ thuật nghiệp vụ phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống âm mưu,
hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, chặn lọc trang mạng có thông tin xấu, truy tìm hàng trăm đối tượng trong
nước sử dụng không gian mạng hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội thông qua các dấu vết kỹ thuật.
Phối hợp với xây dựng các kế hoạch, giải pháp khắc phục những thiếu sót,
hạn chế trong quản lý dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, thuê bao
di động, thuê bao 3G, 4G, 5G, các trang thông tin điện tử nói chung và trang
thông tin điện tử cá nhân nói riêng sử dụng các biện pháp ngăn chặn các thông tin
xấu trên mạng Internet, phát hiện, xử lý nghiêm các chủ thể vi phạm pháp luật.
b) Công tác phát hiện, đấu tranh
20

Công tác phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng
Tập trung giám sát chặt chẽ các website, blog, mạng xã hội thường
xuyên đăng tải thông tin chống Đảng, Nhà nước, các diễn đàn, chuyên trang về
công nghệ thông tin trong và ngoài nước.
Sử dụng các công cụ, phần mềm chuyên biệt để phát hiện Các thông tin,
bài viết, bình luận cũng như các website, blog trang mạng xã hội mới thành lập
có nội dung tuyên truyền phá hoại tư tưởng. 
 Theo dõi, giám sát các website, blog, trang mạng xã hội của các tổ chức,
đối tượng trọng điểm, nhất là các đối tượng cầm đầu, cốt cán, chống đối cực
đoan, tích cực tham gia các hoạt động kích động biểu tình và các website, blog,
trang mạng xã hội thường xuyên đưa tin, bài có nội dung chống phá Việt Nam,
có nhiều đối tượng chống đối trong nước tham gia. 
 Tập trung điều tra, khảo sát thu thập thông tin, tài liệu về đối tượng quản
trị trang thông tin điện tử cá nhân đảm bảo phục vụ yêu cầu nắm tình hình, triển
khai kế hoạch đấu tranh, xử lý đối tượng vi phạm. 
 Tiếp nhận, sử dụng hoặc tạo tin báo, tố giác tội phạm của cá nhân, tổ
chức; lời khai của người biết việc, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bị
can, bị cáo...; lời khai, tố giác của đối tượng ra tự thú để phát hiện, xử lý hành vi
vi phạm pháp luật về an ninh mạng.
Sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ chuyên biệt, biện pháp kỹ
thuật, các chiến thuật đấu tranh, xác lập chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ đấu
tranh với đối tượng sử dụng không gian mạng chống Đảng, Nhà nước.
Ngăn chặn, vô hiệu hóa, phản bác thông tin xấu đi, trên không gian mạng
 Ngăn chặn truy cập các trang thông tin điện tử, blog, mạng xã hội có nội
dung chống Đảng, Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trong bảo
đảm an ninh thông tin.
Vô hiệu hóa các website, blog, mạng xã hội có hoạt động chống phá
Đảng, Nhà nước quyết liệt, nguy hiểm. Xuất phát từ nguyên nhân kỹ thuật và
khách quan, việc chặn lọc các website, blog, mạng xã hội đăng tải thông tin xấu
còn nhiều hạn chế và không triệt để, Bộ Công an đã sử dụng các biện pháp kỹ
thuật kết hợp với các chiến thuật nghiệp vụ để vô hiệu hóa các website, blog,
mạng xã hội có hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng manh động, cực đoan,
gây tác hại lớn, ảnh hưởng xấu trong quần chúng nhân dân. 
 Triển khai đấu tranh chính trị, phản bác các luận điệu xuyên tạc trên
không gian mạng; duy trì và phát triển các cổng thông tin, trang mạng, nhóm
mạng xã hội, blog, kênh chia sẻ video và hàng chục trang liên kết đăng tải hàng
nghìn bài viết, video clip, tuyên truyền quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước, phản bác luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch.
 Phòng, chống tấn công mạng, gián điệp mạng, bảo vệ bí mật nhà nước
trên không gian mạng 
21

 Triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm đảm bảo an ninh, an toàn hệ
thống mạng thông tin quốc gia, phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động tấn công
mạng, gián điệp mạng. Tổ chức kiểm tra bảo mật từ xa hệ thống thông tin của
các bộ, ngành địa phương. Thực tế, qua kiểm tra cho thấy, trên 50% số trang
thông tin, cổng thông tin điện tử của hầu hết bộ, ngành, địa phương còn nhiều lỗ
hổng bảo mật nghiêm trọng, hộp thư đặt mật khẩu yếu mà tin tặc có thể khai
thác, tấn công, xâm nhập, chiếm đoạt thông tin, tài liệu.
