You are on page 1of 2

Tóm tắt bản án:

Quyết định giám đốc thẩm số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.

Nguyên đơn: ông Lương Ngọc Trụ, bà Đinh Thị Nguyên

Bị đơn: ông Ngô Văn Hòa

Tên bản án: “Vụ án: Tranh chấp ranh đất”

Nội dung: Ông Trụ khởi kiện ông Hòa đã xây dựng nhà lấn qua phần đất của mình và muốn ông Hòa tháo
dỡ và trả lại phần đất lấn chiếm cho ông. Ông Hòa là bị đơn trình bày rằng phần đất của gia đình ông và
ông Trụ liền kề nhau, và trước khi tiến hành sửa sang lại nhà, ông đã xin phép và được cấp giấy phép sửa
chữa ngôi nhà nên ông không đồng ý với yêu cầu trả đất của nguyên đơn. Khi sửa chữa lại nhà gia đình
ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, 1 máng bê tông chờm qua phần đất của gia đình ông Trụ và chôn dưới
đất một ông thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định: chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của ông Trụ; buộc ông Hào dỡ 04 ô văng cửa sổ, tháo dỡ 1 máng bê tông, tháo
dỡ mái tôn và đòn tay phía nhà sau nhưng không không chấp nhận yêu cầu đòi ông Hòa trả lại phần đất
xây lấn của nguyên đơn. Cả bị đơn và nguyên đơn đều kháng cáo không đồng ý Bản án sơ thẩm. Sau khi
xem xét, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của cả ông Hòa và bà Nguyên, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm và yêu cầu cả 2 bên thi hành nghĩa vụ. Sau đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đã kháng nghị Bản án phúc thẩm. Cuối cùng, Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy toàn bộ Bản án sơ
thẩm và phúc thẩm của “Vụ án tranh chấp ranh đất”, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân thị xã Trà
Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt bản án:

Quyết định số 23/2008/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: ông Diệp Vũ Trê, bà Châu Kim Thi

Bị đơn: ông Nguyễn Văn Hậu

Ông Trê và ông Hậu tranh chấp đất giáp ranh hiện do ông Hậu đang sử dụng. ông Hậu cho rằng diện tích
đất trên là của ông do ông được nhận chuyển nhượng lại từ Anh Kiệt. Tuy nhiên giấy biên nhận giữa ông
Hậu và anh Kiệt là giấy không có xác nhận từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền và anh Kiệt cũng không
nêu vị trí cụ thể cũng như xác nhận các chủ đất liền kề. Trong khi đó gia đình ông Trê lại quản lý và sử
dụng phần đất này từ trước và có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông
Hậu trả lại phần đất lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê và bà Thi còn phần đất ông Hậu lấn chiếm
nhưng đã xây dựng nhà thì phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho gia đình ông Trê. Tuy nhiên,
ngoài hai phần đất nêu trên căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không
trên phần đất của ông Trê và bà Thi nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem
xét cũng như chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho ông Trê và bà Thi. Ngoài ra theo báo cáo thì còn có
một căn nhà phụ của ông Hậu xây trên diện tích đất mà Tòa án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê,
bà Thi nhưng Tòa án các cấp chưa xem xét giải quyết. Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy Bản án
dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh CM giải
quyết, xét xử sơ thẩm.

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông
Kê bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?

Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Kê bà Thi là
“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m² đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê, bà
Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m²)thì giao cho ông Hậu sử
dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.

Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2 m² nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm
khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71 m² chưa được Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc thanh toán giá trị quyền sử dụng đất
cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi.

Mặt khác, theo báo cáo của Cơ quan thi hành án và theo khiếu nại của ông Trê thì ngoài căn nhà nằm
trên diện tích 52,2 m² Tòa án các cấp giao cho ông Hậu sử dụng còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,
57 m² của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà Tòa án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà
Thi nhưng Tòa án các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án.”1

Qua đoạn trên ta có thể thấy cụ thể tổng phần đất mà ông Hậu lấn chiếm của ông Trê và bà Thi là 219,68
m².

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 167 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt
đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ bà Nguyên?

- Trong bản án, phần cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc
quyền sử dụng của gia đình ông Trụ bà Nguyên là “Thực tế trên phần đất tranh chấp này có công trình
phụ gồm: ô văng, đòn tay, đường ống. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đất của ông Trụ và bà Nguyên đến
sát tường của nhà ông Hòa, nên đã buộc bị đơn phá vỡ tất cả phần ô văng, đòn tay, mái nhà của nhà ông
Hòa nhô ra (theo bản vẽ xây dựng là từ điểm F đến điểm J) đến sát tường của ông Hòa, nhưng lại không
giải quyết phần đường ống của ông Hòa nằm dưới đất thuộc quyền sử dụng của ông Trụ, bà Nguyên là
trái với khoản 2 Điều 265 Bộ luật dân sự 2005.”2

1
Quyết định số 23/2008/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2
Quyết định giám đốc thẩm số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh
chấp ranh đất”

You might also like