You are on page 1of 14

Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Mục Lục
Vấn đề 1: được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật...........................................................1
I.Tóm tắt bản án....................................................................................................................1
II.Trả lời câu hỏi....................................................................................................................1
Câu 1 : Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật?.................................1
Câu 2 : Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?......................................................................................................................................2
Câu 3: Trong trường hợp nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có
trách hiệm hoàn trả?..........................................................................................................2
Câu 4: Trong vụ việc được bình luận, đây có là trường hợp được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật không? Vì sao?.......................................................................................2
Câu 5: Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì phải xử lý như thế nào?
Cụ thể, anh T có phải chịu lãi không? Nếu chịu lãi thì chịu lãi từ thời điểm nào, đến thời
điểm nào và mức lãi là bao nhiêu?....................................................................................3
Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện phát sinh.................................................................3
I. Tóm tắt bản án....................................................................................................................3
II. Trả lời câu hỏi...................................................................................................................4
Câu 1: BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh không?....4
Câu 2: Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời
điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, có quy định nào của
BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?..................................................5
Câu 3 : Trong Quyết định số 14, Toà án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là hợp
đồng giao kết có điều kiện hay không ?.............................................................................5
Câu 4 : Ngoài bản án này còn Quyết định nào khác đề cập đến vấn đề này hay không ?
............................................................................................................................................5
Câu 5: Cho đến khi Uỷ ban nhân dân hoá giá căn nhà và cấp giấy chứng nhận cho bà
Tao, Hợp đồng chuyển nhượng tranh chấp đã tồn tại chưa ?vì sao ?...............................5
Câu 6: Hệ quả pháp lý khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp.....................5
Câu 7: Suy nghĩ của anh chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết hợp
đồng có điều kiện...............................................................................................................6
Vấn đề 3 Hợp đồng Chính/Phụ vô hiệu ....................................................................................7
Câu 1: Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với từng
loại hợp đồng.....................................................................................................................7
Câu 2: Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng?....7
Câu 3: Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao?.........................................7

1
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Câu 4: Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không? Vì
sao?....................................................................................................................................8
Câu 5: Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng không?..............8
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên
quan đến trách nhiệm của bà Quế.....................................................................................8
Vấn Đề 4 Phân biệt thời hiệu khởi kiện tranh chấp về tài sản và về hợp đồng..........................9
I. Tóm tắt bản án....................................................................................................................9
II. Trả lời câu hỏi...................................................................................................................9
Câu 1: Những điểm khác biệt giữa thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng và thời hiệu
khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản ?.................................................................9
Câu 2: Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng hay
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?..................................................................10
Câu 3: Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng hay
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?..................................................................10
Câu 4 : Đường lối giải quyết của Toà án về 2 khoản tiền trên có thuyết phục không? Vì
sao?..................................................................................................................................11
Câu 5: Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên có thay đổi không khi áp dụng
BLDS 2015? Vì sao?........................................................................................................11

2
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Buổi Thảo Luận Tháng thứ nhất

Làm việc nhóm, không thảo luận với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà

*********************************

Vấn đề 1: được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật


I.Tóm tắt bản án

Bản án số 19/2017/DS-ST ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh
Vĩnh Long về vụ việc tranh chấp đòi lại tài sản

- Nguyên đơn: Ngân hàng NN & PTNT VN. Bị đơn: Anh Đặng Trường T.
07/11/2016, chị Huỳnh Diệu T nộp 5.000.000 đồng tiền mặt tại Phòng giao dịch xã
TB thuộc Chi nhánh NN & PTNT huyện V tỉnh VL để chuyển khoản cho anh Đặng
Trường T số tài khoản 7300205243228 mở tại NN & PTNT chi nhánh VL. Chị V là
kế toán của Phòng giao dịch xã TB đã bất cẩn chuyển nhầm số tiền 50.000.000 đồng
cho anh T. Sau đó anh T đã rút tiền mặt và cả chuyển khoản số tiền 45.000.000 đồng
để trả nợ cho chị ruột là H. Khi phát hiện sai sót, Ngân hàng đã phong tỏa tài khoản
của anh T với số dư là 5.045.700 đồng, thông báo và yêu cầu anh T trả lại số tiền mà
Ngân hàng đã chuyển thừa là 45.000.000 đồng. Anh T hứa sẽ trả nhưng đến hạn vẫn
không thực hiện. Ngân hàng yêu cầu anh T trả lại 40.000.000 đồng và tính lãi chậm
theo mức lãi suất 10%/năm kể từ ngày 22/11/2016 cho đến khi trả dứt số tiền. Anh T
đồng ý trả 40.000.000 và xin trả dần mỗi tháng vì hoàn cảnh khó khăn, riêng phần lãi
chậm thì anh không đồng ý trả. Tại phiên tòa, Ngân hàng rút lại yêu cầu tính lãi chậm
trả. Căn cứ vào Điều 256 BLDS 2005, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án quyết
định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc anh T trả cho NN & PTNT số tiền
40.000.000 đồng.