Thành lập các đoàn công tác liên ngành thanh tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và kiểm tra công tác bảo đảm an
ninh mạng của các bộ, ngành, địa phương. 
 Tổ chức ngăn chặn, điều tra, xác minh các vụ việc liên quan đến tấn
công, xâm nhập mạng. Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương trong công tác bảo
đảm an ninh hệ thống mạng thông tin quốc gia. 
 Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế, chủ động nắm tình hình, thu thập
thông tin về các chiến dịch tấn công mạng nhằm vào Việt Nam; phối hợp xác
minh, truy tìm nguồn gốc các cuộc tấn công mạng; đồng thời, tìm hiểu, nghiên
cứu các công nghệ, giải pháp và kinh nghiệm bảo đảm an ninh mạng, phòng,
chống tấn công mạng của các quốc gia để vận dụng vào thực tiễn nước ta.
Đấu tranh, ngăn chặn hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm
trật tự, an toàn xã hội 
 Kịp thời điều tra, khám phá các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm
sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông, không gian mạng xâm phạm trật tự, an
toàn xã hội. Triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, chiến thuật trinh sát, thu thập
thông tin để xác minh, truy tìm đối tượng, thu thập thông tin về hoạt động phạm
tội cũng như phương thức, thủ đoạn phạm tội của đối tượng, tổ chức các công
tác đấu tranh.
 Khai thác các cơ chế nặc danh và lan truyền nhanh thông tin trên không
gian mạng để vạch mặt, phân hóa, ly gián các đối tượng có hoạt động chống đối.
Trong đó, nhiều trường hợp đã khéo léo giả danh đối tượng, trang mạng do các
đối tượng lập để bạch hóa thông tin hoạt động chống phá của chúng hoặc tung
tin ly gián, qua đó hạ uy tín, gây mâu thuẫn, chia rẽ các đối tượng; đồng thời,
xây dựng nhiều trang web, blog, tài khoản mạng xã hội, sử dụng nhiều nickname
khác nhau để đưa tài liệu phản bác lên mạng Internet.
c) Nhận xét, đánh giá 
Kết quả
Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, Bộ Công an đã tham mưu, đề
xuất lãnh đạo Đảng, Nhà nước ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về chủ trương
công tác đảm bảo an ninh mạng, đầu tư xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ
an ninh mạng, phòng, chống tội phạm mạng đủ mạnh cả về nhân lực và phương
tiện, tạo thế và lực cho lực lượng Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ. 
22

 Công tác quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
trên lĩnh vực không gian mạng đã có nhiều bước chuyển biến tích cực. Lực
lượng Công an nhân dân đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều văn bản quy
pháp pháp luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ an ninh mạng.
Công tác năm tình hình, phát hiện, đấu tranh với hoạt động sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được tiến
hành thường xuyên, có sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa các biện pháp,
công tác nghiệp vụ của ngành và nghiệp vụ chuyên biệt an ninh mạng một cách
linh hoạt, sáng tạo nên đã phát hiện sớm, kịp thời nhiều phương thức, thủ đoạn
hoạt động của các thế lực thù địch, tội phạm. 
 Công tác đấu tranh đã bước đầu phát huy được sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị. Quá trình triển khai công tác đấu tranh đã có sự phối hợp
giữa các lực lượng trong ngành và giữa lực lượng Công an nhân dân với các cơ
quan, ban, ngành chức năng khác như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông
tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao....
Lý luận về công tác bảo vệ an ninh mạng của lực lượng Công an nhân
dân từng bước được xây dựng, lồng ghép có hiệu quả trong xây dựng Chiến lược
An ninh mạng quốc gia và Luật An ninh mạng.
Hạn chế và nguyên nhân 
- Hạn chế: 
 Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh mạng đã được củng cố
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa quản lý được hoạt động cung cấp dịch
vụ thông tin qua biên giới của các doanh nghiệp nước ngoài. Quá trình triển khai
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh mạng còn nhiều
lúng túng, bất cập, một số quy định chưa thực sự đi vào cuộc sống, hiệu lực
quản lý từ các quy định chưa cao.
