You are on page 1of 3

Câu 1

Những thách thức mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phải đối mặt khi tổ chức
và tiến hành Hội nghị Trung ương 8 khóa V vào tháng 6 năm 1985 có thể được liệt kê như sau:

Kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng, với tỷ lệ lạm phát cao, thiếu hụt ngân
sách, thiếu hụt hàng hóa, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế mất cân bằng, v.v…12

Cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và không phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam sau khi thống nhất đất nước. Các biện pháp uốn nắn lại cơ chế này đã không mang
lại hiệu quả mong muốn, mà chỉ làm cho kinh tế càng rối ren và hỗn loạn.12

Tư duy kinh tế của Đảng và nhân dân còn nhiều bảo thủ, định kiến, thiếu sáng tạo và linh hoạt. Nhiều
người vẫn quan niệm rằng kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế bao cấp, kinh tế theo kế hoạch, kinh tế
không có giá cả và tiền tệ. Nhiều người còn e ngại rằng việc đổi mới cơ chế kinh tế sẽ làm mất đi tính
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo.12

Việc tiến hành cải cách giá – lương – tiền là một cuộc cải cách rất lớn và có tính đột phá, yêu cầu phải
có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về các khía cạnh lý luận, thực tiễn, tổ chức và triển khai. Tuy nhiên, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã quyết định tiến hành cuộc cải cách này trong một thời gian ngắn (chỉ 3
tháng sau khi thông qua Nghị quyết Trung ương 8), mà không có đủ các điều kiện thuận lợi về nhân
sự, tài chính, thông tin và giáo dục.12

Những biện pháp để khắc phục những khó khăn này đã thể hiện sự lãnh đạo của Đảng và tác động
của hội nghị đối với quá trình phát triển chính trị và kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ này có thể
được liệt kê như sau:

Đảng đã có những bước đột phá và đổi mới về tư duy kinh tế, thừa nhận rằng kinh tế xã hội chủ
nghĩa là kinh tế có giá cả và tiền tệ, kinh tế có sự cạnh tranh và hợp tác, kinh tế có sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu. Đảng cũng đã khẳng định rằng việc đổi mới cơ
chế kinh tế là để phát huy sức mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự phát triển bền
vững và công bằng xã hội.12

Đảng đã có những biện pháp tổ chức và triển khai cuộc cải cách giá – lương – tiền một cách quyết liệt
và nhanh chóng, với sự tham gia của các cấp chính quyền, các đơn vị kinh tế và nhân dân. Đảng cũng
đã có những biện pháp hỗ trợ và bảo vệ các đối tượng khó khăn trong quá trình cải cách, như các hộ
nghèo, các công nhân, các cựu chiến binh, v.v…12

Đảng đã có những biện pháp giáo dục và tuyên truyền cho nhân dân về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc
cải cách giá – lương – tiền, về những khó khăn và thách thức trong quá trình cải cách, về những biện
pháp để ứng phó và vượt qua những khó khăn đó. Đảng cũng đã có những biện pháp để khuyến
khích và khen thưởng những đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc thực hiện cuộc cải
cách.12

Đảng đã có những biện pháp để theo dõi, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kịp thời các chính sách và
biện pháp trong quá trình cải cách giá – lương – tiền, để ngăn chặn và xử lý những sai sót, vi phạm và
tiêu cực. Đảng cũng đã có những biện pháp để học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm quốc tế trong
lĩnh vực này.

những tác động khác của hội nghị đối với quá trình phát triển chính trị và kinh tế của Việt Nam trong
thời kỳ này:

Hội nghị đã tạo ra một cơ sở để tiến hành những cải cách kinh tế sâu rộng hơn sau đó, như việc thực
hiện chính sách Đổi mới toàn diện từ Đại hội Đảng VI năm 1986, việc thực hiện chính sách Đa dạng
hóa kinh tế từ Đại hội Đảng VII năm 1991, việc thực hiện chính sách Hội nhập kinh tế quốc tế từ Đại
hội Đảng VIII năm 1996, v.v…

Hội nghị đã góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, khiến cho Việt
Nam được công nhận là một quốc gia có chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn, có chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, có khả năng hợp tác và giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng con đường hòa bình. Hội
nghị cũng đã mở ra những cơ hội cho Việt Nam tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế, như
ASEAN, APEC, WTO, v.v…

Hội nghị đã khơi dậy một làn sóng đổi mới trong các lĩnh vực khác của xã hội, như văn hóa, giáo dục,
khoa học, công nghệ, y tế, bảo vệ môi trường, v.v… Hội nghị đã khuyến khích sự sáng tạo và phát
triển của các loại hình văn hóa và nghệ thuật đa dạng và phong phú, như văn học, âm nhạc, điện ảnh,
sân khấu, mỹ thuật, v.v… Hội nghị đã thúc đẩy sự cải thiện và nâng cao chất lượng của giáo dục và
đào tạo, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và phát triển con người. Hội nghị đã ủng hộ sự phát triển
của khoa học và công nghệ, nhằm tăng cường năng lực sản xuất và cạnh tranh của Việt Nam. Hội
nghị đã nhấn mạnh sự quan trọng của việc bảo vệ sức khỏe và môi trường, nhằm đảm bảo sự an
toàn và bền vững của xã hội.