II.Trả lời câu hỏi

Câu 1 : Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật?
- Hiện nay, chưa có một định nghĩa pháp lý nào về chế định được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu có sự đánh giá rằng: Sự gia
tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng của một chủ thể đối với tài sản
nhưng không dựa trên căn cứ pháp luật quy định là được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật. Cũng có thể hiểu rằng, đó là việc tránh được những khoản chi phí để bảo
quản và giữ nguyên tài sản mà lẽ ra tài sản phải giảm sút (cần phân biệt với trường
hợp gây thiệt hại về tài sản do hành vi trái pháp luật)1.

1
Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr38.

3
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Ngắn gọn hơn, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là trường hợp được lợi về tài
sản mà người được lợi không có căn cứ pháp lý để được hưởng khoản lợi đó2.

Câu 2 : Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?
- Việc chiếm hữu, sử dụng tài sản của một người chỉ được pháp luật thừa nhận khi
người đó là chủ sở hữu của tài sản hoặc được chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm
hữu, sử dụng tài sản đó. Vì vậy, trong trường hợp người không phải chủ sở hữu hoặc
không không phải người được chủ sở hữu chuyển giao quyền mà chiếm hữu, sử dụng
tài sản thì bị coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật dẫn đến phát
sinh quan hệ nghĩa vụ trong đó người chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật
phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu (người được chủ sở hữu chuyển giao quyền) đồng
thời bồi thường thiệt hại về tài sản (nếu có). Trong trường hợp người chiếm hữu, sử
dụng không có căn cứ pháp luật được lợi về tài sản thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm
hoàn trả khoản lợi kể từ khi biết về khoản lợi và được hưởng khoản lợi đó.
- Cơ sở pháp lý: khoản 4 Điều 275 Bộ luật dân sự 2015 (khoản 4 Điều 281 Bộ luật dân
sự 2005).

Câu 3: Trong trường hợp nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
có trách hiệm hoàn trả?
- Những trường hợp mà người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có trách nhiệm
hoàn trả.

+ Khi chưa đủ thời hiệu xác lập quyền sở hữu do chiếm hữu, được lợi về tài sản do không có
căn cứ pháp luật. 3

+ Khi người chiếm hữu, sử dụng hoặc được lợi về tài sản biết rằng việc chiếm hữu, dụng
hoặc được lợi về tài sản của mình là không có căn cứ pháp luật. 4

+ Khi người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì
phải có trách nhiệm hoàn trả khoản lợi đó. 5

Câu 4: Trong vụ việc được bình luận, đây có là trường hợp được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
- Trong vụ việc được bình luận, đây là trường hợp được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.

- Vì theo nội dung bản án, chị Diệu T chỉ chuyển cho anh Trường T số tiền là 5.000.000
đồng, nhưng do chị Thị V là kế toán đã bất cẩn chuyển nhầm thành số tiền là 50.000.000
đồng và tài khoản của anh Trường T. Theo Điều 579 BLDS 2015 thì anh Trường T là người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật với số tiền bị chuyển nhầm là 50.000.000 đồng.

2
Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án, 2016,
Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt nam, tr129.
3
Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015.
4
Khoản 1 Điều 579 Bộ luật Dân sự 2015.
5
Khoản 2 Điều 579 Bộ luật Dân sự 2015.