 Việc ngăn chặn người dùng trong nước tiếp cận với , thông tin xấu, độc
hại trên không gian mạng chưa triệt để; chưa vô hiệu hóa hoàn toàn được một số
trang thông tin điện tử, blog, mạng xã hội thường xuyên đăng tải thông tin tuyên
truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ nguy hiểm. Hiệu quả công tác tuyên
truyền, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch chưa cao.
Công tác bảo vệ hệ thống mạng thông tin quan trọng về an ninh quốc gia
còn bị động, chưa có giải pháp hữu hiệu để phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng bí
mật nhà nước trên không gian mạng.
- Nguyên nhân:
Nhiều cấp lãnh đạo, các cơ quan, doanh nghiệp và người dân chưa có
nhận thức đúng đắn và chưa có kiến thức đầy đủ về công tác bảo đảm an ninh
mạng. Do đó, chưa huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, xây dựng
thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng.
23

Nhiều vấn đề chính trị, xã hội nổi lên nhưng chưa được giải quyết triệt
để thực trạng tham nhũng, tiêu cực không những chưa được đẩy lùi mà còn ngày
càng trầm trọng là điều kiện để các thế lực thù địch, phản động gia tăng các hoạt
động chống phá; đồng thời, là nguyên nhân nảy sinh tội phạm.
 Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng nhưng nghiên cứu, ứng
dụng và phát triển khoa học và công nghệ vào bảo đảm an ninh mạng ở nước ta
còn chưa theo kịp dẫn đến gần như lệ thuộc vào các sản phẩm an ninh mạng của
nước ngoài. Phương thức, thủ đoạn hoạt động sử dụng không gian mạng xâm
phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội luôn luôn biến đổi, sử dụng nhiều
thành tựu công nghệ thông tin vào hoạt động phạm tội đặt ra nhiều thách thức
cho công tác bảo vệ an ninh mạng của lực lượng Công an nhân dân. 
 Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ an ninh mạng còn chưa hoàn thiện,
đầy đủ, hiệu lực pháp lý thấp. Các quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật
trên lĩnh vực Internet còn phân tán, nhiều hành vi còn chưa có quy định rõ ràng.
Luật đã ban hành nhưng chưa có hướng dẫn thi hành cụ thể, nhất là về chứng cứ
từ nguồn dữ liệu điện tử và ngay điều khoản quy định về nguồn dữ liệu điện tử
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian
mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong thực tiễn. Luật An
ninh mạng mới được ban hành, chưa có thông tư quy định về chế độ đặc thù của
lực lượng an ninh mạng. 
Công tác phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị trong và ngoài
lực lượng Công an nhân dân chưa đạt hiệu quả cao. Còn sự chồng chéo, chưa
thống nhất trong phân công nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ an ninh mạng trong
lực lượng Công an nhân dân và giữa các ban, bộ, ngành, đầu tư trang thiết bị
trùng dẫm, hiệu quả vận hành, sử dụng không cao dẫn tới không tập trung được
nguồn lực. 
Trình độ của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng không đồng
đều, nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng có trình độ cao còn ít, chưa hình thành
đội ngũ chuyên gia an ninh mạng giỏi tầm cỡ khu vực và thế giới. Việc đầu tư
kinh phí, trang thiết bị, công cụ chuyên dụng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra
cho công tác bảo vệ an ninh mạng.
