HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

You might also like

You are on page 1of 15

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - LƯU QUANG VŨ

Nơi kết thúc của tích truyện dân gian và nơi khởi đầu cho những sáng tạo
của nhà viết kịch tài năng Lưu Quang Vũ

I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1. Tác giả Lưu Quang Vũ

a. Cuộc đời

Lưu Quang Vũ là con trai của nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, sinh ra và
lớn lên ở Quảng Nam. Sau năm 1954 ông cùng gia đình chuyển về Hà Nội sinh sống.
Có lẽ do thừa hưởng thiên tính nghệ thuật từ cha mình, nên tài năng của ông được phát
hiện từ rất sớm. Từ 1965-1970 , Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến như một
nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn. Sau đó ông xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh. Năm
1978-1988, Lưu Quang Vũ làm biên tập viên tạp chí Sân khấu, bắt đầu việc sáng tác
kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của kịch trường những năm tám mươi của
thế kỉ XX với những vở kịch đặc sắc như: Lời thề thứ 9, Lời nói dối cuối cùng, Nàng
Xi-ta, Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da hàng thịt…

Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện ,viết tiểu
luận… Rất nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ được bạn đọc yêu thích như: Tiếng Việt,
Bầy ong trong đêm sâu… nhưng kịch là lĩnh vực thành công nhất của ông. Ông là một
trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000,
Lưu Quang Vũ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

b. Sự nghiệp và phong cách sáng tác

Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn
trong nhiều thể loại: thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà
soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại – một
Sêchxpia của Việt Nam. Lưu Quang Vũ được biết đến như một hiện tượng đặc biệt
hiếm có của sân khấu kịch trường Việt Nam thế kỉ XX. Tác phẩm kịch của ông không
những nhiều về số lượng được dàn dựng và trình diễn mà còn có giá trị nghệ thuật cao
được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Với những vở kịch chấn động, gây tiếng vang
lớn, ông là người có công vực dậy sân khấu kịch Việt Nam đang có nguy cơ tụt hậu.
Ông cũng là một trong những "người đi trước" trong phong trào đổi mới văn hoá văn
nghệ, dùng ngòi bút của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã
hội.
Sinh ra trong thời chiến, thế nên ông thấu hiểu sự đau khổ mất mát do chiến
tranh mang lại. Thế nhưng ông không vì vậy mà thể hiện sự đau thương hoàn toàn vào
tác phẩm, ông vẫn gửi gắm vào đó sự khao khát và niềm tin về một tương lai tốt đẹp.
Những tác phẩm của ông thực sự nổi tiếng trong những năm 80, thời kỳ đất nước đang
có nhiều khó khăn thử thách cần giải quyết. Và trong mỗi tác phẩm ông để lại cho đời,
người hâm mộ như được tái hiện lại từng giai đoạn khó khăn tương ứng với từng thời
kì một cách chân thực và sống động nhất. Ví như "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là bi
kịch cuộc đời về khát khao được sống là chính mình, sống phải có sự hài hòa về tâm
hồn và thể xác, đó cũng là giá trị cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm. Kịch của Lưu
Quang Vũ thể hiện sức sáng tạo lớn, đề cập đến nhiều vấn đề thời sự nóng hổi có tính
chiến đầu cao, chứa đựng những tư tưởng triết lí nhân văn sâu sắc. Ngôn ngữ kịch đa
dạng, giàu chất thơ

Trong hầu hết các sáng tác của mình, ông đều lồng ghép vào những bài học,
những giá trị mang tính nhân văn sâu sắc. Bên cạnh đó, những vở kịch do ông sáng tác
đã thổi một luồng gió mới cho nền văn học – nghệ thuật Việt Nam, với sự sáng tạo
trong tình tiết, cách xây dựng tiết tấu trong từng phân cảnh. Ông đã làm người đọc
phải run người cảm nhận nỗi đau nhân vật, cảm xúc như thấm vào từng thớ thịt. Lưu
Quang Vũ là nhà thơ, nhà sáng tác kịch tài ba trong nền văn học – nghệ thuật Việt
Nam. Dù ra đi khi tuổi đời còn trẻ, nhưng dấu ấn mà ông để lại luôn sống mãi trong
những đứa con tinh thần ông góp cho đời.

2. Tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt"

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay trong kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện này để viết thành vở
kịch nói cùng tên vào năm 1981 và được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984. Hồn
Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch xuất sắc gây được nhiều tiếng vang nhất của
Lưu Quang Vũ. Tác phẩm là một đỉnh cao đánh dấu sự trưởng thành vượt trội của ngòi
bút Lưu Quang Vũ, nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm với người xem và được
công diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và ngoài nước. Hồn Trương Ba da hàng
thịt là vở diễn kinh điển của nền kịch nói Việt Nam. Vở kịch này đã từng đoạt Huy
chương vàng Liên hoan Sân khấu toàn quốc năm 1990 và giải nhất cuộc thi Sân
khấu quốc tế Moscow. Đây là vở kịch hiện đại duy nhất của Việt Nam tiếp cận được
với sân khấu quốc tế.
a. Hoàn cảnh ra đời

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều
tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết từ năm 1981, nhưng đến năm
1984 mới lần đầu ra mắt công chúng. Nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm với
người xem, Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã được công diễn nhiều lần trên các sân
khấu trong và ngoài nước.

Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch
nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu
sắc. Lưu Quang Vũ đã có những thay đổi khá cơ bản: Trong truyện dân gian, nhân vật
Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập vào thân xác anh
hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò
của Trương Ba từ khi "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo".

b. Nội dung vở kịch

Trương Ba là một người làm vườn chất phác, hiền lành, rất mực yêu quý vợ
con và cháu gái. Ông nổi tiếng là người chơi cờ giỏi và có lối sống thanh cao. Vì sự tắc
trách của Nam Tào, Trương Ba đang khỏe mạnh bỗng chết một cách đột ngột. Tiên Đế
Thích vì muốn có người đánh cờ với mình và muốn sửa sai cho Nam Tào nên hóa
phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác một anh hàng thịt mới chết. Hồn Trương Ba
đau khổ đấu tranh với những ham muốn bản năng của thân xác hàng thịt. Sau một thời
gian, chính hồn Trương Ba cũng phần nào bị tha hóa, gia đình Trương Ba trở nên ly
tán, đau buồn. Trương Ba quyết định thắp nhang gọi Đế Thích lên để quyết định rời
khỏi thân xác anh hàng thịt. Đế Thích tìm mọi cách khuyên ngăn và đưa ra giải pháp
khác hấp dẫn hơn như cho Trương Ba nhập vào xác cu Tị đang hấp hối. Trương Ba xin
cho cu Tị được sống và kiên quyết chọn cái chết và không nhập vào xác ai nữa bởi ông
không muốn "bên trong một đằng bên ngoài một nẻo".

c. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai
yếu tố quan trọng trong một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái
cụ thể, là cái bình có thể chứa linh hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người này
lại ở trong xác người kia. Hồn và xác lại không tương hợp; tính cách, hành động, lối
sống của Trương Ba và anh hàng thịt trái ngược nhau. Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm
được những mâu thuẫn, xung đột bên trong của nhân vật bi kịch Hồn Trương Ba.
Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì
hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó
là sự mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương
Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu
tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con
người.

Nhan đề "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" cũng như nội dung của truyện
khiến người đọc nhận ra hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện thực cuộc sống con
người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một
nẻo, không được sống đích thực là chính mình. Không chỉ dừng lại đó, nhan đề còn
gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được
hoàn cảnh, bản thân để cho lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao
trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm
cho nhân cách lệch lạc, khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hòa thống
nhất.

d. Nội dung đoạn trích

Đoạn được học trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau
khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng vô cùng cao thượng của Hồn Trương Ba:

Tại nhà Trương ba. Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba đã bắt đầu đổi
tính; thích uống rượu, thích ăn ngon, nước cờ đi cũng khác. Lí trưởng lại đến gây khó
dễ, con trai Trương ba hư hỏng, chỉ nghĩ đến tiền và trục lợi. Vợ Trương Ba buồn khổ
định bỏ đi, cháu gái không nhận ông nội, con dâu xót xa vì bố chồng không còn như
xưa. Bản thân Trương Ba cũng bất lực với chính mình.

Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt diễn ra, trong
đó xác anh hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương
Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho
mình. Cùng lúc cu Tị, con một người hàng xóm, bạn thân cháu nội Trương Ba ốm
nặng sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương
Ba kiên quyết từ chối, xin cho cu Tị được sống đồng thời trả xác cho nhà hàng thịt và
chấp nhận cái chết.

Cuối cùng, hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ trong vườn trò
chuyện với vợ. Cu Tị và bé gái ăn na và gieo hạt "cho nó mọc thành cây mới".

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM


1. "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" - Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình
không phải là mình.

Lấy cốt truyện dân gian nhưng nối thêm phần đuôi sau khi truyện dân gian
đã kết thúc và thêm vào đó nhiều sự kiện, chi tiết để thổi vào luồng gió của thời đại,
tác giả đã làm cho tác phẩm tràn ngập ánh sáng của những vấn đề thời sự trong đời
sống đương đại với tất cả những xung đột, mâu thuẫn và mọi ưu tư, phiền toái bất tận
của nó. Nói một cách cụ thể hơn, "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là một vở kịch khai
thác cốt truyện dân gian để gửi gắm vào đó những suy ngẫm về nhân sinh, hạnh phúc,
kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời và khẳng định khát vọng
hoàn thiện nhân cách con người.

Có thể tóm tắt ngắn gọn về cốt truyện dân gian và phần phát triển sáng tạo
của Lưu Quang Vũ để tạo nên tình huống kịch đặc sắc.

Xưa có một người làm vườn là ông Trương Ba chất phác, cần cù, yêu vợ,
thương con, quý cháu và giỏi đánh cờ, bỗng nhiên lăn đùng ra chết, mà nguyên nhân là
do sự nhầm lẫn tai hại của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình. Đế Thích – một ông tiên
cao cờ - do quý trọng tài cờ của Trương Ba đã hóa phép làm cho Trương Ba sống lại
bằng cách để Hồn Trương Ba nhập và xác anh hàng thịt mới chết. Thế là xảy ra
chuyện tranh chấp chồng giữa hai bà vợ. Quan xừ kiện lệnh cho đương sự lần lượt làm
hai việc mổ lợn và đánh cờ. Đương sự thậm chí không biết cầm dao mổ lợn thế nào
nhưng lại rất giỏi đánh cờ. Quan bèn quyết định cho bà vợ Trương Ba mang chồng về.
Mọi chuyện kết thúc tại đây và Trương Ba tiếp tục sống hạnh phúc với vợ con, làm
xóm trong thân xác anh hàng thịt.

Nhưng tình huống kịch của Lưu Quang Vũ lại bắt đầu từ chỗ kết thúc của
truyện dân gian này: Sống nhờ trong thân xác người khác, Hồn Trương Ba gặp bao
nhiêu rắc rối, phiền toái. Tệ hại hơn nữa là ông ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong
con mắt người thân, đứa cháu không nhận ông nội, lại thêm đứa con hư hỏng, xung
quanh ông còn có tên lí trưởng đồi bại, những bậc tiên thánh trên trời vô trách nhiệm,
cố tình lấp liếm lỗi lầm… Ba tháng "trú ngụ" trong cái xác lạ, Hồn Trương Ba có nguy
cơ bị thân xác lấn át, nó phải đấu tranh một cách chật vật với những ham muốn bản
năng, những dục vọng thấp hèn của anh hàng thịt, có lúc thiếu chút nữa thì bị thất bại
và sa ngã trước sự dẫn dắt của thể xác. Kết cục, để bảo toàn sự trong sạch của mình,
Hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết vĩnh viễn, khước từ sự sống không phải là của
mình, cho dù sự sống là muôn phần đáng quý. Không những vậy, nếu ở truyện dân
gian, Hồn Trương Ba sau khi nhập vào xác anh hàng thịt được sống yên ổn, hạnh phúc
thì ở kịch bản này, Hồn Trương Ba luôn đau khổ, dằn vặt, giày vò bởi "bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo". Một mặt Hồn tượng trưng cho thế giới tinh thần thanh cao
của con người luôn muốn giữ gìn những giá trị của chuẩn mực văn hóa và đạo đức,
mặt khác, Hồn thấy mình ngày càng chịu sự cám dỗ mãnh liệt của xác – tượng trưng
cho những dục vọng bản năng xấu xa của con người. Vì thế, bi kịch của tình huống,
như Hồn Trương Ba đã nói với Đế Thích là: sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người
khác đã là điều không nên, đến thân xác cũng phải nhờ vào một anh hàng thịt, và một
khi phải sống giả dối, "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo" thì Hồn chẳng thể nào
tìm thấy sự bình yên. Hồn day dứt đau khổ vì ý thức rõ được điều đó, lại ý thức được
cả cái sự sai lầm không thể nào cứu vãn được của Đế Thích nên đã quyết định dứt
khoát chọn cái chết thật sự để bảo toàn sự trong sạch của mình. Đoạn trích là đoạn kết,
tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào
nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha
hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động
trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích
thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