4
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Câu 5: Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì phải xử lý như thế
nào? Cụ thể, anh T có phải chịu lãi không? Nếu chịu lãi thì chịu lãi từ thời điểm nào,
đến thời điểm nào và mức lãi là bao nhiêu?
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 280 BLDS 2015 “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ
gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” nếu ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả
thì anh T sẽ phải chịu lãi.

- Theo khoản 1 và khoản 2 của Điều 468 BLDS 2015, trường hợp ngân hàng chỉ quy định
mức phần trăm trả lãi đối với anh T là 10% là hoàn toàn phù hợp với Điều 468 BLDS 2015
và kể cả khi có tranh chấp về lãi suất thì mức lãi suất chỉ được tính ở mức một nửa của 20%
theo khoản 2 Điều 468 BLDS 2015, và trong bản án ngân hàng đề ra mức lãi suất chậm trã
cho anh T là 10% là hợp pháp. Số lãi suất trên được tính từ lúc bên ngân hàng đưa ra thỏa
thuận với anh T.

Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện phát sinh

I. Tóm tắt bản án


Quyết định số 14/2015/DS-GĐT ngày 18/5/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao về vụ việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Tao. Bị đơn: Bà Dương Thị Bạch Diệp và chị
Nguyễn Thị Châu Hà.

- Căn nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu có nguông gốc là của Nhà nước do vợ chồng bà
Tao, ông Trang và các con thuê để ở từ sau năm 1975. Ngày 21/8/2000, bà Tao ký
hợp đồng mua bán nhà theo Nghị định số 61/CP của Chính phủ với Công ty quản lý
kinh doanh nhà thành phố Hồ Chí Minh (đã có phiếu thanh toán tiền mua nhà số 207
A/PTT.1). Khi bà T làm thủ tục mua nhà thì chồng bà là ông Trang và con trai là anh
Hải có làm đơn khiếu nại cho rằng việc bà Tao một mình đứng tên căn nhà khi chưa
được sự đồng ý của những người đứng tên trong hợp đồng thuê nhà là không đúng.
Ngày 25/3/2002, ông Trang chết không để lại di chúc; ngày 27/12/2002 Công ty
quản lý kinh doanh nhà thành phố Hồ Chí Minh lại ký hợp đồng bán căn nhà trên
cho bà Tao và ngày 16/01/2003, bà Tao được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và sử dụng đất đối với căn nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu. Trước đó, ngày
02/9/1999, bà Tao đã lập hợp đồng bán nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu cho bà Diệp với
giá 900 lượng vàng và bà Diệp đã đặt cọc 410 lượng vàng SJC. Ngày 27/8/2000, bà
Diệp lập “biên bản thỏa thuận” với ông Phương nhượng lại hợp đồng mua bán nhà
với giá 850 lượng vàng và ông Phương, bà Thanh phải hoàn lại cho bà Diệp 360
lượng vàng (tiền cọc). Ngày 27/8/2000 (thực chất là 28/8/2000), bà Tao lập hợp
đồng chuyển nhượng nhà cho ông Phương, bà Thanh với giá 900 lượng vàng nhưng
ông Phương phải nộp tiền mua hóa giá nhà và phí tước bạ. Bà Tao cho rằng hợp
đồng ngày 27/8/2000 của bà và ông Phương là để bà Diệp vay tiền ông Phương, nên