Công tác nghiên cứu lý luận về an ninh mạng còn thụ động, chưa có sự
gắn kết chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và đơn vị
chiến đấu. Nhiều vấn đề mới đặt ra trong thực tiễn như không gian mạng, các biện
pháp nghiệp vụ chuyên biệt, chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử, gián điệp mạng,
chiến tranh mạng... tuy đã được triển khai nghiên cứu nhưng kết quả thu được còn
hạn chế.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
VỆ AN NINH MẠNG HIỆN NAY
1. Tham mưu triển khai công tác bảo vệ an ninh mạng
24

Luật An ninh mạng đã quy định rõ, “Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng”. Trong đó, “An
ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại
đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”. Như vậy, tăng cường công tác bảo vệ an ninh mạng trong
Công an nhân dân nghĩa là nghiên cứu, triển khai các hoạt động, công tác nhằm
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Để thực hiện được nội dung này, cần thực hiện một số
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Triển khai có hiệu quả công tác phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp
vụ, nâng cao nhận thức cho cấp ủy, chính quyền địa phương về âm mưu, phương
thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và tội phạm sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để có những
chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức,
kiến thức cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân về tính chất, tầm
quan trọng của công tác bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao; kiến thức bảo mật thông tin khi sử dụng mạng máy tính và các
dịch vụ trên không gian mạng, những thủ đoạn của tội phạm mạng để các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân cảnh giác, làm tốt công tác bảo mật,
không trở thành nạn nhân của tội phạm mạng; đồng thời, tích cực tham gia đấu
tranh với tội phạm mạng.
- Nâng cao hiệu quả của công tác nghiệp vụ cơ bản của Bộ Công an nói
chung và hệ lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao nói riêng.
- Tổ chức tốt công tác bảo vệ an ninh mạng cho hệ thống thông tin của các
cơ quan trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của lực lượng Công an nhân dân. Xác
định, triển khai những nhiệm vụ đã được Luật An ninh mạng quy định như: Công
tác thẩm định an ninh mạng; đánh giá điều kiện an ninh mạng; kiểm tra an ninh
mạng; giám sát an ninh mạng; ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng; đấu tranh
bảo vệ an ninh mạng; sử dụng mật mã để bảo vệ thông tin mạng. Chủ động đề xuất
các kế hoạch kiểm tra hệ thống thông tin để bảo vệ bí mật nhà nước trên không
gian mạng. Tổ chức tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm
an ninh mạng.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, các bộ, ban, ngành, địa phương chủ
động chuẩn bị nguồn lực và phương án, giải pháp bảo vệ các trung tâm giám sát,
điều khiển, vận hành hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, đề xuất
các giải pháp bảo vệ hệ thống quản lý dữ liệu khi triển khai xây dựng chính phủ
điện tử, chính quyền điện tử, thành phố thông minh.
- Tăng cường công tác quản lý người nước ngoài ở Việt Nam. Tăng
cường rà soát, quản lý việc đăng ký tạm trú của người nước ngoài tại các cơ sở
25

lưu trú khách sạn, nhà nghỉ, các công ty, tổ chức, cá nhân cho thuê nhà, thường
xuyên kiểm tra, cập nhật thông tin tình hình hoạt động của người nước ngoài
trên địa bàn lên hệ thống quản lý.
- Tham mưu xây dựng không gian mạng lành mạnh. Công an các đơn vị,
địa phương chủ động triển khai tuyên truyền, phổ biến trong cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp và quần chúng nhân dân các vấn đề sau:
+ Không thực hiện những hành vi bị nghiêm cấm.
+ Phổ biến cho quần chúng nhân dân hiểu được công cụ pháp luật được
quy định trong Luật An ninh mạng để bảo vệ quyền lợi của mình.
+ Bảo vệ trẻ em trên không gian mạng. 
+ Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh mạng, phòng ngừa, xử lý hành vi
sử dụng không gian mạng vi phạm pháp luật.
+ Các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước bình đẳng trước pháp
luật về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm.
+ Trách nhiệm cộng đồng khi phát hiện, tố giác tin báo tội phạm.
2. Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống mạng thông tin quốc gia,
trọng tâm là hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia 
 Trước khi Luật An ninh mạng được ban hành, hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia chưa được xác định, bảo vệ ở mức độ tương xứng.
Theo quy định tại Điều 30 Luật An ninh mạng: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có
trách nhiệm chủ trì nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng cho hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia. Việc áp dụng các quy định pháp luật trong bảo vệ an
ninh mạng cho hệ thống thông tin được triển khai trên các nội dung sau:
- Tham mưu xác định hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia:
Công an các đơn vị, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao rà soát
các hệ thống thông tin có tiêu chí phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu
chủ quản hệ thống thông tin lập hồ sơ đề nghị đưa hệ thống thông tin thuộc thẩm
quyền quản lý của mình vào Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia.
- Thẩm định an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an
ninh quốc gia: Công an các đơn vị, địa phương có trách nhiệm tham mưu cho
chủ quản hệ thống thông tin đủ tiêu chí hoàn thiện hồ sơ, thủ tục và phối hợp đề
xuất các hệ thống thông tin này vào Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về
an ninh quốc gia.