Khởi đầu cho diễn biến của xung đột kịch cũng đồng thời là điểm khở đầu
"tấn bi kịch của Hồn Trương Ba", ấy chính là từ khi Hồn được sống lại trong thân xác
anh hàng thịt. Về mặt xung đột kịch, ta nhận thấy rõ ở đây đã xuất hiện hai lớp mâu
thuẫn: Một mâu thuẫn do sự khập khiễng, không phù hợp giữa linh hồn và thể xác –
trong một con người, linh hồn và thể xác lẽ ra phải là một nhất thể, đằng này, linh hồn
của người làm vườn thanh cao lại phải trú trong một cái xác phàm tục, thô lỗ của anh
đồ tể. Hai là mâu thuẫn giữa văn hóa và bản năng của con người. Hai mâu thuẫn này là
nguyên nhân xảy ra "tấn bi kịch nội tại của nhân vật Hồn Trương Ba".

Ở đọan này, điểm đỉnh của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự
dằn vặt, giằng xé đau đớn của Hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh Hồn Trương Ba trong
thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy
bực bội, bức xúc: "Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!… Tôi chán
cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ
này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù
riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!". Tiếp sau đó, Hồn Trương
Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Dưới
lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào
trình độ của người xem kịch, Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để
phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa
mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của Hồn Trương Ba: "cái linh hồn
mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù
tôi chỉ là thân xác"… Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi
thường, "mày cũng biết nói kia à ? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng
nói mà chỉ là xác thịt âm u đui mù… Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà
bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt".
Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định
vai trò quan trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh
luận giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có
những lúc tiếng nói của xác thịt đường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh
hồn vào thế lúng túng, bị động: "Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy
phục! … Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cung đáng được quý trọng chứ.
Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông
nhìn mảnh đất cây cối, những người thân… Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế
giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người
ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông hay vịn vào cớ tâm
hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi
khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì
là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ… Tôi thông
cảm với những "trò chơi tâm hồn của ông nghĩa là: Những lúc một mình một bóng,
ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn
cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ
tội cho tôi, để ông được thanh thản." Tôi biết: "Cần phải để cho tính tự ái của ông
được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện, Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc
để thỏa mãn những thèm khát của tôi". Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận
lí lẽ của xác hàng thịt: "Lí lẽ của anh thật ti tiện", nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế
tuyệt vọng và chỉ biết than: "Trời!"

Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ.
Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã
nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê
tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một
người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng
giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương
Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc. người xem càng lúc càng được
thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái
đau khổ, tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu,
đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận.
Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở
nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì...". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những
món ăn mà trước đây hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu
mồm máu mũi", ... tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật
ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười
nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn.". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả
tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt
dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát
gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước
những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra,
không muốn thừa nhận.

Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối
thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và
cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được... còn hơn là thế này". Bà đã nói ra
cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông
Trương Ba làm vườn ngày xưa". Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý.
Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông. Ông nội tôi chết
rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con
người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi
non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó
hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê
man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó "ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy".
Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm!
Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm
thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa
nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả"
khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo
con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm,
bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả
cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa…". Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh
trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ
đau, họ khổ nhưng "cũng không khổ bằng bây giờ". Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi
nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm
thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần, lớn dần,
muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị
con dâu: "Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt lành như
thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?" thì đương nhiên hồn không thể
chịu đựng thêm được nữa.

Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi
đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua
chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải
của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?
"Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách
nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày
mang lại! Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động
châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba
với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống
và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống,
nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!". Người đọc, người xem có thế nhận
ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người
là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao
trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản
năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình
bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không
hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình
thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý
thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về
tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm
giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Quyết định dứt khoát
xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập
hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn
biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết.
Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và
thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình
thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát.

Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu,
sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc
sống. Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ "mở nút".
Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu
Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa
triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của
một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói
chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu
hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy
theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên
phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo "muốn
nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn". Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống
tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không
phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan,
đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần
bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được
sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và
lợi. Rõ ràng, việc lựa chọn cái chết của Hồn Trương Ba thể hiện khát vọng vươn tới
cái chân thực và sự vẹn toàn tuyệt đối của những giá trị nhân văn. Trương Ba chết
nhưng tâm hồn tốt đẹp của ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhớ của gia
đình, bạn bè, làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.

Đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và
tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào
vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống
của cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi
người vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Vở kịch "Hồn Trương Ba da hàng thịt" đã góp phần
phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người đang có nguy
cơ chạy theo những ham muốn tầm thường, muốn thỏa mãn những nhu cầu của bản
năng, đến nỗi trở nên phàm phu, tục tử như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

"Muốn nuôi sống thân xác


Đem làm thịt linh hồn"

Nhưng lại có một xu hướng ngược lại, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống linh
hồn là cái cao nhất, không chăm lo gì đến đời sống vật chất, không chịu phấn đấu vì
hạnh phúc trọn vẹn.

Vở kịch còn phê phán tình trạng con người sống giả dối, không dám sống là
mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người vào chỗ tha hóa do danh và lợi. Nhưng kịch của
Lưu Quang Vũ có được sức sống lâu dài là bởi những triết lý sâu sắc, có ý nghĩa đối
với muôn đời. Vở kịch cho ta những bài học về lẽ sống, chết, về hạnh phúc. Cuộc sống
thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Hạnh phúc chân chính của
con người là được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với mọi người. Tư tưởng
triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất
cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở
kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên
kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.

2. "Hồn Trương Ba, Da hàng thịt" – Nơi kết thúc của cổ tích và sự khởi đầu
cho những sáng tạo của kịch Lưu Quang Vũ.

Hồn Trương ba, da hàng thịt là một câu chuyện không mấy tiêu biểu
cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên cạnh những Tấm cám, Cây tre trăm đốt, Thạch
Sanh... Tuy nhiên, từ góc nhìn tự sự, người ta cũng dễ dàng nhận diện những yếu
tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm: Đó là nhân vật, tình huống, diễn
biến cốt truyện, phép mầu mang đến may mắn cho con người... Và mặc dù câu
chuyện dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho, nhân vật
vua cờ Đế Thích vẫn có thể được coi là một kiểu "Bụt", "Tiên" giáng thế để cứu
vớt, bù đắp cho những mất mát, đau thương cho trần giới. Câu chuyện mở đầu
bằng một cuộc cờ và kết thúc bằng một "phép tiên" cải tử hoàn sinh - một mơ ước
ngàn lần không tưởng của con người.