5
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

đây là hợp đồng giả tạo và thực tế bà chỉ thỏa thuận bán nhà cho bà Diệp với giá
1600 lượng vàng SJC. Tuy nhiên, bà Tao không có căn cứ chứng minh hợp đồng
trên là giả tạo. Trong khi đó bà Diệp thừa nhận có lập biên bản thỏa thuận với ông
Phương và bà Tao thừa nhận đã ký hợp đồng với ông Phương. Thực tế, bà Tao đã
nhận của ông Phương 800 lượng vàng và ông Phương đã thanh toán tiền hóa giá nhà
và phí tước bạ. Tòa xác định, hợp đồng giữa bà Tao với ông Phương là hợp đồng có
điều kiện. Sau khi bà Tao hoàn thành các thủ tục mua hóa giá nhà và được cấp giấy
cứng nhận quyền sở hữu nhà mà không thực hiện hợp hợp đồng với ông Tao là có
lỗi. Hơn nữa, trong thực tế ki thuê nhà ngoài bà còn có chồng và các con nên bà Tao
làm thủ tục mua hóa giá sau đó thỏa thuận bán cho bà Diệp và ông Phương là không
đúng pháp luật. Tòa sơ thẩm và phúc thẩm hủy các hợp đồng trên vì là vô hiệu để
giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là có căn cứ. Mặt khác, sau bản án phúc thẩm,
Thi hành án dân sự thành phố Hò Chí Minh đã tiến hành bán đấu giá căn nhà số 36
Nguyễn Thị Diệu và ông Hoàng Ngọc Tài đã trúng đấu giá là 3.505 lượng vàng SJC,
ông Tài đã giao đủ vàng, 1/3 diện tích căn nhà được giao cho ông sử dụng còn lại là
các con bà Tao vẫn tiêp tục dùng. Ngày 14/6/2012 thì ông Tài có “Đơn khởi kiện”
yêu cầu hủy Hợp đồng bán đấu giá và đòi lại 3.505 lượng vàng. Vì vậy, để giải quyết
triệt để vụ việc trên cần nhập hai vụ án của ông Tài vào vụ án của bà Tao, ông
Phương, bà Diệp. Quyết định giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

II. Trả lời câu hỏi

Câu 1: BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh
không?
- Về việc quy định thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh thì BLDS vẫn
chưa có quy định cụ thể làm rõ vấn đề này. Thông thường, một hoạt động được coi là
giao kết khi các bên thống nhất với nhau về mặt nội dung. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp khác thì thống nhất giữa các bên về mặt nội dung của hợp đồng vẫn chưa
đủ để hoàn thành hợp đồng vì việc giao kết hợp đồng còn phụ thuộc vào một điều kiện
nào đó. BLDS 2005 có quy định về giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh nhưng
không cho biết đó là loại giao dịch như thế nào. Đến BLDS 2015 thì cũng không nêu
cụ thể là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh là như thế nào, mà chỉ quy định các
trường hợp của giao dịch dân sự có điều kiện tại Điều 120 Bộ luật này, trong đó có
quy định về trường hợp điều kiện phát sinh giao dịch dân sự. Ở dây, BLDS sử dụng
thuật ngữ “điều kiện” nhưng đây là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực chứ không phải
là “điều kiện” để hợp đồng được giao kết.

6
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Câu 2: Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu
tại thời điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu,
có quy định nào của BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
- Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời điểm
giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, đây là một “sự kiện” nếu
sự kiện này phát sinh, bên chuyển nhượng có quyền sở hữu thì hợp đồng hình thành.
Bởi vì, khi đối chiếu với khoản 6 Điều 402 BLDS 2015 “Hợp đồng có điều kiện là
hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt một
sự kiện nhất định.” thì đây được xem là một hợp đồng giao kết có điều kiện.

Câu 3 : Trong Quyết định số 14, Toà án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là hợp
đồng giao kết có điều kiện hay không ?
- Toà án có coi đây là một hợp đồng giao kết có điều kiện .
- Trong bản án có đoạn :” có căn cứ xác định hợp đồng mua bán ngôi nhà 36 Nguyễn
Thị Diệu giữa bà Tao với vợ chồng ông Phương bà Thanh là hợp đồng có điều kiện “
tại phần xét thấy của bản án trên .

Câu 4 : Ngoài bản án này còn Quyết định nào khác đề cập đến vấn đề này hay
không ?
- Trong thực tiễn luật pháp ở Việt Nam cũng có nhìu bản án đề cập đến vấn đề này
Quyết định số 192/2006/DS-GĐT ngày 18/08/2006 của Toà dân sự Toà án nhân dân
tối cao 6
Nội dung quyết định này : căn nhà số 259 đường 3/2 Tp. Hồ Chí Minh đến ngày
06/11/2000 là thuộc quyền sở hữu của nhà nước, Nhưng ông Dũng bà My là người
quản lí sử dụng hợp pháp và thuộc diện được mùa hoá giá. Ngày 06/11/2000 họ lập
hợp đồng mua bán sang nhượng căn nhà trên cho Ông Hùng với điều kiện bên mua
phải đặc cọc 50 lượng vàng, sau đó giao tiếp từ 50-150 lượng vàng cho bên bán ,bên
bán giao giấy từ liên quan đến căn nhà cho bên mua, để bên bán liên hệ cơ quan có
thẩm quyền xin cho bên bán đứng tên căn nhà . Sau đó khi bên mua đã giao đủ vàng
thì sang nhượng lại cho bên mua. Sau khi bên bán có quyền sở hữu nhà thì lại tăng giá
vàng lên 750 lượng .