- Đánh giá, chứng nhận đủ điều kiện an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
- Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an
ninh quốc gia; Tiến hành kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin theo
quy định việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo đảm an ninh mạng, bảo
vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; kiểm tra, đánh giá hiệu quả các
26

phương án, biện pháp bảo đảm an ninh mạng, phương án, kế hoạch ứng phó,
khắc phục sự cố an ninh mạng; kiểm tra, đánh giá phát hiện lỗ hổng, điểm yếu
bảo mật, mã độc và tấn công thử nghiệm xâm nhập hệ thống.
- Thực hiện giám sát an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia thuộc phạm vi quản lý; cảnh báo và phối hợp với chủ quản
hệ thống thông tin trong khắc phục, xử lý các nguy cơ đe dọa an ninh mạng, sự
cố an ninh mạng, điểm yếu, lỗ hổng bảo mật, mã độc, phần cứng độc hại xảy ra
đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
- Ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia: ngăn chặn, xử lý hoạt động tấn công mạng, khắc phục
hậu quả do tấn công mạng, sự cố an ninh mạng cho chủ quản hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia; chủ trì điều phối hoạt động ứng phó, khắc phục
sự cố an ninh mạng xảy ra đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia; tham gia ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia khi có yêu cầu; thông báo cho chủ quản hệ thống
thông tin khi phát hiện có tấn công mạng, sự cố an ninh mạng.
3. Áp dụng các quy định của pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên
không gian mạng 
 Nghiên cứu, áp dụng quy định của pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian
mạng để tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác bảo vệ an ninh mạng.
- Nghiên cứu, áp dụng Luật An ninh mạng đã quy định căn cứ pháp lý để
phòng ngừa, đấu tranh, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.
- Nghiên cứu, áp dụng dụng quy định tại một số văn bản quy phạm pháp
luật khác như: Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công
nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16
tháng 10 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả,
quyền liên quan; Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và
quảng cáo; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình...
4. Nâng cao hiệu quả phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị
trong và ngoài lực lượng Công an nhân dân
Công tác đấu tranh với hoạt động của các thế lực thù địch, tội phạm sử
dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đòi
hỏi có sự phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài
lực lượng Công an nhân dân, sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa công tác quản lý
nhà nước, các biện pháp nghiệp vụ an ninh mạng chuyên biệt và nghiệp vụ Công
27

an nhân dân. Công tác này thuộc trách nhiệm và có sự tham gia của nhiều đơn vị
trong ngành công an như lực lượng an ninh thông tin và truyền thông, lực lượng
trinh sát bảo vệ chính trị, lực lượng trinh sát kỹ thuật, các đơn vị cảnh sát phòng,
chống tội phạm công nghệ cao, lực lượng tình báo,... ngoài ngành Công an nhân
dân như thông tin và truyền thông, tuyên giáo, quốc phòng, cơ yếu.
Để phát huy và nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp bảo vệ an ninh
mạng, cần tập trung vào một số vấn đề sau: 
- Phát huy chức năng quản lý nhà nước về an ninh mạng. phòng ngừa,
đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm chủ quyền, lợi ích,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm mạng. 
- Thể chế hóa mối quan hệ phối hợp, trao đổi thông tin giữa các lực lượng
an ninh, tình báo, cảnh sát và lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thành
những quy chế có tính chất pháp lý, với một cơ chế phối hợp rõ ràng, hiệu quả.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa lực lượng công an nhân dân và các cơ
quan, ban, ngành chức năng, đặc biệt là các cơ quan chuyên ngành của Bộ Quốc
phòng và Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Xây dựng Quy trình xử lý các tình huống nguy hiểm về an ninh mạng.
Trong đó, khi xảy ra tình huống xâm phạm an ninh mạng quốc gia, các bộ, ban,
ngành, cơ quan, tổ chức liên quan phải kịp thời trao đổi thông tin để khẩn trương
tổ chức công tác ứng cứu, khắc phục, xử lý và điều tra, xác minh,
5. Đầu tư xây dựng nguồn lực bảo vệ an ninh mạng
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận về bảo vệ an ninh mạng và đào
tạo nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng. Tăng cường nghiên cứu khoa học,
tổng kết thực tiễn để xây dựng lý luận, tập trung vào những vấn đề còn đang có
nhiều ý kiện khác nhau, những vấn đề cơ bản về công tác an ninh dạng, những
vấn đề nổi lên trong thực tiễn và những thách thức an ninh mạng trong tương lai.