Câu 2

Đây là một bài viết ngắn gọn về những biện pháp và quyết định quan trọng được thảo luận và thông
qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 6 năm 1985, và
tầm ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển của Việt Nam trong những năm tiếp theo. Bài viết
dựa trên các nguồn thông tin từ kết quả tìm kiếm trên web của công cụ search_web.

Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V được tổ chức trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang trong tình
trạng suy thoái nghiêm trọng, với tỷ lệ lạm phát cao, thiếu hụt ngân sách, thiếu hụt hàng hóa, năng
suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế mất cân bằng, v.v…12 Cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và không phù hợp với thực tiễn của Việt Nam sau khi thống nhất đất
nước. Các biện pháp uốn nắn lại cơ chế này đã không mang lại hiệu quả mong muốn, mà chỉ làm cho
kinh tế càng rối ren và hỗn loạn.12 Tư duy kinh tế của Đảng và nhân dân còn nhiều bảo thủ, định
kiến, thiếu sáng tạo và linh hoạt. Nhiều người vẫn quan niệm rằng kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế
bao cấp, kinh tế theo kế hoạch, kinh tế không có giá cả và tiền tệ. Nhiều người còn e ngại rằng việc
đổi mới cơ chế kinh tế sẽ làm mất đi tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế và dẫn đến sự phân hóa
giàu nghèo.12
Trước những khó khăn và thách thức đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V đã đặt ra một loạt
biện pháp và chính sách quan trọng để định hình tương lai của đất nước. Những biện pháp và quyết
định quan trọng này có thể được liệt kê như sau:

Đảng đã có những bước đột phá và đổi mới về tư duy kinh tế, thừa nhận rằng kinh tế xã hội chủ
nghĩa là kinh tế có giá cả và tiền tệ, kinh tế có sự cạnh tranh và hợp tác, kinh tế có sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu. Đảng cũng đã khẳng định rằng việc đổi mới cơ
chế kinh tế là để phát huy sức mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự phát triển bền
vững và công bằng xã hội.12

Đảng đã có những biện pháp tổ chức và triển khai cuộc cải cách giá – lương – tiền một cách quyết liệt
và nhanh chóng, với sự tham gia của các cấp chính quyền, các đơn vị kinh tế và nhân dân. Đảng cũng
đã có những biện pháp hỗ trợ và bảo vệ các đối tượng khó khăn trong quá trình cải cách, như các hộ
nghèo, các công nhân, các cựu chiến binh, v.v…12

Đảng đã có những biện pháp giáo dục và tuyên truyền cho nhân dân về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc
cải cách giá – lương – tiền, về những khó khăn và thách thức trong quá trình cải cách, về những biện
pháp để ứng phó và vượt qua những khó khăn đó. Đảng cũng đã có những biện pháp để khuyến
khích và khen thưởng những đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc thực hiện cuộc cải
cách.12

Đảng đã có những biện pháp để theo dõi, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kịp thời các chính sách và
biện pháp trong quá trình cải cách giá – lương – tiền, để ngăn chặn và xử lý những sai sót, vi phạm và
tiêu cực. Đảng cũng đã có những biện pháp để học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm quốc tế trong
lĩnh vực này.12

Tầm ảnh hưởng của Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V đối với sự phát triển của Việt Nam trong
những năm tiếp theo có thể được liệt kê như sau:

Hội nghị đã mở ra một giai đoạn mới trong quá trình đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam, làm
rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đã góp phần tạo ra một sự chuyển
mình lớn trong ý thức của Đảng và nhân dân về vai trò của giá cả, tiền tệ, thị trường, doanh nghiệp,
tự do kinh doanh, v.v…12

Hội nghị đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn hạn, khiến cho tỷ lệ lạm phát tăng cao, giá trị
tiền tệ giảm sút, thu nhập của người dân giảm sâu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này cũng làm cho
kinh tế Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc của bao cấp, kích thích sự sản xuất và tiêu dùng, tạo ra một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.12

Hội nghị đã tạo ra một cơ sở để tiến hành những cải cách kinh tế sâu rộng hơn sau đó, như việc thực
hiện chính sách Đổi mới toàn diện từ Đại hội Đảng VI năm 1986, việc thực hiện chính sách Đa dạng

You might also like