Câu 5: Cho đến khi Uỷ ban nhân dân hoá giá căn nhà và cấp giấy chứng nhận cho bà
Tao, Hợp đồng chuyển nhượng tranh chấp đã tồn tại chưa ?vì sao ?
- Cho đến khi bà Tao có giấy chứng nhận thì hợp đồng giữa bên mua và bên bán trong
bản án trên là đã tồn tại bởi vì theo HĐTP là khi bà Tao nhận được giấy chứng nhận
mà không đăng kí chứng thực theo quy định của pháp luật đã làm nó vô hiệu về mặt
hình thức . Ở đây , giao dịch đã hình thành khi điều kiện phát sinh nhưng chưa có hiệu
lực vì chưa thoả mãn về hình thức bắt buộc . Nói cách khác , sau khi điều kiện phát
sinh thì hợp đồng mới tồn tại thôi và muốn có hiệu lực thì cần những điều kiện khác .

Câu 6: Hệ quả pháp lý khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp.
- Hợp đồng mua bán nhà 36 Nguyễn Thị Diệu giữa bà Tao với vợ chồng ông Phương, bà
Thanh là hợp đồng có điều kiện: “sau khi bà Tao hoàn thành các thủ tục mua hóa giá nhà và

7
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu, thì hai bên sẽ làm thủ
tục mua bán nhà tại Phòng Công Chứng và tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà"7.

- Như vậy, sau khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp là điều kiện làm phát sinh
hợp đồng mua bán nhà giữa bà Tao với vợ chồng ông Phương, bà Thanh và bà Tao phải thực
hiện hợp đồng.

- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 120: “1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát
sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ.” và Khoản 6 Điều 402 BLDS 2015: “6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc
thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”.

Câu 7: Suy nghĩ của anh chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết
hợp đồng có điều kiện.
- Trong một số trường hợp sự thống nhất giữa các bên chưa đủ để hình thành hợp đồng vì
việc giao kết hợp đồng còn phụ thuộc vào một điều kiện nào đó. Pháp luật nước ta (trong
BLDS năm 1995 Điều 134 và khoản 1 Điều 125 BLDS năm 2005) cũng như pháp luật nhiều
nước đều chấp nhận việc giao kết hợp đồng có điều kiện. Trong thực tiễn xét xử. Tòa án đã
có nhiều bản án công nhận giao kết hợp đồng có điều kiện. Chẳng hạn trong Quyết định số
14/2015/DS-GĐT ngày 18/5/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các
bên đều thống nhất với nhau về hợp đồng mua bán nhà nhưng hợp đồng mua bán nhà vẫn
chưa tồn tại vì còn phụ thuộc vào một yếu tố trong tương lai (điều kiện). Ở giai đoạn này các
bên chưa có quan hệ hợp đồng mua bán nhà mà chỉ là các chủ thể trong “dự án” mua bán nhà.
Điều kiện có thể do các bên thỏa thuận minh thị hay ngầm định, và ở Quyết định đang xem
xét thì điều kiện phát sinh giao dịch là ngầm định và được Tòa án chấp nhận. Thực ra việc
phát hiện các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh giao dịch (hợp đồng) như trên không
mâu thuẫn ý chí các bên: các bên ngầm hiểu là khi có quyền sở hữu thì việc chuyển nhượng
mới thực sự tồn tại. Hướng giải quyết này là thuyết phục và cần được duy trì cũng như phát
triển trong các vụ án tương tự trong tương lai.