Từ "bản gốc" là một tích truyện dân gian có phần đơn giản, Lưu
Quang Vũ đã không bị lệ thuộc vào nội dung câu chuyện, đã tìm tòi, vừa mở
rộng kích thước tự sự, vừa khơi sâu vào giá trị tư tưởng để tạo nên một vở
kịch nổi tiếng mà "hạt nhân cơ bản" là giá trị nhân văn sâu sắc về lẽ tử -
sinh.
Khác với văn bản tự sự cổ tích xoay quanh câu chuyện chỉ vẻn vẹn vài
nhân vật: ông Trương Ba, vợ ông Trương Ba, Tiên Đế Thích, người bạn cờ, anh
hàng thịt, vợ anh hàng thịt và quan toà; "thế giới" nhân vật trong tác phẩm kịch
của Lưu Quang Vũ có sự hiện diện của rất nhiều nhân vật khác "châu tuần"
chung quanh nhân vật chính: Nam Tào, Bắc Đẩu; anh con trai, chị con dâu, cháu
nội ông Trương Ba; Lý trưởng, Trương Tuần, Lái lợn 1, lái lợn 2... Chính họ là
những phía đối lập của xung đột, can dự, chi phối đẩy cốt truyện kịch lên cao trào
và tạo nên bi kịch lạ lùng cho số phận Trương Ba. Tương tự như vậy, các yếu tố
không - thời gian trong tác phẩm của Lưu Quang Vũ cũng trở nên đa chiều
hơn. Đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, (chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại) - một hình
thức đặc thù của văn bản kịch - đã được vận dụng một cách hiệu quả và sáng tạo
trong một tác phẩm được coi là "để đời" của một nhà viết kịch tài năng và thuộc
một thể loại kể chuyện bằng ngôn ngữ đối thoại và "tất cả mọi vấn đề xung quanh
hình tượng" đều nằm trong lời ăn tiếng nói của nhân vật. Thay vì điểm nhìn của tự
sự cổ tích với lời mở đầu quen thuộc "Ngày xửa ngày xưa có một người tên là...",
vở kịch của Lưu Quang Vũ mở màn bằng "không gian tiên giới" - khung cảnh trên
thiên đình - với sự xuất hiện của các quan nhà trời Bắc Đẩu, Nam Tào và dĩ nhiên
là có cả Đế Thích.

Việc ông Trương Ba không thể tự dung hoà được phần "con" và phần
"người" trong sinh thể cá nhân, phải cầu xin Đế Thích trả lại thân xác cho anh
hàng thịt, còn ông thì xin được chết lần thứ 2, "chết hẳn" là sự thể hiện đầy đủ và
sâu sắc nhất cốt lõi tư tưởng, là sự đối thoại chân thành và triết lý nhân sinh giàu
tính hướng thượng của Lưu Quang Vũ. Nhà viết kịch không phủ nhận giá trị cao
quí của sự sống nhưng nếu sống mà con người dần dần tự đánh mất phần cao quý
trong tâm hồn để chấp nhận một sự tồn tại không tư tưởng, không cảm xúc; và
đáng sợ hơn nữa là kiểu sống thiếu trung thực, giả tạo theo mô hình "bên trong
một đàng, bên ngoài một nẻo"... Tất cả những điều đó là hoàn toàn đối lập với
quan niệm sống và khát vọng nghệ sĩ trong anh: "Tôi muốn được là tôi toàn vẹn"
(lời ông Trương Ba). Cách đặt vấn đề và giải quyết xung đột của vở kịch cho thấy
nhà viết kịch đã có những phản ứng quyết liệt trước sự áp đặt làm mất quyền được
lựa chọn của con người. Mọi sự áp đặt dù mang danh nghĩa nhân đạo cao cả nhất
theo Lưu Quang Vũ, suy cho cùng vẫn không thể mang lại cho con người cuộc
sống đích thực, vẫn dẫn tới bi kịch, vẫn tiềm ẩn khả năng huỷ diệt, vẫn chứa đựng
yếu tố phi nhân.... Đó chính là thông điệp mang màu sắc nhân quyền sâu xa mà
Lưu Quang Vũ đã gửi gắm vào tác phẩm.

Là một nhà viết kịch nhạy cảm, thông minh và sắc sảo, Lưu Quang Vũ
đã rất biết cách khai thác vấn đề từ nhiều tư liệu "nguồn" khác nhau: từ một mẫu
tin thời sự trên báo, một vụ án xôn xao dư luận, một hiện tượng xã hội nổi bật, từ
kho tàng dồi dào của văn hoá dân gian... Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch
hiện đại được vay mượn, gợi "tứ" từ một câu chuyện cổ tích. Các yếu tố tự sự dân
gian với độ đậm nhạt khác nhau, như được trình bày ở trên, đã ít nhiều có sự thâm
nhập, chuyển hoá vào tác phẩm kịch. Tuy nhiên, phần sáng tạo ngoài văn bản,
chính xác hơn là nối tiếp, kéo dài ý tưởng của văn bản khiến vở kịch trở nên một
"vĩ thanh" độc đáo mới thực sự là phần đóng góp nổi bật của Lưu Quang Vũ.