Xây dựng chính sách khuyến khích cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận về
an ninh mạng trong lực lượng Công an nhân dân. Thường xuyên nâng cao nhận
thức, kiến thức bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng của lực lượng
Công an nhân dân. Triển khai các chương trình đào tạo về bảo vệ an ninh mạng
chuyên sâu, mang tính đặc thù cho lực lượng bảo vệ chuyên trách an ninh mạng.
Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tấn công mạng, bảo vệ bí mật
nhà nước của lực lượng Công an nhân dân trên không gian mạng. Rà soát, bổ
sung, hoàn thiện các quy định về bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước
trên không gian mạng; quy chế sử dụng mạng máy tính nội bộ, máy tính có kết
nối Internet; phương án bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng; quy trình
thanh tra, kiểm tra an ninh, an toàn hệ thống thông tin tại đơn vị, địa phương. Tổ
chức nắm tình hình, kịp thời phát hiện hoạt động sử dụng không gian mạng tán
phát mã độc, tấn công xâm nhập, chỉnh sửa nội dung, đánh cắp dữ liệu, thông tin
bí mật nhà nước hoặc phá hủy, gây đình trệ hệ thống mạng thông tin, cổng thông
tin điện tử. 
28

 Đầu tư các trang thiết bị bảo vệ an ninh mạng chuyên dụng cho lực
lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng trong Công an nhân dân đáp ứng yêu
cầu của tình hình, đón đầu công nghệ. Chủ động nghiên cứu, xây dựng các đề
án, dự án trang bị phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác đảm bảo an ninh mạng
đảm bảo có tính khả thi, khả năng phòng thủ, tân công linh hoạt, ứng dụng được
những công nghệ mới nhất.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế về an ninh mạng
Mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh mạng, tiếp thu những
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm trong công tác đảm bảo an
ninh mạng của các nước trên thế giới phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới.
Đẩy mạnh hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách,
đầu tư trang bị phương tiện, kỹ thuật bảo vệ nhằm nâng cao khả năng phòng
ngừa, phát hiện, xử lý các sự cố ảnh hưởng đến an toàn cơ sở hạ tầng thông tin
và an ninh thông tin. Lực lượng Công an nhân dân cần tham mưu cho các cơ
quan chức năng trong việc mời các chuyên gia trong lĩnh vực viễn thông, công
nghệ thông tin vào giảng dạy, tổ chức các hội nghị quốc tế về đảm bảo an ninh,
an toàn thông tin,... đồng thời, chủ động trong việc theo dõi, phân tích thông tin
thị trường, hỗ trợ cho các doanh nghiệp viễn thông cũng như lực lượng trinh sát
kỹ thuật có thể lựa chọn đối tác thích hợp, từ đó trang bị những phương tiện, kỹ
thuật tốt nhất, hiện đại nhất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác bảo vệ
an ninh mạng. 
 Rà soát, sửa đổi các quy định luật pháp, cơ chế chính sách đảm bảo an
ninh thông tin cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; chủ động tham mưu
trong việc tham gia các hiệp định, thỏa thuận quốc tế về hợp tác bảo vệ an ninh
thông tin, để có được cơ sở pháp lý quốc tế trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia,
quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Tăng cường và đẩy mạnh việc thực hiện các hiện các thỏa thuận giữa các
nước trong khu vực và trên thê giới về đấu tranh phòng, chống tội phạm công
nghệ cao.
 Tăng cường các kênh tiếp xúc với lực lượng chuyên , của các quốc gia về
an ninh mạng, tranh thủ các cuộc thoại chính thức tại các diễn đàn quốc tế để trao
đổi, đánh tình hình liên quan đến an ninh mạng Việt Nam và thế gi. tranh thủ sự
ủng hộ, các nguồn vốn đầu tư, tiếp cận sớm nhá. với công nghệ và các trang thiết
bị tiên tiến nhất của thế giới để tránh tụt hậu về cả sức mạnh trang bị và trình độ
trang bị.

You might also like