8
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Vấn đề 3 Hợp đồng Chính/Phụ vô hiệu 3


Câu 1: Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với
từng loại hợp đồng.
- Hợp đồng chính:

Căn cứ theo Khoản 3, Điều 402 BLDS 2015: “3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực
không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.”

+ Là hợp đồng mà hiệu lực không lệ thuộc vào hợp đồng phụ.

+ Là hợp đồng tồn tại độc lập và được công nhận là có hiệu lực không lệ thuộc vào sự tồn tại
của HĐ phụ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

+ Ví dụ: Hợp đồng vay thế chấp tài sản đảm bảo. Hợp đồng vay tiền là một hợp đồng độc lập,
mà không nhất thiết phải có việc đảm bảo bằng thế chấp tài sản hay không, ngay cả khi điều
khoản thế chấp hoặc hợp đồng thế chấp tài sản bị vô hiệu thì hiệu lực của hợp đồng vay vẫn
không bị ảnh hưởng.

- Hợp đồng phụ: Căn cứ theo Khoản 4, Điều 402 BLDS 2015: “4. Hợp đồng phụ là hợp đồng
mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.”

+ Là một loại hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.

+ Hợp đồng phụ có hiệu lực lệ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính. Hợp đồng phụ chỉ có
hiệu lực nếu hợp đồng chính có hiệu lực. Khi hợp đồng chính vô hiệu, hợp đồng phụ cũng bị
vô hiệu hoặc khi hợp đồng chính vi phạm, thì hợp đồng mới có thể thực hiện nếu hợp đồng
phụ có nội dung liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ phụ giữa các bên.

+ Ví dụ: hợp đồng vay tiền có bảo lãnh. Ở đây hợp đồng chính là hợp đồng vay tiền còn hợp
đồng phụ là hợp đồng bảo lãnh.

Câu 2: Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng?
- Chủ thể có nghĩa vụ trả tiền ngân hàng là Công ty Thiên Minh vì đây là chủ thể thực hiện
hợp đồng chính là vay ngân hàng còn việc thế chấp tài sản là hợp đồng phụ. Nếu công ty
Thiên Minh không vay tiền thì sẽ không có việc Bà Quế phải đứng ra bảo lãnh.

Câu 3: Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao?
- Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách là người bảo lãnh. Vì căn cứ theo khoản 1
điều 335 "Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ." Và theo

36
http://congbobanan.toaan.gov.vn/
7
Quyết định số 14/2015/DS-GĐT ngày 18/5/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao

9
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

bản án thì bà Quế đã đứng ra bảo lãnh cho việc ngân hàng cho Công ty Thiên Minh
vay một số tiền nên có thể xác định vai trò của bà Quế là bên bảo lãnh.

Câu 4: Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không?
Vì sao?
- Theo tôi việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu là thuyết phục. Vì tài
sản là bất động sản mà bà Quế đem ra bảo lãnh là tài sản chung của vợ chồng bà Quế.
Khi bà Quế đem ra thế chấp thì chưa được sự đồng ý, chưa có chữ ký của chồng bà.
Mà theo khoản 2 điều 212 về sở hữu chung của các thành viên gia đình "2. Việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực
hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động
sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận
của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
- Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần
được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại
Điều 213 của Bộ luật này." và điều 213 thì khi thế chấp tài sản bất động sản thuộc tài
sản chung cần có sự đồng ý của cả vợ và chồng nếu trường hợp vợ hoặc chồng không
đồng ý thì hợp đồng thế chấp bị vô hiệu theo điều 122 BLDS 2015. Nên khi có tranh
chấp thì Tòa tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu là phù hợp.

Câu 5: Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng không?
- Theo Tòa án, bà Quế không còn trách nhiệm đối với Ngân hàng.

- Cụ thể, trong tình huống trên, Tòa án cho rằng: “Hợp đồng thế chấp trên bị vô hiệu và
không có cơ sở để buộc bà Quế phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các khoản nợ nêu trên”.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên
quan đến trách nhiệm của bà Quế.
- Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên quan đến trách nhiệm của bà
Quế là chưa hợp lý.