Từ một câu chuyện cổ tích có phần mờ nhạt, bằng khả năng đồng hoá,
nhào nặn và tái tạo, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được một vở kịch có cấu trúc khá
chặt chẽ và ý nghĩa nhân bản đậm đà. Đã hơn ba mươi năm sau ngày công
diễn Hồn Trương Ba, da hàng thịt vẫn đứng ở vị trí hàng đầu trong sự nghiệp cầm
bút, là tác phẩm không chỉ gắn liền với tên tuổi nhà viết kịch trẻ tài năng Lưu
Quang Vũ mà còn đưa tên tuổi của ông đến với công chúng nhiều nước trên thế
giới.
Đoạn kết của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ giải quyết
xung đột mà còn nêu bật tư tưởng tình cảm của người viết kịch. Trước màn kết là cảnh
7 với 3 xung đột liên tiếp rất giàu kịch tính giữa hồn và xác, giữa hồn và những người
thân, giữa hồn và Đế Tthích để chọn lựa một cách sống: hoặc là nhập vào một hình hài
khác để tiếp tục sống hoặc phải chết hẳn. Cuối cùng Hồn Trương Ba xin được chết
hẳn, hồn yêu cầu mọi người sang nhà chị Lụa báo tin Cu Tị được sống lại, còn mình
quyết chết để trả xác cho anh hàng thịt. Trước khi lìa đời, hồn Trương Ba đã dặn dò vợ
con.
Đoạn kết diễn ra trong khung cảnh:"vườn cây rung rinh ánh sáng". Đây là
không gian quen thuộc gắn với con người Trương Ba , tinh thần Trương Ba, nơi lưu
giấu những hồi ức đẹp đẽ về một Trương Ba hiền lành, trong trẻo trong lòng người
thân vẫn được vun xới để chan hoà, ấm áp bên gia đình. Cu Tị hồi sinh và mẹ con
đoàn tụ, đứa bé đang ôm chầm lấy mẹ, còn người mẹ thì cuốn quýt vuốt ve đứa con.
Đó là hạnh phúc trong trẻo, cảm động mà Trương Ba đã mang đến cho mẹ con chị
Lụa. Một Trương Ba luôn biết quan tâm đến những người xung quanh.
Thế là Trương Ba xuất hiện qua lời dẫn chuyện: "giữa màu xanh cây vườn
(...) chập chờn xuất hiện". Đó chỉ là cái bóng, rồi Trương Ba lên tiếng với vợ "tôi vẫn
ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, con dao
bà giẫy cỏ.....Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây trong vườn cây nhà ta, trong
những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái gái nâng niu". Đây là lời văn,
lời nói thấm đẫm cảm xúc thương yêu, quý mến gần gũi bên những người thân, là
hạnh phúc của Trương Ba khi được sống là chính mình, được sống có ích trong cuộc
đời. Đoạn văn thể hiện lơì nói của Trương Ba, một người nhân hậu vị tha, vừa thể hiện
chất trữ tình, chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ.

Nếu ở những đoạn đối thoại trước nhất là với xác và Đế Thích, lời lẽ của
đôi bên rất căng thẳng, có chỗ châm chích nhau thì trong màn kết lời thoại của Trương
Ba dịu dàng tình cảm hơn, thoải mái hơn.