- Trong tình huống được nêu trên, có 3 hợp đồng đã được xác lập:

+ Hợp đồng vay tài sản giữa Công ty Thiên Minh và Ngân hàng;

+ Hợp đồng bảo lãnh giữa bà Quế với Ngân hàng để đảm bảo cho hợp đồng vay tài sản;

+ Hợp đồng thế chấp giữa bà Quế với Ngân hàng để đảm bảo cho hợp đồng bảo lãnh.

Trong 3 hợp đồng trên, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính còn hợp đồng bảo lãnh và
hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ.

Trong tình huống trên, Tòa án xác định hơp đồng thế chấp bị vô hiệu và bà Quế không phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ. Quyết định này không phù hợp với quy định của pháp luật
dân sự.

10
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

Cụ thể, Khoản 3 Điều 407 BLDS 2015 quy định: “Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm
chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần
không thể tách rời của hợp đồng chính”. Như vậy, sự vô hiệu của hợp đồng thế chấp không
dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng vay tài sản. Và vì vậy, bà Quế vẫn phải chịu trách nhiêm đối
với các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản.

Vấn Đề 4 Phân biệt thời hiệu khởi kiện tranh chấp về tài sản và về hợp
đồng
I. Tóm tắt bản án
Quyết định số 14/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên:

- Nguyên đơn: Ông Vũ Văn V. Bị đơn: Ông Tô Văn P.


- Ngày 26/11/2016, ông V nộp đơn khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông P trả lại 25 triệu
đồng tiền đặt cọc và 45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc theo hợp
đồng chuyển nhượng đất ngày 07/6/2010. Căn cứ Điều 2 của Nghị quyết số
103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì các
vụ việc tranh chấp về dan sự, hôn nhân và gia đình… phát sinh trước ngày 01/01/2017
thì áp dụng quy định về thời hiệu tại điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 của Bộ
luật tố tụng dân sự 2005. Vì vậy việc Tòa án nhân dan huyện V áp dụng điểm e khoản
1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để đình chỉ vụ án là không đúng. Căn cứ
điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 và điểm b khoản 3 Điều 23
Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 thì việc ông V đòi lại 45 triệu tiền
vi phạm, Tòa không giải quyết là đúng. Còn đối với 25 triệu tiền đặt cọc là tài sản nên
không áp dụng thời hiệu, Tòa án cần thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Mà Tòa án
nhân dân huyện V đã đình chỉ toàn bộ vụ án là không đúng, quyết định xem xét lại vụ
án theo thủ tục của pháp luật.

II. Trả lời câu hỏi

Câu 1: Những điểm khác biệt giữa thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng và thời
hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản ?
- Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng
- Tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm” kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Cho nên, khi giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng dân sự phải xem xét tranh chấp đó có còn thời hiệu khởi kiện
không. Khi xét thời hiệu khởi kiện cần chú ý các vấn đề sau đây:

11
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

1) Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện

2) Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng dân
sự

3) Tính lại thời hiệu khởi kiện

- Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
- Tại Điều 155 Bộ luật dân sự 2015 quy định các yêu cầu, tranh chấp không áp dụng
thời hiệu khởi kiện chỉ bao gồm yêu cầu bảo vệ nhân thân, bảo vệ quyền sở hữu và
tranh chấp về quyền sử dụng đất. Đối với thời hiệu khởi kiện của hợp đồng đòi lại tài
sản là không xác định thời hạn. Về thời hiệu khởi kiện liên quan đến quyền sở hữu,
khoản 2 Điều 155 BLDS 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với
“yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác”.

Câu 2: Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng hay
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
- Theo tôi, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng. Bởi vì, “Theo
Điều 300 Luật thương mại 2005, “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả
thuận”. Và theo khoản 1 Điều 422 Bộ luật dân sự 2005, “Phạt vi phạm là sự thoả
thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một
khoản tiền cho bên bị vi phạm” và quy định này vẫn được duy trì tại khoản 1 Điều
418 Bộ luật dân sự 2015. Ở đây, chỉ có một lỗi phạt vi phạm, đó là phạt vi phạm theo
thỏa thuận. Điều đó có nghĩa là ngày nay văn bản không coi việc phạt vi phạm là vấn
đề do pháp luật quy định nữa mà là vấn đề của hợp đồng (được pháp luật điều chỉnh).
Việc này còn được khẳng định thêm khi chúng ta thấy “phạt vi phạm” được coi là một
trong những “nội dung của hợp đồng” tại Điều 402 Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật
dân sự 2015 đã nhập phạt vi phạm vào nội dung “Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng”
tại điểm e khoản 1 Điều 398”.4
- Trong Quyết định số 14/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017, ông V khởi kiện đề nghị Tòa
án buộc ông P trả cho mình 45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc, từ
đó cho thấy giữa ông V và ông P đã có thỏa thuận trong hợp đồng về việc nếu xảy ra
vi phạm thỏa thuận đặt cọc, đồng thời do phạt vi phạm đã được coi như một “nội dung
không bắt buộc trong hợp đồng” nên tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng này là thuộc
về vấn đề tranh chấp hợp đồng.

Câu 3: Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng
hay tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
- Theo tôi, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.

4
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bán án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ bảy),
Tập 2, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, tr.601-602.

12
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

- Số tiền 25 triệu đồng là tiền đặt cọc trong hợp đồng đặt cọc giữa ông V và ông P phù
hợp với quy định về đặt cọc tại Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 . Tòa án xác định:
“Đối với yêu cầu của ông V đòi ông P trả lại 25 triệu đồng tiền đặt cọc (khoản tiền
gốc) thì thuộc trường hợp đòi lại tài sản nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện”.
- “Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với đòi tài
sản là vì đòi tài sản gắn liền với quyền sở hữu tài sản nên chừng nào quyền sở hữu tồn
tại thì quyền đòi tài sản còn tồn tại mà chừng nào tài sản tồn tại thì quyền sở hữu vẫn
tồn tại nên loại tranh chấp này không có thời hiệu.”
- “… Việc đòi tiền cho vay không áp dụng thời hiệu và như vậy Tòa án tối cao theo
hướng đây là khởi kiện về quyền sở hữu, đòi tài sản”
- Như vậy, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
giữa nguyên đơn là ông V và bị đơn là ông P.

Câu 4 : Đường lối giải quyết của Toà án về 2 khoản tiền trên có thuyết phục không?
Vì sao?
- Hướng xử lý của Toà án thuyết phục khi áp dụng Điều 2 của Nghị quyết số
103/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS 2015 về sự việc tranh chấp
trên phát sinh trước ngày 01/01/2017.
- Đối với 45 triệu do vi phạm thoả thuận đặt cọc, Toà án không giải quyết vì hết thời
hạn khởi kiện là đúng theo Điểm a Khoản 3 Điều 159 BLTTDS và điểm b khoản 3
Điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP
- Đối với khoản tiền 25 triệu đồng tiền cọc thuộc trường hợp đòi lại tài sản nên không
áp dụng thời hiệu khởi kiện mà xử lý theo thủ tục chung, cũng có thể áp dụng theo
BLDS về quy định liên quan.

Câu 5: Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên có thay đổi không khi áp dụng
BLDS 2015? Vì sao?
- Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên không thay đổi khi áp dụng BLDS 2015.
Bởi vì:
 Đối với tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng: Tòa án sẽ căn
cứ Điều 429 BLDS 2015 để xác định thời hiệu khởi kiện; theo quy định tại Điều
429 này thì thời hiệu để khởi kiện là 3 năm tức đã kéo dài hơn so với quy định tại
Điều 427 BLDS 2005. Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông V và ông P xác lập vào ngày 07/6/2010 nhưng đến ngày 26/11/2016 thì
ông V mới nộp đơn khởi kiện tranh chấp về hợp đồng trên, vào thời điểm này
thời hiệu khởi kiện đã hết do đó Tòa án vẫn sẽ không giải quyết như khi áp dụng
BLDS 2005.
 Đối với tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản:
Tòa án sẽ căn cứ Điều 155 BLDS 2015 để xử lí vụ tranh chấp. Theo quy định tại
điều luật này thì yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu tài sản sẽ không áp dụng thời hiệu
khởi kiện, điều này giống với hướng giải quyết trong Quyết định số 14/2017/QĐ-
PT ngày 14/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

13
Thảo luận nghĩa vụ - Tháng lần 1

14

You might also like