Qua lời thoại của Trương Ba độc giả sẽ thấy: mặc dù giờ đây hồn Trương
Ba không có thân xác trú ngụ, chỉ là cái bóng chập chờn mờ ảo, vô hình, lại là lúc sự
hiện diện của Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất. Hơn nữa Trương Ba xuất hiện
qua đoạn đối thoại giữa cái gái và Cu Tị: "cây na này, ông nội tớ trồng đấy", qua hành
động của nó vùi hạt na xuống đất để: "cho nó mọc thành những cây mới. Ông nội tớ
bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi". Hình ảnh này mang ý nghĩa
biểu tượng đứa trẻ ngây thơ từng không chấp nhận màu tối của cái ác nên nó đâm ra
hỗn xược, xua đuổi quyết liệt: "cút đi lão đồ tể, cút đi", bây giờ đây nó hiểu được ông
nội nó gieo trồng những hạt giống bằng thái độ nâng niu trân trọng (ăn quả nhớ kẻ
trồng cây), biểu trưng cho sự nối tiếp, sinh tồn bất tử của hồn Trương Ba, những cây
lớn khôn mãi mãi sẽ có hình ảnh của một ông nội Trương Ba hiền lành, chăm chút và
rất yêu thương con trẻ. Dù ông nội đã chết hẳn về thể xác nhưng trong lòng nó ông nội
đã hoàn nguyên kì diệu về tâm hồn. Ông nội Trương Ba đang sống một sự sống khác -
sự sống bất diệt trong trái tim trẻ thơ.

Đoạn kết vở kịch Hồn Trương Ba da hang thịt tiếp tục khái quát triết lí nhân
sinh. Ý nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà chính là sự hiện
diện của ta trong suy nghĩ trong nỗi nhớ của những con người còn sống. Vẻ đẹp tâm
hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao khiết của Trương Ba vẫn
có mặt trong nỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời đang sống.

Nhà văn Chingiz Ajmatov: "Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm
dứt ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện". Vở kịch Hồn Trương
Ba da Hàng Thịt khép lại nhưng triết lí sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng
nhân cách cao đẹp của con người sẽ mãi mãi lưu giữ trong lòng độc giả bởi: được sống
làm người đáng quý thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị
mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn, sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người
được sống tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là
chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục để hoàn thiện được nhân cách và
vươn tới những giá trị về tinh thần cao qúy.

Cách giải quyết kết thúc của vở kịch thể hiện tài năng của Lưu Quang Vũ
phù hợp với hoàn cảnh theo đúng logic phát triển của tình huống kịch, của nhân vật
kịch.

III. TỔNG KẾT

1. Giá trị nội dung

Đoạn trích đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc: Được sống làm người quý
giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và
theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự
nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Nếu thiếu một trong hai yếu tố ấy, cuộc
sống của con người không còn giá trị gì nữa. Chúng ta phải luôn luôn biết đấu tranh
với những nghịch ảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Tuy vậy, con người ta cũng không
nên chỉ chăm lo tới đời sống tâm hồn mà bỏ qua những nhu cầu của thể xác. Bởi đó là
những nhu cầu bản năng, đã tồn tại vốn dĩ bên trong chúng ta. Con người ta cần phải
dung hòa hai điều ấy.

2. Giá trị nghệ thuật

Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống truyện kịch đầy căng thẳng,
đạt đến cao trào rồi giải quyết mẫu thuẫn một cách logic, hợp lí, thỏa đáng; nghệ thuật
xây dựng đối thoại, độc thoại sắc nét, không chỉ giúp nhân vật bộc lộ bản chất, suy
nghĩ của cá nhân mình mà còn giúp cho người đọc, người xem suy ngẫm về những
triết lí được gửi gắm trong mỗi câu thoại của các nhân vật. Kết hợp được những vấn đề
thời sự với vấn đề muôn thuở: Đó là lối sống giả dối của con người hiện đại, giữa
những dục vọng thấp hèn với những khát khao cao cả....

3. Vở kịch tuy dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những sáng tạo
mới mẻ.

Điểm khác biệt ở chỗ truyện dân gian gây kịch tính sau khi Hồn Trương
Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ và
phải đưa ra xét xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Còn Lưu Quang
Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi
hồn Trương Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở
nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba
không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn.

Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường,
hạnh phúc khi được nhập hồn vào thân xác anh hàng thịt. Ngắn gọn và đơn giản,
truyện dân gian mang một tư tưởng triết học có phần cơ bản đúng, nhưng chỉ đề
cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và
linh hồn. Còn vở kịch của Lưu Quang Vũ lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu,
nỗi đau khổ, giày vò của Trương Ba từ khi "bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo". Từ đó đưa đến những tư tưởng mới: sự tồn tại độc lập của thân xác đối với
linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về cách sống.

Dân gian có câu: "Có tích mới dịch nên trò". Từ một cốt truyện dân
gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới
mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.

You might also like